THƠ Tập thơ Lê Minh Quốc, Đoàn Tuấn - ĐẤT BÊN NGOÀI TỔ QUỐC

Lê Minh Quốc, Đoàn Tuấn - ĐẤT BÊN NGOÀI TỔ QUỐC

Mục lục
Lê Minh Quốc, Đoàn Tuấn - ĐẤT BÊN NGOÀI TỔ QUỐC
LÊ MINH QUỐC giới thiệu ĐOÀN TUẤN
TUỔI 18
MẸ VÀ HÒM THƯ CON
TÔLLÊ SÁP ĐÊM 5 THÁNG MỘT NĂM 1979
ĐẤT BÊN NGOÀI TỔ QUỐC
LÍNH TRÁNG
LÁ MỤC
HOÀNG HÔN ĐỨC LẬP
ĐƯỜNG LÍNH
SAU MÀU XANH LÁ
VẬN ƠI!
AN-LUNG NĂM 1981
ĐIẾU THUỐC
CƠN KHÁT VÀ TIẾNG GÀ RỪNG
ĐÊM ẤY CHÚNG TÔI NGHE LỜI RU BỖNG SỢ
MƯA
ĐÊM Ở RỪNG NGHE THƠ
MỘT NÉT LÀNG
TIẾNG NGÀY MỚI BÌNH YÊN
TỐI THỨ BẢY
CHIẾC KHĂN RẰN KHƠ-ME
KHÚC DÂN CA TRÊN ĐIỂM TỰA
MIẾNG TRẦU PHUM CHOĂMSRE
HẾT NƯỚC CẤM NHÌN
DẢI ĐỒNG BẰNG THƯƠNG NHỚ
GIẤC NGỦ
BÀI THƠ KHÔNG VIẾT NHÁP
TÌM BẠN
NGÀY TÔI RỜI MẶT TRẬN
KÍNH GỬI SƯ ĐOÀN 307
TRỜI SAO
KỶ NIỆM NGÀY NHẬP NGỦ
ĐOÀN TUẤN giới thiệu LÊ MINH QUỐC
ĐẤT NƯỚC VÀ NGƯỜI LÍNH
ĐỀ TỰA THƠ MÌNH
NGỦ ĐẤT
NHẬT KÝ MỘT NGÀY
BINH NHẤT
ĐỌC LẠI TRUYỆN KIỀU
NHỮNG MÙA KHÔ TRONG TRÍ NHỚ
UDAĐAO 1979
MÙA TRĂNG PHUM GIỀNG
GẶP Ở ĂNGCO VÁT
CHUYỆN TRÒ CÙNG VÁCH ĐÁ
ANGLUNGVENG 1980
MẸ
TRỞ LẠI NƠI ĐÓNG QUÂN
ĐÊM Ở RỪNG CHOANSAN
VIẾT TỪ AN-LUNG-VENG
ĐỌC “BẠCH VÂN THI TẬP” NĂM 1977
VIẾT TỪ CÁNH RỪNG ĐÔNG BẮC CĂMPUCHIA
DỖ GIẤC NGỦ
TRÊN ĐƯỜNG RA TUYẾN TRUỚC
NHỮNG LIỆT SĨ TRINH TIẾT
BÀI THƠ VỀ HOA CÚC
MÙA XUÂN
ĐỨNG TRƯỚC NGHĨA TRANG SVAY RIENG
TRÒ CHUYỆN VỚI CỎ
ĐÊM TRÚ QUÂN Ở XAM CÔNG THMÂY NHỚ HÀN MẶC TỬ
TRÊN ĐƯỜNG VỀ NƯỚC UỐNG RƯỢU Ở STUNG TRENG
TRỜI ĐỪNG VỘI SÁNG
HOÀI NIỆM CÁNH RỪNG
NHỊP THỞ ‘MỘT- HAI”
CƠN SỐT
ĐỒNG ĐỘI
ĐÊM HẠNH NGỘ
GIẤC MƠ XANH
TRONG MƠ ÁO LÍNH
HỒI TƯỞNG TUỔI HAI MUƠI
TRƯA NAY
ĐẾN HÀ NỘI NHỚ BẠN THỜI ĐI BỘ ĐỘI
THƠ MỪNG NHÀ MỚI
NHỮNG NGÀY LÀM THƠ
Thơ ĐOÀN TUẤN
Tất cả các trang

6

 

LỜI THƯA,

Tập thơ này được ra đời khi tôi ra Hà Nội gặp lại đồng đội cũ của một thời chiến tranh. Góp nhặt lại những gì đã viết còn rơi rớt trong sổ tay. Tập thơ in xong và nộp lưu chiểu vào tháng 12.1997.

Toàn bộ tiền thưởng của tôi trong cuộc thi thơ về hình tượng con cọp do báo Văn nghệ TP.HCM tổ chức, chuyển ra Hà Nội để Đoàn Tuấn lo in ấn. Bìa là tượng điêu khắc của Điềm Phùng Thị. Sau này tập thơ được NXB Trẻ tái bản.

Đọc lại và còn thương lấy thời tuổi trẻ của mình. Một vết sọ đã hằn qua năm tháng...

Nay tôi post lại bài trả lời phóng vấn của báo Phụ Nữ TP.HCM ngày 22.12.1999 như lời tự sự về năm tháng đó:

Lê Minh Quốc: Thời gian ở chiến trường là những ngày đẹp nhất

Năm mười tám tuổi, tôi đi bộ đội. Khoảng thời gian 6 năm ở chiến trường với tôi là những tháng ngày đẹp nhất không còn trở lại nữa của tuổi thanh xuân. Đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ rõ về kỷ niệm rất gian khổ. Lúc đó, chúng tôi đã làm thơ để chuyền tay nhau đọc. Tôi còn nhớ những bài thơ của Đoàn Minh Tuấn (giải A cuộc thi thơ của tạp chí Văn Nghệ Quân đội năm 1986) cũng bắt đầu từ năm tháng đó. Có điều là một người từng cầm súng chiến đấu ở đất nước Ăng-ko - nhưng tôi nhận thấy: Chúng ta vẫn chưa có những tác phẩm thơ xứng đáng với tầm vóc của người chiến sĩ quân tình nguyện. Chắc chắn không phải vì tài năng của người cầm bút - mà vì một điều gì đó tôi không lý giải được. Những năm tháng ở Campuchia, Lào, ở biên giới Thái Lan - với tôi vẫn còn đậm tình đồng đội và sự hy sinh rất lớn… Chẳng bao giờ tôi quên được những buổi chiều vàng vọt ở các nghĩa trang Đức Cơ (đường 19B), An Lung Veng, Kulen… nơi an nghỉ của những đồng đội. Chẳng quên được những cánh rừng trong mùa khô, mùa mưa mà mìn KP2, K63, 65.2A, 45.2A,… rải đầy như lá. Đối đầu với biết bao sự gian khổ rất khắc nghiệt, chúng tôi sống và làm thơ. Những bài thơ của tôi sau này được in trên báo chí, trong những tập thơ - đã được ra đời như vậy. Bây giờ lùi vào quá khứ để nhìn lại cuộc chiến tranh, tôi thấy mình đã ít nhiều thi vị hóa, thậm chí đã tránh né khi viết về sự hy sinh mất mát. Liệu có nên như vậy không? Bây giờ đã rời đội ngũ, vật lộn với cơm áo đời thường làm tôi thấm thía những tháng năm tuổi trẻ cầm súng lúc đó, không ai đòi hỏi chúng tôi về chuyện… hộ khẩu bao giờ! Bây giờ trở về, trường đại học, rồi đi viết báo kiếm sống, với tôi hộ khẩu lại vẫn là chuyện canh cánh bên lòng. Có phải đây là một đòi hỏi quá lớn đối với một người lính trở về? Những đời thường như vậy thơ ca của tôi đành bất lực. Dù sao, xin ghi nhớ sự cưu mang của đơn vị C7, D8, F29 (307) đã nuôi dưỡng thơ tôi và tôi trưởng thành.


VI.2012

LÊ MINH QUỐC

 

 

6B


 

Thơ

Đoàn Tuấn

(Lê Minh Quốc giới thiệu)

TUẤN ƠI! TUỔI TRẺ CỦA CHÚNG MÌNH...


I.

Những tháng ngày này, 7.1997, tình hình chiến sự ở Campuchia đã kích động tôi dữ dội. Kỷ niệm cũ tưởng đã quên, nay bỗng sực nhớ, nó như đốm lửa cháy bập bùng trong ý thức lãng quên. Những bài thơ của một thời trên quê hương Chùa Tháp trong sổ tay nhem nhuốc, được viết dưới ánh sáng của dầu khộp khi nằm trong hầm thùng Anlungveng, được viết sau những giây phút hiếm hoi nghỉ giải lao trên chặng đường truy kích, được viết bâng quơ đâu đó... nay bỗng vọng về như một lời thầm nhắc về tuổi trẻ của mình. Tuổi trẻ đã đi qua. Những sợi tóc đã bạc. Những kinh nghiệm của cuộc đời đã cày từng nếp nhăn trên gương mặt. Tôi sực nhớ đến những liệt sĩ có nụ cười tinh khôi như nắng mới. Môi hồng hào như chưa một lần sốt rét. Thịt da thơm tho như chưa bao giờ hứng trọn quả B.40 giữa lồng ngực. Tôi gọi đó là những liệt sĩ trinh tiết. Những linh hồn ấy dường như còn bay vất vưởng, lượn lờ đâu đó trên mỗi bước chân tôi đi trong dòng đời xuôi ngược. Những linh hồn ấy còn nằm trong sổ tay: “Huỳnh Lộc 15-6-1980, Đỗ Nhờ 16-7-1980, Nguyễn Tiếp 21-7-1980, Nguyễn Luôn 13-8-1980, Lý Văn Nga 18-8-1980, Mai Công Ngói 15-6-1980, Lê Văn Lâm 21-6-1980, Phạm Hữu Phước 17-6-1980, Trần Thanh Biện 25-11-1980, Lưu Thanh Sơn 25-11-1980, Hoàng An 28-12-1980, Huỳnh Hoan 13-12-1980, Trần Lợi 13-12-1980...” Ấn tượng dữ dội nhất của tôi trong nỗi nhớ về Campuchia vẫn là nghĩa trang Anlungveng - nằm trên khu Đông Bắc - nơi ấy, cỏ lau ngút ngàn, những ngày mưa lội bì bõm đi chôn đồng đội của mình. Giọt nước mắt không còn để ứa ra. Những nụ cười tắt ngúm. Những căm thù bủa vây. Và từ bên kia ngọn Đănrek những loạt pháo gầm thét ngày đêm. Trời rực lửa. Chúng tôi đã sống dưới lòng chiến hào. Đôi lúc ngước mắt nhìn sao trời xa xăm trên đỉnh trời lạnh lẽo.

II

Lại nhớ đến những lần luồn rừng để tìm rau rừng. Hãy đọc lại một đoạn trong tiểu thuyết Thời của mỗi người (Lê Minh Quốc -NXB Trẻ - 1991) mà tôi đã viết: “Bước luồn qua những bụi gai nhọn hoắt, bóng tối nhập nhoạng. Như một linh tính đã báo trước, tao chợt cúi rập người xuống để né cành cây ngang tầm mắt thì đó cũng là lúc một tiếng nổ dữ dội gầm lên. Tiếng gầm khủng khiếp. Cái chết đã đến. Trung đội trưởng ngã vật người ra phía sau với tiếng thét rợn người. Một quả mìn KP.2 đã cắt ngang nửa người anh ấy. Trái mìn không chôn dưới đất mà nó được nối vào dây kim hỏa - sợi dây ấy như màng nhện giăng là đà dưới mặt đất. Trung đội trưởng đã vướng dây mìn. Kim hỏa bị kéo tụt ra và phóng chính xác vào hạt nổ. Cả đất trời tối sầm lại.” Vậy đó, làm sao quên? Lật lại quyển sổ tay, thấy còn ghi: “Sáng: 7 ký bột, trưa: 8 ký gạo; chiều: 5 ký bột cộng 4 ký gạo”. Đố Tuấn nhớ được là lúc ấy, năm 1979, quân số của đại đội mình là bao nhiêu người? Xin trả lời; chỉ còn vỏn vẹn 35 người. Khẩu phần buổi tối nhiều hơn, vì còn phải vắt thêm những cục cơm cho những thằng đi phục kích đến mười giờ sáng mai mới về lại hậu cứ. Thời gian ấy chúng ta trú quân trên ngọn đồi. Suốt ngày chỉ ăn măng tươi. Ăn đến phát nôn. Còn nhớ mình với Nguyễn Đình Huần nửa khuya thèm thuốc, lội vào rẫy. Hai thằng đã phát hiện được một rẫy thuốc lá còn xanh mơn mởn. Hai thằng vặt sạch lá. Đem về. Dùng dao cắt nhỏ. Bỏ vào soong rang khô để hút dần. Lại nhớ, có lần cả đơn vị nhốn nháo cả lên. Thằng nào cũng vật vờ vật vưởng. Hút lầm lá... cần sa. Bố khỉ! Lại nhớ Hồ Bi, thiện xạ vác B.41, nói tiếng Miên thật tuyệt:

Me ơi me miên ây đô

Ao ni xà át kho này thơ mây

Me sơi me xốc xờ bay

Oi con xum tít ớt cay, bụi hành

Tuấn còn nhớ là bọn mình đã “dân vận” như thế nào đó không? Còn nữa, đây là ngôn ngữ của Hà móm, của Dân lác, của Trần Tuấn Bảo và của tất cả chúng ta:

Me ơi sờ lanh côn tê?

Oi con xì cọ mang về me ơi!

Me ơi vào nói với âu

Con mượn cái liềm cắt cỏ cho bò hốp bai

Me ơi con tốp lò o

Thơ man con hốp sơ nganh chờ rờn

Những kỷ niệm còn tươi rói trong trí nhờ. Nhớ những ngày đem quân phục vào phum đổi chó? Chúng mình leo lên nhà sàn, ngồi uống rượu. Ném những cục cơm xuống dưới đất để nhử chó, những con chó háu ăn vừa lao tới thì lập tức một loạt đạn vang lên... Bởi khi ấy nòng súng A.K đã chỉa xuống. Bắn chính xác. Cột bốn chân của xác con chó lại. Xuyên qua một thanh tre. Chúng ta đã hào hứng khiêng chó về hậu cứ. Đó là những ngày hội tươi đẹp của một thời tuổi trẻ. Lại nhớ một kỷ niệm cùng Dũng B.40. Đêm. Trăng sáng. Trên đường từ phum Choangs’re, có một chiếc xe bò chở theo một con bò đã chết lọc cọc đi vào rừng. Quốc và Dũng bí mật bám theo. Trong rừng, những nông dân Campuchia đã đào một cái hố lớn để chôn con vật xấu số. Sau khi họ bỏ đi, hai đứa vội vã đào lên, rồi dùng liềm cắt những miếng thịt tươi roi rói đem về, trong bụng khấp khởi mừng vì đêm nay sẽ có một bửa liên hoan ra trò. Khi về hậu cứ không dám đi vào đường chính, vì sợ đại đội phát hiện, hai đứa phải cắt rừng, không ngờ lại lọt vào ngay hướng của đơn vị! Tưởng bọn mình là địch mò vào căn cứ, thế là một loạt đạn đinh tai nhức óc, cả hai thằng kêu toáng lên. May mà không “tiêu” đời một cách lãng xẹt như thế.

Hình như Huần rời khỏi chúng ta vào ngày 27.8.1980? Quốc lật trang nhật ký thì trong ngày hôm  đó có ghi bài thơ tặng Nguyễn Đình Huần:

Im nghe từng giọt mưa đêm

Như từng giọt máu rơi trên hình hài

Tình yêu bầm tím hai vai

Phố xưa hoang vắng trong ngày Prech-vihear

Im nghe trăm mảnh trăng khuya

Tan trong dĩ vãng đầm đìa thương yêu

Sao nghe từng nỗi quạnh hiu

Sầu ngông vật vã tim yêu ngỡ ngàng

Nhớ về ngày cũ miên man

Từ Liêm (Hà Nội) bàng hoàng mộng du...

Lại nhớ về Lê Văn Lâm (Lâm lùn - Hải Phòng) ngày mà anh Lâm trung đội trưởng vĩnh viễn từ bỏ trần gian này, trong nhật ký còn ghi ngày 1.6.1980:

Thèm miếng thịt hộp

Sáu mươi người ăn chung một lon

Ngày đi phục tối gác sáng đêm

Cối 60 địch bắn dập dồn

III

Trên cung đường 19B. Trung đoàn 29 vào thay cho E.95. Tôi đang nằm đung đưa trên võng trong căn hầm thùng. Bỗng có tiếng nói: “-Báo cáo hạ sĩ...” Tôi ngước mắt lên nhìn. Một chân dung trắng trẻo, môi đỏ, giọng nói Hà Nội. Quân phục còn mới. Thoạt nhìn hắn, tôi có cảm tình ngay. Hắn là một trong những tân binh được bổ sung khi chuẩn bị mở màn chiến dịch. Lúc ấy, tháng 12.1978. Trời thường mưa. Mỗi sáng được ăn những cục mì đen đúa và cứng như đá. Hắn cùng tôi, sau đó, trở nên như hình với bóng. Hai thằng đã đi hết một chặng đường chiến binh. Hắn có một quyển sổ nhỏ. Thường giấu ở túi áo, mỗi lần tìm được một câu thơ hay, hắn ghi vào đó. Tính tình của hắn hiền lành, nói năng nhỏ nhẹ như con gái. Hắn chơi thân với Trần Đào Hiền Nhân, Hoàng An, Nguyễn Đình Huần, Hạm, Tuấn quản, Hà móm, Dân lác, Trung đen... một phần vì đồng hương Hà Nội với nhau. Tôi thân với Trần Tuấn Bảo, Nguyễn Đăng Lâm, Võ Đình Chiến, Mai đù, Huỳnh Lộc... một phần vì đồng hương Đà Nẵng. Rồi bạn bè tụ, tán. Tôi ở lại với bộ binh. Hắn làm lính thông tin. Rồi gặp nhau. Đọc thơ cho nhau nghe. Những bài thơ trong sổ tay. Rồi những giải thưởng thơ trao cho hắn. Hắn chỉ cười. Rồi hắn sang Mạc Tư Khoa học nghề đạo diễn biên kịch gì đó. Bây giờ, đọc lại những bài thơ của hắn viết thời gian ở Campuchia, tôi vẫn còn xúc động, rất xúc động. Quái lạ! Sau này, khi rời bỏ quê hương Chùa Tháp thì hắn không còn giữ được mạch cảm xúc tuyệt vời ấy nữa. Tại sao? Tôi chưa bao giờ và có lẽ không bao giờ đặt câu hỏi đó với hắn cả.

Ngày tôi rời mặt trận

Vừa đặt chân về đến Hà Nội

Dốc hết tiền

Mua một chiếc đồng hồ đeo tay...

(Ngày tôi rời mặt trận - Đoàn Tuấn)

IV

Kỷ niệm tròn 20 năm, ngày đặt chân vào quân ngũ. Một tập thơ ra đời. Hai thằng từng đứng chung một chiến hào nay lại đứng chung trong một tập thơ. Đời sống có gì vui? Những bài thơ này hầu hết được viết trước năm 1982, nay tìm lại được trong nhật ký, trong trí nhớ hoặc trong sổ tay của bạn bè cũ. Bên cạnh đó cũng có những bài thơ được viết sau này, nhưng thật ra nó cũng nằm trong mạch cảm xúc binh nhất, binh nhì của thời trai trẻ hoa niên còn quá nhiều mơ mộng:

Mặt chúng tôi gầy như gương mặt núi

hào phóng như trời xanh

tính thẳng như nòng súng

ăn cơm cục

uống nước đục

hồn như sông in mây trắng vô tư

(Ankung năm 81 - Đoàn Tuấn)

Một tập thơ ra đời, không dám mong sẽ được nhiều công chúng đón nhận khi nó bày bán trên kệ sách. Chỉ mong đồng đội cũ đọc và nhớ đến những ngày tươi đẹp đã qua mau. Không dễ ai lại đem đổi bán những kỷ niệm và niềm tin của chính mình. Tuấn ạ! Thời ấy chúng ta còn trẻ quá. Mắt còn biếc. Môi còn tươi. Dòng máu trong tim còn sôi nóng. Chính vì thế, đôi lúc, tôi thương tuổi trẻ của chúng tôi quá! Bao giờ quay lui lại dĩ vãng, tôi cũng thấy một gương mặt tân binh non choẹt:

Vẫn nói cười, vẫn thổi mắt cho nhau, ôm súng xông lên và những loạt Đ.K dập xuống

Bạn bè tôi hóa trăm mảnh sao trời

(Tìm bạn - Đoàn Tuấn)

Một tập thơ ra đời để tặng cho đồng đội Hòm thư 5A 2106 Pleiku (Đoàn 330 chuyển), tặng những liệt sĩ - như trong nhật ký ngày 29-12-1980, tôi viết cho Huỳnh Lộc và Lý Văn Nga:

Về đâu khi tóc còn xanh?

Ai chờ ta giữa nội thành mùa xuân

Ngủ quên trong một mùa trăng

Sao mắt không nhắm? Còn bâng khuâng gì?

Cười lên đi! Khóc lên đi!

và:

Còn lại bao nấm mồ, hài cốt

Đồng đội tôi giá lạnh giữa rừng hoang

(Kính gửi Sư đoàn 307 - Đoàn Tuấn)

Câu hỏi ấy mãi còn vang vọng trong nỗi khắc khoải. Đời sống có gì vui? Tôi sực nhớ đến phum Choams're của những năm 1979. Đêm trăng sáng. Tôi cùng một cô bạn người Khmer gốc Chàm đi dưới lòng suối cạn. Mười tám tuổi, môi tôi run rẩy chạm vào môi nàng. Khẩu súng A.K chếch lên vai. Gục đầu trên vai tôi, tóc nàng khét nắng, nàng nhỏ nhẹ: “-Contốp ơi! Boong ơi! Oi on sum tích xàbu, giúp ní cà xọ”. Nàng xin tôi một ít xà phòng để tối nay gội đầu. Sau khi chia tay, khuya ấy, tôi đã lẻn vào hầm của chính trị viên Trần Thanh Chương (quê ở Nam Đàn, Nghệ An) ăn cắp một ít xà phòng để sáng mai tặng nàng. Hỡi ôi! Rạng sáng hôm sau đã có lệnh bí mật hành quân. Từ đó, chẳng bao giờ, tôi còn gặp nàng nữa. Hỡi Maní Chàm, bây giờ em ở đâu? Đời sống có quá nhiều xáo trộn. Mới đó, ngoảnh lại đã 20 năm. Có người đã kết thúc cuộc đời. Có người đang loạng choạng đi về phía hoàng hôn. Tuấn ạ! Tập thơ Đất bên ngoài Tổ quốc hôm nay đến tay bạn đọc. Ai còn nhớ? Ai sẽ quên? Duy nhất một điều mà chúng ta thầm mong: Những linh hồn vất vưởng đâu đó sẽ đọc được trong mịt mù âm dương cát bụi. Trong nhật ký ngày 30.12.1980, tôi viết:

Ta viết từ nghĩa trang

Bằng máu người đã chết

Ta chưa hề biết khóc

Sao thấy lạnh môi cười

Ngồi buồn ôm rách nát

Bia mộ tuổi hai mươi

Ngày từng ngày xanh rêu

Tiếng chim rơi buồn bã

Giữa hoang vu đất lạ

Máu thịt tặng cho đời

Bạn ngàn năm yên ngủ

Linh hồn vật vờ bay

Bạn không còn chân tay

Sao về nơi yêu dấu?

Ta tặng người giọt máu

Ướt đẫm sỏi Angkor

Một mùa khô nóng bỏng

Đầu môi cười ngây thơ?

Ngày từng ngày súng nổ

Quên lãng mộ bia hoang

Bạn nằm cùng cây cỏ

Chiến trường xa điêu tàn

Ta đốt lên điếu thuốc

Nằm ngủ ngoài nghĩa trang

Lửa bập bùng cháy sáng

Thấy bạn về mênh mang...

Điều ấy đã được bạn bè của sư đoàn 307 cùng tâm niệm như thế chăng? Bây giờ, tháng 7.1997. Lật lại tấm bản đồ và nhìn lại những địa danh quen thuộc nơi tuổi trẻ của chúng ta đã đi qua, bỗng dưng lòng như muốn khóc. Tuấn ơi! đời sống có gì vui?

Sài Gòn 14.7.1997

LÊ MINH QUỐC


 

TUỔI 18

(Tặng Lê Minh Quốc)

Nếu con gái có thuở vầng trăng khuyết

Tuổi mười lăm kín đáo ở góc trời

Thì con trai cũng một thời tuyệt đẹp

Vầng mặt trời mười tám tuổi đỏ tươi

Tuổi 18

đẹp như buổi sáng

cơn bão

nằm trong cánh tay

ước mơ

như gương mặt người yêu

ngắm hoài không chán

bỗng trổ trên tay

ngày nhập ngũ của mình

trổ trên bả vai

cánh buồm giữa biển

quân hàm một sao

hồn nhiên sáng nụ cười

Tuổi 18

gương mặt

ấm áp

như mặt trời

đùi ếch

ngực dơi

tay cử tạ

để ngỏ

trái tim

dạt dào

như bọt tan trong cốc rượu

Tuổi 18

có thể

chưa có người yêu

nhưng giàu vì bạn

làm quen

chỉ cần

điếu thuốc

gặp nhau

bắt tay

rất chặt

chia tay

cho nhau ngay

địa chỉ

Tuổi 18

nốt nhạc

nằm ngoài khuông nhạc

bài hát

không nằm trong giai điệu

tỉ phú

thời gian

khao khát

không gian

đôi cánh

Tuổi 18

rời mái trường

trở thành

người lính

mang lên rừng

chuông xe điện vang ngân

mang lên rừng

tiếng chim cu gáy

để lại cho người tình

bé nhỏ

môi hôn

Tuổi 18

cười

nụ cười hết cỡ

đánh “tiến lên”

hò reo

vang dậy một góc rừng

những đêm

đế dép đốt sáng trưng

gõ thùng

hát đồng ca:

“Ở đây chúng tôi ăn lương khô và xúc xích!”

Tuổi 18

bị thương

không khóc

nhưng lại rơi nước mắt

khi bạn bè bị thương

Tuổi 18

để đầu trần

trong cơn khát

ngửa cổ

dốc bi đông

tu một nụ hôn dài

Tuổi 18

nói

một lời yêu

cũng vội

yêu

một tình yêu

không nhiều lần

hò hẹn

Tuổi 18

như rượu

của đời

xin mời

nâng lên

hạ xuống

Tuổi 18

lên núi

núi vọng

xuống sông

sông rền

Tuổi 18

trắng trong

như bạn tôi

An “bột”

chết

trong tiếng nổ

ngày hôm sau

mãi mãi

lặng im

Còn nhớ Anlongviêng, nhớ

Hoàng An không Quốc?

Ngày ấy chúng ta lặng im

Bây giờ mới nói được.

Đoàn Tuấn


MẸ VÀ HÒM THƯ CON

(Tưởng nhớ Nhật Minh)

Với một chiếc ba lô

Chúng con có ngôi nhà

Hòm thư là biển số

Sáng hai mùa nắng mưa

Chùm chữ số đơn sơ

Như mắt con nhìn mẹ

Con ở xa là thế

Đôi mắt nhìn bình yên

Giọng con trầm như đêm

Dù giữa nơi mặt trận

Tên hòm thư mẹ khắc

Tên cột mốc biên cương

Gập ghềnh bao núi non

Bóng con đi nhỏ bé

Con nhìn nét chữ mẹ

Bao giờ được thảnh thơi

Con biết dáng mẹ ngồi

Mong lá thư biên giới

Con biết mắt mẹ mỏi

Ngóng từng cánh chim qua

Dòng chữ số rất xa

Bé như là con kiến

Bò từng mi-li-mét

Trên đường về quê hương

Mẹ nhìn theo dáng con

In những dòng chữ nhỏ

Còn những dòng chữ đó

Còn xa mẹ, mẹ ơi...

Lúc này con đang ngồi

Nghĩ lá thư gửi mẹ

Giấy bút con không có

Hình dung trong nỗi nhớ

Không có gương mặt nào

Đầy chịu đựng khổ đau

Như là gương mặt mẹ

Không có địa chỉ nào

Làm mẹ luôn lo lắng

Địa chỉ hòm thư con

Đoàn Tuấn


TÔLLÊ SÁP ĐÊM 5 THÁNG MỘT NĂM 1979

Dòng sông đen loang loang nhòa trong đêm

Chúng tôi vội hít căng lồng ngực

Bên kia sông mịt mù phòng tuyến giặc

Mười phút vượt sông hai đại đội tăng cường

Lính bộ binh dùng chèo bơi xuồng máy

Con sóng lao xao, ý nghĩ chập chờn

Đêm không lời những người câm không nói

Ra giữa dòng hơi thở gấp hơn

Bỗng tất cả cùng lấy khăn nhúng nước

Tất cả cùng rửa mặt giữa dòng sông

Dù thời gian chỉ còn bốn phút

Dăm mét nữa thôi trận đánh bắt đầu

Tôi cảm thấy gương mặt mình nhẹ nhõm

Gió thấm vào từng hạt nước li ti

Bước lên bờ lòng tôi thanh thản

Trận đánh này có thể sẽ ra đi...

Đoàn Tuấn


 

ĐẤT BÊN NGOÀI TỔ QUỐC

Hồn tôi mang là tâm hồn Tổ quốc

Sự dịu dàng người phụ nữ tôi yêu

Gương mặt bạn, gương mặt tôi - Đất Nước

Người đàn ông ra trận mới trở về

Tôi luôn nhớ đồng đội tôi hóa Đất

Đất bên ngoài Tổ quốc... phía xa kia...

Lòng tôi mãi thuộc địa hình nơi đó

Ngầm Sa-em, đền Prếch Vi-hia

Sườn Đăng-rếch, những con đường xe đổ...

Đồng đội tôi tình nguyện nằm xuống đó

Để Đất mang gương mặt Con Người

Đất mang tên Nhật Minh

Mang tên Hoàng An, mang tên Dương Công Hạm

Campuchia ơi, đồng đội tôi ngã xuống

Chẳng mộ bia ghi lại tuổi tên

Để tên Người cũng ấm áp thiêng liêng

Như Trường Sơn, Cà Mau, Đồng Tháp

Đi giúp bạn cũng vì đất nước

Một tấm bằng Tổ quốc ghi công

Dù mùa mưa hay mùa khô

Chỗ đất ấy đào lên đều tóe lửa

Mỗi lần đặt đồng đội tôi xuống đó

Chiếc quan tài đặt trĩu trái tim tôi

Tôi nhói lòng chịu mũi kim đau buốt

Tiếng viên đất đầu tiên rơi xuống nắp quan tài.

Ngày tiểu đoàn rút đi, nghĩa trang nằm lại

Số phận nấm mồ kia? - Bọn địch sẽ giật mìn

Chúng tôi đi chặt cành cây phủ xuống

Người sống và người chết không yên

Ở trong đất lặng im bao mơ ước

Vọng mãi về ngôi nhà thuở ra đi

Và đêm đêm mỗi ngôi nhà bên Nước

Kỷ niệm thương nhớ Đất thầm thì.

Lâu ngày sống trong rừng sâu đất bạn

Đồng đội nhớ nhau, ngỡ như đất quê nhà

Chiều chôn bạn trong nghĩa trang quen thuộc

Đêm về hầm còn lại mỗi mình tôi

Tôi mới thấy xót xa thương bạn

Nằm bên ngoài Tổ quốc dưới mưa rơi

Tôi không thể sống thiếu người đã mất

Tôi sống bằng cái chết của bạn tôi

Tổ quốc nặng sâu hơn bởi tình yêu mảnh đất

Đất bên ngoài Tổ quốc, Việt Nam ơi!

Có phải một mảnh đời tôi ở đó

Một mảnh đời ý nghĩa nhất của tôi?

Tổ quốc - nơi tôi sinh ra và lớn lên cùng bạn

Đất của đời tôi lại chính đất bên ngoài

Dẫu nghĩa trang đã chuyển về Tổ quốc

Đất muôn năm vẫn ở lại nơi này

Ở lại nơi lần đầu tiên nằm xuống

Hơi thở cuối cùng lẫn xứ lạ cỏ cây

Tôi chỉ có một cuộc đời ngắn ngủi

Một mảnh đất con con như số phận của mình

Có nhiều lúc tự nhiên tôi không hiểu

Mình đang ở đây hay đã trở về

Đồng đội ơi lúc nào tôi cũng nhớ

Đất bên ngoài Tổ quốc, cả trong mơ

Làm thế nào cho nguôi nỗi thương người đã mất?

Đất nơi nào nặng hơn đất nghĩa trang?

Trong trái tim hôm nay tôi đang sống

Còn luân hồi một trái đất của tôi...

Đoàn Tuấn

(Giải thưởng thơ Văn nghệ Quân đội năm 1990-1991)


LÍNH TRÁNG

(Tặng Lê Quỳnh Lang)

Đã là lính còn phải là tráng nữa

Văng tục một câu cho nó nhẹ người

Bị thương rồi chẳng còn mơ mộng nữa

Nghĩ ngày về mình sống thế nào thôi!

Đoàn Tuấn


LÁ MỤC

(Gửi Huỳnh Đức Thuận)

Đêm ấy trong rừng Miên tao nhớ

Mày nhặt ánh lân tinh ép trong vở học trò

Sáng mở ra: một manh lá mục

Mày vứt đi... Tao tiếc mãi đến giờ!

Đoàn Tuấn


HOÀNG HÔN ĐỨC LẬP

Xe đang chạy. Bỗng sững người dừng lại

Ngắm nghĩa trang xa tít tận chân trời

Cả thân hình chợt nóng bừng tê dại

Hóa khối trầm nghi ngút mãi khôn nguôi...

Đoàn Tuấn


ĐƯỜNG LÍNH

Không cần vé vẫn lên tàu đi B

Sang K, C cũng chẳng cần hộ chiếu

Những con đường chiến tranh đơn điệu

Lính chỉ mong: một lối trở về!

Đoàn Tuấn


SAU MÀU XANH LÁ

(Tưởng nhớ Hạm thân yêu)

Cứ độ này nhớ bạn lắm bạn ơi

Trời xanh như câu thơ thu hoài cổ

Nghe đâu đây bài lá xanh lá đỏ

Biển trên trời mà lòng nặng quá thôi

Ôi có phải màu xanh của lá

Bay lên... bay lên dệt sắc trời...

Nhớ mùa hè từ giã, mái trường ơi

Màu hoa phượng cháy đỏ niềm khao khát

Chúng mình đi dưới khung trời tình bạn

Xanh thơm màu quân phục tân binh

Như gọi về những mùa khô Choăm-san

Rừng khộp cháy cong trời rừng rực

Dưới bóng râm núi lửa

Đơn vị mình truy quét dọc biên cương

Mùa sốt An-lung hai đứa một giường

Đồng đội về phum xin lá chanh lá sả

Ôi lòng mẹ lặng thầm hương thơm lá

Bạn đi rồi... gửi hương lại cho ai?

Những đêm mưa chúng mình ước nghe đài

Sóng lân tinh vỗ dập dờn cánh võng

Mưa thánh thót đọc trên trang lá trắng

Truyện cổ về cô gái thảo thơm

Đêm hành quân mưa rừng lạnh thấu xương

Ta cài ánh lân tinh trên ba lô nhỏ bé

Chúng mình là những ngôi sao chiến sĩ

Đi băng lên lội qua dải Ngân hà

Mang tuổi xuân trái tim đẹp như hoa

Cứu cánh rừng thốt nốt đang cụt ngọn

Trong bão lửa chiếc lá xanh rơi xuống

Hóa sao trời về xứ sở quê hương

Trước lúc hy sinh cháy ngọn lửa bình thường

Sau ngọn lửa là phù sa của đất

Cho mùa xuân Campuchia dâng mật

Như vẫn còn xanh mãi một ước mơ

Mùa khô này mình xin viếng bài thơ

Làm bóng mát bên nấm mồ của bạn

Tổ quốc mình đang đón xuân Nguyên đán

Đất bạn đây thơm dịu mát hoa xoài

Bạn thân yêu nghĩ đến một ngày mai

Cầm tay người yêu đi trong vườn bách thảo

Gió Hồ Tây hương thơm đầy vạt áo

Tay chúng mình đan nhau như cặp lá

Bạn như là chiếc búp mãi xanh non...

1982

Đoàn Tuấn


VẬN ƠI!

(Tưởng nhớ Hoàng An thân yêu)

Chúng mình chôn Vận xuống

Tử thi còn thiếu một chân

Máu thấm ống quần héo như tàu chuối rụng

Máu tuổi hăm hai gửi cho cỏ cho trời

Đại liên ghìm yểm hộ

Đạn bay như đàn rết bám trên đầu

Lựu đạn địch quăng

Bất ngờ đêm trái rụng

Phải cõng thêm hai đứa quay về

Ơi gió rừng biết chân Vận đâu không...

Hy sinh thiếu một chân

Vẫn trọn đời chiến sĩ

Ôi máu thịt muôn đời là máu thịt

Chúng mình tìm cho chúng mình

Những người đang sống

Những người đang cầm súng

Nếu hy sinh được chôn cất đủ đầy

Một trăm đứa thương

Thương Vận đến cháy lòng

Nhưng không đứa nào hình dung được nỗi đau của mẹ

Nếu mẹ biết trong gia tài nhỏ bé

Còn ít tiền thương mẹ thiếu áo bông

Ước gì Vận vẫn nằm đội điều trị tiền phương

Như dạo nọ

Chúng mình chạy về thăm

Được cởi trần tung tăng trên trảng cỏ

Tuổi thơ nào mây trắng trời xanh

Hay như bạn bè mang khuyết tật chiến tranh

Chống nạng bước vào trường đại học

Dấu chân in những vạt rừng mưa nắng

Dấu nạng in dấu chấm lửng trên đường

An-lung-viêng mùa khô biên cương

Rừng khộp cháy bùng lên ngọn đuốc

Như ngọn tháp ngang trời ngùn ngụt

Vận chết rồi vẫn không được đến thăm

(Mà dấu chân năm tháng hành quân

Gấp mấy lần đường đến ngôi đền cổ)

Hai phòng tuyến căng ra bàn chân Vận nằm giữa

Và khói mìn như đang cuộn bốc lên

Lòng chúng mình cháy cồn cào ngọn lửa

Đứng bồn chồn mong đêm xuống Vận ơi!

Đoàn Tuấn


AN-LUNG NĂM 1981

Những dãy núi con đường và vị trí các C

Như đồ vật trong nhà, tôi nhớ

Bao đồng đội thành cây rừng ở đó

Mỗi gương mặt bạn bè một địa chỉ không quên

Dũng đi phục mùa mưa xé túi quần hun muỗi

Cởi áo ra mình đắp chóng sáng hơn

Mạc Văn Tướng trèo cây bắn B41

Mười hai giờ đêm ăn cháo khỉ xì xòm

Lính 71 đào hầm, lính 80 nạp đạn

Có điều gì tin cậy chở che nhau

Bên cửa hầm dáng bạn ngồi đan rổ

Lá lồ ô vàng thơm sắc rơm phơi

Mùa khô ấy áo bạc theo suối cạn

Ai nhắc mình vò áo nhẹ tay thôi

Mặt chúng tôi gầy như gương mặt núi

Hào phóng như trời xanh

Tính thẳng như nòng súng

Ăn cơm cục

Uống nước đục

Hồn như sông in mây trắng vô tư

Chúng tôi ngủ

Như chim nằm trên lá

Chúng tôi đi

Sông suối ngẩn ngơ nhìn

Tên chúng tôi chỉ cỏ cây nhớ nhất

Mỗi tuổi quân sống gấp mấy tuổi đời

Ôi mảnh đất An-lung không một người dân ở

Đôi dép này nguyện in tiếp hoa văn...

Những trận đánh chim không còn chỗ ở

Chúng tôi mấy ai bị đạn thẳng bao giờ

Nhưng vết thương giữa địa hình nhức nhối

Đồng đội tôi ngã xuống chỉ vấp mìn

Địch buộc vào thân cây dây mảnh tơ ngang ngực

Lưng ống chân lá cỏ xùm xòa

Trái mìn vấp nẩy ngang người mới nổ

Hoa sâm cỏ bên đường gục xuống hạt máu khô

Nai bị thương càng giãy mìn càng nổ

Bạn tôi bị nhiễm trùng nhựa hóa học, cao su...

Nắng bóc da như thân cây bóc vỏ

Chân dầm mưa sáu tháng tổ ong tàng

Chúng tôi giữ con đường thở cuồn lên bụi đỏ

Ai nghĩ chiếc cần câu để phát hiện dây mìn

Đoàn xe phóng gió vít cong cành lá

Hai ngón tay đưa lên miệng vội vàng

Thương bạn bè mà không dám đỗ

Giữa mịt mùng ném xuống nắm thuốc rê

Hoàng hôn kéo con đường dài hun hút

Nằm mơ màng khói thuốc thảnh thơi bay

Gió mơn man những dấu chân tin cậy

Một dòng sông đâu đó hát trong lòng

Ơi con suối Anh-cheng

Giống ngõ nhà mình quá

Những đêm mưa Đồi Đá

Mơ một chỗ nằm thôi

Có buổi hoàng hôn úp mặt vào trảng cỏ

Không dám nhìn đường uốn ngọn khói phum

Đêm gài màn cứ ngoảnh qua ngoảnh lại

Ngỡ mẹ ngồi đập muỗi đâu đây

Chiều qua phum hỏi đùa xin đứa trẻ

Đèo ba lô lên núi sống với mình

Thằng bạn cùng trường

Nhận được tin nó vừa cưới vợ

Bao cuộc đời bình thường trên điểm tựa

Chưa mảnh tình vắt vai

Chị xóm giềng khát khao làm mẹ

Em đứng đó một mình mùa xuân đến

Ai dám bảo em xinh hơn trúc bên đình

Càng yêu em

Con đường càng ngắn

Ba lô bớt nặng

Đêm dài như sông

Sự đợi chờ ân nghĩa

Sự đợi chờ máu xương

Anh nguyện sống vẹn nguyên lòng chung thủy

Dẫu bắt đầu hạnh phúc tuổi ba mươi

Em gái văn công lên điểm tựa

Như con chim khách

Bay tìm lòng người

Trái thị vàng rơi

Bàn tay mong đợi

Nếu thương mến hóa thành bông hoa đẹp

Cả sư đoàn dành em hái đầu tiên

Đỉnh 600 tháo dép cùng ngồi

Quên băng đạn cắm vào sườn đau nhói

Chúng tôi nghe em hát đêm nay

Dải Ngân hà tràn sao lăn trên má

Ngôi nhà không cửa giả

Trưa mẹ về thoáng qua

Em đạp xe đến trường

Nét mặt người đứng tuổi

Con đường bến sông cơn mưa buổi dạ hội

Nhàn nhạt lung linh nắng thu

Mỗi đứa chúng tôi nhận một trăm phong thư

Đất nước mượt mà giọng hát người con gái

Chiếc nón trắng như cánh buồm gửi lại

Thả neo hoài trong mắt đêm thâu...

Năm 79 phum Giềng hái bông gòn nấu cháo

Các cô gái đánh răng bằng cát

Ruột bí đao vắt lấy bọt giặt quần

Giữa lúc ấy Tỉnh ủy Prếch-vihia gửi chúng tôi phong bì giấy trắng

Người khóc lúc viết thư

Người để nguyên kỷ niệm

Điếu thuốc rê nắm ớt

Em Thíp dúi vào tay

Tấm mụn vá ở vai

Ấm như bàn tay mẹ

Những con suối tan tành trên đá

Về đồng bằng hiền hậu nuôi ta

Người lính bạn hy sinh

Một địa chỉ báo tin không còn nữa

Cả sư đoàn đưa tin về Tổ quốc

Hàng nghìn lá thư theo gió tỏa khắp trời

Suốt đêm múa phum Bê toàn phụ nữ

Cả phum ngủ không màn đất nước mình ơi!

Địa chỉ hòm thư con

Đôi mắt bồ câu trắng

Chùm Tua rua trong sân

Riêng điểm tựa An-lung

Không thể hình dung nổi

Mẹ buông rèm chong mắt trông con

Mẹ như cánh buồm

Con thuyền đất nước

Chúng con sống bằng giờ bằng phút

Càng khát khao hạnh phúc lúc trở về

Làm người Khơme lúc đi lúc đứng

Lúc ta nằm về thăm mẹ phút giây

Máu chúng con đổ bên ngoài Tổ quốc

Cho mai sau sông núi thở dịu dàng

Ôi đất nước võng giăng thành biên giới

Con trai nằm gấp khúc dáng đường biên

Ôi những tâm hồn như đáy giếng trong veo

Tổ quốc in vào vầng trăng tình nguyện

Có bóng đa như cuộc đời của mẹ

Gửi sang đây những ngọn gió mát lành...

Đoàn Tuấn


ĐIẾU THUỐC

Mỗi lần cầm điếu thuốc

Lòng tao lại ngượng thầm

Làn khói xanh lãng đãng

Gợi lại thời An-lung

Bây giờ mày ở đâu?

Có về quê Bình Định

Châu ơi, mày biết chuyện

Tha lỗi lầm cho tao!

Chiều ấy trong chiến hào

Mày hỏi tao: còn thuốc?

Còn một điếu duy nhất

Tao nói dối: hết rồi

Chừng sau đó nửa giờ

Mày bị thương đi viện

Tao cầm điếu thuốc bẹp

Trắng lạnh lòng bàn tay

Đang thanh thản hàng ngày

Tao bỗng thành im lặng

Như người vừa ốm dậy

Nghe hơi thuốc đắng lòng

Tao xé vứt ra rừng

Vẫn lộn về giấc ngủ

Chiến trường - nơi máu đổ

Nhận lỗi đâu dễ dàng...

Đôi khi bạn bè mời

Tao như người tập hút

Lặng im nhìn khói thuốc

Rít vài hơi, dụi tàn

Châu ơi, dù mai sau

Lòng tao còn ân hận

Tao một mình xấu hổ

Suốt bao năm một mình

Châu ơi, giờ ở đâu?

Mày có về quê cũ?

Châu ơi, mày tha thứ

Bao giờ tao gặp mày?

Đoàn Tuấn


CƠN KHÁT VÀ TIẾNG GÀ RỪNG

Chúng tôi đi dưới nắng mắt đổ sao

Chói trên đầu mầu trời xanh khao khát

Môi cong như cánh hoa khộp khô ráp

Nước mắt tràn và bên tai ong ong

Tảng ba lô nằm nặng ỳ trên lưng

Khẩu tiểu liên trên mình luôn đổi chỗ

Treo vào cây chiếc áo trấn thủ

Riêng quyển Kiều rách nát vẫn nâng niu

Vết thú rừng đi kiếm nước lần theo

Hồ nứt nẻ suối khô cằn sỏi đá

Bên ụ mối đồng đội nằm mệt lả

Bi đông va vào nhau khô khốc tiếng mõ trâu

Tiếng mõ trâu gợi chiều phum phía sau

Có giếng nước xanh tròn vòm thốt-nốt

Có cô gái gánh đôi cờ-ru nước

Múc cho chúng tôi từng bát ngọt lành

Chiều mắc võng nghỉ bên bờ suối cạn

Cát rào rào rơi trên lá khô

Ai cũng dễ nổi cáu trong cơn khát

Cái bẳn tính cồn lên ráng đỏ phía chân trời

Tiếng rừng cháy càng bứt rứt trong người

Khói đùn lên luồng mây dông vần vụ

Chim dáo dát bay lẫn trong tàn lửa

Không gian rung lên gió nóng quấn quanh mình

Mảnh trăng treo đầu cành

Úa vàng khô chiếc lá

Trăng lên giữa trời không ai buồn ngủ

Miệng khô tròn quầng trăng

Sắc trời xanh chợt thấm dịu trong lòng

Ơi sắc trời đang mênh mang Chùa Tháp

Bốn triệu người vừa trải qua cơn khát

Cơn khát nào bằng cơn khát Tự do?

Chúng tôi mơ đang bơi giữa dòng sông

Tắm cho nhau bọt trắng tung ghềnh đá

Đồng đội tung tăng như đàn cá

Tiếng cười như sóng vỗ âm vang

Chợt thức giấc thảng thốt bàng hoàng

Giơ cánh tay choàng giấc mơ chới với

Sương mỏng tang mềm mại

Như bàn tay xoa cơn khát dịu dàng

Đêm dài nỗi mong chờ thời gian

Võng lửng lơ giữa trời khao khát

Đau đáu nhìn một ngôi sao dần nhạt

Nghĩ đường ngày mai lên cơn sốt rưng rưng

Đột ngột tiếng gà gáy xa rung

Vút lên

uốn xuống

tắt giữa chừng

Xanh một viên pháo hiệu!

Mắt chợt sáng nhìn nhau sửng sốt

Bật dậy reo lên tay chỉ phía tiếng gà

Lại một tiếng gà gáy nữa ngân xa

Như tiếng vọng từ ngôi nhà cổ tích

Mà cầm được trong tay có dáng hình kích thước

Tiếng gà bay vào lòng xua cơn khát tan đi

Chúng tôi hăm hở cuốn võng sâu kèn

Hành quân về phía tiếng gà phơi phới

Ơi tiếng gáy từ xa xăm vời vợi

Trong lòng ai cũng sáng một âm thanh

Sao Mai cười trong mắt long lanh

Tiếng gà rừng tượng hình một con suối

Chảy rì rào xanh mát giữa bình minh...

Đoàn Tuấn


ĐÊM ẤY CHÚNG TÔI NGHE LỜI RU BỖNG SỢ

Chúng tôi hành quân đến đồi 104

Cây đã buông lá xuống mệt rồi

Dưới chân đồi có con suối lượn

Phun Tờ-nà-coong ngủ sớm dưới mưa rơi

Đêm đã khuya chúng tôi nằm trên võng

Như mọi đêm chờ giấc nhọc nhằn

Bỗng nghe từ dưới phum văng vẳng

Tiếng ru con vọng đến não nề

Ôi tiếng ru như vọng từ âm phủ

Người hay ma? Sao ai oán, rã rời

Tôi co mình, cảm thấy người ớn lạnh

Mở mắt nhìn. Đêm thăm thẳm quanh tôi...

Bỗng Hồ Bi, người Nghĩa Bình cao lớn

Chạy đến Nhân Hải Phòng, giọng hớt hải, run run

Nhân gọi Bùi Văn Rét người Mường, lì lợm

Rét cũng đang thao thức bồn chồn

Cả trung đội lính mới và lính cũ

Ngoài Bắc trong Nam bò lại quây quần

Muốn đốt lửa, sợ kẻ thù bắn lén

Ngồi bên nhau hồi hộp sợ âm thầm

Tiếng ru người Khơ-me không thành lời hát

Cứ ư... a... giai điệu kéo dài

Mưa vẫn rơi, dưới phum đen thẫm

Bó gối ngồi chẳng ai dám hỏi ai

Tiếng ru mảnh như tơ chùng bên suối

Mang gương mặt âm hồn của đất nước khổ đau?

Sao lại sợ tiếng ru?

Chúng tôi không hiểu nổi?

Đêm 27.5.1979

Đoàn Tuấn


MƯA

Những hạt mưa bao vây và chia cắt chúng tôi

Mỗi người lính khoanh vùng nằm một võng

Mưa ru ngủ trên mái tăng nhịp trống

Mỗi chiếc võng im lìm trĩu nặng những tâm tư

Những ngả đường vội vã đi qua

Có bao điều quên đi, rơi vãi

Mưa như người nhặt nhạnh gom góp lại

Đến trả ân cần rồi lặng lẽ ra đi

Một kỷ niệm xưa chẳng có ý nghĩa gì

Một cơ hội vô tình tiếc mãi

Một lỗi lầm không bao giờ chuộc lại

Một ấn tượng lạ kỳ có thật đến không tin...

Trong cơn mưa tất cả hiện lên

Tất cả hiện lên trong chiếc sàng tinh khiết

Hồn tôi rung như lá rừng xanh biếc

Mưa của trời lọc sạch bụi hồn tôi

Tôi lắng nghe mình trong lắng tiếng mưa rơi

Trong tiếng mưa rơi có điều gì vọng lại

Trong tiếng mưa rơi có hàng nghìn câu hỏi

Tôi không muốn lặng im cũng chẳng muốn trả lời

Cậu bé nào đi trong tiếng mưa rơi

Cậu bé ấy là tôi - hai mươi năm về trước

Hai đứa tôi giờ vẫn chung mơ ước

Hai giọt ước mơ còn đọng lại một nỗi niềm

Không thể nghĩ về tương lai trong tiếng mưa rơi

Hiện tại bỗng quên đi gợi nhớ về kỷ niệm

Khi biết lắng nghe mưa, tôi đã già, tôi hiểu

Trong mưa lắng nghe mình, tôi như nắng sau mưa...

Đoàn Tuấn


ĐÊM Ở RỪNG NGHE THƠ

Đêm ở rừng Choăm Kh’san nghe thơ

Tiếng vọng quê hương qua đường biên giới

Những người lính ban ngày sôi nổi

Đêm trở về trầm lắng đợi tiếng thơ

Tóc khét nắng thấm sương khuya mềm tơ

Áo dày bụi mùi mồ hôi mặn ấm

Ngồi dựa cây rừng, hai người nằm chung võng

Nhìn sao trời đang chở tiếng thơ qua

Đêm ở rừng cứ thăm thẳm đậm đà

Nên tiếng thơ đi một mình cao vút

Vòm lá xanh lọc tiếng thơ trong suốt

Tiếng tơ vàng bện ổ ngọt hồn ta

Tán lá rừng bỗng đầm ấm mái nhà

Bóng đồng đội im lặng nguyên bên lửa

Cái đống lửa như hiển nhiên phải có

Than rực hồng mà không thấy, mà quên

Tiếng thơ mượt mà uyển chuyển trong đêm

Như những nét hoa văn bay lên từ mặt trống

Khi nghe thơ hồn là sân cỏ rộng

Tiếng xuân về chim hót giữa đồng hoa

Đất chiến trường - đất nảy mầm thi ca

Người lính đến hái dạt dào thơ mộng

Nhặt nắng trời, phù sa cho cuộc sống

Đất nước là tình, người lính là thơ

Đêm chiến trường có nhiều phút riêng tư

Ngồi nghe thơ như ngồi bên Tổ quốc

Tiếng sóng thơ đẩy thuyền trăng bát ngát

Nằm nghiêng nhìn trăng chở tiếng thơ đi

3.11.1981

Đoàn Tuấn


MỘT NÉT LÀNG

Ở nơi ấy có một làng quê cổ

Cứ chiều chiều lững thững khói bay lên

Ở nơi ấy có một dòng sông nhỏ

Giữa đôi bờ thoai thoải êm êm

Tôi đã thấy em ra sông gánh nước

Bắp chân trần hắt lửa sáng dòng sông

Từng bậc cao dáng em nghiêng nghiêng bước

Vai nghiêng cùng đòn gánh cong cong

Đơn vị tôi qua đây dừng chân lại

Chỉ một đêm mắc võng trước sân nhà

Tôi đã yêu được người con gái

Uống hương đồng gió nội đẫm trong da

Thành kỷ niệm suốt những năm phiêu bạt

Nghĩ thương làng! Thương lắm gái thơ ơi!

Cỏ vẫn ướt đầm đìa trăng sáng

Lửa thời trai còn xấu hổ đến giờ...

Đoàn Tuấn


TIẾNG NGÀY MỚI BÌNH YÊN

Trên cây rơm có chú gà trống đỏ

Đôi cánh đập rạn trời vươn cổ gáy o... o...

Con gà mái hoa mơ lim dim ngủ

Dưới bóng vườn - ai cũng có bức tranh

Ở nơi người lính thức tàn canh

Ba trăm sáu nhăm ngày đều đặn

Mặt trời ngủ đẫy mắt

Sáng dậy với tiếng gà

Chiếc cầu vồng âm thanh ngân xa

Bắc qua năm nhịp đêm nối vào đầu bờ nắng

Mỗi ban mai kéo lá cờ ánh sáng

Kẻ thù nghe tức tối dập pháo bầy

Có lẽ nào tiếng đầu tiên trong ngày

Lại phải nhốt trong chiếc lồng chật hẹp?

Chúng tôi xa quê hương

Yêu quý lắm tiếng sinh sôi trên chốt

Ngày mới đến sẽ âm thầm tẻ nhạt

Nếu bình minh hôm ấy thiếu tiếng gà

Chỉ một khoảng lặng im giữa hai tiếng nổ

Đất căng ra trống trải chẳng dám nhìn

Buổi giao ban bàn giữ gìn che chở

Tín hiệu ngày - cột mốc của thời gian

Ngày qua ngày tiếng gáy vẫn âm vang

Bay vút lên dệt thành con sóng đỏ

Mặt trời ơi! Tiếng gọi người bừng lên rực rỡ

Không phải ở trên cây, từ chính những căn hầm

Lòng đất thâm trầm vùi ngọn lửa thân yêu

Như tiếng gọi đò ơi, như tiếng trống giục chèo

Từ những dây cung xanh chúng tôi bật ra thành hoa trên mặt đất

Để mắt ngay vào hướng tuần, hướng phục

Trong sân nhà gà bới đất bình yên...

Đoàn Tuấn


TỐI THỨ BẢY

Tối hôm nay là thứ Bảy rồi!...

Suốt ngày hầu như ai cũng nhắc

Trung đội trưởng cả ngày lo cắt gác

Gà lên chuồng

Lính ngồi vấn thuốc rê

Suốt cả tuần ngủ võng ướt sương khuya

Suốt cả tuần ăn muối hầm cơm vắt

Suốt cả tuần bàn chân bỏng rát

Tối thứ Bảy hôm nay đoàn du mục hạ lều

Chiếc đài như phong thư của người yêu

Cõng khối pin cồng kềnh chảy nước

Lính tráng ngồi quây quần trong căn hầm đại trưởng

Chuyện tiếu lâm hóp má rít thuốc lào

Đồng đội ơi đáng nhớ biết bao

Giữa những năm 80 mà chúng mình thèm nghe đài đến thế

Mai trở về quê hương, kẻ lên rừng xuống bể

Sẽ chẳng được cùng nhau chụm lại nghe đài!

Đoàn Tuấn


CHIẾC KHĂN RẰN KHƠ-ME

Bàn tay anh nâng trước ngực dải khăn

Anh đi bên bức phù điêu vũ nữ

Có phải mẹ Khơ-me nghèo khổ

Sinh Đê-vê-ta trên tấm thảm khăn rằn?

Mẹ bồng em trong chiếc nôi xanh

Chiếc nôi xanh ôm hình hài đất nước

Em lớn lên như mầm xanh thốt nốt

Võng khăn rằn ru giấc ngủ tuổi thơ

Em dệt vào khăn lộng lẫy tháp Ăng-ko

Hương rùm-đuôn và bóng xoài xanh mát

Dải khăn rằn trải tâm hồn đất nước

Như Biển Hồ đựng hành lý đời em

Em đi cấy mưa ướt dải khăn duyên

Bông hoa rừng đội trên đầu hé nở

Dải khăn rằn em vắt trên vai nhỏ

Như vầng mây trôi giữa mảnh trăng liềm

Dải khăn rằn nâng đôi cánh tay em

Như ngọn gió em quàng trong hội múa

Đêm răm-vông sẫm dần trên đồng lúa

Dải khăn rằn gieo chi chít sao đêm

Em đến tắm dòng sông soi bóng em

Soi điệu răm-vông soi bóng cây thốt-nốt

Em lấp lánh như dòng sông đầy nắng

Dải khăn rằn gợn sóng tấm thân em

Là khoảng trời xanh nỗi nhớ trái tim

Mái tóc mầu đêm dệt niềm chung thủy

Là bàn tay băng vết thương chiến sĩ

Là mùa màng gieo xanh lại quê hương

Khăn phập phồng mái tăng ở biên cương

Làn khói lam suy tư nơi đầu võng

Khăn mẹ đội cứ mỗi ngày thêm rộng

Hương tóc em thơm ngát dải khăn rằn

Cô gái nào cũng quàng dải sông Ngân

Bức chân dung trên quê hương Chùa Tháp

Trong mưa rét khăn gợi niềm ấm áp

Là tâm tình cô gái Khơ-me

Đoàn Tuấn


KHÚC DÂN CA TRÊN ĐIỂM TỰA

(Tặng vũ nữ Fôn-keo Khám-khiên, người biểu diễn khúc dân ca Khơ-me “Hoa đu đủ”)

Anh trồng trên điểm tựa khúc dân ca

Của quê em, ơi quê hương tình nguyện

Điểm tựa như chùm đảo xa nước hiếm

Khúc dân ca như con suối đầu nguồn

Thật lạ lùng sau đêm múa răm-thôn

Khúc dân ca như một người con gái

Hồn nhiên đến rồi dịu dàng ở lại

Thành quả chuông thánh thót giữa lòng người

Câu hát dắt anh về phum sóc em ơi

“Pờca-lơhông” (1) nở ngay đầu lối mát

Có em về rung rinh trong câu hát

Vòm lá xanh chao tiếng hát dập dìu

Anh cắt rừng đi từ sáng đến chiều

Lấy lục bình về phủ xung quanh gốc

Hoa đu đủ nở dịu hiền ánh mắt

Con bướm vàng thơ thẩn nỗi bâng quơ

Nắng nơi nào như rừng khộp mùa khô

Con ve sầu bỏ sang rừng xanh hát

Trái đu đủ đeo suốt mùa cơn khát

Chụm mái đầu uống dòng sữa dân ca

Pháo giặc băm loang lổ góc vườn nhà

Tổ dế mèn đất vẫn hồng mỗi sáng

Câu hát vẫn xòe ô xanh vươn thẳng

Đón mặt trời gần lại mỗi bình minh

Câu hát hình tròn em đi vòng quanh

Câu xanh biếc lăn tăn trong ánh mắt

Đồng đội anh buộc võng vào câu hát

Nên thân cây in dấu nghĩa dấu tình

Em đi rồi bóng mát tỏa lòng anh

Đêm tán lá thầm thì tay em múa

Nghe vọng lại như nỗi niềm ngọn lửa

Mà chim từ quy khắc khoải hai đầu

Đồng đội anh tìm thấy phép nhiệm màu

Trong bình dị khúc dân ca tình nguyện

Cứ nhìn vào cây đu đủ mà viết

Có bao điều xanh thắm lá thư xanh...

1982

-----

(1) Tiếng Khơ me: hoa đu đủ

Đoàn Tuấn


MIẾNG TRẦU PHUM CHOĂMSRE

Chiều mắc võng vào cây vỏ chay

Con chợt nhớ miếng trầu của mẹ

Mẹ ơi, Choămsre đẹp thế

Mà miếng trầu day dứt lòng con

Dây trầu không vườn mẹ xanh rờn

Bóng cau lẫn bóng hàng thốt-nốt

Khúc vỏ chay quánh khô mẹ gọt

Bàn tay gầy run run

Cả phum không một mẩu vôi non

Mẹ cặm cụi mò trai dưới suối

Lửa mẹ đốt vỏ trai hồng đêm tối

Để sáng mai có vôi trắng ăn trầu...

Ôi ước chi có được phép nhiệm màu

Con sẽ mời mẹ ăn miếng trầu cô Tấm

Con sẽ hóa thành hòn đá trắng

Mọc bên suối trong cho trầu mẹ đầm nồng

Cây vỏ chay đứng trầm ngâm trong rừng

Giấu dưới đất ngọn lửa hồng âm ỉ

Và tán lá ken dày ý nghĩ

Đêm trăng này mẹ đốt vỏ trai không?

Con mới đi chưa hết một cánh rừng

Mới giúp mẹ trồng được mùa lúa chín

Những đỉnh núi mây mù con sẽ đến

Để mẹ ăn trầu với hoa trắng quê huơng (1)

-----

(1)    Ở Campuchia nhân dân rất quý vôi. Khi xin vôi ăn trầu, họ gọi vôi là hoa trắng.

Đoàn Tuấn


HẾT NƯỚC CẤM NHÌN

Thùng phuy nước ở chốt ngã ba

Ai đã viết dòng chữ than to tướng

HẾT NƯỚC CẤM NHÌN

Bởi ngày đêm

Ai qua đây cũng ghé tìm ngụm nước

Tranh thủ lấy chiếc khăn nhúng ướt

Thậm chí còn đóng đầy bi-đông

Mà quanh đây chẳng tìm đâu ra suối ra sông

Khiến lắm phen nước nấu cơm không có

Nhiều khi bắn được con thú

Không có nước mà làm

Được đi tắm là một nỗi hân hoan

Dù phải hành quân cắt rừng mười cây số

Và áo quần phải giặt giùm chục bộ

Mỗi lần được cấp nước

Í ới gọi nhau vui không giấu được

Đựng đầy xoong đầy bát đầy ca

HẾT NƯỚC CẤM NHÌN - dòng chữ đọc qua

Khách cứ nghĩ cậu nào đùa tinh nghịch

Khoác cả ba lô xăm xăm bước đến

Chỉ thấy nóng ran tiếng gió xát đáy thùng

Đứng lặng một mình

Bỗng từ trong hầm bật ra chuỗi cười trêu tức

Khách cũng bật cười

Cơn khát bỗng nguôi quên

HẾT NƯỚC CẤM NHÌN

Dòng chữ vẫn y nguyên

Đoàn Tuấn


DẢI ĐỒNG BẰNG THƯƠNG NHỚ

Những cái huyệt tôi đào trong rừng sâu

Giờ hóa thành dòng sông yên ả

Những nấm mộ đắp đêm mưa tầm tã

Thành triền núi cao không lên được bao giờ

Nơi đồng đội căng tăng và mắc võng

Thành những làng quê xa phủ sương mờ

Ơi chiến trường xưa

Đã trở thành miền quê thiêng thanh khiết

Trời và đất

Núi và sông

Xanh mênh mang bất diệt

Bao nặng nhọc máu xương để xanh thẳm dịu dàng

Tôi sẽ về, sẽ về lại mùa xuân

Dải đồng bằng suốt đời tôi thương nhớ

Đoàn Tuấn


GIẤC NGỦ

Chỉ còn ba mươi cây số nữa thôi

Về đến phum Giềng tha hồ mà ngủ

Mười lăm ngày truy quét

Mắt thâm quầng như vũng suối mùa khô

Chúng tôi ngồi trên bờ hút lá hà thủ ô

Vừa kể chuyện vừa mơ về giấc ngủ

Những năm tháng cầm tinh con ngựa

Không cần ngủ lâu

Chỉ cần ngủ sâu

Mình tặng cho mình

Ta tặng cho nhau

Giấc ngủ

Cốc rượu thơm cao quý trong ngày

Không đủ ngón tay

Để mà đếm bao nhiêu kiểu ngủ

Sốt rét nằm co

Ngủ hầm lưng đau nhức

Có giấc ngủ lưng chừng đỉnh dốc

Chân quặp vào hòn đá khỏi lăn

Ngủ cho quần áo khô

Ngủ cho qua cơn đói

Giấc ngủ chông chênh đứt rồi lại nối

Mắt suối mắt đèo trũng xuống đêm đêm...

Nhìn đồng đội nằm thêm yêu thêm thương

Người còn đeo ba lô, người còn mang dây lưng có bi đông, lựu đạn

Sau bao ngày căng thẳng

Lúc đi nằm dáng ngủ cũng cong queo

Ăn cơm khô

Đi đường tắt

Tắm tranh thủ

Ngủ khẩn trương

Hình như trong giấc ngủ chập chờn

Đồng đội tôi có điều gì thảng thốt

Bạn vào gọi tôi ra thay phiên gác

Chân nhẹ như sương thấm xuống lá rừng

Tôi khoác súng vin cành lần bước

Giữa vòm trời xanh ngát ngọn sao Mai...

1981

Đoàn Tuấn


BÀI THƠ KHÔNG VIẾT NHÁP

Bạn ơi có nghe chăng

Bài ca biển xanh hát

Lời ca như ánh sáng

Người lính là bài thơ

Nếu chúng tôi là thơ

Bài thơ không viết nháp

Câu chữ còn thô ráp

Hồn nhiên bước vào đời

Một ngôi sao sáng tươi

Bao niềm thương mến gọi

Một địa chỉ xa xôi

Gợi lên đầy rắn rỏi

Câu thơ từ lửa khói

Không đăng báo bao giờ

Lính viết và lính đọc

Chói ngời qua nắng mưa

Chỉ có thiếu và thừa

Không bao giờ lính đủ

Chiếc ba lô càng cũ

Càng chẳng có gì riêng

Yêu thương nào hồn nhiên

Bằng lá thư tọa độ

Cơn mưa nào cồn lên

Thoảng nhanh bằng nỗi nhớ

Một chiếc khăn mặt nhỏ

Nấu được nồi cơm ngon

Một con dao ngọn lửa

Đi khắp cùng núi non

Bữa ăn quây vòng tròn

Quanh mâm xanh thảm cỏ

Lá cành làm bát đũa

Khúc khích cười khen ngon

Vụng về trước làn hương

Thích được chiều được trách

Tỏ tình đến dễ thương

Toàn giọng con nhà lính

Đêm cánh rừng trầm tĩnh

Nhớ dòng sông bình yên

Đêm bạn mình ngã xuống

Đêm gọi mặt trời lên

Giặc trước mặt chúng tôi

Sau lưng là hạnh phúc

Sống chết từng khoảnh khắc

Mắt mẹ nhìn thiêng liêng

Qua vùng rừng mưa đêm

Qua ngàn ngày nắng gió

Nâng bước chân ánh lửa

Đi về phía Ngày Mai

Đoàn Tuấn


TÌM BẠN

Chiến dịch kết thúc rồi tôi quay về biên giới

Tìm xác bạn bè trên chốt cũ yêu thương

Hơn hai mươi con người, một trung đội tăng cường, hơn hai mươi tay súng

Sống lại cùng tôi những bạn đường

Không thể tìm ra đầy đủ một bộ xương

Đất cháy đen xỉ than

Xương cánh tay lẫn cành khô rơi vãi

Tấm bản đồ không mang lại một điều gì mới

Vệt máu động rỉ ra nhức nhối mắt nhìn

Từng khoảng thời gian, từng trận đánh, từng người một, cứ nhớ thế mà tìm

Đồi 328, chốt X.B... chỗ nào cũng gặp bạn bè đang sống

Vẫn nói cười, vẫn thổi mắt cho nhau, ôm súng xông lên và những loạt Đ.K dập xuống

Bạn bè tôi hóa trăm mảnh sao trời...

Lòng tôi đau một nỗi khổ không nguôi

Đâu cũng gặp mà tìm không thấy

Đêm ngủ trong những căn hầm còn lại

Nham nhở những mảnh trăng hình phễu hứng sương trời...

Hơn hai mươi chiếc túi mang theo dồn một túi không đầy

Chiếc gùi nhẹ trên vai bao cuộc đời sông núi

Đồng đội tôi nằm đây chưa thể nào ngủ nổi

Những mảnh pháo mảnh mìn đau cấn lắm dưới lưng

Cây cháy vẫn đen thui, chim chưa trở lại rừng

Đi tìm suốt mấy ngày bỗng sáng nay gặp một bông hoa dại

Ánh mặt trời đọng sáng những hạt sương

Những người nằm xuống rồi đều có chung một gương mặt tươi sáng lạ thường

Tôi bỗng dốc bi đông tưới cho bông hoa nhỏ

Bông hoa nhìn theo mỗi bước tôi đi...

1979-1985

Đoàn Tuấn


NGÀY TÔI RỜI MẶT TRẬN

Tôi nhập ngũ ngày Hăm mốt tháng Tám

Nhưng không bao giờ quên ngày từ giã chiến trường

Ngày tôi rời mặt trận

Tôi - thượng sĩ Đoàn Tuấn

Cao một mét sáu mươi nặng bốn mươi lăm ký

Trong người mang vi trùng sốt rét

Mấy vết thương không cần giám định

Ngày tôi rời mặt trận

Bạn bè đứng tiễn rất đông

Nhưng tôi không dám nói lời từ biệt

Trên đường về nước

Có thể hy sinh như đứa bạn gần nhà

Ngày tôi rời mặt trận

Mang theo hình ảnh anh Nguyễn Mạnh Hùng

(Người thẩm tra lý lịch tôi vào Đảng)

Anh hy sinh. Bị bọn địch chặt đầu

Trong trí nhớ tôi vệt lưỡi mai còn cắm

Đọng máu đầy khô đen

Ngày tôi rời mặt trận

Mang theo hình ảnh Lê Thanh Vinh, đứa bạn cùng trường

Hôm ấy tôi được phân công đi đầu dẫn tiểu đoàn gùi gạo

Trên con đường mìn nhiều. Chắc chắn sẽ hy sinh!

Và đêm. Vinh khoác súng sang hầm tôi, lặng im rồi nói:

“Để mai tao đi đầu. Tao chết đỡ phí hơn vì mày có người yêu ở nhà đang đợi!”

Ngày tôi rời mặt trận

Bâng khuâng đi qua Kầm-prạ, phum Giềng

Choăm Ka-an, Ku-len, An-lung-viêng, Đăng-rếch...

Những địa danh không còn nghe trúc trắc

Bao thân thương máu thịt một thời

Ngày tôi rời mặt trận

Đưa thi hài đồng đội trở về

Chiếc GMC phóng như bay qua rừng cây báng súng

Đến biên giới trời vừa tối

Không nghỉ lại dù đói

Chúng tôi lao ngay về Đức Lập

Đêm cao nguyên mưa xối

Người gác nghĩa trang hẹn mai sáng sẽ làm

Cả đêm ấy chúng tôi không thấy mệt

Khiêng quan tài xếp ngoài cổng nghĩa trang

Ngày tôi rời mặt trận

Về Diêu Trì truy lĩnh 5 năm phụ cấp

Một tạ gạo ăn trong sáu tháng kiếm việc làm

Bán luôn cho thủ kho lấy tiền tiêu vặt

Biếu mẹ làm quà hai mét vải phin!

Ngày tôi rời mặt trận

Không dám một mình đến nhà những người bạn hy sinh

Cảm thấy mình như người có lỗi

Tôi sợ nhìn nước mắt mẹ bạn tôi

Ngày tôi rời mặt trận

Gian khổ tạc cho tôi gương mặt người lính

Những trận đánh rèn cho tôi đôi mắt mở to, cái nhìn điềm tĩnh

Và thời gian tặng cho tôi bản lĩnh...

Ngày tôi rời mặt trận

Vừa đặt chân về đến Hà Nội

Dốc hết tiền

Mua một chiếc đồng hồ đeo tay...

1984

Đoàn Tuấn


 

KÍNH GỬI SƯ ĐOÀN 307

Sư đoàn tôi đã trở về Tổ quốc

Giữa Matxcơva tôi xúc động nhìn

Trên màn hình đồng đội tôi đang bước

Tôi trở về ngược lại cánh rừng Miên

Sư đoàn tôi đã trở về Tổ quốc!

Nhưng không đủ đâu, không đủ cả Sư đoàn!

Còn lại bao nấm mồ, hài cốt

Đồng đội tôi giá lạnh giữa rừng hoang?

Ôi tôi nhớ mùa mưa năm 81

Dân “lùn” dặn tôi duy nhất một điều:

“Nếu mình chết, đồng hương nhớ chôn mình đầu quay về Tổ quốc!”

Tôi cũng thầm dặn lại bấy nhiêu

Tôi đã chôn bao nhiêu đồng đội

Đã bốc mồ tận nghĩa địa An-lung

Quần nát rừng tìm xác trên biên giới

Nhìn Sư đoàn về nước rưng rưng

Tôi đã về hậu phương báo tử

Bao bà mẹ hỏi tôi: Xác con mẹ nơi nào?

Tôi trao mẹ vài di vật cũ

Còn sống trở về tôi có lỗi biết bao!

Sự đoàn tôi đã trở về Tổ quốc!

Đồng đội tôi khôngcó việc gì làm

Đi tay trắng trở về hoàn tay trắng

Huân chương nào trao được trước xe lam?

Sự đoàn tôi đã trở về Tổ quốc!

Nhưng muôn năm vẫn đóng ở núi rừng

Tôi như thả hồn mình về nước

Cùng sư đoàn bình yên một giấc chung

Đoàn Tuấn


 

TRỜI SAO

Những ngôi sao chi chít giữa bầu trời

Tôi căng mắt nhìn. Làm sao đếm hết?

Như trong tôi dày đặc bao kỷ niệm

Nhũng chuyện vui buồn năm tháng chiến tranh

Trong ngàn vạn người lính sư đoàn

Mấy ai trở về sống bằng nghề viết?

Chỉ chuyện mình thôi, làm sao kể xiết

Còn nói chi đến tiểu đội, trung đoàn?

Sáu năm lính của tôi - khoảng rất nhỏ thời gian

Nếu so với bao người trong đơn vị

Sao so với dân tộc tôi bền bỉ

Suốt thế kỷ qua kháng chiến trường kỳ

Cả dảy Ngân hà lộng lẫy trên kia

Có sáng đẹp bằng sử thi đất nước?

Có nhiều bằng những điều chưa kể được

Của những người đã sống, đã hy sinh?

Và trời sao mãi mãi lung linh

Vẻ đẹp ấy có thể nào nắm bắt

Ta tuyệt vọng nhìn sao hay khao khát

Trước từng trang giấy trắng đợi hằng ngày?

Đoàn Tuấn


 

KỶ NIỆM NGÀY NHẬP  NGŨ

Đồng đội ơi! Kỷ niệm ngày nhập ngủ

Gặp nhau sau bao năm tháng thăng trầm

Xin ôm chặt cựu binh chiến hữu

Từ núi rừng phi xuống, đất biển lên...

Giờ tất cả đầu đã hai thứ tóc

Mà tưởng như ngày ấy tuổi thanh xuân

Đói khát, ốm đau, pháo, mìm, chết chóc

Lũ chúng ta thành kỷ niệm tuyệt trần

Nào uống cạn! Trong lung linh ánh mắt

Giữa chúng ta hiển hiện những bóng hình

Những cánh rừng, những mùa khô, phum sóc

Cả mối tình tuyệt vọng dọc trường chinh

Nào uống cạn! Giữa chuỗi cười hạnh phúc

Mắt bỗng cay bao đồng đội không về

Những bàn chân, những cánh tay bị mất

Trọn đời ta còn giữ mãi lời thề

Nào uống cạn! Uống thay ngày xuất ngủ

Mừng chúng ta còn nguyên vẹn thân hình

Sau ta, sau ta mong đừng ai nữa

Biết thế nào là một cuộc chiến tranh

Đoàn Tuấn



Thơ

Lê Minh Quốc

(Đoàn Tuấn giới thiệu)

TRÊN NHỮNG NẺO ĐƯỜNG CHIẾN TRANH

Tôi nhớ mãi một buổi chiều trung tuần tháng 12 năm 1978. Tôi đang nằm trong một căn hầm giữa rừng lồ ô trên biên giới Việt Nam - Campuchia thì nghe ngoài cửa hầm có tiếng nói chuyện giữa Lê Quỳnh Lang, trung đội trưởng thông tin của tôi với một người nữa. Người này có giọng to và sảng, dứt khoát. Anh đòi mượn tập thơ Việt Nam mà tôi mang vào chiến trường. Lang dùng dằng, nói là của người khác. Nhưng anh ta cứ đòi, cứ giằng lấy. Cuối cùng, Lang phải gọi tôi ra. Tôi chui lên. Trước mặt tôi là một chàng thanh niên không có vẻ gì là lính nhưng mặc quần áo lính rất xịn, vai vắt chiếc khăn mặt xanh. Anh để tóc dài. Gương mặt vuông vắn, trắng trẻo, đẹp trai. Tôi chưa kịp nói gì, anh ta đã bắn liên thanh phủ đầu:

- Ông cho tôi mượn tập sách này nghe. Tôi hứa là sẽ giữ cho ông thiệt cẩn thận. Thôi, tôi về nghe!

Tôi chưa kịp nói gì, đành nở nụ cười nhũn nhặn. Tôi đang mệt mỏi, vừa trải qua trận sốt rét kinh người. Cứ đúng 5 giờ chiều lại gây gây lên cơn. Được thôi. Tập thơ ấy, tôi đã đọc. Và ở chiến trường có một người cướp thơ như thế, còn gì quý hơn. Tôi nhìn theo dáng đi kềnh càng như giữa chốn không người của anh ta. Anh đi băng băng về đơn vị như con hổ vừa vồ được chú thỏ non. Tôi hỏi Lang:

-Ai đấy?

-À, đó là Quốc. Lê Minh Quốc, quản lý đại đội 7.

Dạo đó đơn vị tôi, tiểu đoàn 8, trung đoàn 29, sư đoàn 307 đang phải đánh nhau với Pôl Pốt dọc biên giới Việt Nam - Campuchia thuộc địa phận tỉnh Gia Lai - Công Tum. Các đại đội vào chốt thay nhau, lại phải rải quân dài mấy chục kilômét nên lính tráng, tuy cùng đơn vị, nhưng ít gặp nhau. Trong mắt tôi, người quản lý đại đội là người cân đo đong đếm từng hạt gạo hạt muối cho 50 người mỗi ngày - mà yêu thơ thì quả là lạ. Nhưng về sau, tôi nghe Trần Đào Hiền Nhân, đồng hương tôi ở đại đội 7 khoe rằng, ở đó, lính ăn khá nhất vì Quốc cho ăn thả cửa! Thảo nào sau này, khoảng năm 1981, Quốc mất chức quản lý, trở thành lính chiến đấu trực tiếp.

Ít lâu sau, tôi tình cờ gặp lại Quốc trên đường chiến dịch, ở tỉnh Công Pông Thom. Quốc nhìn tôi, cười nhận lỗi:

- Tập sách của ông, tôi cố gắng giữ nhưng nhiều thằng đòi đọc quá. Mỗi thằng xé trộm một bài. Giờ nằm rải rác khắp nơi. Tôi rất cố gắng nhưng vẫn không thể nào lượm lại được.

Giọng Quảng Nam của Quốc cùng cách nói phân bua bằng tay một cách trung thực khiến tôi tin ngay. Tôi mỉm cười. Thậm chí thấy vui vì nghĩ đến hình ảnh tập thơ được xé lẻ, mỗi người giữ một vài bài. Chi tiết này có thể viết được một câu chuyện hay.

Tôi là lính thông tin tiểu đoàn. Được trực ở Tiểu đoàn bộ trong chiến dịch giải phóng Campuchia. Nhẽ ra, cả tiểu đoàn tôi đã hy sinh khi đánh đồi 328, điểm cao X.B, vào ngày 23.12.1978 rồi. Bởi sau này, tôi được một thằng bạn ở Sư đoàn tiết lộ rằng, Sư đoàn quyết định “tung” tiểu đoàn tôi để đột phá cửa mở chiến dịch, nếu gặp địch kháng cự mạnh! Nhưng sáng sớm ngày 23.12, mới bắn pháo và đại bác lên đồi 328 và X.B, chừng hơn 1.000 quả, địch đã rút. Đơn vị tôi chiếm được quả đồi khi trời còn chưa tan sương. Nếu không may, tôi và Quốc cùng hàng ngàn đồng đội đã thành đất ở đó ngay từ những ngày mới quen nhau. Nghĩ lại, vừa mỉm cười, vừa rùng mình.

Sau đó tôi được cử đi phối thuộc với các đơn vị khác. Đến tháng 5.1979, tôi mới được phân công đi theo C7, tức đơn vị Quốc. Dạo đó, đơn vị Quốc nhận nhiệm vụ đón 5 vạn dân tị nạn từ Thái Lan trở về. Đại đội có chừng 40 người nhưng phải rải ra trên quãng đường dài 60 kilômét. Tôi đặt máy thông tin Silic-71 của Trung Quốc trong trường học cũ, dưới mái nhà tôn. Đối diện bên kia, qua sân rộng, là nhà của y tá Nguyễn Quốc Vương, mấy anh nuôi và quản lý Quốc. Được gần nhau, chúng tôi toàn nói chuyện văn chương. Lúc ấy coi như hai đứa từ hai nền văn hóa, hai nền giáo dục khác nhau, kẻ Bắc người Nam, giờ cùng là lính, chuyện trò thật hấp dẫn. Tôi kinh ngạc vì Quốc đọc nhiều, thuộc nhiều và làm rất nhiều thơ.

Dạo đón dân tÿ nạn, tôi và Quốc cũng như nhiều anh em C7 được dân tÿ nạn, hầu như là người Hoa tất, cho rất nhiều vàng, bạc, kim cương nhưng hầu như không ai dám lấy. Buổi chiều mùa mưa, tôi chỉ căng giúp một người phụ nữ có con nhỏ tấm vải mưa thành cái lều thôi, chị ta cũng cho tôi cả một cái hộp có 12 hạt xoàn, nhưng tôi vội từ chối ngay. Chị lại mời uống cà phê với lạc, tôi cũng không dám. Nhớ một buổi trưa, tôi ngồi chỗ Quốc, có cả y tá Vương, người Tam Kỳ, nói chuyện tào lao. Bỗng ngoài cửa, xuất hiện ông già Khơme trong đoàn tÿ nạn. Ông vừa thấy chúng tôi, vội quỳ ngay xuống đất ướt, vái lấy vái để “xin bộ đội Việt Nam đôi giày”. Tôi nhìn bàn chân phồng rộp, rướm máu của ông mà lạnh người. Thật khó cho chúng tôi vì chúng tôi cũng rất thiếu thốn. Ăn cơm độn ngô, đi giày thủng. Quốc mò vào chỗ để gạo, tìm được đôi giày rách nhưng khô ráo, mang cho ông già. Quá cảm động, ông già lấy từ trong túi ra một nắm những thỏi vàng cho chúng tôi. Nhưng chúng tôi vừa xua tay vừa nói bằng tiếng Khơme: “Không lấy đâu”. Ông lại hỏi chúng tôi bằng tiếng Việt, xin ít muối. Quốc xúc cho ông một muôi. Sợ chúng tôi nghĩ lấy vàng là độc, ông già lại cho chúng tôi nắm bạc. Nhưng chúng tôi kiên quyết không lấy một thứ gì. Chúng tôi thừa hiểu giá trị của vàng bạc nhưng không lấy. Tôi chỉ nghĩ đơn giản một điều: lúc đi lính, mình không có vàng. Nhớ mình lấy, đêm chết, đơn vị kiểm tra di vật tử sĩ, thấy có vàng trong ba lô, không những mình không ra cái gì mà gia đình mình ở phía sau cũng không được anh em tôn trọng. Những ngày đó, tôi và Quốc cùng Nhân “mù” và An “bột” thường lội qua suối, sang phum bên, đến chơi nhà “bà má Hậu Giang” - một bà má Việt kiều, nhờ vá áo và mò vào các vườn nhà dân bỏ trống, hái trộm xoài ăn. Vậy thôi. Còn rất nhiều chuyện không tham vàng của Quốc mà tôi không biết. Chỉ biết sau này Quốc được đơn vị đề nghị Trung đoàn thưởng Giấy khen vì thành tích “không tham của lạ, giữ vững danh hiệu Anh bộ đội Cụ Hồ”.

Đầu năm 1980, tôi phải chia tay đơn vị Quốc. Tôi được cử đi với đại đội 5, lên đóng quân ở phum Kầmprạ, một phum heo hút nhất của tỉnh Prếch-vihia nằm tít tận biên giới Campuchia - Thái Lan. Ở đó tôi đã sống những ngày rất vui nhưng cũng đầy đạn, đầy mìn, đầy thương vong, hy sinh của anh em trong đơn vị.

Đến đầu mùa mưa năm 1981, khoảng tháng 6, cả Tiểu đoàn tôi được lệnh chuyển lên khu vực An-lung-viêng để chặn đường vận chuyển lương thực, đạn dược từ Thái Lan về của địch. Thời gian này Quốc thôi chức quản lý, phải làm lính trơn. Vì nghe đâu, được giao chức tiểu đội trưởng, Quốc không nhận. Những ngày đó thật ác liệt. Ngày nào cũng đánh nhau. Hết bị địch phục lại bị địch tập kích. Đi gùi gạo, gùi đạn thì vấp mìn. Ngày nào cũng có người bị thương hoặc hy sinh, không của đơn vị tôi thì của đơn vị khác chuyển đến. Tôi nhớ mấy cái sạp làm tạm ở bìa rừng dành cho thương binh, tử sĩ, lúc nào cũng đầy máu. Vừa khiêng người này đi, chưa kịp lau máu đọng trên sạp thì đã phải đặt người khác vào. Tranh thủ lúc rỗi, chiều nào tôi cũng bẻ mấy cành tre xuống xua ruồi, đuổi muỗi cho anh em bị thương nằm la liệt không cử động được. Chính dạo ác liệt đó, tôi được chuyển từ thông tin lên thay anh Nguyễn Văn Cúc, người Nghĩa Bình, làm trợ lý chính trị Tiểu đoàn. Anh Cúc về làm phó Đại đội trưởng C6. Quân số hy sinh quá nhiều. Lúc đầu còn có máy bay lên thẳng HU-IA đến chở đi hoặc chuyển lên Sư đoàn bằng cách khiêng bộ. Sau máy bay không có nữa. Khiêng bộ thì tốn kém. Hai trung đội dải đường dài 16 kilômét từ đơn vị đến phum Camtuất, cộng một tiểu đội dẫn đường, lại thêm mấy người thay nhau khiêng một ca. Mà vẫn bị phục, vẫn bị mìn clâymo quạt. Thêm bao nhiêu người hy sinh. Người chết rồi bị chết thêm lần nữa. Cuối cùng Sư đoàn quyết định làm một nghĩa trang ở ngay giữa Tiểu đoàn tôi. Cử thêm một trung đội vận tải xuống chuyên cưa cây, xẻ gỗ, đóng quan tài. Nghĩa trang được làm nằm giữa Tiểu đoàn bộ và đơn vị Quốc. Tôi biết Quốc phải đi tuần, đi phục liên tục. Rất dễ hy sinh. Mà tôi được tiểu đoàn giao nhiệm vụ giữ di vật tử sĩ và tổ chức chôn liệt sĩ cho chu đáo. Chính trị viên Nguyên Văn Vẳng giao nhiệm vụ cụ thể cho tôi: “Chôn vì người sống chứ không chỉ vì người chết. Làm sao để anh em đang sống, nhìn vào, biết được rằng, khi họ hy sinh, cũng được đối đãi tử tế như thế!”

Tôi hiểu. Và làm hết sức mình. Đun nước. Nhặt thịt xương. Rửa ráy. Chắp lại. Xếp cho đủ các bộ phận cơ thể. Mặc quần áo. Quấn vải liệm. Gác đêm, canh thú rừng khỏi mò đến ăn xác. Đào huyệt. Tổ chức đội vệ binh đứng bên bờ huyệt. Đọc lời điếu và bắn súng tiễn biệt đàng hoàng. Sau đó mới chôn. Hết sức “oách” theo kiểu nhà binh.

Tôi cũng chôn cất nhiều người của đơn vị Quốc. Một buổi chiều, đi gùi đạn, về qua đơn vị Quốc, tôi thấy một căn hầm lạnh tanh, mốc, trống trơn. Tôi thoáng rùng mình. Anh em trong hầm đã hy sinh cả. Tôi không thể nghĩ đến số phận Quốc thế nào. Thỉnh thoảng, anh Lâm Xuân Liễm, trợ lý tác chiến tiểu đoàn, lại rủ tôi sang chỗ Quốc uống rượu. Đi uống rượu nào có an toàn. Khoác AK, đội mũ cối, mặc trời mưa, phải bò qua hai vọng gác, bò qua nghĩa trang. Khi qua đó, tôi thấy anh Liễm lại lầm rầm khấn anh em phù hộ cho mình được sống. Tôi cũng thầm khấn theo.

Chính những ngày ác liệt đó, tôi biết Quốc làm thơ, ghi nhật ký nhiều. Tôi nhớ một lần Quốc vừa cười vừa khoe đơn vị Quốc chuẩn bị làm báo tường và Quốc đóng góp một bài thơ có tên là “Tường Vi”. Những bài thơ của Quốc ở An-lung-viêng rất lãng mạn, mơ về cuộc sống thanh bình, có những buổi chiều vàng, có người chị hát ru, có bóng dáng người con gái dịu hiền. Nhưng bao trùm lên là những dòng nhật ký, ký sự nóng hổi về cuộc sống gian lao, về cuộc chiến kinh hoàng, về những đồng đội thân yêu đột ngột hy sinh một cách không thể tưởng tượng nổi chỉ vì mìn. Và đến lượt Lê Minh Quốc, cái chết không buông tha. Một sáng đi tuần, chàng trai của thành phố Đà Nẵng đi đầu, vấp ngay phải quả mìn của địch. Nghe “tạch” một cái, mọi người chưa kịp nằm xuống thì quả mìn đã nảy ngang người Quốc. Nhưng nó không nổ mà rơi bịch xuống đất. Sau phút hoảng hồn, mọi người nhặt quả mìn lên. Thì ra quả mìn đó bị tra kíp ngược. Mặt Quốc tái xanh, được phen cận kề cái chết, nếm cảm giác bất ngờ sang thế giới bên kia. Trưa đó, Nhân “mù” khoác súng sang chỗ tôi, vừa cười vừa nói:

- Mẹ kiếp! Hôm nay thằng Quốc suýt toi! Chắc thằng ôn dịch là lính mới nên mới tra kíp ngược!

Ngừng một lát, Nhân mù nói tiếp:

- Số thằng Quốc vẫn may! Nó chết đi thì tiếc thật!

Phải nói thật lòng rằng, lính Hà Nội chúng tôi ai cũng quý mến và chơi thân với Quốc. Trong Quốc có một cái gì ngang tàng, phóng túng, rất thành phố. Tôi sang thăm Quốc. Buổi trưa. Quốc ngồi một mình trên thân cây đổ đã cháy đen ngọn. Quốc nở nụ cười hiền lành. Nụ cười sau cái chết. Tôi không quên.

May cho tôi, không phải chôn một trong những người đồng đội thân yêu nhất trong quãng đời làm lính của mình!

Mùa khô năm sau, nhiệm vụ hoàn thành, tiểu đoàn chúng tôi được rút về phum Giềng để củng cố. Tôi và Quốc cùng một số bạn thân thường mang quần áo lính vào phum đổi gà, chó về bồi dưỡng sức khỏe. Tối đến lại mò sang chỗ hạ sĩ Huy Lụa, người Nghĩa Bình, bí mật nghe Khánh Ly hát từ hải ngoại. Đêm đến, tôi và Quốc thường thức làm thơ. Những bài thơ không đăng ở đâu, âm thầm viết. Âm thầm đọc cho nhau nghe. Sợ anh em biết được, kêu là dở hơi. Cán bộ biết được sẽ phê bình là tư tưởng yếu hèn.

Sang cuối năm 1982, tôi được chuyển lên Trung đoàn. Quốc vẫn ở đại đội 7. Tôi nhớ mãi một câu chuyện cảm động. Mỗi lần Quốc về Trung đoàn gùi gạo - đường dài 15 cây số - Quốc thường ghé vào tôi. Gặp nhau mấy phút buổi trưa, không kịp mời nhau bát nước thì chỉ huy đơn vị Quốc đã giục về. Có lần Quốc nhét vào tay tôi lá thư rồi đi luôn. Tôi nhìn theo dáng Quốc đầm đìa mồ hôi, còng lưng gùi ba lô gạo nặng chịch. Tôi về hầm, mở thư ra. Những dòng thư thật thương cảm:

“Tuấn ơi, mai lên E gùi gạo. Biết gặp nhau chẳng được lâu, chẳng nói được chuyện gì, Quốc viết thư nầy trước để Tuấn đọc...”. Những dòng thư ấy đã thấm vào máu thịt tôi. Thư toàn nói chuyện văn chương, về mơ ước về một cuộc sống bình yên. Thư Quốc viết hay, rất ấn tượng. Tôi rất muốn viết một cái gì đó về kỷ niệm này mà chưa thể hiện bằng cách nào được. Lại nhớ một lần Quốc viết cho tôi: Người ta có một tình yêu đẹp nhưng không biết cách kể, tình yêu ấy sẽ không đẹp nữa.

Rồi Trung đoàn được bổ sung lính mới. Quốc được ra quân. Những đêm cuối cùng ở Trung đoàn làm giấy tờ ra quân, Quốc cho tôi xem hai quyển sổ thơ của mình. Tôi thực sự bàng hoàng trước những bài thơ - nhật ký trận mạc rất hay của Quốc. Quốc dặn tôi đưa lại trước 10 giờ đêm vì Quốc phải về nơi tập trung nghe phổ biến kế hoạch hành quân về nước thế nào. Tôi kiếm dầu cà-boong cắm đầu đọc một mạch. Thực sự phục tài năng của Quốc. Nhưng tiếc thay, một sự tiếc nuối ngang với việc chết người. Sau này tôi hỏi Quốc: “Sao không lấy thơ chiến trường ra in?” Quốc buồn bã trả lời: “Mất mẹ nó rồi...” Thì ra, đêm ấy nghỉ ở C19 vận tải, lính tráng thiếu giấy hút thuốc rê, đã lục ba lô Quốc ăn trộm, xé hết sổ. Quốc sang chỗ Lai - thông tin, nhậu. Về ngủ luôn. Sáng dậy, sờ đến ba lô, thấy mất nhiều thứ. Đành tự an ủi mình có niềm vui sắp được trở về quê hương.

Tôi cảm thấy như mình bị trọng thương.

Đến bây giờ viết những dòng này, tôi vẫn còn ngao ngán, mệt mỏi. Phải chi những cuốn sổ đó còn đến bây giờ?

Tôi nhớ những câu thơ của Quốc:

Chiều cuối năm ngồi một mình

Xôn xao trời đất gập ghềnh niềm tin

Bay qua trời mấy cánh chim

Cho mòn con mắt dõi nhìn quê xa

Nửa đêm thức dậy nhớ nhà

Bỗng ôm mặt khóc như là trẻ con

*

Rừng đông bắc có con chim hay hót

Như nỗi lòng người lính xa quê

*

Em ơi đất lửa chiến trường

Làm sao vọng lại gió hương bạch đàn

Mùa xuân ơi có hân hoan

Trăng đêm Đà Nẵng, nắng vàng Tây nguyên

*

Giã từ mày nhé! Đăng Lâm

Chiều mưa năm ấy ướt đầm Đắc Đam

*

Mùa khô

em bé Khơme bú bầu sữa mẹ

những hạt sữa nóng như hạt lửa

*

Một ngày đi ba chục cây số vẫn chưa được nghỉ

Dáng người đi như cây khộp khẳng khiu

(Vâng, đó là nhưng câu thơ của Lê Minh Quốc còn nằm trong trí nhớ của tôi từ dạo còn ở chiến trường K. Tôi xin ghi ra đây. Nếu lúc nào chợt nhớ những câu thơ khác, tôi xin ghi tiếp).

Quốc đi rồi, phải hai năm sau tôi mới phục viên chuyển ngành về khoa Văn, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Và cũng trong thời gian đó, tôi nhận được thư Quốc, báo tin vui là đã trúng tuyển vào khoa Văn, trường Đại học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh. Rồi thư Quốc kể chuyện trước ngày nhập trường, đi thăm Hội An, Ngũ Hành Sơn, thăm cố đô Huế. Những lá thư chan hòa tình cảm rất đặc biệt của Quốc với thiên nhiên. Những lá thư đó đến nay tôi vẫn giữ.

Hà Nội. Đêm 12.7.1996

ĐOÀN TUẤN


 

ĐẤT NƯỚC VÀ NGƯỜI LÍNH

Em hãy cùng tôi đến thăm người lính trẻ

trở về quê nhà đang tập hát ru con

lời ru vụng về mênh mang hương lúa chín

dẫu hai mươi năm tâm hồn họ mỏi mòn

Em hãy hát lên cho người tình yêu dấu

trở về từ Plây me hay chiến khu Đ

đôi mắt rưng rưng muộn phiền từ đất lửa

đang thèm khát yêu thương đang cần được vỗ về

Đất nước không còn chiến tranh, mẹ già lên núi

tìm xương con mình thầm hát thong dong

“cái cò lặn lội bờ sông

gánh gạo đưa chồng nước mắt nỉ non”

mẹ thao thức như chưa hề ngủ được

ngồi hiên nhà ngóng đợi đứa con xa

bếp lửa cũng trăn trở đêm khuya âm ỉ sáng

thắp từ thâm tâm mẹ ngọn lửa đợi chờ

Hai mươi năm đất nước mình chia cắt

khúc ruột mẹ đứt đoạn hai miền: Nam Bắc

đứa con lên rừng, đứa vượt tuyến sang sông

mẹ nhớ thương nước mắt chảy ròng ròng

Tôi lớn lên tự cội nguồn dòng Bến Hải

nghe lời mẹ ru vật vã muộn phiền

trái tim đau từ vĩ tuyến mười bảy

đánh mất tự bao giờ năm tháng hoa niên

Hai mươi năm dài hai mươi năm trằn trọc

từng đêm nhìn pháo bắn đỏ quê hương

em bé xuống hầm lật trang vở học

mơ được tung tăng cùng bè bạn đến trường

ngày ấy anh tôi trở thành người lính

máu thịt một phần gửi lại Quảng Trị, Đức Cơ...

người vợ trong chiến tranh khát khao làm mẹ

thèm khát sinh con để được hát ầu ơ

Em hãy hát ngày quê nhà đoàn tụ

anh thương binh chống nạng dạo quanh làng

nhìn rẫy sắn nương khoai ngày lúa chín

không nghe tiếng đạn gầm, nghe tiếng mẹ hò khoan...

II

Sáng nay mở cửa thấy cờ bay trên phố

mỗi lá cờ mang một mặt trời hồng

cánh bướm bay đem theo làn sương mỏng

trong tim mình chim chóc hót thong dong

Đất nước hồi sinh từ tràng hoa sứ trắng

em bé hồn nhiên đang theo mẹ đến trường

dẫu ngỡ ngàng nhưng đời đầy hoa nắng

chim đã về ca hát trên nương

Mẹ cưu mang tình yêu của mẹ

hai mươi năm dài tuổi tác già nua

đất nước hồi sinh mẹ như trẻ lại

kể chuyện mừng vui trong ngày hội gặt mùa

Ai đã khóc khi nghe còi thống nhất

chuyển bánh cho lịch sử sang trang đến thành phố Bác Hồ

có phải ngăn tim nhỏ và niềm vui ngây ngất

máu ba miền tụ lại một thủ đô

Cờ giải phóng như lòng mình reo phơi phới

người lính về cuốc đất trồng khoai

thèm nghe tiếng đánh vần, nghe trẻ thơ gọi mẹ

được đổi đời mơ ước có xa xôi

III

Thuở tôi lớn, những tháng năm giông bão

đi giữa quê nhà mà đôi lúc bơ vơ

ngày tháng trôi như bông hoa tí ngọ

cứ nở bình yên mỗi sáng mười giờ

Thuở tôi lớn, mẹ chắt chiu hạt gạo

mỗi bữa cơm độn thêm sắn khoai

cha còng lưng kéo xe ngoài phố

nhưng môi cười đã khắc khoải niềm vui

Thuở tôi lớn, vé tầu vé xe vào rạp hát

chỉ có thể mua từ tay con buôn

nếu không muốn làm cái đuôi xếp hàng chờ đợi

con người vẫn nhiều hơn lũ dế giun

Thuở tôi lớn, điệu nhảy valse không còn trên đường phố

ghế đá công viên nhiều gái điếm hơn những cặp tình nhân

xe ô tô không nhiều hơn xe đạp

điện chưa nhiều bằng ánh sáng đêm trăng

Thế mà hoa đến giờ vẫn nở

như mặt trời bát ngát tự phương đông

ngày qua ngày vẫn hồn nhiên họp chợ

trẻ học ê a, lúa vẫn nở thắm đồng

Thuở tôi lớn, đất nước hồi sinh từ khu triển lãm

khẩu hiệu nhiều hơn những công trình

nhà máy điện còn nằm trên bản vẽ

chinh phục thiên nhiên bằng những mô hình

Thuở tôi lớn, có những cô con gái

ngúng nguẩy mái tóc đơmi gac - xông

những cô gái đã một thời son phấn

về lại quê hương cùng với gót chân trần

Thuở tôi lớn, cũng có người xa rời Tổ quốc

thân phận lênh đênh cùng sóng đại dương

họ đi tìm tự do và lý tưởng

hay tìm nỗi li quê và năm tháng đoạn trường?

Thế mà hoa đến giờ vẫn nở

rất tự nhiên như tiếng gà đánh thức bình minh

lúc yêu nhau vẫn hẹn hò trên bãi cỏ

mời uống cà phê thong thả viết thư tình

IV

Năm 1975, tưởng khẩu súng chỉ nằm trong cổ viện

đất nước hân hoan vòng nguyệt quế rạng ngời

đất nước đoàn viên đâu còn đưa tiễn

chim bồ câu ngậm cành hoa ô-liu bay rợp bầu trời

Vậy mà lửa từ bên kia biên giới

lửa đốt phòng cưới của chị xã viên

lửa đốt cánh đồng lúa lên phơi phới

em thơ giật mình giấc ngủ lật nghiêng

Chúng nó muốn nã pháo trên đầu mẹ

muốn bẻ gãy chiếc đòn gánh mẹ tì trên vai mấy ngàn năm

hối hả áo xanh lên miền xa biên giới

chặn bàn tay chém mẹ nhát dao đâm

Chúng tôi rời mái trường trở thành người lính

gửi lại quê nhà ước mơ thành người thợ, nhà văn

gửi lại môi hôn cho người tình bé nhỏ

mang lên rừng tiếng chim gáy vang ngân

mang lên rừng tiếng còi xe buýt

để nhớ về thành phố tuổi lên năm

để nhớ quê nhà đến đầu nguồn Tổ quốc

máu một dòng gắn bó thương thân

Mảnh đất biên thùy pháo bầy cấp tập

trên tán lá xanh non chim vẫn hót vô tư

tôi ngủ trong lòng mẹ - vững bền trong lòng đất

ngâm câu: Nam quốc sơn hà nam đế cư

Những kilômét đường rừng tôi đi - nếu đem cộng lại sẽ thấy dài bằng chu vi trái đất

Gia Lai - Công Tum, Mang Giang, Đắc lắc...

bao suối bao rừng tôi đã đi qua

hành quân ngày đêm nắng mưa tầm tã

giấc ngủ lưng đèo gió rét căm căm

con suối Đắc Đam đã trở thành kỷ niệm

gió lạnh về mơ một chỗ nằm

Chúng tôi trở thành đoàn quân tình nguyện

ba năm chưa nhận được thư nhà

tìm Tổ quốc qua những trang thư mỏng

đêm ở rừng nỗi nhớ bay xa

Tôi đến Cămpuchia từ ngày đầu giải phóng

làm người khổng lồ che lấp đau thương

làm con kiến bò trên từng kilômét

nhận về mình cay đắng lẫn yêu thương

V

Em hãy hát cùng tôi khi về thăm chốn cũ

lời ngọt mềm như dòng sông tháng giêng

đồng đội tôi đã có người nằm xuống

giấc ngủ thiên thu ao ước thấy mẹ hiền

Họ nghĩ gì khi nằm trong lòng đất

môi thơm tho chưa hôn môi người tình

chưa ngỡ ngàng cầm bàn tay mềm mại

phiên gác còn đếm những ngôi sao lung linh

Em hãy đến cùng tôi thăm người lính trẻ

trở về sau cuộc chiến tranh

quên tất cả ngoài trái tim một lần tự nguyện

hiến dâng đời vì Tổ quốc quang vinh

VI

Giữa khoảng trời xanh biên giới

Chúng tôi: Lê Minh Quốc - Đoàn Tuấn - hai người lính yêu thơ

Trăm nhớ ngàn thương nói bằng tiếng khóc

Xin mỗi lần về lại quê hương...

Lê Minh Quốc


 

ĐỀ TỰA THƠ MÌNH

Những câu thơ mặc áo lính

Đồng phục xanh màu lá rừng

Câu năm chữ, câu bảy chữ

Đi bên nhau chẳng ngại ngùng

Như tuổi hai mươi binh nhất

Sống cùng chính ủy sư đoàn

Đêm nằm cựa mình tin cậy

Chung một màu lá ngụy trang

Đừng trách câu thơ khúc khủy

Bởi đường lên dốc cheo leo

Bóng cây ngã nghiêng xiên xẹo

Bàn chân trúc trắc qua đèo

Đừng trách câu thơ chổng chểnh

Bởi rừng trăm lối quềnh quàng

Bước đi nhói đau xuệnh xoạng

Chúng tôi xuống núi lên ngàn

Đừng trách câu thơ tuếch toác

Ít dùng từ ngữ văn hoa

Bởi lính xuềnh xoàng thân mật

Như anh em chung một nhà

Đừng trách câu thơ quếch quác

Không điều bí hiểm cao siêu

Chúng tôi lớn lên từ đất

Thơ là mưa của tình yêu

Câu thơ nào ghi nguệch ngoạc

Trong trang nhật ký đường rừng

Sau phút giải lao vội vã

Xốc ba lô lại hành quân

Câu thơ nào ghi vành mũ

Đỏ ngời trận đánh đầu tiên

Đâu cần biết ngày nhớ tháng

Kỷ niệm đã có tên riêng

Câu thơ nào trên túi áo

Là con số ghi mật danh

Của một sư đoàn chiến thắng

Suốt thời giặc giã chiến tranh

Câu thơ nào bên bếp lửa

Ngồi hơ lạnh cóng bàn tay

Áo quần mưa ướt chềm chệp

Làm thơ rét lạnh không hay

Câu thơ toòng teng cánh võng

Nối liền tiền tuyến hậu phương

Lính nằm vắt chân chữ ngũ

Đọc thơ ấm cả chiến trường

Có đêm lội sông bập bõm

Bỗng say chếch choáng tiếng thơ

Ai đọc đầu nguồn rất khẽ

Cành lau xao xuyến ven bờ

Có căn hầm kèo chữ Z

Ở trên cao điểm vòng cung

Ngồi quanh chiếc đài bán dẫn

Nghe tiếng thơ ngâm ấm lòng

Ở rừng thiếu thơ để đọc

Chúng tôi làm thơ cho mình

Từng câu chữ chưa tròn trịa

Ra đời từ cuộc trường chinh

Chúng tôi làm thơ để đọc

Như trồng thêm lúa để ăn

Như cắt tranh lợp nhà ở

Làm thơ dưới tiếng pháo gầm

Những câu thơ mặc áo lính

Đồng phục xanh màu lá rừng

Đến với những người ra trận

Như quàng khẩu súng sau lưng

Lê Minh Quốc


 

NGỦ ĐẤT

Võng bạt trải đất tôi nằm

Đêm nay ngủ ngọn trăng rằm nguy nga

Nhớ con dế gáy sau nhà

Chập chờn hương bưởi rụng qua tay mình

Đêm chiến trường ngủ ngon lành

Gối đầu lên đất ân tình đất ơi!

Cựa mình thấp thỏm lại ngồi

Quờ tay chạm đất nhớ hoài dáng em

Đồng sâu mưa nắng lênh đênh

Tuổi xuân con gái gửi trên luống cày

Tôi nằm ngủ đất đêm nay

Hương xuân thấp thoáng đâu đây dịu dàng

Có con cò trắng bay ngang

Từ lời em hát cuối làng đầu sông

Nỗi nhớ nào cũng ấm lòng

Lưng chạm đất tay ôm vòng ba lô

Tiếng gà chấp chới nhấp nhô

Sương tan đầu núi đến giờ hành quân

Lê Minh Quốc


 

NHẬT KÝ MỘT NGÀY

Cái nắng quái như lửa nung cháy họng

Cổ bỏng lên. Ôi! Khát! Ôi! Nắng

Chúng tôi đi rùng rùng bụi đỏ

Hái lá tai voi nhai suốt chặng đường dài

Ba lô đeo vai

Súng và gạo đeo vai

Vác trái đất nặng ba mươi ký

Chúng tôi hành quân qua Xam-coong-thmây

Trinh sát theo vết chân thú rừng tìm nước

Chúng tôi lang thang tìm nước trăm nơi

Khẩu lệnh rời rạc theo gió thổi xa xôi

Giành với thú rừng vũng nước đen lá mục

Vũng nước đục ngầu cùng nhau chen chúc

Môi rát buốt

Uống cầm hơi

Mắt hoa lên chân thấp chân cao

Giày há mõm lùa cát vào cọ sát

Chân sưng bọng nước bước đi loạc choạc

Ngồi giải lao nắng xoáy trên lưng

Rít dài hơi thuốc lá

Lóe sáng lửa cháy rừng

Bi đông va lốc cốc

Từng giọt trong veo mang dáng dấp dòng sông

Ôi khát vọng dịu dàng nằm trong cơn khát

Linh hồn tôi bay đến tận đền Angkor Wath

Cắn lấy bầu vú đá căng đầy của nàng Apsara

Để tìm giọt sữa

Nhưng chỉ thấy nước mắt nóng ran như hạt lửa

Rơi nhạt nhòa mặn môi

Mùa khô đã trở thành huyền thoại xa xôi

Lửa cháy rừng chim bay thảng thốt

Đất nứt nẻ nên chim im tiếng hót

Không gian quay cuồng trời đất nóng như nung

Chúng tôi hành quân trong lửa bão bùng

Đuối sức

Chiếc ba lô theo cuộc đời chiến sĩ

Về mọi nẻo đường

Rừng vẫn dài trảng cỏ vẫn mênh mông

Kẻ ngã quÿ nằm trên đá sỏi

Người lê tới bằng đôi chân mệt mỏi

Bới lá rừng đưa lên miệng để nhai

Nằm vật vã nhìn vòm trời mộng mị

Mơ quê nhà có giếng nước trong xanh

Mơ ngụm nước thốt nốt ngọt lành

Nước bọt đặc quánh

Mồ hôi rơi xuống môi mặn đắng

Dáng người đi như cây khộp khẳng khiu

Mùa khô trên đất nước Khmer

Khắc đậm giữa tim thành vết sẹo

Chúng tôi đi những bàn chân xiêu vẹo

Như trôi lênh đênh trên dòng sông...

Lê Minh Quốc


 

BINH NHẤT

Dép lốp Bình Trị Thiên

Chiếc ba lô con cóc

Bi đông U.S.A

Chiếc mũ cối Trung Quốc

Vai vác súng A.K

Tôi trở thành binh nhất

Tóc chưa rẻ đường ngôi

Mặt còn búng ra sữa

Sông ghềnh suối núi đồi

Trăng xanh tanh máu ứa

Tuổi mười tám tôi ơi

Không chần chừ chọn lựa

Chưa kịp có người yêu

Sáng mai đi ra trận

Tưởng đang được đi chơi

Ngực găm đầy vết đạn

Ngã xuống sông MêKông

Đạn xoáy vào giữa trán

Mịt mù sương như mưa

Đêm đen màu sốt rét

Hun hút dãy chiến hào

Thơ ngây chìm xuống đất

Tuổi mười tám tôi ơi

Thanh tân giờ đã mất

Một ngày trên chiến trường

Chỉ gặp cây thốt nốt

Nó cũng được quân hàm

Mãi mãi là binh nhất

Lê Minh Quốc


 

ĐỌC LẠI TRUYỆN KIỀU

Đêm nghe gà gáy bên sông

Lời như sương mỏng bềnh bồng tương tư

Dáng Kiều đâu đó hình như

Lẫn trong tiếng pháo gầm gừ niềm tin

Nguyễn Du hội ngộ trong tim

Mặt trời bùng vỡ bóng đêm sáng ngời

Dẫn theo Kiều tặng cho đời

Tiết trinh tơi tả rã rời tình yêu

Đi trong bóng ngã xế chiều

Lạnh môi giọt lệ em Kiều là đây

Chiến trường qua một thời trai

Áo xanh vẫn nặng những ngày tiết trinh

Bao giờ mới đến bình minh?

Trải bao cay đắng ái tình lênh đênh

Mây Tần mưa Sở bao đêm

Chữ Trinh nguyên vẹn dù em lỡ làng

Nghiến răng không một tiếng than

Bốn bề máu chảy bàng hoàng bàn chân

Kiều ơi! Nức nở bao lần

Đêm chong trắng đĩa, lệ tràn đẫm khăn

Vẫn trong như ngọc trắng ngần

Tình em thắp sáng trăng rằm Angkor

Năm năm đất khách hẹn hò

Làm sao tri ngộ giày vò lẫn nhau?

Lê Minh Quốc


 

NHỮNG MÙA KHÔ TRONG TRÍ NHỚ

(Tặng Nguyễn Đăng Lâm, Võ Đình Chiến, Trần Tuấn Bảo)

Nhà dã chiến lợp lá tranh Danrek

gió nóng ran hơi thở của rừng

gió hầm hập đi qua vùng nhiệt đới

lửa cháy rừng hun hút phía sau lưng

Chúng tôi đón mùa xuân

rủ nhau đi tắm suối

nước cạn rồi

gió thổi xoáy tung lên cát bụi

nước ở đâu để được uống phập phồng?

mồ hôi chảy ròng ròng

một ngàn lần

quý giá...

ngửa mặt lên trời hiếm hoi chiếc lá

cây khộp khẳng khiu trơ trọi giữa trời

Đi đánh giặc đã quen rồi cơn khát

uống từng nắp bi-đông cầm hơi

nhưng nếu cần thì chúng tôi sẽ hát

vài làn điệu dân ca

để đỡ nhớ quê nhà

có tiếng chim gù trên lùm tre óng ả

mùa khô nào sau cánh rừng Ka-đạ

chúng tôi đào một hố giếng con con

cạnh vũng nước trâu đầm

múc từng mũ nước

đồng đội tắm tóc chưa kịp ướt

đã có lệnh hành quân

chúng tôi đi thương nhớ dòng sông

sông nước bập bềnh duềnh trong lời hát

chính ủy trung đoàn sau mùa khô tóc bạc

lính binh nhì, binh nhất mọc thêm râu

đi qua trảng cỏ

nắng đen da cháy khét tóc trên đầu

thèm một bóng mát

một gốc cây, ụ mối - nghỉ giải lao

đồng đội tôi có người hoa mắt

lá khộp rơi quắt quéo trên lưng

dốc ngược bi-đông cạn nước

đau đáu nhìn trời giọng nói cứ rưng rưng

mệnh lệnh phía sau truyền lên đứt quãng...

đi đánh giặc chẳng bao giờ thiếu đạn

ruột tượng gạo đựng đầy

nhưng thiếu nước để nửa đêm mê sảng

thấy trong mơ chết đuối giữa sông dài

Đi qua mùa khô vừa hết tuổi con trai

chúng tôi thật sự trở thành người lính

chúng tôi sống những tháng năm không hề yên tĩnh

trái tim còn nóng ran hơi thở của rừng

Lê Minh Quốc


 

UDAĐAO 1979

Rũ áo bụi đỏ biên giới

Nhảy tắm suối U-da-đao

Đôi dép lốp kỳ lưng nhau

Suối bạc cười lên trắng xóa

Mũ mềm đã vướng cành lá

Cần chi - đầu đội nắng trời

Ngửa mặt nhìn giọt mưa rơi

Và năm ngón tay chải tóc

Treo đầu nguồn Sê-rê-pốc

Dăm ba chiếc võng toòng teng

Chia nhau vài điếu thuốc đen

Mùi cháy khét như hun muỗi

Trò chuyện xì xào bên suối

Đầu gối kê lên... làm bàn

Lá thư viết dọc viết ngang

Cũng nét chữ mềm con gái

Chim te te bay ùa lại

Đứng trên võng gọi hoàng hôn

Ở rừng nắng gió rất thơm

Trở về bên chân người lính

Chiều lau súng và ngâm vịnh

Vỗ đùi đen đét bình thơ

Đến thăm hậu cứ tình cờ

Chính ủy bật cười khanh khách

Mùa khô là mùa chiến dịch

Ruột tượng đựng gạo đầy rồi

Người lính đứng giữa đất trời

Suối bạc cười lên trắng xóa

Lê Minh Quốc


 

MÙA TRĂNG PHUM GIỀNG

(Tặng Trần Đào Hiền Nhân B10,  C7, E 29)

những ngọn gió từ đỉnh trời xa thẳm

mang theo suối nguồn tinh khiết của quê mùa

và giọng cười của đứa trẻ Khmer trên cánh đồng cháy nắng

đang thổi về phía tôi

tuổi trẻ chiến trường ít ỏi niềm vui

tôi cười gằn lên ném mẩu thuốc rê xuống chân và gót giày nghiến nát

đôi mắt nhắm nghiền cất lên tiếng hát

khúc tình ca cuối cùng của thế kỷ hai mươi

đen như đêm và dài như dòng sông không biết chảy xuôi

trong lồng ngực không nguôi niềm vật vã

sợi dây đàn mệt lã

hát lên

hát về tuổi trẻ cô đơn

những bộ xương gầy đen

khẳng khiu như cây thốt nốt

hãy cầm tay nhau chạy reo vui vòng quanh trái đất

chờ đợi ngày mai hoa sẽ nở trên nòng súng thép

hỡi em bé Khmer

niềm vui đến rồi con mắt cứ đỏ hoe

chẳng có gì ghìm được tiếng hát

đang vỡ tung trong ngực

phía biên giới bên kia đang ì ầm hỏa lực

mặc kệ

cứ hát lên

chúng ta hát về chân mây cuối trời

tìm kiếm Angkor chìm trong cát bụi

từng đêm

tôi nhìn xuống vết thương ứa ra từng vệt máu

cất giọng ca buồn

Lê Minh Quốc


 

GẶP Ở ĂNGCO VÁT

Một triệu năm một trăm năm

Người trong đá vẫn cười thầm cùng ta

Mưa chiều lướt thướt bay qua

Trong ngôi đền cổ như là chiêm bao

Bên tôi - em hãy nép vào

Hỡi nàng tiên đứng từ bao giờ rồi?

Ai giam cầm em giữa trời

Đùng đùng sấm sét... trả lời tôi hay

Leo lên tháp chạm trời mây

Một triệu tượng Phật nhíu mày bao dung

Phải là em khóc rưng rưng

Nên mưa gió cứ bão bùng khôn nguôi?

Nụ cười của đá có vui

Từ trong điệu múa ngậm ngùi điều chi?

Lời tôi khấn nguyện bay đi

Vọng vào vách đá dội về nỗi đau

Tôi gai ốc đến ngàn sau

Rùng mình ngửa mặt nhìn vào hư không

Đá sừng sững, đá lặng câm

Đá mềm mại - tựa tôi cầm tay ai...

Bất ngờ tôi hóa cụm mây

Xin em hãy đỡ tôi bay lên trời

Nhưng ngoài kia mưa còn rơi

Em đứng trong đá, tôi ngồi trong em

Chiều Ăng-co Vát khó quên...

Lê Minh Quốc


 

CHUYỆN TRÒ CÙNG VÁCH ĐÁ

Chiều mưa ướt sũng bầu trời

Trong đền Angkor Wath tôi ngồi

Thương những nàng tiên xòe tay múa

Các em là người đàn bà góa bụa

Ngay từ khi mới được khai sinh

Hỡi người thợ đục đá vô tình

Sao lại để các nàng tiên đơn độc?

Trời đang khóc hay là em sắp khóc

Chẳng có gì vĩnh cửu với thời gian

Những tượng đá ướt đầm nước mắt

Tôi sụp lạy thấy mơ hồ Đức Phật

Chiều nay sương khóc bay lênh đênh

Tôi vuốt ve trên núm vú em

Tôi nâng cánh tay em

Nàng tiên múa ngàn năm rồi có mỏi

Em nhếch môi có điều chi định nói

Nếp đá nhăn sừng sững giữa không gian

Tôi kinh ngạc bàng hoàng

Nhan sắc các em vẫn tươi nguyên trong đá

Lời kinh Phật lãng quên suốt thời giặc giã

Chiều nay tôi lại nghe từ đá dội ra

Các em nhịp nhàng điệu múa Apsara

Tiếng khóc cười ẩn sâu vào nếp đá

Đá có linh hồn sinh tồn trăm ngã

Ai công phu đưa em đến Niết bàn?

Tôi ngờ vực tôi đưa tay đấm ngực

Những thành quách vàng son đã biến thành tù ngục

Ôi! Bao giờ các nàng tiên mới lấy được chồng

Điệu múa chập chờn hư ảo dưới rêu phong...

Lê Minh Quốc


 

ANGLUNGVENG 1980

Ngọn lửa cháy bập bùng đêm tháng mười gió lạnh

Rừng xanh áo thanh niên

Suối làm duyên con gái

Tiếng nói đùa ồn ào của cánh lính tân binh

Lính 77 chuẩn bị đạn vào gùi

Lính 80 bẻ lá rừng làm vòng ngụy trang

Đêm nay, ừ đêm nay xuất kích

Chúng tôi vào trận đánh rất đàng hoàng

Anh nuôi leo cây xăng lẻ bắt kỳ đà

Lính Quảng Nam đi vo gạo nấu cháo

Lính Hà Nội ngồi cảnh giới cuối rừng xa

Gió Danrek vọng về câu vọng cổ:

“Gió lên lay động hoa bằng lăng ơi thiết tha”

Đêm chùng xuống như sợi dây đàn ghi-ta

Cái nhớ loang ra như làn sương mỏng

Thèm nghe âm thanh vỗ về niềm hy vọng

Đêm nghiêng dài theo cánh võng chơi vơi

Lính ăn như hổ, lính khỏe như voi

Vắt cục cơm ủ túi cóc ba lô còn nóng

Lính bộ binh lội rừng lùng giặc đánh

Lính công binh thấp thỏm mở đường

Lính chốt đường giấu mình sau ụ mối

Lính truyền tin gọi nhau như chim nói

Lính chúng tôi đi vạn dặm đường dài

Đi tới ngày mai

Điểm xuất phát bắt đầu từ thành phố

Đêm ngủ rừng già

Ngày đi qua rừng trẻ

Bước vào chiến dịch nhận thư nhà

Không đọc vội để lòng thêm náo nức

Áp lá thư vào ngực

Làm hành trang đi dưới ánh mặt trời

Tiếng chim tuổi thơ không bao giờ thất lạc

Nếu bếp nuôi quân ngọn lửa cứ sáng ngời

Đêm phục kích là đêm leo cây như khỉ

Ngồi cảnh giới thong dong

Sương đẫm áo lúc trời gần sáng

Đánh vỗ mặt, đánh thọc sườn từ trong tầm đạn

B.40 không phải bắn cầu vồng

Đêm ngủ đất là những đêm trinh sát

Gió chạy về lạnh buốt sau lưng

Nằm như con sâu cuộn tròn trong lá

Chập chờn mơ thấy mẹ khóc rưng rưng

Đêm nay, ừ đêm nay xuất kích

Mấy mùa mưa bám chốt Anlung

Chiến hào dọc ngang ngoằn ngoèo sỏi đá

Gùi gạo vướng mìn luồn trong rừng lá

Từng hạt gạo đẫm máu với mồ hôi

Chiến dịch mùa mưa giục giã chúng tôi

Quần xăn đến gối

Ào ào mưa xối

Trên lưng vác cối

Vai khoác A.K

Đi qua rừng già

Bước chân thần tốc

Từ rừng rậm đến rừng thưa

Mưa rơi chéo chéo lúc vừa hành quân

Vai hằn quai súng qua lưng

Gấu quần rách toạc luồn rừng Anlung

Lê Minh Quốc


 

MẸ

Khi con chim chích chòe hót vang ngọn cau

mẹ thức dậy ngồi bên bếp lửa

mùa đông xô vào cánh cửa

gió lạnh lẽo xẻo buốt xương

những cơn ho đục khoét hết đêm trường

mẹ trơ trọi biết lấy gì chống chọi?

giông bão đi qua

hằn vết nhăn trên trán mẹ già

con thơ dại trèo lên cây bưởi hái hoa

đỏng đảnh bước xuống vườn cà

đâu thấy bóng mẹ run lẩy bẩy

như một tàu chuối khô

cha con đã mỏi mệt bước giang hồ

trang sách đặt trên tay nghĩ ngợi

điếu thuốc lào lập lòe đêm tối

cát bụi cũng quạnh hiu

những đêm mưa ủ dột tiếng chim kêu

mẹ ru hời khắc khoải

mười tám tuổi con xa nhà đi bộ đội

đêm ngủ còn nghe mẹ gọi trong mơ

tiếng súng gầm lên trên trời Danrek

khúc dân ca rách nát

đồng đội con có người đã chết

còn há mồm để được gọi mẹ ơi!

đêm đêm con thắp ngọn sao trời

hỏi gà gáy ven sông

mẹ dậy lúc nào khi trời chưa kịp sáng

bếp lửa nhen lúc nào mà bây giờ còn ấm?

con hỏi chõng tre

từ lúc nào mẹ cựa mình thức trắng?

tưởng tượng một ngày kia

trăng treo trên vòm trời Đà Nẵng rất khuya

mẹ khỏe mạnh giã gạo

hương cau thơm rụng đầy sân nhà ông ngoại

thuở ấy mẹ mới về với cha

mới nghĩ vậy thôi con sung sướng khóc òa

một niềm vui vĩnh cửu...

Lê Minh Quốc


 

TRỞ LẠI NƠI ĐÓNG QUÂN

Tượng Bay-on bốn mặt

đau đáu nhìn hư không

thành quách chừ đổ vỡ

ta nghe vó ngựa lồng

những thớt voi chiến trận

ầm ầm mấy tầng không

ta nằm trong ác mộng

nghe cung oán Ăng-co

những gương mặt buồn xo

vẫn ngời lên nhan sắc

hỡi Bay-on bốn mặt

sao không mở mắt nhìn?

những nàng tiên đang khóc

bằng điệu múa lặng im

trời chiều gây giông bão

các em có lạnh run

ta ngã trên thềm đá

thấy trời đau vật vã

vọng từ mấy trăm năm

đây chỗ Phật đang nằm

ai chai tay chạm trổ

đây từ bi hỷ xả

tượng Phật kia cụt đầu

nhang khói bay về đâu

cỏ mọc lan thềm cũ

những lời tôi nguyện cầu

thấy hiện lên quỷ dữ

thấy hiện lên thiên thần

ai giam cầm cung nữ

trong tường đá rêu xanh

vọng lại từ xa xăm

tiếng khóc cười nức nở

sấm sét đùng đùng nổ

rách ngang dọc vòm trời

nàng tiên căng da thịt

đứng múa giữa mưa rơi

ai đập đầu vào đá

đi về trong luân hồi

những nàng tiên mệt lả

có bao giờ nghỉ ngơi

tiếng gươm khua rát mặt

vó ngựa hý vang trời

từ trong ngôi đền cũ

nghe cung oán Ăng co

ôi tự do tự do

đang rền trong vách đá

Lê Minh Quốc


 

ĐÊM Ở RỪNG CHOANSAN

Trăng treo đầu võng tựa nồi tròn

Đồng chí anh nuôi vo gạo đầu sông

Giữa khuya trăng lặn về doanh trại

Sương lạnh khơi thêm ngọn lửa hồng

 

Gạo ít thì mình đã hái măng

Đôi giày há mõm có lạnh chân

Nửa khuya thức dậy ăn cháo khỉ

Lòng bồn chồn đợi lệnh hành quân

 

Người lính mặt tròn như vầng trăng

Gõ xoong quân dụng hát thung thăng

Xua cơn buồn ngủ lùa trong gió

Rừng còn xanh mãi tiếng chim ngân

 

Chống gậy đi rừng giữa cơn sốt rét

Trăng vàng như thóc đậu trên vai

Mấy cậu tân binh da xanh mét

Cứ cười khúc khích rất con trai

 

Chúng mình lội suối cười ha hả

Ba lô với súng đội trên đầu

Ra trận trở về mừng sống sót

Lá mềm trên tóc cứ lao xao

 

Giữa khuya trăng lặn về doanh trại

Chấp chới trời cao tiếng gà rừng

Chờ bình minh cuộn tròn trong giấc ngủ

Anh nuôi vo gạo bước qua sân

Lê Minh Quốc


 

VIẾT TỪ AN-LUNG-VENG

(Tưởng niệm Hoàng An)

Bềnh bồng sợi tóc em bay

tuổi hồng gửi với cỏ cây lạc loài

trăng rơi trong mắt ngậm ngùi

thân gầy guộc đã chôn vùi đất hoang

thắp cho em nén hương tàn

gió chiều hiu hắt hồn oan chưa về

thấy em cười vọng trăng khuya

đêm dài ma quái như chia nỗi lòng

quan tài che nổi gió đông

hay mưa gió xuống lạnh lòng em tôi?

hình hài còn gửi trăm nơi

ngủ đi em để rong chơi thiên đường

mộ em trăm hoa hướng dương

của giọt nắng rụng còn vương mắt người

vô tình sao thấy đắng môi

khóc em không nước mắt rơi đầm đìa

em nằm không có mộ bia

chỉ trơ trọi mảnh trăng khuya tội tình

trở về lòng đất vô minh

đêm mưa gió hãy hiện hình dương gian

thắp cho em nén hương tàn

chợt nghe tiếng súng bàng hoàng gọi tên...

29.12.1980

Lê Minh Quốc


 

ĐỌC “BẠCH VÂN THI TẬP” NĂM 1977

Chưa già để bạc tóc râu

Ngồi ngâm thơ cùng mây trắng

Cổ thi chập chờn bóng nắng

Để học đòi Nguyễn Bỉnh Khiêm

Chiều ơi, chiều ngọt tiếng chim

Bập bùng giữa trời ngọn lửa

Hiền sĩ ngày xưa cỡi ngựa

Ngâm thơ rượu cạn lưng bầu

Chúng tôi lại đứng bên nhau

Hát nghênh ngang trong tiếng gió

Đường dốc trượt chân bụi đỏ

Gấu quần rách toạc, cần chi

Không ở ẩn chúng tôi đi

Lên rừng, rừng xanh tiếng hát

Hiền sĩ một đời tóc bạc:

“Ngồi chờ gió thổi tin hoa”

Rượu nhạt phèo buông tiếng khà

Hiền sĩ toan được hóa bướm

Chúng tôi quý ngày đang sống

Cười rung nắng gió qua đèo

Màn che cửa ngõ trăng treo

Hiền sĩ lợi danh xa lánh

Chúng tôi thời trai khỏe mạnh

Cứ đi ngang dọc núi rừng

Hiền sĩ ngâm thơ rưng rưng

Đau đời lệ buồn chực ứa

Chúng tôi nhen lên ngọn lửa

Đọc thơ sảng khoái lạ lùng

Xin biết ơn đến vô cùng

Được đau nỗi đau người trước

Niềm vui bây giờ có được

Hiền sĩ đã một lần mơ

Chúng tôi đi dưới bóng cờ

Lồng ngực con trai mười tám

Đỏ như mặt trời buổi sáng

Đi tìm bóng dáng mùa xuân

Lê Minh Quốc


 

VIẾT TỪ CÁNH RỪNG ĐÔNG BẮC CĂMPUCHIA

Đêm há mõm bằng một hàm răng chó sói

dẫn tôi đi hun hút về đâu?

tôi cứ đi dẫu biết rằng tôi gặp

bóng tôi ngồi che khuất cả chiêm bao

tôi đã có những đêm treo võng ngủ

trên một triền núi cao

băng đạn A.K cấn vào hông

nòng súng chếch lên mũi

tôi đã no nê ngửi

mùi vị hòa bình

hương vị của chiến tranh

lưỡi hái tử thần đêm đêm lượn lờ trên mái đầu xanh

mặt trăng tròn bị chọc tiết

vùng ánh sáng xám xịt

bủa vây thân phận người du mục

hắn mộng du như một kẻ tà dâm

từng đêm gõ cửa căn nhà người thiếu phụ

xin được trú ngụ

gà đã gáy đánh thức mọi lỗi lầm

ô hay sao cửa vẫn im ỉm đóng?

tôi xanh xao như chiếc lá trải trên võng

siết cò súng bắn nát trời xanh

đêm tối đen nên mọi âm thanh

đều im lặng

tôi nhắm mắt đi ra dòng suối cạn

tìm một chút ánh nắng

nghe mơ hồ từ đỉnh trời Choam

ngôi sao mọc lờ mờ trong tầm đại bác

cất lên từng tiếng kêu rời rạc

không có ngày mai

ngủ đi cái ngủ ơi để chờ ngày mai

đường hành quân còn xa tít tắp

những mìn 45.2A, K.63 chờ tôi dẫm bước

sẽ nổ tung nhức nhối cánh rừng già

quờ quạng tôi đi như một bóng ma

đời lính mục

uống nước đục

ăn cơm cục

hy vọng trở thành những Thạch Sanh

chém đứt cổ Lý Thông và Bạch chằn tinh

chui vào hang cứu thoát nàng công chúa

tôi chỉ gặp cô vũ nữ Apsara góa bụa

ngực lép nép vào đá

khép nép ép người khô như đá

đứng trong đêm

rủ rê tôi những động tác tự tình

đêm nay tôi vừa tròn hai mươi tuổi

ôm mặt khóc tức tưởi

vì đâu?

Lê Minh Quốc


 

DỖ GIẤC NGỦ

Đường đi lau lách rậm rì

ngủ đi

ừ đêm nay trăng nhợt nhạt như mặt mày con gái vu quy

đồng đội tôi thầm nhắc

ngủ đi

trên võng nằm nhìn lên trời

ước gì ngôi sao biến thành hạt gạo

và rơi

để tôi ăn no rồi vác súng đi chơi

qua mọi miền biên giới

đến bất cứ nơi nào có tiếng cười con gái

nhặt lấy mà gieo vần vào thơ

nếu tôi có chết như một kẻ bơ vơ

xin hãy đắp lên mắt tôi những ngôi sao

mai sau còn nhớ đường về

nếu đêm nay tôi ngủ mê

hãy bắn tôi vỡ sọ

còn hơn mai kia mốt nọ

cứ vất vưởng vật vờ vì cuộc tình bạc bẽo

ngủ đi

trăng hết tròn lại méo

dây ba lô nghiến hai vai để lại vết sẹo

ngày mai hành quân

ngủ đi đừng tiếc nuối ngày xuân

ầm ầm súng nổ...

Lê Minh Quốc


 

TRÊN ĐƯỜNG RA TUYẾN TRUỚC

Đi qua Kulen tháng sáu

Về đến Anlung tháng mười

Bi đông gõ vào báng súng

Phì phèo điếu thuốc mùa khô

Anh nuôi tuổi đang mười tám

Môi run tím ngắt sau mưa

Dừng chân nghe cười hồn hậu

“Mấy cậu bụng đã đói chưa?”

Lính mới ngồi chung vá áo

Bàn tay se chỉ luồn kim

Vụng về dễ thương đến lạ

Lá rơi chậm ngẩn ngơ nhìn

Lính cũ ngồi chơi cờ tướng

Đùng đùng lên ngựa xuống xe

Bàn chân nhịp theo khoái chí

Đôi giày há mõm lắng nghe

Nắng chiều leo qua ngọn súng

Đũa gõ vào chén điệu vals

Đủng đỉnh là trai Hà Nội

Đứng ăn cảnh giới đàng hoàng

Đi qua mấy mùa chiến dịch

Mấy lần áo ướt lại khô

Hát vang bài ca tuổi trẻ

Quân đi nòng súng nhấp nhô

Đi qua Kulen tháng sáu

Về đến Anlung tháng mười

Chưa có râu ria để cạo

Những người lính trẻ đôi mươi

Hoa xoài trên vai binh nhất

Thơm hoài trong gió mùi hương

Binh nhì đêm nằm tin cậy

Đồng đội từng quen chiến trường

Lính già ngồi bên lính trẻ

Nỗi niềm tâm sự trao nhau

Tay nắm trong tay tin tưởng

Một ngày nhớ đến ngàn sau

Võng giăng đôi bờ mưa nắng

Chung nhau một lá thư tình

Chung con đường ra tuyến trước

Trên đầu đỏ nắng bình minh

Lê Minh Quốc


 

NHỮNG LIỆT SĨ TRINH TIẾT

Bạn trẻ quá tuổi 18

đầu đội ba lô chân lội bùn non

trên vai vác nắng hoàng hôn

đi qua vùng Prech-vi-hear

đi về Kampốt

niềm tin như giọt nước ngọt chảy ra từ trái thốt nốt

ồ tuổi nhỏ dại dột

sau hành quân mơ sông suối tự tình

suốt phiên gác mơ ngôi sao đồng trinh

vắt kiệt sức

tận cùng giấc mơ chỉ còn lại dòng thơ tình thơm như hoa cúc

ném vào cõi hư vô

đồng đội tôi đặt trinh tiết vào trong ba lô

ngã xuống giữa rừng ngập ngừng chưa muốn chết

khuôn mặt gầy ngờ nghệch

đâu rồi những tiên nữ tuyệt trần

vú nhỏ môi đỏ

vuốt mắt bạn thiên thu?

năm tháng đi qua ma quái âm u

cánh rừng nào mà bạn đã chết?

tiếng mìn K.P2 nổ chát chúa

đanh tai nhức óc

sao lúc ấy không thể nào khóc?

sờ soạng đi tìm thân xác bạn tả tơi

từng mảnh linh hồn bay trăm nơi

làm sao nhặt đủ?

hình hài bạn như một kỷ niệm cũ

khó quên

thời gian đi qua đậm đặc bóng đêm

tôi vẫn thấy bạn quay về nguyên vẹn

bạn đó hả? vẫn nụ hồng rón rén

bộ quân phục rộng thùng thình

vẫn dáng chào kiêu hãnh tân binh

hút thuốc lá sâu kèn

bực mình quá thì chưởi tục

rồi cười

lúc ấy hồn nhiên như mây trời

không làm sao khóc nổi

tiếng mìn nổ toang hoác nát trái tim nóng hổi

còn đâu

còn đâu

bạn ơi, tuổi 18 trang nghiêm trong binh phục

xin cúi đầu chào thế hệ của tôi

quá khứ bừng lên như chiếc gương soi

lấp lánh nụ cười những người chết trẻ

Lê Minh Quốc


 

BÀI THƠ VỀ HOA CÚC

Hoa cúc nở cuối nhà em buổi ấy

Về phép một lần thương nhớ đến bâng quơ

Bình thường em ngồi bên ô cửa sổ

Riêng anh về đêm mất ngủ làm thơ

Chiều nay anh một mình xuống phố

Xe đạp nghiêng từ nỗi nhớ chung chiêng

Thấy rạo rực niềm vui thời mới lớn

Em cắm hoa cúc vàng như để làm duyên

Anh gọi thầm như tiếng chim, tiếng suối

Ơi hoa cúc vàng thân ái của con trai

Xin một lần gửi hương về bên ấy

Mai xa rồi chưa dám nói cùng ai

Đã có lúc đội trời đạp đất

Qua chông chênh dốc đá ngủ lưng đèo

Uống nắp bi-đông dìu lòng cơn khát

Trên đầu thanh thản tiếng chim reo

Đã từng đi bốn mùa ngang dọc

Áo toạc vai vác súng lội qua rừng

Bên cánh võng có lần nghe cỏ hát

Mường tượng về đôi mắt người thương

Và anh gọi thầm ơi hoa cúc trắng

Dù hoa cúc vàng bối rối lúc nhìn em

Mai xa rồi riêng anh sẽ nhớ

Chiều vàng bình yên em chải tóc bên thềm

Và anh biết “hương gây mùi nhớ” (1)

Một nụ cúc vàng nằm ở ba lô

Đi theo anh những ngày đánh giặc

Tháng năm này vĩnh viễn hóa thành thơ

-----

(1) Chữ của Nguyễn Du

Lê Minh Quốc


 

MÙA XUÂN

Rừng khộp bây giờ khô không khốc

Người lính đi trên lá lào xào

Gõ chiếc bi đông kêu lách cách

Suối cạn rồi bước thấp bước cao

Súng vác vai, quần xắn đến gối

Đất bỏng chân, nứt nẻ tiếng ve

Xao xác gió đi về Kađạ

Mồ hôi rơi vào mắt cay xè

Rừng khộp khô thì lá khộp rơi

Người lính làm quạt mát thảnh thơi

Chưa có nước nhớ về giếng nước

Có nụ hoa xoài lấm tấm rơi...

Mình đi mặc kệ nắng chang chang

Có lửa đâu mà giống chảo rang

Anh nuôi đầu đội soong quân dụng

Tiếng cười trai trẻ giòn tan

Trống rôm vông đang giục bước chân

Mười lăm phút nữa gặp mùa xuân

Gió đưa về vị đường thốt nốt

Nhắc thì thầm ta sắp vào phum

Chim puk reo trên quê hương Chùa Tháp

Người lính đi mấy thuở ngang tàng

Chợt hồn nhiên chỉnh tề quân phục

Vào phum bạn gái sẽ nhìn ngang...

Lê Minh Quốc


 

ĐỨNG TRƯỚC NGHĨA TRANG SVAY RIENG

(Tưởng nhớ chiến hữu HT. 5A 2106 Pleiku)

Nằm yên mà ngủ nghe em

Xác thân tơi tả đã mềm đất đai

Không còn nguyên vẹn hình hài

Tiết trinh thì vẫn là trai dậy thì

Một ngày biên giới chân đi

Đạp mìn nhìn lại thấy gì nữa đâu

Hồn bay lên cõi trời cao

Thịt xương chằng chịt rơi vào hư vô

Ngủ yên đầu gối ba lô

Vùi ba thước đất nấm mồ vô danh

Còn trơ trọi mảnh trăng xanh

Đêm nay bầm tím cũng tanh máu người

Em muôn đời tuổi hai mươi

Bây giờ đang khóc hay cười cõi âm?

Bóng ma què quặt đôi chân

Làm sao về lại dương trần gặp nhau?

Nằm yên mà ngủ cho sâu

Đường qua cõi tử nối vào tương lai

Trên trời rời rạc mây bay

Linh hồn ấm lạnh cỏ cây vỗ về

Nằm yên mà tưởng nhớ quê

Đêm đêm nức nở trở về trần gian

Thắp cho em nén hương tàn

Hắt hiu mộ chí giữa hàng thơ xanh

Lê Minh Quốc


 

TRÒ CHUYỆN VỚI CỎ

Sáng ra chợt thấy cỏ xanh

Trước cửa hầm tôi đang đứng

Bàn tay vân vê quai súng

Có phải xuân về tối qua?

Đi xa nhớ cỏ quê nhà

Đêm mơ cỏ bông ấm áp

Chén nước nóng mùi cỏ bấc

Uống vào ngọt mãi trên môi

Chiến hào đầy cỏ tai voi

Đang rún rẩy reo trước gió

Nhủ thầm xuân về rồi đó

Tôi xôn xao nhánh cỏ hương

Khi mùa xuân đến chiến trường

Là cỏ đuôi chồn đã nhạt

Cỏ lau trắng từ câu hát

Có bồn chồn trước cỏ xanh?

Tôi đang đi giữa cỏ tranh

Cỏ dùng dằng da diết thế

Cắn cỏ gừng thèm cỏ nghệ

Cỏ gà, cỏ cú mọc đâu?

Xòe tay nắm cỏ lưỡi trầu

Cỏ mượt như tóc con gái

Xuân ơi cho tôi nghĩ vậy

Nhen trong lòng chút tình yêu

Có phải cỏ mốc đăm chiêu

Mà trong tôi thì rạo rực

Hương cỏ đang đầy lồng ngực

Trước hầm cỏ cú nhú lên

Xuân ẩn trong sắc cỏ mềm

Nơi người lính đang cầm súng

Cỏ xanh dưới chân tôi đứng

Là xuân về tối hôm qua

Lê Minh Quốc


 

ĐÊM TRÚ QUÂN Ở XAM CÔNG THMÂY NHỚ HÀN MẶC TỬ

Thi sĩ đồng trinh vật vã dưới trăng

Vầng nguyệt úa tình duyên xa cách mãi

Đêm bát ngát một tâm hồn điên dại

Thương Hương thơm bất hạnh đến vô biên

Tôi như Gái quê ca hát hồn nhiên

Khẩu súng quàng vai năm mười tám tuổi

Quen địa hình xuyên rừng lội suối

Hơn suy tư đắm đuối với trăng ngân

Mối tình nào anh ngậm buốt trong răng?

Lầu Ông Hoàng bấp bênh niềm chờ đợi

Dòng thơ ấy chưa làm tôi nghĩ ngợi

Khi gặp chiến tranh ngay cánh cửa vào đời

Pháo gầm lên đạn bắn méo trời

Chưa kịp ngã dưới vũng trăng tình ái

Chưa như anh trong Đau thương ruồng rẫy

Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra

Tôi vác trên vai khẩu súng A.K

Chơi giữa mùa trăng chỉ nghe mìn nổ

Đạn băm vầng trăng khiến chị Hằng mặt rỗ

Làm sao rao Tôi bán trăng cho?

Nhưng anh rót cho tôi một dòng sữa thơm tho

Là nguyệt bạch của đêm chiến dịch

Lúc dừng chân trên chặng đường truy kích

Tôi soi qua bếp lửa đọc thơ anh...

Lê Minh Quốc


 

TRÊN ĐƯỜNG VỀ NƯỚC UỐNG RƯỢU Ở STUNG TRENG

Bến Tầm Dương đêm khuya đưa khách

Sao em không ngâm Tì Bà Hành?

Hơi thu lau lách Bạch Cư Dị

Động lòng trinh nữ váy dài xanh

“Đồng thị thiên nhai luân lạc nhân”

Cùng một lứa bên trời lận đận

Gầy gò bộ ngực gái ăn sương

Sau chiến tranh quên hết niềm thù hận

Cao hứng bắn lên dăm phát đạn

Mừng còn sống sót trở về quê

Chiến hữu trời ơi sao nằm lại

Nghĩa trang mờ mịt bóng trăng tê

Sưởi ấm đời nhau qua tiếng nấc

Sao ta lại nhớ Tì Bà Hành?

Lính tráng hành quân qua quán rượu

Mặt đỏ như là đứa trẻ ranh

Đứa trẻ đội thơ Bạch Cư Dị

Đêm nay ném xuống sông Mê Kông

Sông sẽ hóa thành dòng rượu ngọt

Chờ em xuống giặt váy dài xanh...

 

Lê Minh Quốc


TRỜI ĐỪNG VỘI SÁNG

 

Chậm chút nữa đêm ơi! Đừng vội gáy tiếng gà

Chỉ còn lại đêm nay. Chỉ đêm nay nhìn lại

Vòm thốt nốt giữa cánh rừng lửa cháy

Tiếng pháo xa còn vọng mãi ì ầm...

Những địa danh trong ký ức xa xăm

Chưa vội xanh rêu. Chưa mờ kỷ niệm

Không phải như tráng sĩ trở về cung với kiếm

Chúng tôi về mang theo nhớ cùng thương

Mang theo cơn sốt rét ở chiến trường

Những ngày lạnh run niềm tin nghiệt ngã

Không hề so đo. Không hề mặc cả

Mười năm đi qua cuộc chiến tranh này

Chúng tôi cùng tâm sự với đất đai

Chậm chút nữa đêm ơi! Chỉ đêm nay ngồi lại

Cỏ chưa xanh những nấm mồ đồng đội

Chiến hào còn ấm áp bước chân quen

Những đêm khuya thao thức với ngọn đèn

Lá thư nhà chuyền tay nhau đọc vội

Tiếng pháo gầm gừ bên kia biên giới

Làm chòng chành giấc ngủ mỗi đêm

Chúng tôi về mang theo những cánh tem

Bìa thư cũ nhòe màu mực tím

Chiếc võng tòng teng trong căn hầm dã chiến

Gió sẽ lùa vào chống chếnh nhớ thương ai?

Chỉ còn đêm nay, đừng vội đánh thức ban mai

Xin yên tĩnh cho cánh rừng đang ngủ

Đêm diệt chủng của một bầy quỷ dữ

Chỉ còn trong huyền thoại Ăng-co

Kỷ niệm chất đầy trong chiếc balô

Năm tháng đi qua ngọn gió rừng phóng khoáng

Chậm chút nữa đêm ơi! Trời đừng vội sáng

Tuổi trẻ chúng tôi không trở lại bao giờ...

Lê Minh Quốc


HOÀI NIỆM CÁNH RỪNG

 

Có nhiều lúc nằm một mình đợi sáng

Lòng vu vơ mơ đến cánh rừng

Chân dung tôi của năm mười tám

Võng chông chênh súng khoát ở sau lưng

Tại sao nhớ những điều xa xôi ấy ?

Gà gáy vang bóng tối ở thị thành

Nghe nôn nao tưởng trèo non vượt dốc

Chiếc ba lô nặng trĩu bước quân hành

Con mắt mở nhìn vào bóng tối

Nghe dế reo vui cỏ mượt trước sân nhà

Bỗng lao đao tưởng nằm trên cánh võng

Treo tòng teng hầm dã chiến chữ A

Có những điều muốn quên nhưng lại nhớ

Giữa dòng đời xuôi ngược lợi và danh

Trong phút chốc cũng đều vô nghĩa hết

Chiến trường xa đồng đội ngủ yên lành

Tôi lại thức nằm một mình đợi sáng

Chẳng có gì vui và chẳng có gì buồn

Không thể nào quay về năm mười tám

Thương nhớ hoài mệt mõi với trăng suông...

Lê Minh Quốc

 


NHỊP THỞ ‘MỘT- HAI”

 

 

Dây ba lô xiết chặt

Oằn cả đôi vai gầy

“Đi đều - đi - đều - bước”

Phố phường không bóng cây

A ha thời trận mạc

Còn lại những vết chai

Xòe bàn tay năm ngón

Ve vuốt nắng ban mai

Chân đi mà đau nhói

Dù đã mang đôi giày

Đi một vòng trái đất

Chợt nghe tiếng “một - hai”

“Đi đều - đi - đều - bước”

Chớp mắt hết thời trai

Đi ta còn đi mãi

Vào quán uống lai rai

Vào chợ nghe thiên hạ

Rót mật đầy lỗ tai

Đỏ bừng bừng con mắt

Xốc ba lô lên vai

“Đi đều - đi - đều - bước”

Vượt núi cao sông dài

Sông bây giờ cạn nước

Núi thấp xuống ngang vai

A ha chàng binh nhất

Tròm trèm tuổi bốn mươi

Đi trong phường giữa phố

Thân thiện với mọi người

Dù ai không cười lại

Cuộc đời vẫn cứ tươi

Đứng dựa cây trụ điện

Thắt chặt lại dây giày

“Đi đều - đi - đều - bước”

Chẳng ai nhìn rõ ai

A ha thời trận mạc

Xương thịt gửi đất đai

Bây giờ vụt đứng dậy

Cùng đồng đội sum vầy

Thương nhau như cật ruột

Đi đều nhịp “một- hai”...

Lê Minh Quốc


CƠN SỐT

 

Tan ra trong không gian quay cuồng

ngọn cỏ lau mọc giữa ngực

tiếng cười nhạt nhẽo

ngoài trời đang mưa

gió thổi trên mái nhà vang vọng lại âm xưa

cánh rừng ù ù tiếng đại bác

võng đang nằm chao nghiêng

cơn sốt xô tôi lăn xuống đất

hố mắt ứa ra vài giọt nước mắt

vỗ về ngọn cỏ xanh

trời ơi ngọn cỏ xanh

nhai ngấu nghiến

mây trời xanh đã tan trong miệng

đủ sức để đẩy lùi cơn sốt

suốt mấy đêm tôi nằm tái nhợt

mơ được ăn ngôi sao trên trời

có phải ăn được nó thì da dẻ hồng hào ?

tôi cứ hy vọng

võng nghiêng như đang nằm trên sóng

tôi trôi về nơi nào ?

đang nằm đây mà nghe vọng trong đầu

tiếng gió rú

tiếng B.40 của những ngày rất cũ

nổ tan tành

ngoài trời còn mưa hay nắng đã lên xanh

tôi đang thức hay chập chờn giấc ngủ ?

mở cửa sổ nhìn ra

vẫn gặp hoa trẫy hội trước sân nhà…

Lê Minh Quốc


ĐỒNG ĐỘI

 

(Tặng Đoàn Tuấn)

Lâu lắm chẳng thư từ

Cũng không nghe điện thoại

Như trái gái tương tư

Thèm được nghe giọng nói

Mày xa tít Hà Nội

Tao ở tận Sài Gòn

Gặp như tằm ăn rỗi

Uống bia ít thấy ngon

Sao không chung một vợ

Để được gặp nhau luôn

Đùa thôi duyên với nợ

Ít vui lại nhiều buồn

Nhớ hoài thuở chung hầm

Tránh pháo gầm đại bác

Khói súng sẫm câu thơ

Hai thằng cười tuếch toác

Dìu nhau đi chệch choạc

Biên giới dốc với đèo

Ba lô mười bảy tuổi

Suốt đời còn mang theo

Giọt nước mắt trong veo

Ấm trên vai đồng đội

Còn sống thì không quên

Thịt xương trong đất sỏi

Lại thèm nghe giọng nói

Qua không gian vô cùng

Kiếp người thì hữu hạn

Cõi đời quá mông lung

Tao mày có gì chung

Trong tâm linh bé nhỏ?

Nhớ mày tao ra sân

Cúi mặt nhìn ngọn cỏ...

Lê Minh Quốc


ĐÊM HẠNH NGỘ

 

Ngồi lại cùng nhau bên đống lửa

Vỗ tay reo cho ấm nhánh trăng gầy

Đồng đội ơi một thời trận mạc

Vẫn còn kỷ niệm ở trên vai

Xin đọc lại bài thơ ngày trước

Viết bên cánh võng gió xênh xang

Thổi vào vần điệu thời trai trẻ

Hương rừng quyến rũ đến mênh mang

Xin nhớ lại ngày trèo lên Danrek

Bạn ơi sốt rét đến trọc đầu

Mùa xuân gió núi khô không khốc

Mây trắng phiêu du cũng bạc nhầu

Xin kể lại đêm vào chiến dịch

Bạn khâu áo rách đến là thương

Sao con chim khách kêu hoài vậy

Mày báo tin chi giữa chiến trường?

Đêm ấy cũng ngồi bên đống lửa

Dăm tiếng cười đùa xóa vết nhăn

Đường ra tuyến trước không chọn lựa

Trên đầu còn sáng một vầng trăng

Buồn vui đầy ắp trong trí nhớ

Tuổi trẻ mình đi ngang dọc cánh rừng

Từ buổi ra quân càng thấm thía

Hai mùa mưa nắng vẫn trên lưng

Đêm nay khật khưỡng vài ly đế

Người lính thương nhau rất thật lòng

Kể chuyện đời mình như cổ tích

Chợt nâng ly rượu hét xung phong!

Lê Minh Quốc


GIẤC MƠ XANH

 

Trả lại tôi là tuổi trẻ mênh mông

chúng mình như lúa reo ngoài đồng...

Tuổi trẻ của tôi lẩn trốn ở đâu?

Hỡi tiếng chim chập chùng trên cánh võng

Tôi đang kiếm tìm. Tôi đang nghe ngóng

Gió thổi về lồng lộng thuở thanh xuân

Khi xốc ba lô trở lại cánh rừng

Tôi sung sướng gặp giọng cười phóng khoáng

Người lính hồn nhiên vuốt ve đầu đạn

Quân phục thùng thình bụi đỏ lấm lem

Tôi nhận ra tôi từ dáng ngủ chông chênh

Đêm nằm co ro trong căn hầm dã chiến

Tôi nhận ra tôi trong phiên gác nửa đêm

Ngước mắt nhìn vầng trăng thơm xao xuyến

Tôi nhận ra tôi khi về thăm viếng

Nén nhang bay trên mộ bạn âm thầm

Thuở ra trận dáng Kiều nào đưa tiễn?

Đất mẹ bây giờ thêm nặng mối tình câm

Tôi trở về rực rỡ giấc mơ xanh

Thuở bắt đầu yêu. Chưa hề tuyệt vọng

Tôi nhận ra tôi đêm mưa lạnh cóng

Ngồi làm thơ bên bếp lửa nuôi quân

Tuổi trẻ đi qua mải miết giống như sông

Dòng chảy ấy không hề quay trở lại

Và mầm xanh thời trai trẻ của tôi

Trái đã chín. Xin thời gian đừng hái

Lê Minh Quốc

 


TRONG MƠ ÁO LÍNH

 

Đôït nhiên lại nhớ ngày xưa

Cánh rừng độ lượng nắng mưa bùi ngùi

Lập lòe điếu thuốc chia vui

Gối tay đồng đội cho nguôi nhớ nhà

Đêm chiến dịch ngủ rừng già

Võng giăng đầu núi thư nhà đọc chung

Ngủ giường lúc ở nhà thùng

Ngủ đất hò hẹn với cùng đất đai

Phục kích thì ngủ trên cây

Truy kích ngủ võng gối tay ân cần

Tình cờ một tiếng chim ngân

Tưởng mưa rơi xuống bần thần trông lên

Quên làm sao được mà quên

Hành quân đói lả ngã trên đầm lầy

Ba lô súng đạn đặt vai

Tôi vác hết một thời trai bọt bèo

Đường lên Khăm-pắc phải trèo

Cây gậy, khẩu súng chống chèo tựa nhau

Một ngày nhớ đến ngàn sau

Hiếm hoi giọt nước chiêm bao lại đầy

Quên làm sao được Pông-nay

Đuờng lên khúc khủy từng ngày ốm tong

Nước đầy trên tấm lưng cong

Dốc đèo thiên thẹo quẹo vòng quanh co

Đi qua lau lách đắn đo

Tiếng mìn khô khốc hẹn hò nghĩa trang

Bạn nằm lại cõi Choan-san

Còn thơm màu lá ngụy trang thuở nào?

Trời ơi! Tuổi trẻ qua mau

Vừa ngoảnh lại thấy tóc râu đề huề

Trong mơ áo lính đi về

Đồng đội gọi dội bốn bề tương lai

Lê Minh Quốc


HỒI TƯỞNG TUỔI HAI MUƠI

 

Đường đi vào trận mạc

Chiều mưa lướt thướt rơi

Những dấu chân đồng đội

Còn hằn giữa ngực tôi

Quân phục thùng thình rộng

Đôi giày há mõm cười

Chiếc ba lô bạc phếch

Chứa đựng cả gia tài

Nặng như đeo trái đất

Đi qua năm tháng dài

Vòng tay ôm súng thép

Ngày sốt rét trọc đầu

Đồng đội khiêng tôi chạy

Đạn thù rượt phía sau

Năm tháng đi qua mãi

Râu ria đã mọc dài

Lính đôi mươi mười bảy

Chững chạc thành con trai

Mùa khô nằm với đất

Cỏ nhú đau cả lưng

Tưởng như xuyên qua ngực

Biết mùa đã sang xuân

Mặt trời thành hòn lửa

Mặt đất nóng như nung

Chúng tôi khô như mắm

Ngủ đầm đìa mồ hôi

Gối đầu bi đông nước

Chập chờn dòng sông trôi

Chúng tôi đi và sống

Thanh xuân mỗi một thời

Những người lính hào phóng

Đạp mìn chân cụt rồi

Nhưng trên vai vẫn cõng

Giọt lệ lẫn nụ cười

Cho tôi được sống lại

Ngày đầy tuổi hai mươi

Kỷ niệm tan trong máu

Nuôi dưỡng tôi thành người

Lê Minh Quốc


TRƯA NAY

(Tặng Cao Vũ Huy Miên) 

"Trưa cuốc đất trên cánh đồng Chó Ngáp

Cuốc đụng miểng bom cứ tưởng cục vàng"

Câu thơ bạn viết thời phóng khoáng

Còn nghe dội lại tiếng cười vang

 

Những vóng mây trôi trong trí nhớ

Muôn đời sau râm mát chỗ ta ngồi

Một dòng kênh xanh. Một vòm trời vạm vỡ

Ta ngước nhìn còn thấy mặn mồ hôi

 

Trưa nay lang thang đi trên triền dốc

Bàn chân nhói đau chạm đóa cúc vàng

Bông hoa dại như thời trai trẻ

Còn rực vàng dưới nắng chang chang

 

Trưa nay, tôi về ngủ bên dòng suối

Còn năm mơ nghe chim chóc tự tình

Giấc ngủ được vỗ về hương rừng núi

Giữa cuộc đời độ lượng nắng bình minh

 

Cứ tưởng kỳ niệm xưa thất lạc

Những ngược xuôi cơm áo của đời thường

Câu thơ bạn viết thời phóng khoáng

Rưng rưng vọng lại đến là thương...

Lê Minh Quốc


ĐẾN HÀ NỘI NHỚ BẠN THỜI ĐI BỘ ĐỘI

 

Đi trên 36 phố phường

Tôi xa rời những hội hè đình đám

Những ngõ ngách bức tường rêu xám

Rực sáng nụ cười nửa tỉnh, nửa quê

Những mái nhà như đang ngủ mê

Cánh cửa khép hờ lờ mờ giọng hát

Những ngõ nhỏ xiên xẹo quẹo về đâu?

Tôi cứ thả bước chân không sợ lạc

Vì hôm nay đã mua thêm đôi giày

Rất quen thuộc của thời trận mạc

Tôi đi bằng hồn. Tôi đi bằng xác

Lòng chợt vu vơ mơ đến cánh rừng

Thằng bạn thủ đô đi đánh giặc mặc quần

Nay cũng cởi trần ngồi bơm xe đạp

Bụi bặm Hà Nội há mồm ngồi ngáp

Con ruồi đen thiền định tọa trên môi

Buồn quá tôi đi như vệt sao rơi

Lòng chợt mơ về bốn bề vách núi

Bạn gùi gạo nhưng đạp mìn chết đói

Thân xác tả tơi rong chơi nơi mô?

Mà linh hồn còn nức nở ở Thủ đô

Tôi đi bằng chân. Tôi đi bằng óc

Mệt mỏi quá thì gọi chiếc xích lô

Hăm bốn giờ đi từ lúc sao mọc

Đến mặt trời lên thì tôi mệt nhọc

Đi giữa Thăng Long lại nhớ Bung-lung

Đường dài ôi thời gian nhân vận tốc

Kỷ niệm rớt trên đầu ngang dọc

Bạn tôi đang về lảo đảo cõi tâm linh

Bạn tôi hiện lên trên chiếc áo nhà binh

Ngay dưới chân tôi từ đôi giày lính?

Lê Minh Quốc


THƠ MỪNG NHÀ MỚI

 

Buổi chiều anh ngồi đọc báo

và uống trà

những con chim bay qua

để rơi tiếng hót

trên mái nhà

trên từng cánh hoa thơm

anh chắp tay mà lạy mười phương

tạ ơn anh em bốn hướng

cho anh mái nhà

để mỗi chiều anh ngồi đọc báo

để lắng nghe ngày xưa gió bão

thổi về lạnh buốt cánh rừng xanh

những bước chân hành quân

giấc ngủ lưng chừng dốc núi

ngủ bụi ngủ bờ

mái nhà là ảo ảnh trong mơ

treo tòng teng hai đầu cánh võng

ru anh ngủ để mà mơ mộng

về một mái nhà

sống cái nhà chết cái mồ

bạn anh có người xương thịt cháy ra tro

nằm dọc theo biên giới

nắng nung mưa xối

anh tìm nấm mồ của bạn nơi đâu?

bạn anh có người gửi lại rừng sâu

một cánh tay

một bàn chân

muôn đời nằm phơi trần

mưa nắng

những buổi chiều anh ngồi yên lặng

nguyện cầu người khuất bóng

đã một thời cùng anh yêu và sống

hãy về dưới mái nhà

mỗi chiều ngồi uống trà

và cùng anh đọc báo


NHỮNG NGÀY LÀM THƠ

Tôi làm thơ như hít khí trời để thở

như đói thì ăn, như mệt thì nằm

con tàu đi chông chênh qua vực thẳm

tôi ngồi co ro gió rét căm căm

hỡi cô Tấm dịu dàng trong cổ tích

trái thị đầu mùa tôi lỡ cắn - sâu răng

còn nhức buốt một ngày thơ dại

như những lần

trái tim tôi em giẫm dưới bàn chân

tôi làm thơ như ...

như cái gì tôi không biết nữa

dốc đời cao và tôi như con ngựa

kéo khổ đau leo lên dốc mỗi ngày

này em,

tôi thao thức mỗi đêm

làm thơ không biết mệt

mây trắng phiêu du đỉnh trời Danrek

võng bạt tôi nằm hoài niệm cánh rừng xưa

những người lính binh nhì, binh nhất

đã sống cùng tôi tháng ngày đi đánh giặc

hồn thơ như hoa cẩm chướng đỏ tươi

như mặt trời sáng lòa giữa ngực

tôi làm thơ như...

như cái gì chỉ có em mới biết

tôi mộng du trên trang giấy một mình

cái vắng teo không hiện lên chữ viết

đêm mùa thu hoa cúc nở vô tình

như đói thì ăn, như mệt thì nằm

tôi làm thơ như tôi đã sống

Lê Minh Quốc

 


MỤC LỤC

 

Lời thưa

Thơ ĐOÀN TUẤN

Tuấn ơi! tuổi trẻ của chúng mình (Lê Minh Quốc giới thiệu)

Tuổi l8

Mẹ và hòm thư con

Tollê Sáp đêm 5-1-1979

Đất bên ngoài Tổ quốc

Lính tráng

Lá mục

Hoàng hôn Đức Lập

Đường lính

Sau màu xanh lá

Vận ơi!

Anlung năm 81

Điếu thuốc

Cơn khát và tiếng gà rừng

Đêm ấy chúng tôi nghe lời ru bỗng sợ

Mưa

Đêm ở rừng nghe thơ

Một nét làng

Tiếng ngày mới bình yên

Tối thứ Bẩy

Chiếc khăn rằn Khơme

Khúc dân ca trên điểm tựa

Miếng trầu phum Choăm Sre

“Hết nước cấm nhìn”

Dải đồng bằng thương nhớ

Giấc ngủ

Bài thơ không viết nháp

Tìm bạn

Ngày tôi rời mặt trận

Kính gửi sư đoàn 307

Trời sao

Kỷ niệm ngày nhập ngủ

 

 Thơ LÊ MINH QUỐC

 

Trên những nẻo đường chiến tranh (Đoàn Tuấn giới thiệu)

Đất nước và người lính

Đề tựa thơ mình

Ngủ đất

Nhật ký một ngày

Binh nhất

Đọc lại Truyện Kiều

Những mùa mùa khô trong trí nhớ

Uzađao 1979

Mùa trăng phum Giềng

Gặp ở Angko Vát

Trò chuyện cùng vách đá

Anglungveng 1980

Mẹ

Trở lại nơi đóng quân

Đêm ở rừng Choansan

Viết từ Anglungveng

Đọc “Bạch Vân thi tập” 1977

Viết từ cánh rừng Đông Bắc Campuchia

Dỗ giấc ngủ

Trên đường ra tiền tuyến

Những liệt sĩ trinh tiết

Bài thơ về hoa cúc

Mùa xuân

Đứng trước nghĩa trang Svâyriêng

Trò chuyện với cỏ

Đêm trú quân ở Xam Công Thmây nhớ Hàn Mặc Tử

Trên đường về nước  uống rượu ở Stung reng

Trời đừng vội sáng

Hoài niệm cánh rừng

Nhịp thở “một - hai”

Cơn sốt

Đồng đội

Đêm hạnh ngộ

Giấc mơ xanh

Trong mơ áo lính

Hồi tưởng tuổi 20

Đến Hà Nội nhớ bạn thời đi bộ đội

Thơ mừng nhà mới

Những ngày làm thơ

Chia sẻ liên kết này...

Add comment


Việt Tuấn Trinh | www.viettuantrinh.com