Quyết liệt. Dứt khoát. Táo bạo. Nhanh chóng. Đâu vào đó. Một trận đánh lớn. Đánh nhanh diệt gọn. Thế thắng tựa chẽ tre. Một phát là xong. Những từ oanh liệt, sang trọng này xin được dành cho vụ “ra quân” chào mừng “tiệc hoa” đầu năm 2016 tại Hà Nội. Sáng ngày 1.1.2016, chị Hà, nhân viên của Công ty Thảo viên xanh Udic phát biểu: “Chúng tôi không tin vào mắt mình nữa. Lúc 21 giờ đêm qua, tôi đi một vòng hồ Gươm và thấy các luống hoa còn nguyên vẹn, thế mà 6 giờ sáng nay, khi tôi đến làm việc thường nhật, nhiều chỗ hoa đã biến mất, chỉ còn những bãi đất trống trơn”(Báo Thanh Niên ngày 2.1.2016). Chào đón năm mới, có 7 ô đất trồng hoa (diện tích mỗi ô từ 10 - 300 m2) đã bị “càn quét” ngay sau đêm giao thừa Tết Dương lịch, ước tính thiệt hại lên đến hàng trăm triệu đồng.
Hãy nghe các nhà trí thức bình luận “sự kiện” này ra sao? GS Ngô Đức Thịnh - nguyên Viện trưởng Viện Văn hóa: “Ở đây có hai khía cạnh phải nói. Một là ý thức cộng đồng. Họ có thể rất đẹp trong nhà nhưng sẵn sàng ném rác ra đường. Hai là, thói quen luôn luôn thích đi tắt. Nếu đường đi là hai cạnh góc vuông thì dứt khoát là họ đi tắt qua cạnh huyền. Kể cả lội ruộng giẫm hoa thì họ cũng đi như thế! Nên có mấy khóm hoa mà năm nào cũng có chuyện”. GS Lê Hồng Lý, Viện trưởng Viện Văn hóa: “Cái đấy là lỗi tiện thể của người Bắc mình. Người trong Nam có ý thức đỡ hơn vì họ quen với lối sống phương Tây rồi. Trên các quốc lộ để tiện đường đi, người ta phá cả hàng rào. Đấy là chung cho xã hội miền Bắc, không thể đổ tội cho người Hà Nội được”.
Ấy là một cách nhìn nhận vấn đề về cái sự không lấy gì làm vui vẽ lắm. Còn đây, ý kiến của những người dân: “Nên trồng xương rồng ở vườn hoa Hà Nội, cho hết dám giẫm đạp luôn”; “Tôi đề nghị nên trồng thật nhiều cây mắt mèo vào các bãi cỏ, thảm hoa. Tôi dám cá là sẽ không một ai dám đi vào đám cây mắt mèo ấy nếu không muốn bị ngứa tối tăm mặt mày, mà càng gãi thì nó càng ngứa, ngứa đến tóe máu ra”; “Trồng hoa gì cũng được nhưng ngày lễ lớn công ty cây xanh nhớ rải bàn chông bằng đinh vào khu vực trồng hoa để bảo vệ cảnh quan của Thủ đô” (Báo Thanh Niên ngày 3.1.2016.) Đọc xong cái “hiến kế” này, bèn cười xòa. Thiên hạ ngày càng biết đùa. Cũng là vui. Ai đời lại hiến kế bằng cách “chơi khăm” tinh quái ấy?
Bàn về chuyện này, tưởng nhỏ nhưng thật ra cũng chẳng dễ. Ngày kia, đi xe hơi cùng một đại gia giàu nứt đố đổ vách, anh đã từng bỏ ra rất nhiều khoảng tiền làm từ thiện, giúp trẻ em nghèo hiếu học.... Vậy mà, khi phóng xe hơi ngoài xa lộ, thỉnh thoảng có những quãng đường thay vì đi thẳng, phải mua vé cầu đường dù chẳng đáng là bao nhưng anh vẫn lách, vòng vèo qua đường khác, đường xấu hơn một chút nhưng khỏi phải qua trạm gác. Hỏi cơn cớ làm sao? Anh chỉ cười cười dường như không muốn cho y, vốn luôn hỏi sự việc bằng cái tính tò mò của một nhà báo.
Mà thôi. Hãy quay về với chuyện văn chương chữ nghĩa, vốn rành rẽ ơn nhưng chuyện vừa nêu trên. Rằng, câu thành ngữ “giậu đổ bìm leo” thế mà hay. Chỉ bốn từ hiền lành, bình dị, gần gũi nhưng khi sắp xếp hợp lý lại tao ra một nghĩa mới hoàn toàn khác. Có thể, vẽ ra cái sự tráo trở, bày đàn, gió chiều nào theo chiều nấy, thượng đội hạ đạp, quên đi cái nghĩa ơn người khác đã giúp mình; khi người đó sa cơ thất thế là sẵn sàng nhảy loi choi mà mắng, mà chì chiết, mà vui tay xỉ vã như thể vô can, không hề hàm ơn, liên quan gì đến người đó v.v… và v.v…
Có những kẻ bất tài vô tướng nhưng muốn “ăn trên, ngồi trốc” nên trổ ngón nghề tự nguyện “dắt gái” đặng “gài” sếp; có những kẻ biết sếp vốn đạo cao đức trọng, không ăn cắp vặt, không cướp cơm chim, chỉ thích bàn về phép sống nhân nghĩa ở đời nên thường chiêu đãi bữa ăn chay tịnh chỉ rau, củ, quả và có rượu Tây đặng thanh lọc tâm hồn mà bàn chuyện để đức cho đời sau nhưng lúc chia tay lại đãi sếp món tráng miệng là “rau sạch” mơn mởn chân dài váy ngắn củn cớn mười sáu xuân xanh; có những kẻ khi sếp đang “lên voi” đứng trước mặt vợ của sếp thì cúi rập đầu, một câu “thưa” hai câu “dạ”, một câu “chị” hai câu “em” nhưng khi sếp “xuống chó” lại thay đổi cái nhìn như muốn xé toạt áo ngực người mà mình đã từng vái như vái “mẫu nghi thiên hạ” v.v… và v.v…
Đó cũng là một trong những tính xấu của người Việt.
Ơ hay, vừa nói bàn chuyện văn chương, sao lại nhảy một phát quan chuyện nhân tình thế thái? Ừ nhỉ. Thì quay lại vậy. Rằng, vừa rồi mới đọc bài trả lời phỏng vấn của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh về phim Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh. Phóng viên Thoại Hà (vnexpress.net) hỏi: “Anh có đọc trước kịch bản chuyển thể không?” Anh cho biết là không: “Chỉ vì tôi quan niệm mỗi độc giả đều cảm nhận cuốn sách theo cách của mình. Nhà sản xuất, nhà biên kịch, đạo diễn... cũng là những độc giả. Ngay cả tôi, khi cuốn sách được in ra, tôi cũng chỉ là một độc giả của cuốn sách như bao độc giả. Chỉ khác ở chỗ tôi là độc giả đầu tiên. Khi đặt dấu chấm cuối cùng lên trang sách, tôi không còn thẩm quyền để phát ngôn, chẳng hạn "phải hiểu chỗ này như thế này", "ý tôi là như thế kia"… và khi cuốn sách được in ra hàng vạn bản, nó đã có cuộc sống riêng của nó, lúc đó nó đã thuộc về công chúng. Nếu tôi bảo phải hiểu cuốn sách là A nhưng người đọc cứ muốn hiểu là B thì tôi cũng không thể áp đặt được. Đó là tính dân chủ trong cảm thụ văn chương và khoảng trống văn bản trong tác phẩm của nhà văn luôn có chỗ cho óc sáng tạo và trí tưởng tượng của bạn đọc”.
Câu trả lời chính xác. Một văn bản chính trị, nghị quyết, hợp đồng ký kết v.v… nó buộc từ người viết đến người đọc, người nghe phải cùng có chung một cảm nhận, một nhận thức, một cảm xúc đồng nhất để cùng hành động, cùng thực hiện. Tác phẩm sáng tạo, hình thành từ cảm xúc chủ quan, mang dấu ấn cá nhân của người nghệ sĩ bao giờ cũng có nhiều sắc màu khác nhau trong sự tiếp nhận, tiếp cận... Mà, phải nhìn nhận rằng, chính người cảm thụ lại góp phần sáng tạo lần thứ hai. Cùng chiêm ngưỡng một bức tranh, dù người họa sĩ vẽ sóng biển chiều lả lơi, sắc màu xanh biếc, gam vàng nắng chiều thê thiết gợi tình, gợi cảnh ấm áp, y nhìn thấy thế. Nhưng người bạn đi cạnh từng là thuyền nhân (boat people) với một một sự ám ảnh không cùng, lại nhìn ra những xác chết thì đã sao? Chẳng sao cả. Nghe ca từ: “Mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ” của Trịnh Công Sơn có người nhìn thấy hình ảnh tháp Chàm sừng sững trong óc; có người lại nhìn thấy “tầng tháp cổ” là hình ảnh cổ ba ngấn quý phái của giai nhân thì đã sao? Chẳng sao cả.
Một sáng tạo nghệ thuật cần phải đối sử một cách khách quan, kề cả tác giả “bình đẳng” với người cảm thụ. Nếu hàng triệu triệu con người từ nhiều thế hệ đã hiểu Truyện Kiều như Nguyễn Du đã hiểu, có lẽ đến nay, sức vang, sự ám ảnh, dự báo của kiệt tác này chỉ còn lại bụi mờ thăm thẳm dưới gió lốc phủ phàng và khắc nghiệt của thời gian. Khi nghe ca khúc “Bi hài kịch (Phạm Duy phổ thơ Phẩn nộ ca của Thái Luân viết năm 1966):
Đạo diễn đưa tay lên
Đạo diễn đưa tay xuống
Bi hài kịch bỏ màn
Bi hài kịch chưa xong
Diễn viên rơi nước mắt
Đạo diễn khóc hay cười
Khán giả thì bưng môi
Khán giả thì im hơi
Ôi bi kịch còn dài
Trong hay ngoài sân khấu
Bên trên hay là bên dưới
Ai cũng buồn như nhau
Đạo diễn đưa tay lên
Đạo diễn đưa tay xuống
Bi hài kịch còn dài
Bi hài kịch chưa thôi”.
Chắc chắc sẽ có nhiều cảm cảm khác nhau, từ hàng phía khán giả, từ văn bản đã đọc. Đại khái thế. Câu chuyện này còn dài. Mà nói về tác giả Thái Luân, kể cả tra trên Google chẳng thấy nhắc đến một cách đầy đủ. Đọc lại tạp chí Văn, mới biết tác giả thơ này cùng thời với các anh Tần Hoài Dạ Vũ, Luân Hoán, Đông Trình, Nh.Tay Ngàn, Trần Quang Long v.v… Với tập thơ Vùng tủi nhục, in từ thập niên 1960, nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân ghi nhận như một trong những nhà thơ trẻ thời ấy trước nhất viết thơ phản chiến chống chính quyền Sài Gòn cũ. Đúng như anh Nguyễn Nhật Ánh vừa phát biểu: “Và khi cuốn sách được in ra hàng vạn bản, nó đã có cuộc sống riêng của nó, lúc đó nó đã thuộc về công chúng”.
Vâng, tác phẩm đã thuộc về công chúng.
Và công chúng, đối tượng cảm thụ chính là người “giải mã” cho thông điệp mà tác giả đã trình bày trong tác phẩm của mình. Mà điều này quan trọng xiết bao. Lâu nay giới nghiên cứu đều đồng tình, Chỉ Nam ngọc âm giải nghĩa là cuốn từ điển cổ viết bằng chữ Hán và chữ Nôm rất giá trị của nước Việt ta, nay vẫn còn lưu giữ được. Nhờ nó, đời sau có thể tìm lại dấu vết của chữ Nôm từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVII. Với quyển này, sau khi khảo cứu chu đáo, cô Trần Thị Xuân Lan đã lấy bằng Tiến sĩ năm 1985 và luận án này đã được Viện Khoa học Xã hội TP.HCM duyệt in thành sách. Xin mở ngoặc có tính chất riêng tư một chút: nhà văn Đoàn Thạch Biền có quyển sách này, biết bạn thơ Cao Xuân Sơn thích đọc chữ Hán, anh đã tặng cho bạn. Chơi với nhau, đối xử như đến thế ắt đáng khen. Đóng ngoặt.
Trở lại Chỉ Nam ngọc âm giải nghĩa, giới nghiên cứu hiện nay vẫn còn điểm bí rị 2 điểm: 1. Sách khắc in năm nào? Tác giả là ai? Văn bản còn lưu trữ cho biết, sách khắc in năm Tân Tỵ. Nhưng cụ thể là Tân Tỵ nào? Theo cô Trần Thị Xuân Lan, chỉ có thể là năm 1761. Tuy nhiên, theo Tiến sĩ Ngô Đức Thọ - dõi chí sĩ Ngô Đức Kế (1878-1929), Chỉ Nam ngọc âm giải nghĩa xuất hiện sớm hơn nhiều. Ông căn cứ vào câu thơ: “Sào ty ươm dã tơ vàng tốt sao”, và đặt nghi vấn ở chữ “sào”. Vấn đề đặt ra phải “giải mã” chữ “sào” để khám phá cho bằng được thông điệp, nếu có, mà tác giả đã giấu ở đó. Sở dĩ, ông Thọ phát hiện ra sớm hơn người khác vì ông là chuyên gia, tác giả của công trình Nghiên cứu chữ Huý trên các văn bản Hán Nôm.
Bằng nhiều phương pháp về học thuật, xin không dám lạm bàn, cuối cùng ông khẳng định đó chính là chữ “hỏa” đã viết kỵ húy, chứ không phải chữ “sào” có nghĩa là “tổ”. Vậy “hỏa” là tên ông vua nào mà phải viết né đi? Trả lời cho câu hỏi này, ông đã mất nhiều năm và cuối cùng ông dừng lại ở triều đại nhà Hồ. Muốn thế, trước hết phải lập gia phả dòng họ Hồ. Điều này cực khó, sử liệu phả hệ dòng họ Hồ không còn nhiều. Mà ông đã làm được. Rồi may sao, khi đọc lại Đại Việt sử ký toàn thư, ông phát hiện ra câu “Hồ Hán Thương tên cũ là Hỏa”, tất nhiên chữ “hỏa” cũng viết theo nguyên tắc kỵ húy. Với phát hiện này, TS Ngô Đức Thọ đã chứng minh thuyết phục quyển sách quý này ra đời vào năm Tân Tỵ (1401). Về tác giả, lâu nay, giới nghiên cứu cho là của Pháp Tính vì căn cứ vào câu thơ mở dầu: “Hồng Phúc danh hương, Chân Pháp Tính/ Bút hoa bèn mới tính nên thiên”, nhưng khổ nổi, nhà nghiên cứu Phật học Lê Mạnh Thát lại xác định thiền sư Pháp Tính sống vào khoảng 1470-1550. Muốn hiểu rõ vấn đề lý thú này, cứ xem lại tài liệu từ cuộc Hội thảo quốc tế Hán Nôm tổ chức tháng 111.2004 tại Hà Nội thì rõ.
Ôi, ngày tháng qua nhanh quá. Sự học mênh mông quá. Thoáng đó, thoáng đây. Đã cận kề cái Tết rồi. Lại già thêm một tuổi trời. Buồn hay vui?
L.M.Q
Trông ra cái cõi bể dâu
Trời kia đất nọ nhầu nhầu tang thương
Tưởng đi là gặp thiên đường
Ngờ đâu vẫn cái đêm trường tối tăm
Nhìn trăng cứ ngỡ là rằm
Mười lăm lăm vẫn ướt đằm tiếng oan
Ngón tay rỉ máu phím loan
Ai khóc nấc ai thở than hỡi Kiều?
Dám đâu phận mỏng duyên bèo
Cũng đành nương một mái chèo cửa Không
Cồn lầy bãi cạn bụi hồng
Bốn bề bát ngát xa trông thấy gì?
Khuyển, Ưng lại chọn tương tri
Tương thân tương ngộ vậy thì thôi
Phải đâu muôn sự tại trời
Hỏi ra mới biết bởi người ranh ma
Nước non vẫn nước non nhà
Hồn xiêu phách lạc biết là là đâu?
Một phen tri kỷ cùng nhau
Cuốn dây từ đấy về sau cũng chừa
Bức dư đồ rách te tua
Bao giờ cúi mặt phân bua rành rành?
Đầy nhà vang tiếng ruồi xanh
Làm cho đổ quán xiêu đình như chơi
Những là thân phận tôi đòi
Cũng liều mặt phấn làng chơi bẽ bàng
Bao giờ dậy tiếng sấm vang
Thanh gươm yên ngựa lên đàng thẳng dong?
L.M.Q
(ảnh:Internet)
Sắp hết một năm. Năm 2015. Chỉ một ngày nữa. Một năm đi qua, những gì còn đọng lại? Những gì sẽ mất đi. “Cái đất nước mình nó thế”. Hóa ra ông Hoàng Ngọc Hiến, chẳng nhớ nổi ông đã viết, đã nghiên cứu những gì, nhưng rõ ràng câu nói ấy hết sức ấn tượng. Khó quên. Còn “thời sự” dài dài. Năm tháng đã sống cơn cớ làm sao lại tréo ngoe, kỳ cục, quái đản đến thế. Mỗi ngày, đôi khi để có thể vui sống, con người ta phải chọn cách tốt nhất là thanh lọc chính mình, tự làm một cái rào cản để không phải tiếp xúc với quá nhiều thông tin ô nhiễm. Ngộ độc như chơi.
Tìm lấy niềm vui cũng chẳng dễ dàng gì.
Thật đáng kính nể nhiều đồng nghiệp, trong cái mớ bùng nhùng, rối rắm của cái đời này, họ vẫn có thể tìm được những lối thoát tích cực. Có người trao hạnh phúc, niềm vui cho kẻ nghèo đói, bất hạnh bằng những suất cơm giá rẻ, bằng những chuyến đi trao học bổng, bằng tình cảm nhường cơm xẻ áo; lại có người tiếp tục với những trang viết tươi sáng, hướng thiện như một cách thắp lên niềm tin, che gió độc để giữ lấy ánh sáng của lòng thiện… Vẫn còn đó những con người lặng lẽ đi qua cuộc đời này bằng cái nhìn nhẹ nhàng, an lạc. Phải thế. Phải tin thế. Đôi khi đó cũng cần một thư doping, một thứ ảo giác để đánh thừa cảm giác đã nhìn thấy từ hiện thực. Đã ngấu. Đã buồn nôn. Nếu không, trong những năm tháng xáo trộn, bùng nhùng, nhốn nháo, láo nháo, lếu láo này những con người bình thường - chỉ muốn sống lương thiện, tay làm hàm nhai biết tựa vào đâu, dựa vào đâu để đi qua một kiếp người? Cũng là người nhưng đôi lúc nhìn quanh, nhìn lên, nhìn xuống thấy rặt là người nhưng tại sao lại xa lạ đến thế. Cái sự xa lạ ấy, đừng nhìn đâu xa, cứ nhìn vào những phát ngôn của họ, có thể thấy sự hổn độn, dối trá khinh khiếp đến dường nào.
Thử đọc, Năm 2015: Những phát ngôn ấn tượng và thì… tương lai trên báo điện tử VietNamnet ngày 29.12.2015. Y lượt ghi:
Ông P.Đ.L, cựu Phó Trưởng ban Tuyên giáo, Thành ủy HN: “Biết đâu, những người nghèo họ cũng khao khát được xem bắn pháo hoa, những lúc thưởng thức bắn pháo hoa giúp họ quên đi cái nghèo, cái khó”; “Cái gì cũng phải hỏi ý kiến hay sao? Bây giờ chỉ có chuyện trồng cây mà phải hỏi ý kiến dân! Tôi hỏi thế đất nước bây giờ động đến cái gì đi hỏi dân thì bầu ra chính quyền làm gì...(VietNamNet, ngày 17/3). Phó GS.Ts. N.H.T (Học viện Hành chính Quốc gia): “Đã là kinh tế thị trường thì chạy là tất nhiên, luật hóa cho tiền chạy nổi lên, dễ kiểm soát. Và trên thế giới ai cũng chạy chức chạy quyền, kể cả Obama (Tuần Việt Nam, ngày 28/1). Đại biểu Quốc Hội L.N kiến nghị đổi mới cách trừng phạt những kẻ tham nhũng: “Không cần bắn, chỉ cần nhốt trong lồng đẹp để ở nhà vợ nuôi cho đủ… xấu hổ”. Ông H.T.A - Bộ trưởng Văn hóa- Thể thao- Du lịch: “Trách nhiệm của tôi là sẽ truyền đạt lại cho Bộ trưởng kế tiếp, chứ hết thời gian rồi thì làm sao bây giờ?”; “Tôi trả lời chất vấn như vậy là để giảm stress cho các đại biểu Quốc Hội”. TS N.V.T - Phó Chủ nhiệm UB các vấn đề XH của Quốc Hội khi đề cập về việc tăng giá dịch vụ y tế cũng như bảo hiểm y tế trong năm 2016: “Giá bảo hiểm y tế dù tăng cũng chỉ bằng 2-3 bữa nhậu (VTV, ngày 19/12)” v.v..
Còn có thể trích dẫn thêm. Mà thôi. Hãy để công việc tổng kết đó cho cho các tờ báo cười. À, nếu có ai chịu khó một chút, thu thập lại các câu nói "bất hủ" của quan chức nước nhà, chỉ từ 1975 trở lại đây thôi ắt sẽ có một công trình giá trị, đời sau cần dùng đến. Chắc chắn nó tồn tại bền hơn gấp vạn lần các bài diễn văn mà hiện nay các báo phải đưa tin từ trang 1, in toàn văn ở trang trong. Y là người yếu bóng vía, không dám bàn đến nữa.
Hãy xem chiều qua, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã bình chọn bố 10 sự kiện văn hóa, thể thao, du lịch tiêu biểu năm 2015 như thế nào? Kết quả 10 sự kiện được công bố như sau:
1. Chương trình Diễu hành Nghệ thuật kỷ niệm 70 năm Quốc khánh với chủ đề "Việt Nam - Khát vọng hòa bình" tôn vinh sự đa dạng văn hóa và khát vọng hòa bình của các dân tộc Việt Nam.
2. Triển lãm 70 năm thành tựu kinh tế - xã hội với quy mô lớn nhất từ trước đến nay, trong đó có nhiều hiện vật lần đầu tiên được đưa ra trưng bày.
3. Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng (Quảng Bình) lần thứ hai được công nhận là Di sản Thiên nhiên Thế giới. Đây là di sản đầu tiên ở Việt Nam được UNESCO công nhận tiêu chí về đa dạng sinh học có giá trị nổi bật toàn cầu.
4. UNESCO ghi danh Di sản đa quốc gia "Nghi lễ và trò chơi Kéo co" là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Đây là lần đầu tiên Việt Nam tham gia xây dựng thành công hồ sơ di sản đa quốc gia.
5. Lần đầu tiên Nhà nước công nhận danh hiệu Nghệ nhân ưu tú, vinh danh các báu vật nhân văn sống trong lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể.
6. "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh" trở thành bộ phim đầu tiên của mô hình Nhà nước đầu tư, tư nhân sản xuất, tạo được tiếng vang về chất lượng nghệ thuật và hiệu quả kinh tế.
7. Chính phủ ban hành các Nghị quyết miễn thị thực có thời hạn cho công dân 6 nước châu Âu vào Việt Nam, tạo bước đột phá cho ngành du lịch.
8. ABC News - Kênh truyền hình Mỹ thực hiện chương trình truyền hình trực tiếp từ hang Sơn Đoòng và hang Én (Quảng Bình), thu hút sự quan tâm của du khách quốc tế.
9. SEA Games 28 là kỳ SEA Games thành công nhất trong lịch sử thể thao Việt Nam, khi lần đầu tiên các môn Olympic đóng góp tới 87% tỉ lệ các môn đoạt Huy chương Vàng.
10. Ánh Viên vào top 5 nữ kình ngư xuất sắc nhất châu Á, được báo chí quốc tế mệnh danh "Cô gái thép".
Nghĩ thế nào? Chẳng nghĩ thế nào. Chỉ tự hỏi, có một sự kiện về văn hóa, cơ quan Thông tấn xã Việt Nam bình chọn, nhưng Bộ này thì không? Đó là “Chuỗi sự kiện Kỷ niệm 250 năm Ngày sinh Đại thi hào Nguyễn Du (1765 - 2015): Đây là hoạt động văn hóa lớn của quốc gia được tổ chức thành chuỗi các sự kiện sôi nổi trên toàn quốc mà đỉnh cao là chương trình đại lễ diễn ra vào tối 5/12 tại Hà Tĩnh. Cùng với đó là các hoạt động hưởng ứng trên bình diện quốc tế theo tinh thần của Nghị quyết UNESCO về việc vinh danh đại thi hào Nguyễn Du. Các hoạt động này, một lần nữa, đã làm nổi bật thân thế và sự nghiệp của Nguyễn Du, đặc biệt là tác phẩm “Truyện Kiều” - được đánh giá là "một trong những tác phẩm văn hóa trứ danh nhất của thế giới", đề cao chủ nghĩa nhân đạo, khát vọng hòa bình, giá trị gia đình, truyền thống văn hóa...”.
Vị trí nào, tầng lớp nào, quan điểm nào ắt kết quả bình chọn đó. Mà thôi. Y là người yếu bóng vía, không dám bàn đến. Trước cái hiện thực xã hội, trước thông tin thời sự mỗi ngày, việc gì phải đọc, phải tò mò rồi đâm ra lại thở dài mà nhớ đến câu thơ của Tản Đà thi sĩ thứ thiệt:
Người đời thử ngẫm mà hay
Trăm năm là ngắn, một ngày dài ghê!
Còn ai ai tỉnh, ai mê,
Những ai thiên cổ đi về những đâu?
Đời đáng chán hay không đáng chán?
Cất chén quỳnh riêng hỏi bạn tri âm
Y không có bạn tri âm. Thật đấy. Thật không ? Thế hỏi ai? Chẳng lẽ hỏi lấy chính mình? Ngớ ngẩn. Thôi thì, tìm lấy sự chia sẻ từ những tinh hoa đã vùi sau ba tấc đất, tìm ở đó một chút lòng thành đặng an ủi lấy chính mình. Cuộc sống của mỗi người, tự họ, đã là một sự lựa chọn, dù muốn hoặc không. Phần phúc, số mệnh mỗi người ngay từ lúc lọt lòng mẹ đã định hình là thế. Có phải không? “Hỡi ôi khi ở trong lòng mẹ/ Ta muốn đi cho trọn kiếp người”. Thơ Nguyễn Nho Sa Mạc. Sáng nay, dậy sớm. Không gì khác mọi ngày. Khác mỗi ngày để làm gì? Chẳng biết. Giống hệt mỗi ngày làm gì? Chẳng biết nữa. Cứ lầm lũi đi qua ngày tháng theo lựa chọn của riêng mình. Vậy thôi. Nhìn quanh bốn phía, tám hướng mặt đời, có gì vui, có gì buồn? Thôi thì, hãy ngẫm lại nhân sinh quan của nhà văn hóa Nguyễn Hiến Lê: “Một xã hội văn minh thì nhà cầm quyền không đàn áp đối lập, cùng lắm chỉ có thể ngăn cản họ để họ đừng gây rối thôi; tuyệt nhiên không được tra tấn họ. Phải tuyệt đối tôn trọng chính kiến của một người. Một xã hội mà nghề cầm bút, nghề luật sư không phải là nghề tự do thì không gọi là xã hội tự do được”.
Đọc Hồi ký Nguyễn Hiến Lê, nếu đọc bản in lần thứ nhất năm 1992 (NXB Văn Học) là thiếu sót. Nghe đâu bản in ở nước ngoài mới đầy đủ hơn cả. Đã lâu, vẫn quan tâm đến hồi ký của người bạn văn, vai đàn anh, có chia sẻ rằng: “Vẫn biết, nếu in trọn vẹn thì khó. Người ta biên tập, cắt xén cả. Vấn đề là khi viết, tự mình có “biên tập” hay không?”. Câu hỏi ấy, tưởng dễ nhưng lại khó. Khó ở chỗ, sống và viết dưới một cái nếp suy nghĩ, một guồng máy xã hội đã vận hành như thế, đã là thế, không rõ tự bao giờ, nỗi sợ hãi, sự cẩn trọng quá mức đã thâm nhập vào máu, vài cái óc tự bao giờ rồi. Muốn thoát ra, khó lắm. Bản thân y đó thôi.
L.M.Q
Cái tính của y, nó thế. Biết thế nào.
Chiều hôm kia, lai rai với vài anh bạn làm sách. Những tư nhân “vào nghề” từ thập niên 1980. Một anh bạn hỏi: “Chiều ngày 18.4.2015, lần đầu tiên Cục Xuất bản phía Nam tổ chức lấy ý kiến đề xuất chọn đường Nguyễn Văn Bình làm Đường sách của TP.HCM. Lúc đó, Q không đồng tình nhưng sao nay lại có ý kiến khác”. Khác như thế nào? Chỉ cần mở điện thoại, ngồi tại quán nhậu, với vài thao tác nhanh, gọn, lẹ là biết ngay thôi: “Nhà thơ Lê Minh Quốc đưa ý kiến: “Đường sách sẽ là một nét sinh hoạt mới cho người dân TP, là dấu ấn văn hóa đáng ghi nhận. Việc đường sách đặt ở Nguyễn Văn Bình, Q.1 sẽ có những thuận lợi về địa lý, khiến du khách thuận lợi hơn trong việc thưởng thức văn hóa du lịch của TP. Tuy nhiên, tôi cũng mong nếu đường sách thành công thì cần được nhân rộng hơn ở các quận, huyện để văn hóa đọc được lan tỏa rộng hơn” (Báo Thanh Niên ngày 21.11.2015).
Nghe anh hỏi, bèn trả lời rằng, dù tranh luận, phùng mang trợn mắt cãi nhau, không đồng tình nhưng một khi sự việc đã ngã ngũ thì cần ủng hộ nó. Chẳng việc gì phải khư khư giữ rịt lấy quan niệm của riêng mình, đó là vì cái chung có cùng một mục tiêu. Lấy cái mục tiêu chung làm trọng. Thế thôi. Vì lẽ đó, sáng hôm kia ngồi viết thêm đôi dòng cổ xúy cho việc ra đời Đường Sách, để quy trình kịp in Báo Phụ Nũ chủ nhật:
“Đầu năm 2016. Quyển lịch đã lật qua một trang mới. Một búp non trên cành biếc đang nõn. Có lẽ, sự kiện mới nhất trong chuỗi sư kiện đón chào năm mới, theo y, không thể kể đến sự ra đời của Đường Sách. Vị trí này là con đường Nguyễn Văn Bình, sát bên Bưu điện đường phố đã được UBNDTP.HCM đồng tình. Động thái này, cho thấy rằng, một trong nhiều giá trị văn hóa cần tôn vinh, cần khuyến khích sâu rộng vẫn là sự tiếp cận với con chữ trên từng trang sách. Chưa bao giờ “văn hóa đọc” lại trở nên cần thiết như trong thời buổi khi mà sự nghe, nhìn đã là lựa chọn quen thuộc, hàng đầu của giới trẻ.
Thêm một con đường sách ngay vị trí trung tâm, chắc chắn sẽ tạo nên một thiện cảm, một cảm hứng không chỉ với người dân thành phố mà còn cả với du khách nước ngoài. Y mường tượng nghe nhịp chuông thánh thiện từ Nhà thờ Đức Bà vọng sang, lúc đang đứng lật quyển sách mới. Y hình dung ra những gương mặt tươi trẻ đang hát nhịp đồng ca tại NVH Thanh Niên khi nhìn vào những bìa sách mới. Dòng đời mỗi ngày mỗi đi qua. Vòm lá trên các con đường Nguyễn Văn Bình, Phạm Ngọc Thạch, Hai Bà Trưng… vẫn bốn mùa thay lá, nhưng từ đây đã hình thàn nên một “điểm nhấn” dành cho người yêu sách.
Trong lịch sử phong kiến Việt Nam, y rất thần tượng, ngưỡng mộ thời Lê Thánh Tông. Triều đại ấy, đức vua ấy, nhà bác học, nhà sử học lỗi lạc Phan Huy Chú đã nhận xét: “Tư chất và tính khí nhà vua cao sáng, ham học không biết mỏi, tay không rời sách; kinh, sử, chư tử, lịch số, toán, chương đều tinh thông; văn thơ càng giỏi hơn các bề tôi. Về trị nước thì vua tôn trọng nho thuật, cất nhắc anh tài, sáng lập chế độ, khôi phục và mở mang bờ cõi, văn vũ, tài lược hơn các đời. Người ta cho chính trị đời Hồng Đức là rất thịnh”. Điều gì đã hun đúc nên con người văn võ song toàn ấy? Tôi nghĩ, còn có phần do nhà vua ham thích đọc sách. Ngài cho biết:
Lòng vì thiên hạ những sơ âu
Thay việc trời dám trể đâu
Trống dời canh còn đọc sách
Chiêng xế bóng chửa thôi chầu
Học tập tiền nhân có nhiều điều phải học, trong đó, có một điêu dễ dàng hơn cả, vẫn là việc đọc sách, vậy nên sao ta không bắt chước theo?
Từ con đường sách Nguyễn Văn Bình, chỉ đi bộ một đoạn ngắn ắt gặp Thư viện Quốc gia, nơi ấy trước kia là Khám lớn Sài Gòn. Ai lại không từng có những ngày ngồi lặng lẽ cùng trang sách, nhìn ánh nắng xiên xiên ngoài cửa sổ mà lóng nhẹ nhàng, thanh thản? Rồi cũng từ đường Nguyễn văn Bình, đi một đoạn ngắn ắt gặp Dinh Thống nhất, thử hỏi, giữa hiện tại và quá khứ đã đan quyện vào lòng người ra sao? Chỉ nghĩ đến đó đã thấy lòng vui. Và vui hơn cả, cũng từ con đường sách ấy, phóng một tầm mắt là gặp ngay ngôi trường cũ. Trường Khoa học Xã hội và Nhân văn, trước là Trường Đại học Tổng hợp, trước đó nữa là Trường Văn khoa Sài Gòn. Có lẽ làm nên huyền thoại cho ngôi trường ấy, phải kể thêm thi sĩ sĩ Đông Hồ. Lúc đang giảng quốc văn, ngâm bài thơ Trưng Nữ Vương của Ngân Giang, thầy Đông Hồ đã đột quỵ mà trên tay vẫn còn cầm quyển sách. Nhiều thế hệ sinh viên làm sao quên câu chuyện ấy?
Sáng nay, nói như nhà thơ Thanh Tịnh: “Con đường này tôi đã quen đi lại lắm lần, nhưng lần này tự nhiên tôi thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn: Hôm nay tôi đi học”. Vâng, đọc sách cũng là một cách tự học đấy thôi. Sáng nay, bước vào dòng người tấp nập xuống phố, hoa đã biếc, lá đã xanh, lòng người đã mới và y ngâm lại bài thơ của thi sĩ Đông Hồ miêu tả quyển sách, khác gì khắc họa hình bóng giai nhân diễm tuyệt:
Da ngọc ngà phô giấy nõn nường
Tóc huyền mun gợn mực yêu đương
Dịu thon lưng uốn đường sông núi
Trinh sạch lòng pha chút tuyết sương
Xiêm áo phong phanh tờ lụa ngỏ
Phấn hồng thoang thoảng bụi hương vương
Nàng thơ kiều diễm Xuân kiều diễm
Chữ gấm lời hoa gửi bốn phương.
Cha chả là hay”.
Viết đến đó, ngưng bút, đi làm. Send email. Thú thật, chưa đọc bài thơ nào miêu tả về quyển sách hay đến thế. Quá hay. Bài thơ trên, thi sĩ Đông Hồ in thiếp mừng xuân năm 1955 rồi gửi thi hữu. Chao ơi, thú chơi của người xưa thật tao nhã. Phải là người yêu sách cực kỳ, mới có thể nhọc công dụng bút diệu vợi đến từng dòng, từng chữ… Từng dòng, từng chữ ấy hiễn hiện lên trong mắt là bóng và hình của giai nhân đấy chứ? Hãy nghe chinh tác giả giải thích: “Giai nhân là ai? Là nàng sách, là nàng thơ, là nàng văn chương kiều diễm đang giữa đời xuân kiều diễm. Nhân ngày xuân mượn lời chim hoa, chuyển khắp tri kỷ bốn phương trời. Ý thơ đong đưa, lời thơ bay bướm, vừa trang trọng, vừa lịch sự, đáng là bài thơ chúc lành buổi đầu xuân năm mới”. Và cũng trong tập sách Úc viên thi thoại do chính Đông Hồ tuyển, đóng thành tập hai hôm trước ngày mất, Mộng Tuyết thất tiểu muội cho XB năm 1969 - NXB Mặc Lâm, còn có thêm bài thơ khác:
Vọng mỹ nhân hề thiên nhất phương
Tơ tình xưa để mối nay vương
Thơ lai láng khắp hồn kim cổ
Mực đậm đà thêm ý cỏ sương
Nhà ngọc mong treo vần diễm tuyệt
Lạng vàng dám đổi giá tương đương
Ơn nhờ son phấn duyên tri kỷ
Cho một lần Xuân một nõn nường.
Đọc lại lần nữa đi. Có phát hiện ra gì không? Chú ý các vần “phương, vương, sương, đương, nường” cả hai bài thơ ắt sẽ nhận ra ngay thôi. Thế mới biết, dụng công việc làm thơ. Đông Hồ lại tâm tình về bài thơ thứ hai: “Là ý thi nhân không dám nghĩ đem lạng vàng đổi lấy một vần thơ. Vàng sánh với thơ, cân xứng tương đương làm sao được. Duy lòng thành khẩn ước mong, chỉ cầu được một vần diễm tuyệt, để treo cao ở chốn ngọc đường”. Hỡi ôi, những con người thi sĩ thứ thiệt ấy, nay có còn không? Những vần thơ thứ thiệt ấy, thời buổi này có còn ai đọc nữa không? Có lẽ đã qua cái thời của thơ rồi. Những tập thơ của bạn bè,thân hữu tặng lâu nay, y chất trong nhà đã cao ngất chạm nóc rồi đấy. Nghĩ mà thương.
Vừa đọc trên VnEconomy - Báo điện tử thuộc nhóm Thời báo Kinh tế Việt Nam bài báo Người châu Á tìm gì trên mạng năm 2015? Vài thông tin cần ghi lại: “Công ty sở hữu công cụ tìm kiếm lớn nhất thế giới, Google vừa công bố danh sách những từ khóa được tìm kiếm nhiều nhất đối với từng nước và cả thế giới. Theo hãng tin Bloomberg, tại châu Á, kết quả tìm kiếm tại mỗi nước có rất nhiều khác biệt, nhưng vẫn cho thấy được nhiều điều thú vị về sở thích của các “công dân mạng”; “Riêng với Trung Quốc, Google không thể công bố danh sách những từ khóa được tìm kiếm nhiều nhất tại nước này, do Google hoàn toàn bị chặn tại Trung Quốc đại lục”; “Dưới đây là danh sách những từ khóa được tìm kiếm nhiều nhất tại một số nước/vùng lãnh thổ châu Á:
Việt Nam:
Vợ người ta - Bài hát về tâm trạng một chàng trai trẻ khi bạn gái cũ đi lấy chồng;
Âm thầm bên em - Bài hát của ca sỹ Sơn Tùng, về một “tay anh chị” cố gắng thay đổi bản thân để được bạn gái yêu;
Không phải dạng vừa đâu - Một bài hát khác của ca sỹ Sơn Tùng;
How-Old.net - Công cụ đoán tuổi từ ảnh do Microsoft cung cấp;
Fast Furious 7 - Một bộ phim Mỹ với nhiều cảnh đua xe, với sự tham gia của Paul Walker, người qua đời vì tai nạn xe hơi cuối năm 2013;
Khuôn mặt đáng thương - Lại một bài hát của ca sỹ Sơn Tùng;
Em của quá khứ - Bài hát về một thanh niên chờ đợi bạn gái cũ từ thời trung học quay trở về;
Cười xuyên Việt - Một chương trình hài trên truyền hình;
Cô dâu 8 tuổi - Bộ phim truyền hình dài tập của Ấn Độ, kể về câu chuyện của một bé gái bị buộc phải kết hôn từ năm lên 8 tuổi;
Chàng trai năm ấy - Bộ phim lãng mạn được lấy cảm hứng từ cuộc đời của chàng ca sỹ trẻ tuổi bạc mệnh Wanbi Tuấn Anh".
Đọc xong nên có thái độ thế nào? Suy nghĩ nghĩ gì? Chà, so với sự quan tâm của ngươi dân tại các nước trong khu vực như Malaysia, Singapore, Nhật Bản, Hồng Kông, Indonesia, Philippines Hàn Quốc, Thái Lan, Đài Loan, rõ ràng có sự cách biệt nhau nhiều lắm. Năm 2015, dù thờ ơ, vô cảm đến mấy đi nữa, không một ai có thể dửng dưng với tình hình biển đảo Hoàng Sa, Trường Sa; thực phẩm bẩn tràn vào bữa ăn mỗi nhà; các vụ giết người hàng loạt; tham nhũng; chính sách bất cập trong giáo dục, y tế, xây dựng...; tai nạn giao thông; phát minh công nghệ mới toàn cầu v.v.... Điều gì đã dẫn đến kết quả vừa công bố? Mà tra cứu Google nhiều nhất là ai? Giới trẻ. Tự dưng nhớ đến thơ. Thơ nữa à? Vâng, lại nhớ đến một đoạn trong bài thơ Các vị La Hán chùa Tây Phương của Huy Cận:
Mặt cúi, mặt nghiêng, mặt ngoảnh sau
Quay theo tám hướng hỏi trời sâu
Một câu hỏi lớn. Không lời đáp
Cho đến bây giờ mặt vẫn chau.
L.M.Q
Sáng nay, thức dậy sớm. 7g30 đã ra khỏi nhà. Đường phố chật chội. Đông đúc. Lạng lách. Khói xe mù mịt. Sở dĩ ra khỏi nhà sớm vì dự hai cuộc họp. Thứ nhất, đến tòa soạn Báo Thanh Niên tham dự Lễ phát động Hiến tặng hiện vật cho Bảo tàng Báo chí Việt Nam. Từ ngày Báo Thanh Niên từ 248 Cống Quỳnh, Q.1 chuyển về đây, 268-270 Nguyễn Đình Chiểu, Q.3, nay mới đến. Vẫn gặp lại những gương mặt anh em, bồ tèo, thân thiết của thuở nào. Sau đây, vài ghi chép trong cuộc họp:
Ngày 21.8.2014, Đề án Bảo tàng Báo chí Việt Nam được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; tiếp đó, lại ký tiếp Quyết định bổ sung Bảo tàng Báo chí Việt Nam vào hệ thống bảo tàng quốc gia. Cuối tháng 11.2015, Thủ tướng phê duyệt chủ trương đầu tư Dự án trưng bày Bảo tàng với tổng kinh phí xấp xỉ 36 tỷ đồng. Diện tích 1.464 m2 được đầu tư xây dựng tại khuôn viên Tòa nhà Hội Nhà báo Việt Nam, ô E2 Khu đô thị mới Cầu Giấy, phố Dương Đình Nghệ, phường Yên Hòa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội. Dự kiến khánh thành vào dịp 21.6.2016.
Thật bất ngờ khi gặp lại nhà thơ Trần Kim Hoa, trước đây chị cùng công tác tại Báo Phụ Nữ TP.HCM, nay Giám đốc Bảo tàng. Chị cho biết tiêu chí tiếp nhận hiện vật như sau:
- Tài liệu, thông tin liên quan lịch sử báo chí và người làm báo tại địa phương; bản gốc hoặc bản sao các ấn phẩm báo chí hoặc măngset báo chí cổ, cũ từ trước Cách mạng Tháng Tám, trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và từ sau ngày miền Nam giải phóng đến nay.
- Các công cụ in ấn và làm báo (báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử) từ thô sơ đến hiện đại từ trước Cách mạng Tháng Tám đến nay.
- Các dụng cụ, đồ nghề (bút, máy ảnh, máy chữ, máy quay phim...) của các nhà báo.
- Những kỷ vật của các nhà báo: thư từ, nhật ký, sổ tay ghi chép, bản thảo các tác phẩm báo chí, đồ dùng sinh hoạt thời chiến tranh, các thẻ nhà báo.
- Các văn bản của các cơ quan báo chí, quản lý báo chí, có giá trị hoặc ý nghĩa lịch sử, dù nhỏ; ảnh báo chí, tư liệu ghi lại hình ảnh hoạt động báo chí và quản lý báo chí của những người làm báo ở các vùng miền, qua các thời kỳ; các phần thưởng của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể, tổ chức trong và ngoài nước dành cho những người làm báo và cơ quan báo chí qua các thời kỳ.
- Hiện vật cần được ghi rõ tên, xuất xứ, người hoặc cơ quan sử dụng, thời gian được sử dụng.
Trước đây, qua thông tin báo chí biết rằng NSND Bảy Nam, mẹ của NSND Kim Cương đã trao cho nhà báo, nhà sưu tập Trần Thanh Phương bộ sưu tập gồm các tập báo cắt dán năm 1963 về cuộc đảo chính Ngô Đình Diệm. Sáng nay, 1/6 của bộ sưu tập đó đã được ông Phương trao tặng lại cho bảo tàng. Sơ bộ tổng kết đến hết buổi sáng nay, bảo tàng đã nhận được trên 2.000 hiện vật, tài liệu quý - kể cả của khu vực phía Bắc đã phát động trước đó.
Trong cuộc họp, ngồi cạnh nhà văn, nhà báo Trần Công Tấn. Ông kể lại thời điểm được Hoàng thân Lào Xuphanuvong nhận làm con nuôi. Ngày 21.3.1946, ông mới 12 tuổi, làm liên lạc viên của quân tình nguyện tại mặt trận Tha-Khẹt, đem mật thư của Bí thư Xứ ủy Trung bộ Nguyễn Chí Thanh đến trao cho Hoàng thân. Nhận được thư, Hoàng thân cho gọi cậu bé liên lạc Trần Công Tấn vào, nhận làm con nuôi và đặt cho tên Lào Xômbun Xuphanuvông - mang họ của Hoàng thân. “Lâu nay, anh có qua Lào không?”. Ông Tấn đáp: “Mình qua luôn, trong gia đình, mình là con lớn nhất, vì thế, bên đó có chuyện gì cần bàn bạc là mình lại qua. Mình có viết mấy tập sách về Hoàng thân Lào Xuphanuvong, hôm nào sẽ gửi tặng Q”.
Xong Lễ phát động, Báo Thanh Niên có nhã ý mời các nhà báo ăn trưa tại Nhà hàng Cơm Niêu trên đường Hồ Xuân Hương. Y từ chối. Tranh thủ chạy qua Trường Khoa học Xã hội và Nhân văn tham dự cuộc họp thứ hai: Hội thảo Khoa học Kỷ niệm 250 năm năm sinh đại thi hào dân tộc Nguyễn Du.
Đây là hội thảo cuối cùng trong chuỗi sự kiện cả nước tôn vinh Nguyễn Du - Danh nhân văn hóa nhân vật thế giới đã được UNESCO công nhận. Nguyễn Du và Truyện Kiều vượt qua cột mốc “bất tri tam bách dư niên hậu”, mãi mãi về sau vẫn còn có thêm nhiều hướng tiếp cận khác nữa. Đó là một điều chắc chắn. “Thì treo giải nhất chi nhường cho ai”, câu thơ Nguyễn Du khen Thúy Kiều có thể ứng vào sự nghiệp của ông. Ban Tổ chức nhận được gần 100 bản tham luận từ các nơi gửi đến, xa nhất là Hoa Kỳ, Nhật Bản, Nga, Trung Quốc, lãnh thổ Đài Loan; gần hơn thì có các tác giả ở trong nước từ các trường đại học, các viện nghiên cứu, cơ quan văn hóa ở Hà Nội, Thái Nguyên, Vĩnh Phúc, Hà Tĩnh, Huế, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Đà Lạt, Bình Dương, Đồng Nai, Cần Thơ, TP.HCM. Từ các tham luận này, Ban Tổ chức cùng nhà nghiên cứu Đoàn Lê Giang - Huỳnh Như Phương chọn ra 79 tham luận, in tập sách dày dày 1.000 trang in, khổ 16x24cm. Tập sách này phản ánh đúng 5 chuyên đề được thảo luận trao đổi tại Hội thảo: Nguyễn Du và thơ chữ Hán; Văn bản và tư tưởng Truyện Kiều; Giá trị văn chương Truyện Kiều; Vấn đề tiếp nhận Truyện Kiều; Truyện Kiều và văn học thế giới.
Hội thảo lần này, có nhiều, rất nhiều điều tâm đắc.
Chẳng hạn, giới học thuật miền Nam trước năm 1975 đã tiếp cận Truyện Kiều ra sao, như thế nào, lần này đã được đào sâu, nghiên cứu chu đáo qua các tham luận như Truyện Kiều và văn học quốc ngữ Nam Bộ - Khảo sát Tuý Kiều phú và Tuý Kiều án (TS Phan Mạnh Hùng), Tiếp nhận và cải biên Truyện Kiều thành kịch bản cải lương trước 1945 (TS. Đào Lê Na), Bàn luận về Nguyễn Du trên một số tạp chí miền Nam giai đoạn 1954-1975 (ThS. Lê Thụy Tường Vy), Nguyễn Du trong lòng miền Nam: Lược thuật các hoạt động văn hoá học thuật kỷ niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du tại miền Nam năm 1965 (TS. Nguyễn Tuấn Cường), Nguyễn Du và Truyện Kiều trong tiếp nhận của phê bình văn học ở miền Nam 1954-1975 (TS Trần Hoài Anh) v.v… Khi đọc, trước mắt, y chú trọng đến tham luận của TS. Nguyễn Tuấn Cường: Nguyễn Du trong lòng miền Nam: Lược thuật các hoạt động văn hoá học thuật kỷ niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du tại miền Nam năm 1965. Vấn đề này, trước đây, hầu như chưa mấy ai lưu tâm đến. Chẳng phải khoe khoan làm gì, những tư liệu mà TS Nguyễn Tuấn Cường khảo sát, tủ sách nhà y có tương đối đầy đủ.
Sau đây là vài “gạch đầu dòng” đáng lưu ý:
“(1) Tuần lễ kỷ niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du do Bộ Giáo dục tổ chức từ ngày 3/10 đến 10.10.1965 Tại Nhà Văn hóa; (2) Lễ kỷ niệm Nguyễn Du tại Đại học Văn khoa Sài Gòn, chiều ngày 1.10.1965; (3) Buổi diễn thuyết do Hội Việt Anh tổ chức ngày 9.10.1965 tại Nhà Văn hóa” (DĐD, tr.774). “Ngoài hoạt động lễ kỷ niệm và diễn thuyết như trình bày trên, Tuần lễ kỷ niệm còn có hai hoạt động văn hóa khác, đó là triển lãm tư liệu về Nguyễn Du trong suốt tuần lễ; và đêm tưởng niệm thi hào Nguyễn Du tổ chức tại Trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ ngày 10.10.1965” (DĐD, tr.777). “Như vậy, mặc dù thời điểm 1965 hai miền Nam - Bắc còn chưa thống nhất nhưng giữa hai miền đã có một sự thống nhất về văn hóa và học thuật trong việc nhìn nhận và đánh giá những cống hiến to lớn của thi hào Nguyễn Du đối với văn hóa Việt Nam và nhân loại” (DĐD, tr.781).
Theo TS Nguyễn Tuấn Cường, toàn bộ sưu tập có đến khoảng 800 trang in, khổ sách 16x24cm. Và ông đề xuất: “Các tài liệu này thường tản mác trong các tạp chí nên khó tiếp cận, nhất là tiếp cận tổng thể. Việc in lại nhóm tài liệu này cũng xuất phát từ góc độ văn hóa và học thuật để cung cấp cho độc giả một cái nhìn tương đối hoàn chỉnh về hình ảnh của Nguyễn Du trong lòng miền Nam” (DĐD, tr.781). Xin được vỗ tay hoan nghênh. Phải là thế. Nhưng than ôi, biết đến bao giờ mới có thể thực hiện? Phải nói thật rằng, lâu nay trong lãnh vực văn hóa vẫn ngang nhiên tồn tại một thứ rào cản khắc nghiệt là sự soi rọi vào lý lịch - nhất là những người cầm bút tại miền Nam trước 1975. Muốn in lại những gì họ đã viết, vẫn là nhìn nhận từ nhân thân, lý lịch người đó, chứ không phải họ đã viết cái gì, viết như thế nào (!?). Với các bài nghiên cứu về Truyện Kiều và Nguyễn Du, và các tác phẩm có giá trị khác, nếu không có cái nhìn thiện chí trên tinh thần hòa hợp dân tộc thì sự thiệt thòi, tự làm nghèo đi di sản văn hóa đang có thuộc về ai? Mà này, than ôi, chúng ta đang sống trong thế kỷ nào vậy?
“- Chà, lại suy nghĩ những chuyện này nữa à? Thôi đi, Q ơi”.
“- Dạ”.
Tiếc thay chút nghĩa cũ càng
Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng.
L.M.Q
Tư liệu L.M.Q
Thú chơi sách cũ đấy. Bấy lâu này, trong đầu cứ thỉnh thoảng nhớ lại mất câu trong bài Học thuộc lòng thời tiểu học. Nhớ mang máng. Không thể nhớ trọn bài. Đã trên dưới hơn 50 năm rồi còn gì. Nhớ rằng:
Mẹ ơi! Trên trái đất này
Con yêu quý nhất bàn tay mẹ hiền
Bàn tay mẹ - bàn tay tiên
Bồng con suốt mấy năm liền mẹ ơi
Những khi trái gió trở trời
Con đau là mẹ đứng ngồi không yên
Chỉ nhớ đến thế. Quyết tìm lại cho bằng được. Chịu. Cái đầu óc bã đậu chỉ nhớ đến đó. Mấy hôm nay, sắp xếp lại sách cũ. Thì ra, đã sưu tập chừng 50 quyển sách giáo khoa (SGK) in ấn trước 1975. Lật hú họa một quyển. Quyển Tập đọc lớp ba, không ngờ, trang 142 có bài Lòng mẹ, tác giả Chiêu Đăng. Thế nhưng 4 câu đầu lại không có. Vậy, tại sao lâu nay lại nhớ? Có lẽ do học ở quyển sách giáo khoa khác, có in đầy đủ hơn chăng? Chi tiết này cho thấy, SGK tại miền Nam trước 1975 cùng một chủ đề, một môn học nhưng có nhiều cách biên soạn khác nhau, miễn là nó tuân thủ theo chương trình của Bộ Quốc gia Giáo Dục.
Vấn đề này, trên Nhật ký đã đôi lần phân tích rồi. Không nhắc lại nữa. Có điều, cần bổ sung thêm, SGK tiểu học thuở ấy, có loại dùng trong trường học do “Nhân dân Hoa Kỳ với sự hợp tác của Bộ Văn hóa Giáo dục Việt Nam Cộng hòa thân tặng các Trường Sở tại Việt Nam. Sách này tặng, không bán”. Sách in giấy láng, trắng, in rất đẹp. Tò mò một chút, xem kỹ ở bìa 4, sách được in tại Hong Kong. Nếu ai đó, có sưu tập SGK thời Việt Nam thuộc Pháp, ắt cũng phát hiện ra rằng, thời đó cũng có nhiều loại SGK in tại Hong Kong. Trong khi đó, nếu xem các SGK phát hành trong vùng giải phóng miền Nam Việt Nam thì hoàn toàn mù tịt, giấy in rất tốt, trắng láng, tốt gấp trăm lần SGK in tại miền Bắc cùng thời điểm, nhưng hoàn toàn không có một chi tiết nào cho biết in tại đâu?
Trở lại với bài Học thuộc lòng Lòng mẹ:
Những khi trái gió, trở trời
Em đau là mẹ đứng ngồi không yên
Tìm thầy, lo chạy thuốc men
Vì em, săn sóc ngày đêm nhọc nhằn
Hết bóp trán lại xoa chân
Lúc ly sữa ngọt, khi cân cam sành
Em ho, ngực mẹ tan tành
Em sốt, lòng mẹ như bình nước sôi
Em nằm khấn Phật, cầu Trời
Sao cho chóng khỏi, mẹ cười, em vui
Các ông bà Chiêu Đăng, Bảo Vân, Hà Mai Anh, Nguyễn Khắc Lộc v.v… có công lớn lắm. Họ là tác giả của nhiều bài Học thuộc lòng đã đi vào trí nhớ của học trò thuở ấy. Hầu như bây giờ, chẳng một ai nhớ đến nữa. Dù muốn dù không, cũng phải thừa nhận rằng, môi trường giáo dục ngày đó vẫn còn tốt lắm. Trước đó nữa, khi người Pháp mới sang, các nhà Nho đã nhìn thấy sự thay đổi nhố nhăng đang diễn ra, xáo trộn giữa truyền thống và thực tại. Tiêu biểu như lời thở than của thi sĩ Tản Đà (1989-1939):
Văn minh Đông Á trời thu sạch
Này lúc luân thường đảo ngược ru
Trong Nam, tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh cũng là một trong những giá trị tích cực nhằm cổ xúy, bảo tồn, gìn giữ nề nếp cũ. Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận rằng, thời điểm, “Chi bằng đi học làm thấy phán/ Sáng rượu sâm banh, tối sữa bò” (Tú Xương) cũng là lúc khởi đầu những giá trị mới. Đáng lưu ý nhất là sự giao thoa, va chạm, giằng xé quyết liệt giữa văn hóa Đông và Tây đã hình thành của một thế hệ trí thức “chín sớm”. Nếu không, làm gì có Thơ mới, Kịch nói, Cải lương, Chèo cải lương (cách tân chèo), Tiểu thuyết hiện đại v.v…
Thời điểm năm 1965, lúc quân đội Mỹ đổ quân sang miền Nam Việt Nam, các trí thức cũng có nỗi âu lo như thế hệ đầu thế kỷ XX. Có lần cà kê dê ngỗng, nhà văn Sơn Nam cho biết khi ông viết Truyện ngắn của truyện ngắn, chính là phản ánh tâm trạng của tầng lớp trí thức nghèo thành thị đang hoang mang, không rõ thế sự sẽ diễn biến ra sao khi có sự can thiệp của quân đội Mỹ. Gọi là truyện ngắn nhưng nó dài đến 117 trang in, NXB Phù Sa ấn hành. Nhân vật Tấn là nhà văn, ký giả, nhân ngày chủ nhật đi lang thang, giết thời gian rồi vào tiệm hớt tóc, có thanh nữ gội đầu. Cuối cùng, tác giả nhấn nhá nhiều lần rồi kết thúc: “Thôi! Càng gội càng buồn”.
Nhịp văn trễ nãi, câu văn lê thê, không chuyện gì ra chuyện gì, những câu đối thoại tán gẫu vừa tầm phào, vừa triết lý rồi cũng chẳng đi đến đâu cả. Thỉnh thoảng, tác giả trình bày quan niệm viết truyện ngắn, về nhân tình thế thái một cách rời rạc v.v… Đó là sự cố tình của một thủ pháp nhằm phản ánh tâm trạng không định hướng, chưa biết sẽ “xoay chân” thế nào khi cục diện chiến tranh đang có nhiều sự khác lạ hơn trước. Người trí thức phải làm gì? Sơn Nam cho rằng, thời điểm đó, ông chưa biết phải ứng xử thế nào cho “phải đạo” - nghĩa là vẫn có thể viết kiếm sống công khai, không bị "chụp mũ", vừa bám sát mục tiêu: “Sau khi in anh em “trong khu” nếu có đọc được thì cũng không buồn, Sơn Nam vẫn là người của thời “chín năm” chứ không đổi dạ thay lòng; thứ hai, những truyện ngắn này không chỉ phù hợp với “khẩu vị” của người đọc đương thời mà qua đó phải ngụ ý rằng, thiên nhiên và con người ở mảnh đất chót vót cực Nam của Tổ quốc là một phần không thể tách rời của non sông nước Việt”.
Trong khi đó, phải thừa nhận rằng, những người "Việt cộng nằm vùng” có tổ chức chỉ đạo, đã có cái nhìn khác hẳn, có chủ đích rõ rệt. Họ đã tìm cách đối phó bằng nhiều sách lược, chiến lược khác nhau từ quân sự đến văn hóa. Không phải ngẫu nhiên, trên tạp chí Tin Văn, từ số 1 ra ngày 6.6.1966, Vũ Hạnh đã công bố tiểu luận nổi tiếng Chín điểm trong văn nghệ. Nay, đọc lại nhiều tư liệu, mới biết rằng, các luận điểm này, Vũ Hạnh đã bám sát chủ trương của Thường vụ Khu ủy Sài Gòn - Gia Định. Không phải ngẫu nhiên Lực lượng Bảo vệ Văn hóa Dân tộc được thành lập cũng vào năm 1966 v.v… và cũng không phải ngẫu nhiên, chào mừng sự kiện thành lập Mặt trận Giải phóng, Vũ Hạnh viết truyện dài Lửa rừng (tên ban đầu Truyện nàng Y Klan), khi Mỹ đổ quân ồ ạt vào miền Nam, đã viết các truyện ngắn ấn tượng như Người chồng thời đại , Mụ Tư Cò…
Đọc lại tạp chí Tin Văn, có thể nắm bắt được các thông tin quan trọng liên quan đến những sự kiện trên. Vấn đề đặt ra, khi quân đội Mỹ đổ quân vào miền Nam Việt Nam sẽ dẫn đến sự suy đồi, xuống cấp của đạo đức, văn hóa như thế nào? làm thế nào để bảo vệ? Không rõ, sau này có ai tự hỏi, liệu chừng thời điểm ấy, tình hình căn hóa, xã hội miền Nam có thật sự "tụt dốc" thê thảm hay chỉ là một biện pháp, sách lược chính trị nhằm tập hợp lực lượng trí thức phản đối Mỹ, chính quyền thân Mỹ một cách công khai?
Ròng rã nhiều số báo, Tin Văn đã in tham luận, ý kiến, văn kiện này nọ v.v… Có một “mẫu số chung” mà nhiều trí thức "thân cộng" thuở ấy, nhấn mạnh: “phòng thủ” vững chắc nhất trước làn sóng tha hóa đạo đức, suy đồi văn hóa vẫn là nếp nhà, là gia đình. Nếu “văn hóa” Mỹ “xâm nhập” vào từng gia đình - rào chắn cuối cùng - là giá trị truyền thống mất gốc rễ. Đại khái thế. Tất nhiên, vấn đề giáo dục học đường cũng được đề cập đến. Mà giáo dục thời đó thế nào? Cùng lắm chỉ Ngựa chứng trong sân trường (Duyên Anh), Ngôi trường đi xuống (Vũ Hạnh) là cùng chứ gì? Là các cậu học trò lếu láo, xem thường thầy cô; là nhân vật của Vũ Hạnh như ông Doan-tit-xi-ta Trần Ngọc Tẹo mở trường học chỉ vì tiền chứ chẳng co mục tiêu giáo dục gì sất! Chỉ khốn nạn đến thế hay còn có gì khác nữa không? Không rõ, thời đó đã xuất hiện sự khốn nạn đến tận cùng như Gạ tình lấy điểm (Nguyễn Huy Thiệp), lấy từ “người thật việc thật” năm 2006 của gã Đỗ Tư Đông, Phó khoa Báo chí CĐ Phát thanh Truyền hình TƯ I; đã xuất hiện sự khốn nạn đến tận cùng như gã Sầm Đức Xương - cựu hiệu trưởng trường THPT Việt Lâm (Hà Giang) mua dâm học trò; đã xuất hiện sự khốn nạn đến tận cùng như xuất hiện “đường dây 'sex tour' sinh viên" (Báo Thanh Niên ngày 18.12.2015)? Nếu có, việc thành lập Lực lượng Bảo vệ Văn hóa dân tộc là hợp lý quá, phải không?
Rằng thưa, câu hỏi tầm phào
Chỉ là tiếng vọng rơi vào lãng quên
Thưa rằng, đời sống buồn tênh
Thế nào ai biết phải nên thế nào?
Sáng nay, chỉ mới suy nghĩ vẩn vơ, thoáng một chốc đã đi đến Bệnh viện Nguyễn Tri Phương. Đến thăm Tuấn Anh - đồng nghiệp của Báo Sài Gòn Giải phóng. Anh nằm ở Khoa Tim mạch. Một chiến sĩ kiên cường của làng bợm Lưu Linh đã phải tạm dừng bia bọt lai rai. Lúc về, ngang qua sân bệnh viện mới biết ở đây có dựng tượng danh thần Nguyễn Tri Phương. Lại tự hỏi, cách đặt tên như thế có bất cập không nhỉ? Năm 1873, chống giữ thành Hà Nội, cụ bị thương nặng, giặc Pháp bắt đưa xuống tàu cứu chữa. Nhưng cụ không chịu cho chúng băng bó, tuyệt thực mà chết. Chết vì nghĩa lớn. Một cái chết vẽ vang sáng ngời sử sách. Thế thì, bệnh viện mang tên cụ nhằm nêu lên phẩm chất nào mà từ bác sĩ đến bệnh nhân phải noi theo?
Thoáng đó. Đã chiều.
L.M.Q
Hình bìa tạp chí Heritage số tháng 11.2015 bị thu hồi
Sáng nay, cùng bạn thơ Trương Nam Hương sang Nhà Tang lễ thành phố thắp nén nhang vĩnh biệt đồng nghiệp, nhà văn Thanh Giang. Ghé tai bạn, nói nhỏ: “Bước vào nơi tang lễ, nếu có bàn thờ Phật, âm vang nhè nhẹ tiếng kinh cầu, tự dưng cảm thấy ấm áp, không sợ sự lạnh lẽo của cái chết”.
Lâu nay vẫn sưu tập tạp chí Heritage. Đã có chừng 500 số. Một tạp chí sang trọng, trình bày đẹp nhất hiện nay. Chỉ phát hành trên máy bay, trực thuộc Vietnam Airlines. Có thể lưu giữ lâu dài. Thông tin mới nhất: Vietnam Airlines quyết định thu hồi tạp chí Heritage số tháng 11.2015. Vì bìa vì in hình chùa Shwedagon (hay còn gọi là chùa Vàng) của Myanmar trên tà áo dài. Cô người mẫu Hồng Quế mặc áo dài này, nằm trong bộ sưu tập của thương hiệu Thái Tuấn, chụp ở Mù Căng Chải (Yên Bái). Quyết định thu hồi bắt đầu từ phản ứng trên Facebook của nhà sư Venerable Nayaka. Theo bản dịch của trang điện tử Motthegioi.vn, nguyên văn như sau:
"Hãng hàng không Vietnam airline, những nhà thiết kế và những nhà tạo mẫu Việt Nam thân mến! Người Myanmar chúng tôi thật sự rất tức giận khi thấy tấm ảnh này. Shwedagon là 1 nơi linh thiêng của tôn giáo chúng tôi, đạo Phật. Tóc, áo choàng và các dấu vết khác đều được coi là vật linh thiêng. Làm ơn tránh hành vi thiếu tôn trọng, hành vi sỉ nhục văn hóa và đức tin của người khác. Làm ơn đừng sử dụng những bức hình về ngôi đền Shwedagon cho phụ nữ mặc.
Những bức hình này là tạp chí Heritage đã cung cấp trên máy bay của các bạn ư? Các bạn đang thực sự lăng mạ lên trái tim của tất cả người dân Miến Điện chúng tôi. Các bạn có thể thấy được chúng tôi tôn trọng tôn giáo của chúng tôi ở khắp nơi như thế nào. Chúng tôi không thể cho phép bất cứ ai mặc váy hay quần ngắn để leo lên chùa cho dù các bạn có là người địa phương hay du khách. Còn bây giờ cô gái Việt các bạn lại mặc quần áo truyền thống chùa Shwedagon của chúng tôi. Thật là lố bịch! Người Miến Điện chúng tôi tôn trọng quý mến mỗi người Việt Nam khi chúng tôi gặp các bạn ở bất cứ đâu.
Các bạn sử dụng văn hóa của nước khác làm công cụ kinh doanh buôn bán một cách thiết thực để thu hút người ta nhìn vào, vậy nên chúng tôi rất bực tức. Nhân danh người Miến Điện, tôi sẽ báo cáo đến Đại sứ quán Việt nam ở Yangon, cũng như là Đại sứ quán của chúng tôi tại Việt Nam. Hơn nữa là tòa hành chính của Hãng hàng không nước các bạn ở Yangon. Làm ơn hãy dừng hành vi này ngay lập tức vì đây là vấn đề rất khẩn cấp với chúng tôi. Thật sự đáng buồn. Chẳng còn từ nào để nói nữa”.
Thu hồi tạp chí này là phải đạo. Phải vậy thôi.
Sau khi rời khỏi Nhà Tang lễ, qua Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật uống cà phê. Vấn đề chính là cần có bộ Nguyễn Du toàn tập. 2 quyển dày gần 2 ngàn trang in. Vừa bước vào phòng nhận sách biếu, một giọng nói đùng đùng vang lên, cứ như súng thần công nã vào lỗ tai: “Q đọc cái này này”. Liền đọc thử xem sao, cơn cơ gì mà người trò chuyện, đang đối diện giận dữ đến thế? Trước mặt là tạp chí Cõi người ta số 1 do NXB Hồng Đức và Hội Kiều học phối hợp thực hiện. Ở trang 125 có đoạn liên quan đến câu thơ Kiều:
“Chén hà sánh giọng quỳnh tương
Dải là hương lộn bình gương bóng lồng
Nhưng thắc mắc sao Nguyễn Du thay vì dùng chữ lộn không dùng những chữ đượm, đậm, quyện hay trộn đều rõ nghĩa và thông dụng hơn. Tôi không giải thích được.Cho nên bây giờ, tôi nghĩ Nguyễn Du cố tình chọn dùng chữ “lộn” để đặc tả nàng Kiều bằng cách nói lái nửa đầu câu 454 đấy. Người đẹp như tiên thì cái gì cũng thơm. Nên tứ thơ trên thành câu đố Kiều như sau: “Nguyễn Du hay tả Kiều thơm/ Hỏi rằng vùng kín nàng thơm mùi gì?”.
Giật mình, khi đọc dứt đoạn một văn nhảm nhí. Hội Kiều học Việt Nam là diễn đàn văn học của những người mê, yêu, thành kính, ngưỡng mộ kiệt tác Truyện Kiếu như lại có thể tòi ra câu thơ lục bát lục cà lục cục đến thế ư? Đã thế, còn hỏi một câu, xin lỗi, chỉ xuất hiện trong phòng the, chứ người có học, ai lại hỏi oang oang giữa thiên thanh bạch nhật thế bao giờ? Họa có là điên.Nhăng nhố không ngượng miệng. Hỏi xong, tác giả lại tự “đáp”: “Chén hà sánh giọng quỳnh tương/ Dải LÀ HƯƠNG LỘN bình gương bóng lồng/ Nguyễn Du nói lái ở trong/ Tả mùi thơm lạ, vui lòng thử xem”.
Đành rằng, có thể tác giả viết đùa, như đã có hàng ngàn kiểu “tập Kiều”, “lẩy Kiều” v.v… nhằm liên tưởng này nọ như một cách mua vui. Chẳng hạn, “Thênh thang đường cái thanh vân/ Một xe trong cõi hồng trần như bay” là Nguyễn Du miêu tả…xe hơi! Nhưng rồi, một khi hướng sự liên tưởng ấy đến cả cái “vùng kín” nữa, có lẽ đã là sự quá lố lắm rồi. Nếu nghiên cứu về Nguyễn Du, rõ ràng, ông không hề sử dụng bút pháp thuộc trường phái “nói thanh giảng tục” gì gì đó như Hồ Xuân Hương. Vậy hà cớ gì phải đặt ra cái sự thô tục này? Mà thôi, sở thích, nhận thức mỗi người mỗi khác, nơi nào đó, chốn nào đó có thể ăn nào bừa bãi, viết xằng thì kệ nhưng tạp chí thuộc Hội Kiều học Việt Nam lại cho in thì kể ra cũng lạ. Lạ một cách quái đản. Người đối diện, đang trò chuyện nổi giận đùng đùng là có lý, chứ nào phải do khắc khe, khó tính gì.
Đành rằng, kể từ ngày Truyện Kiều được phố biến rộng rãi cho đến nay, thiên hạ vẫn tiếp tục tìm hiểu sức hấp dẫn và nghiên cứu kiệt tác này dưới nhiều góc độ khác nhau. Có lẽ, trên thế giới chỉ có Truyện Kiều là trường hợp duy nhất mà độc giả đã dùng tác phẩm để bói cho số phận của mình. Và bản thân tác phẩm đã được quần chúng sử dụng để trở thành một sinh hoạt văn hóa rất đa dạng. Có thể kể đến: bói Kiều, tập Kiều, lẩy Kiều, đố Kiều, nhại Kiều, vịnh Kiều…hoặc dùng các thể loại phú, văn tế, văn sách, biểu, từ khúc, ngâm khúc… để viết về Kiều và các nhân vật trong Truyện Kiều. Ngoài ra, Truyện Kiều còn được chuyển thể thành tác phẩm điện ảnh, chèo, cải lương… và cũng là nguồn cảm hứng vô tận cho các họa sĩ vẽ nhân vật, cảnh vật trong tác phẩm này…
Với y, đáng nể nhất là “thú chơi” Truyện Kiều của hai thi sĩ tài danh nước Việt: Phạm Mạnh Đan (1866-1942); Vũ Hoàng Chương (1916-1976).
Nhà thơ Phạm Mạnh Danh rất kỳ khu, nhọc công khi đã viết hàng trăm bài thơ mà ông gọi Kiều tập thơ cổ: Lấy bất kỳ những câu thơ cổ điển của các thi nhân Trung Quốc, ghép lại thành bài thơ tứ tuyệt; rồi dùng thơ Kiều mà dịch nghĩa những câu thơ ấy. Phạm Quỳnh nhận xét: “Hơn ngàn câu thanh cao diễm lệ trong thơ cổ chữ Hán, đối chiếu với hơn ngàn câu bóng bẩy chải chuốt trong Truyện Kiều của ta, ghép vần ghép điệu, lựa ý lựa lời, Nôm với chữ Hán, chữ Hán với Nôm, phảng phất xa gần, tưa hồ dịch mà không phải dịch, rất có công phu, thật cũng tài tình, âu cũng là để thỏa cái thị hiếu văn chương, biểu lộ cái cốt cách thanh nhã của một khách chơi thơ sành sỏi vậy”. Chẳng hạn, Phạm Mạnh Danh đã ghép:
Ngọc tác phu cơ, băng tác thần, (Tân Liêu Trai)
Hối tương tĩnh chất điếm phong trần. (Bách Mỹ)
Đa nhân lợi hại đa phùng kiếp, (Thuyết Đường)
Nhược vị hồng nhan tích thử thân. (Bách Mỹ)
Và dùng thơ Kiều để “dịch”:
Tiếc thay trong giá, trắng ngần
Đến phong trần cũng phong trần như ai
Tẻ vui cũng một kiếp người
Hồng nhan phải giống ở đời mãi ru?
Nhà thơ Vũ Hoàng Chương cũng có cách chơi mà ông gọi là "Thơ truyền Kiều" mà người chơi gọi là “người truyền” do quan niệm: Truyện Kiều được coi là như một kiến trúc trường giang, đặt trên nền tảng ngôn ngữ chứ không phải văn tự, do đó 3.254 câu lục bát của Nguyễn Du chỉ là một chuỗi liên tiếp 22.778 tiếng (không có vấn đề chấm câu hay viết hoa…). “Người truyền” sẽ lấy ra từng chuỗi nhỏ từ 6 tiếng trở lên, bất cứ ở quãng nào trên chuỗi mẹ (dài tới 22.778 tiếng của Truyện Kiều) để kết hợp lại thành một kiến trúc nhỏ mang tên Thơ truyền Kiều, mà ý nghĩa có thể khác hẳn, không lệ thuộc vào nội dung của Truyện Kiều. Chẳng hạn, một bài Thơ truyền Kiều của “người truyền” Vũ Hoàng Chương:
Cạn tóc tơ gà đà gáy sáng
Thôi bây giờ kẻ ngược người xuôi
Tài tình chi lắm cho trời đất
Ghen cánh hồng bay bổng tuyệt vời.
(Bài truyền số 4)
Về hai trường hợp sáng tạo độc đáo này, hầu như các nhà nghiên cứu chưa mấy ai lưu tâm đến.
Sắp đến đây, ngày 28.12.2015, rại Khoa văn học và Ngôn ngữ thuộc Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn TP.HCM sẽ tổ chức Hội thảo khoa học Kỷ niệm 250 năm sinh Nguyễn Du. Có thể ghi nhận đây là hội thảo cuối cùng trong chuỗi kỷ niệm của cả nước vinh danh một danh nhân văn hóa vừa đuọc được UNESCO công nhận. Tham dự Hội thảo, y có tham luận Sinh hoạt văn hóa bắt nguồn từ Truyện Kiều in trong Kỷ yếu, là ít nhiều đề cập thoáng qua đến trường hợp nhà thơ Phạm Mạnh Danh và Vũ Hoàng Chương.
Chiều rồi.
Phải làm gì cho hết buổi chiều?
L.M.Q
(ảnh: Internet)
Ô hô! Cái sự đời sao lại nhọ đến kia?
Mấy hôm nay, báo chí đưa tin rần rần về vụ này. Vụ gì? Cứ theo Báo Phụ Nữ Việt Nam - cơ quan ngôn luận của Trung ương Hội LHPN Việt Nam, cụ thể như sau: “Đó là câu chuyện về người đàn bà xấu số tên Nguyễn Thị Lê, bị tàn tật, ở thôn Chùa (xã Hương Phong, Hiệp Hòa, Bắc Giang). Bà vừa mới qua đời ngày 9.11.2015, tròn 1 tháng trước đây. Đám tang của bà không được thông báo trên loa truyền thanh, không được cho mượn xe tang của thôn, kèn trống… như đối với người khác. Lý do đưa ra là bà Lê còn nợ thuế đất nông nghiệp, tiền đóng góp an ninh quốc phòng, ủng hộ đồng bào lũ lụt, quỹ bảo trợ trẻ em, đền ơn đáp nghĩa, khuyến học, hội xuân… với số tiền hơn 1,7 triệu đồng”.
Ông Nguyễn Văn Khúc - trưởng thôn Chùa khẳng định đây là thông tin có thật.
Báo Lao động Thủ đô phân tích: “Không biết ông Khúc không hiểu hay cố tình bất chấp mọi quy định của nhà nước, pháp luật đối với người tàn tật, hộ nghèo về các khoản thu, khi tại Nghị định số 55/NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ đã nêu việc miễn 100% tiền thuế đất nông nghiệp cho hộ nghèo có hiệu lực từ năm 2011. Cũng như tinh thần của Nghị định Chính phủ về các khoản thu đóng góp không được ấn định số tiền cụ thể. Trong đó, ở vụ việc này, có 6 đối tượng là người bị tàn tật, hộ nghèo… lẽ ra không phải đóng góp những khoản thu này. Vậy vì sao, bà Nguyễn Thị Lê và 11 gia đình khác trong thôn nằm ngoài đối tượng phải thu, nhưng thôn vẫn yêu cầu thực hiện đầy đủ? Cũng như căn cứ vào đâu để có con số hơn 1,7 triệu đồng mà bà Lê nợ thôn, để rồi chính quyền nơi đây “bỏ rơi” bà Lê như vậy?”.
Câu hỏi chát chúa, cay đắng này, trả lời thế nào?
Không phải ngẫu nhiên lại nhớ đến phóng sự Họ vẫn ăn vào xác chết của nhà văn Ngô Tất Tố, đăng báo Thời Vụ số 29, ra ngày 20.5.1938, ký bút danh Đạm Hiên. Tờ báo này, phát hành hàng tuần, số 1 ra ngày 8.2.1938, số cuối cùng vào tháng 3.1940, tòa soạn ở số 16 và 16B Hàng Da (Hà Nội). Rằng, vào một ngày tối trời, tên tuần phu chạy đến báo cho ông lý trưởng có xác chết của mụ ăn mày ngoài chợ, hiện đang nằm vất vưởng tại gian hàng của bà Năm Ngẩn. Lý trưởng liền sai gọi bà Năm Ngẩn đến. “Ông lý ra vẻ ôn tồn nói:
- Chỗ bà con tôi bảo thật, ngày mai có phiên chợ, gian hàng bán quà bánh của bà lại có cái xác mụ ăn mày nằm chết tại đấy, thì ngày mai bà hãy nghỉ hàng, vì tôi còn phải trình quan khám biên đã rồi mới đem nó đi chôn được, và sau này bà có phải lên tỉnh xuống huyện khai báo về cái xác chết ấy thế nào, bà cứ liệu mà nói. Nhưng khéo ra bà cũng phí tổn ít nhiều, vì nó chết ở gian hàng của bà, nếu không khéo thì cũng rầy rà kia đấy.
Mụ Ngẩn nghe nói rụng rời, những nghe nói hàng mình có xác chết đã sợ, lại thấy nói phải lên quan thì kinh hãi biết dường nào, hàng bán đồ ăn thức uống, thuế nộp rồi, nếu cả chợ họ biết người chết ở gian hàng mình thì còn ai mua bán gì nữa. Mụ bèn năn nỉ nói:
- Chết chửa, thế thì làm thế nào? Thưa ông, nhờ ông nghĩ giùm cháu, nhờ ông châm chước đi cho.
- Châm chước thế nào? Xác chết ở hàng nhà bà, chẳng lẽ bây giờ bà bảo tôi đem về nhà tôi chăng?
- Thôi, trăm sự nhờ ông, ông nghĩ cách nào cho cháu nhờ thì cháu không dám quên ơn ông.
- Cứ về lo lấy chục quí (10p) đem lại đây thì tôi liệu cho.
- Chết! Nhà cháu còn có gì nữa, vốn liếng được bao nhiêu, ông dạy thế thì cháu lo liệu làm sao cho được, lạy ông giơ cao đánh sẽ, xin ông làm phúc giúp cháu.
- Thôi thế thì chục gián (6p) là nhẹ lắm rồi, chẳng qua là cái hạn của bà, bán đường dài mua đường ngắn chỗ bà con tôi cũng đành cáng lấy cái chết cho bà vậy, nếu bà còn nói lôi thôi nữa thì tôi mặc, sau này bà phí tổn vài ba chục thì bà đừng trách tôi khoảnh độc”.
Xin giải thích ngắn gọn, P viết tắt của piastre hay piaster, tức là đồng bạc thuộc đơn vị tiền tệ nước ta thời thuộc Pháp; ngày trước, từ đời nhà Lê có hai loại tiền, đều gọi là "quan". Một quan 10 tiền, một tiền 600 đồng nhưng giá trị khác nhau. Tiền quý (còn gọi cổ tiền) và tiền gián (còn gọi sử tiền). Tiền gián chỉ bằng 6/10 tiền quý. Tại sao lại có sự phân biệt như thế? Vấn đề này, còn phải tìm kiếm, tra cứu nhiều tài liệu sử học mới có thể trả lời chính xác. Tuy nhiên, có thể giải thích là do chất liệu đúc nên đồng tiến ấy như thế nào? Là đồng, kẽm, kẽm pha sắt, thiếc...? Loại đồng tiền nào lưu trữ lâu bền hơn, ít bị rỉ sắt, khó gẫy ắt có giá trị hơn. Suy luận này hoàn toàn chấp nhận đươc. Ca dao có câu: “Một quan tiền tốt mang đi/ Nàng mua những gì mà tính chẳng ra/ Thoạt tiên mua ba tiền gà v.v…”. Tiền quan là “tiền tốt”. Tương truyền, Bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương có thơ xướng họa với Chiêu Hổ, cũng liên quan đến tiền. Bà xướng:
Sao nói rằng năm lại có ba?
Trách người quân tử hẹn sai ra.
Bao giờ thong thả lên chơi nguyệt,
Nhớ hái cho xin nắm lá đa
Chiêu hổ hoạ lại:
Rằng gián thì năm, quí có ba
Bởi người thục nữ tính không ra.
Ừ rồi, thong thả lên chơi nguyệt
Cho cả cành đa lẫn củ đa.
Tiền gián ăn 36. Tiền quý ăn 60. Như vậy 5 đồng gián hay 3 đồng quý đều bằng 180 đồng kẽm. Số tiền mà bà Năm Ngẩn lo lót cho ông lý, sau khi “cò kè bớt 1 thêm 2” ông ta ra giá 6 đồng bạc, số tiền ấy nhiều hay ít? Chị Dậu trong Tắt đèn vì thiếu thuế sưu đóng cho chồng chỉ 2 đồng bạc mà phải bán đàn chó con mới mở mắt, bán cái Tý hỉ mũi chưa sạch cho gia đình nghị Quế mới đủ tiền. Vậy số tiền lý trưởng đớp, trấn lột của bà Năm Ngẩn nhiều hay ít? Mà thôi, cứ theo tiếp mạch câu chuyện đang diễn ra, dừng lại tính tính toán toán mất hết cái cảm hứng đọc sách. “Mụ Ngẩn tụt bao lưng, giốc ra một cái túi vải nâu, đổ ra đếm cả xu lẫn hào và tiền trinh được 1p30 và ba cái giấy một đồng, vừa khóc vừa nói:
- Thưa ông, cả cửa nhà cháu chỉ có thế này, xin ông làm ơn nhận giúp cho, nếu còn nữa, cháu không dám tiếc, nếu bây giờ đi vay mượn đâu, sợ lộ chuyện có đứa nó cáo giác ra thì cháu chết, thôi xin ông dón tay làm phúc”.
Như vậy là xong? Mọi việc đã kết thúc? Không, ông lý tài tình, nhân ái, đức độ, thương người đến độ sai tuần phu kéo cái xác chết ấy qua gian hàng bán thịt của bác Khứu. Sau đó, cho gọi bác ta đến và nhẹ nhàng: “Tuần nó vừa vào trình tôi rằng tại gian hàng của anh có người ăn mày chết về bệnh tả, anh thử ra xem có thực thế không, nhưng đừng làm huyên náo mà mất cả buôn lẫn bán đấy”. Câu nói ấy chẳng khác gì tiếng sét nổ ra giữa trời quang đãng. "Chết! Lợn, cháu đã lấy về lò sát sinh rồi, thịt bò, cháu đã đặt tiền rồi, làm thế nào hở cụ?”. Thế nào là thế nào? "hay là cụ để cho cháu ra vác nó đi chôn quách một chỗ là xong, ai biết đâu". Đề xuất này hợp lý quá, nhưng, "Anh nói dễ chưa, mạng người có họa là cái bánh hỏi, lỡ gặp phải anh nào nó biết thì anh mất nghiệp. Ừ, anh muốn thế, tôi thây kệ anh, anh có giỏi thì thử ra vác đi tôi xem nào". Nhà văn viết tiếp: “Bác lái lợn xem ra đã chợn, đứng đực mặt, chẳng biết nói sao. Ông lý ôn tồn bảo:
- Này tôi bảo, muốn xuôi việc thì cứ "con công". "Xon công" tớ giúp cho yên ổn, ngày mai lại buôn bán như thường, nếu không thì tùy ý, muốn làm thế nào thì làm”.
Do tờ giấy bạc 5 đồng có in hình con công đậu trên cành cây, người dân bấy giờ quen gọi là tiền “con công”. Một cái xác chết vô thừa nhận, ông lý đã ăn được hai lần tiền. Số tiền đó ắt dùng cho việc ma chay, chôn cất mụ ăn mày xấu số chăng? “Sáng hôm sau, nghe ngóng mới biết lý dịch Yên Xá đã kéo xác mụ ăn mày xuống bờ Trầm mây, địa phận làng Lôi! Đấy, một cái xác chết của kẻ khốn cùng, họ nỡ nhẫn tâm như thế. Nếu hỏi họ tại sao làm điều vô đạo ấy thì họ thản nhiên mà đáp: Pháp luật bây giờ lắm khi vì làm phúc mà phải tội là thường”.
Tục ngữ có câu: “Xong xôi rồi việc”, “chó chết hết chuyện” có thể hiểu nôm na, sự việc đó, đến nước đó thì dứt khoát phải kết thúc, khép lại hồ sơ, không gì phải bàn cãi lôi nữa. Cứ thế mà làm theo luật định, quy định hiển nhiên lâu nay mà ai ai cũng đã đồng tình, chấp nhận. Khổ nỗi, cái chết đáng thương của cụ bà Nguyễn Thị Lê, bị tàn tật, ở thôn Chùa ở xã Hương Phong, Hiệp Hòa (Bắc Giang) lại không được như thế. Mà dù rằng, bà Lê có nợ 1, 7 triệu đồng đi nữa thì số tiền ấy thời buổi này có đáng gì không? Nó chẳng bõ bèn gì. Đồng tiền ngày càng mất giá, giá trị đang teo tóp dần...
Ô hô! Cái sự đời sao lại nhọ đến kia?
Lại nữa, có người chưa tắt thở lìa trần nhưng rồi cán bộ xã lại khai tử quách cho nó xong. Này, nói năng cẩn thận, chớ có nói vống, phao tin vịt. Vâng, Báo Pháp Luật TP.HCM sáng nay, ngày 11.12.2015 có đăng bài: “Đang sống sờ sờ bỗng dưng bị khai tử”. Nạn nhân của vụ trái khoáy này là bà Phạm Thị Nguyên (sinh năm 1948, trú tại tổ dân phố 19, khu 4, thị trấn Cát Bà, huyện Cát Hải (Hải Phòng). Bà Nguyên đang sống khỏe mạnh, phơi phới yêu đời, bỗng nhiên nhận được hồ sơ mình là người tàn tật nặng, đã hưởng trợ cấp xã hội từ năm 2006. Đặc biệt hơn, bà còn nhận thêm cái giấy chứng tử ghi rành rành: “chết vào 24.11.2014”. Bài báo còn cho biết: “Bà Phạm Thị Tờ, em gái bà Nguyên, hiện trú tại xã Đại Hợp, khẳng định: “Chị tôi còn sống khỏe mạnh và gia đình tôi không ai đi làm giấy chứng tử cho chị ấy cả”.
Tại sao lại xẩy ra trường hợp éo le này? Nói tắt một lời, sở dĩ như thế vì nó liên quan đến hồ sơ hưởng trợ cấp xã hội cho người tàn tật, khuyết tật nặng và người cao tuổi, theo Nghị định số 67/2007/NĐ-CP. Nghị định này cũng như Nghị định số 55/NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ ít nhiều cho thấy sự quan tâm của Nhà nước đối với các đối tượng trên. Nhưng rồi thế nào? Thế nào, ai cũng biết thế nào rồi. Cụ thể trường hợp nêu trên, cứ theo Báo Pháp Luật TP.HCM: “ông Phạm Bình Thủy - hiện là phó bí thư thường trực Đảng ủy xã ký nhận tiền giúp bà Nguyên”. Không bà con, không dây mơ rễ mà gì mà nhận tiền giúp thiên hạ là tốt thật đấy chứ? Thì tốt thật. Bà Nguyên không hề nhận xu teng nào, đang sống khỏe mạnh sờ sờ ra đó, tự dưng bị ghép vào diện tàn tật, rồi bị khai tử cái soạch!
Ô hô! Cái sự đời sao lại nhọ đến kia?
L.M.Q
(ảnh:Internet)
Trước mặt vợ, đàn ông cơ bản là hèn.
Có nhiều biểu hiện khác nhau. Từ Hải là một thí dụ. Cái chết đáng thương ấy, do tin lời của Thúy Kiều mà bỏ xác một cách lãng xẹt. Mấy hôm nay, vẫn công việc của mỗi ngày. Đọc và viết. Sống bằng nghề gõ bàn phím. Thong thả. Tự tại. Đôi lúc, tự hỏi, chẳng biết tại làm sao chữ nghĩa trong đầu, ở đâu mà nhiều đến thế? Nhiều đến bao nhiêu? Không thể biết. Cứ mỗi sáng, mỗi chiều, đúng theo thời khóa biểu, theo thói quen, ngồi vào bàn là viết. Viết mãi. Viết hoài. Viết từ ngày này qua ngày nọ. Cứ như con suối cứ tuôn chảy mỗi ngày. Nghĩ cũng lạ. Một ngày không viết gì, tự dưng thấy nhớ. Thấy một ngày trôi qua vô ích quá, chẳng làm được cái gì nên hồn cả.
Viết cũng như nói. Đôi khi con người ta nói năng hoạt bát, dạt dào, trôi chảy, không vấp váp, nói đâu ra đó. Viết cũng thế. Ngồi vào bàn, gõ phím là từng con chữ nhảy múa không dứt. Ấy thế, có lúc ngồi rị mọ, chẳng thể có được một chữ nào. Và ấy thế, có lúc há mồm ra nhưng cứ lắp ba lắp bắp như đang tập nói, đang nói ngọng. Chỉ có đọc là sướng nhất. Thích gì đọc nấy. Chẳng hề phải chịu một áp lực nào cả. Đang đọc truyện ngắn nhảy qua đọc Truyện Kiều, ngâm chưa dứt với 3.254 câu lục bát thuộc loại siêu đẳng “khúc tình từ quán tuyệt thiên cổ”, chợt dừng lại trầm ngâm với với cái chết của Từ Hải. Rồi đọc tiếp chứ? Không, tự dưng có hứng phải viết cái gì đó chăng? Tất nhiên. Viết rằng:
Rằng tin, lời ấy là tin
Trướng mai tình tự thuyền quyên anh hùng
Bỗng đâu sấm sét đùng đùng
Bởi tin nên trụi râu hùm hỡi ôi
Chôn chân đứng sững giữa trời
Hùm thiêng đốn ngã bởi lời hồng nhan
Mới hay tiếng ngọc tơ vàng
Lũy thành xiêu sụp, trễ tràng trống canh
Chiến trường không tiếc máu xanh
Bởi tin nên mới tanh bành chiến công
Biển khơi vùng vẫy tây đông
Sa chân chết đuối giữa dòng cạn queo
Bơ vơ cánh vạc chân bèo
Bao nhiêu oanh liệt đổ vèo vực sâu
“Bất tri tam bách…” thoáng mau
Vẫn còn đọng lại bể dâu Thúy Kiều
Vừa mới bảo, trước mặt vợ, đàn ông cơ bản là hèn. Vậy y ngoại lệ à? Không hề. Y hèn. Hèn đến độ sợ luôn cả vợ người khác nữa đấy chứ. Nguyễn Trọng Tạo có câu thơ này, đọc là tủm tỉm cười: “Bạn bè ở Huế thương nhau thiệt/ Một đứa vợ la chục đứa kinh". Đôi khi đàn ông hèn còn do người “đầu ấp tay gối” đáo để quá. Nhà văn vốn là người quan sát tâm lý giỏi, cực giỏi. Có như thế, họ mới “hóa thân” vào nhân vật, thấu hiểu tính cách của nhân vật. Vừa đọc truyện ngắn này của nhà văn Đỗ Quang Tiến.
Trong truyện đó, có nhân vật tên Huân, trạc tuổi của y, nghĩa là ngoài 50 nhưng phải còn dăm ba năm nữa mới lục thập. Huân ốm yếu, nho nhã, ít nói, bị bệnh suyển, mọi việc trong nhà đều một tay vợ quán xuyến. Do buôn bán, kiếm cơm nuôi chồng con nên vợ Huân tất bật từ sáng mãi đến tối khuya mới vác xác về nhà. Nhiều lúc, vừa về nhà thì vợ đã bô bô nói cười, doi dói như con kiến vống. Thì đã sao? Đàn ông rất dễ ghen, chỉ cần nghĩ xa nghĩ gần, tưởng tượng lúc không có mình kề cạnh, cô ta làm gì nhỉ? Mắt liếc tình đưa với những ai nhỉ? Có thể thể này, thế kia nhỉ? Thế là đùng đùng nổi cơn ghen. Huân ghen. Lập tức, vợ mắng cho té tát: “Tiếc tài, người chả ra người, mà hơi tí là ghen hộc, ghen bịa lên… Sao lại có cái người không biết dơ…”. Biết thân biết phận, Huân im thin thít như thịt nấu đông.
Thế chẳng phải hèn là gì?
Chưa đâu. Hèn phải là thế này. Thỉnh thoảng, đôi lúc mua may bán đắc, vợ Huân chìu chồng mua cho cút rượu và dĩa lòng. Ngồi một mình nhâm nhi. Khoái khẩu quá. Ngon miệng quá. Lạ chưa kìa, đột nhiên dâng lên trong lòng Huân lại là cảm giác hối hận (!?). Vì đã ghen sằng, nghĩ bậy cho vợ. Vì nếu không yêu, không thương sao vợ lại lo một bữa tươm tất thế này? Đàn ông "trẻ con" quá đi thôi, muốn chinh phục họ, cách tốt nhất, hãy cứ dàn binh bố trận, “tấn công” qua con đường bao tử ắt hiệu quả nhất.
Trong lịch sử Việt Nam, có nhân vật lừng danh Nguyễn Văn Giai (1553 - 1628) từng giữ chức Tể tướng, tước Thái bảo, Quận công, công thần "khai quốc" thời Lê trung hưng. Ông nổi tiếng chính trực, quang minh chính đại, xét án như Bao Công, giữ nghiêm phép nước, ngay cả vua Lê chúa Trịnh cũng phải kiêng nể. Gia phả còn chi lại lời ông răn bảo triều thần: “Ta giữ việc triều chính cốt cho liêm chính, không nhận hối lộ của bất kỳ ai. Người có tài đức thì phải biết trọng dụng; ai có lỗi lầm phải biết lựa lời can ngăn; ai oan uổng phải biết cứu xét phân minh cẩn trọng và bênh vực; kẻ nghèo khó phải ra tay giúp đỡ. Không nên làm những điều bất chính để tích trữ vàng ngọc làm giàu; phải biết tu nhân tích đức cho đời sau con cháu vậy”.
Thế mà, có lúc ông đã “vi phạm” vào điều răn đó.
Ngày nọ, ông xét án một phò mã của chúa Trịnh khi cầm quân đánh nhà Mạc, chỉ vì hèn nhát mà kéo quân về. Vậy cứ theo phép nước mà khép án tử hình. Kêu xin, van nài mãi không xong gia đình người này bèn đi “cửa sau” nhờ bà vợ tác động đến ông. Người vợ nghe lời than khóc ấy, động lòng thương cảm nên hứa giúp. Do biết tính chồng khoái món thủ lợn chấm mắm ngấu, bà làm món này đãi ông. Đợi ông ăn xong, bà mới thỏ thẻ cho biết đó là “lễ vật” của gia đình phạm nhân. Trời đất! Đã ăn rồi, chẳng lẽ nôn ra? Ông tặc lưỡi: “Chỉ vì một miếng ăn mà hỏng cả việc công. Ta đã ăn rồi, giờ biết nói sao? Cũng may án này có một vài lẽ có thể khoan giảm, nếu không thì phép nước sẽ điên đảo vì ta tham ăn”. Làm vợ quan chức không dễ bởi hoặc giữ thanh danh cho chồng; hoặc vùi chồng vào “bia miệng” thế gian cũng còn tùy thuộc vào bản lĩnh của người đàn bà. Từ đó trở về sau, ông Giai bỏ luôn món khoái khẩu này. Nhân đây, chép lại bài thơ của ông:
Ba vua, bốn chúa, bảy thằng con,
Trên chửa lung lay, dưới chửa mòn.
Công nghiệp chưa thành sinh cũng uổng
Quan tài sẵn đó chết thì chôn.
Giang hồ, lang miếu: trời đôi ngả,
Bị gậy, cân đai: đất một hòn.
Cũng muốn sống thêm dăm tuổi nữa,
Sợ ông Bành Tổ tống đồng môn?
Bài thơ hay, ngẫm ra nhiều điều lý thú. Dù tự trào nhưng khí khái lắm. Chẳng thèm màng chút lợi danh nào, xem mọi thứ đang có chỉ là phù du, ảo ảnh. Chết thì chôn. Không níu kéo phải được sống thêm nữa, chẳng lẽ phải đồng môn với ông Bành Tổ à? Biết đủ là đủ. Vậy thôi, chẳng ham hố gì. Âu cũng là triết lý sống tích cực của lớp nhà Nho thuở trước.
Trở lại với gia đình nhân vật Huân.
Đàn ông thế này mới là hèn.
Ngày nọ, nghe vợ cười nói hú hí, tí tởn, còn cả tiếng đàn ông nữa chứ, Huân ghen, bèn quát một câu cho đáng mặt làm chồng. Nào ngờ, vợ mắng luôn: “Thôi, đừng dở cái trò bú dù ra nữa, mà người ta lại cười cho thối óc. Rõ già không chót đời. Bác Nhâm hơn thằng Huân mấy tuổi? Hứ! Hừ! Không biết dơ! Gái này chưa được là con lợn sề rồi à? Mười tám, đôi mươi, gì nào? Đít cong, vú mẩy gì cho cam nào”. Huân ghen sằng, bác Nhâm đã già, đã lớn tuổi rồi, lại người thân thuộc. Lạ thay, khi nghe vợ mắng vì đã ghen bậy ghen bạ, nhiều người đàn ông lại có tâm lý buồn cười ghê gớm: “Vợ càng nói, chồng càng mát ruột. Ông Huân thần mặt, khịt khịt mũi, muốn vợ mắng cho trận nữa, cho ông hả dạ thêm”. Tại sao lại có tâm lý này? Chẳng qua người chồng hãnh diện, sung sướng vì nghĩ rằng, vợ mình chính chuyên, chứ không lăng loàng, trắc nết như ai khác.
Đàn ông thế này mới là hèn.
Ngày nọ, đã cuối năm, vợ chồng cùng sum vầy bên mâm cơm cúng Giao thừa. Giây phút thiêng liêng ấy, vợ Huân nói với chồng một câu thật âu yếm mà trong năm Huân chưa hề được nghe: “Ông nhỉ! Giao thừa năm nay im ả đấy chứ! Năm nay chắc dễ làm ăn hơn năm ngoái. Ông thế nào cũng khỏe mạnh. Ông có vui vẻ khỏe mạnh, vợ con mới nhờ được cái lộc của ông, làm ăn mới xởi lởi… Ông ốm yếu luôn, tôi chợ búa cũng chả yên tâm”. Phải tình chồng nghĩa vợ, phải yêu thương nhau lắm con người ta mới thốt được câu cảm động, nghĩa tình ấy. Tình nhân dành cho tình nhân, có lẽ họ sẽ nói câu khác kia chứ? Lúc yêu nhau, đôi lứa hầu như chỉ tâm sự đến những cuộc hẹn hò, vui tươi ánh sáng tháng rộng ngày dài, hơn là những nỗi lo canh cánh xám nghét mặt mày vì cơm áo gạo tiền.
Với nhân vật Huân, đọc đoạn văn kế tiếp mới thấy nhà văn Đỗ Quang Tiến phân tích tâm lý tinh tế: “Nghe vợ nói, ông chồng mát từng khúc ruột. Năm ngoái, năm kia, năm kìa cũng vậy, lúc giao thừa, ông cũng được nghe vợ nói những câu mát lòng, hả dạ như thế này. Nhìn nét mặt hiền hòa, nghe giọng nói âu yếm, một năm mới có một lần, ông cảm động đến khóc lên được. Ông run run ngồi dậy, mặc cái áo bông the, hai cánh tay rách xõa, chụp cái khăn gián nhấm vào, rồi bắt chân chữ ngũ giữa giường. Ông càng ra dáng đường vợ thì vợ ông lại càng làm ra vẻ len lét, sợ ông”.
Trước mặt vợ, đàn ông cơ bản là hèn. Tuy nhiên, cũng chẳng sao. Một năm, chỉ có một lần được vợ sợ, dù rằng chỉ giả vờ len lét. Vậy cũng đã đủ cho cái sự vênh váo làm chồng đầy hãnh diện, tự hào, mãn nguyện và sung sướng lắm rồi. Phải không?
L.M.Q
Từ phải: Nhà văn Trang Thế Hy, Lê Minh Quốc do nhà thơ Cao Xuân Sơn chụp tại Bến Tre ngày 10.10.2011
Đêm qua, lại đọc. Một thói quen. Thích đọc những truyện ngắn, bút ký có nhiều chi tiết, viết từ vốn sống. Đôi khi tưởng rằng, những chuyện ấy đã biết, đã rành rẽ nhưng thật ra vẫn mù tịt. Đọc, thấy thú quá và bật lên một tiếng “à” nho nhỏ trong cổ họng. Rồi lại đọc ngấu nghiến. Trong tập Thơ văn Xuân 1957 của NXB Văn Nghệ in tại miền Bắc, nhà văn Phạm Tường Hạnh có bút ký Trái sầu riêng. Thú thật, chưa bao giờ được thưởng thức món ăn ngon này: “Khi trái sầu riêng đơm bông, người ta lấy tấm đệm hứng những cánh hoa rụng xuống, dùng làm món rau sống ăn với mắm thái, thịt luộc. Nó là món ăn quen thuộc với người ở xứ vườn. Những bữa ăn đặc biệt, người ta dùng bông sầu riêng trộn giỏ, món ăn thanh lịch mà ngon: Cá lóc nứng trui, thịt ba rọi thái nhỏ, tôm nướng, hột vịt luộc, mỡ nước, hành củ, chanh, ớt, gừng, đậu, phụng rang trộn với bông sầu riêng. Đưa đà vài ly mai quế lộ, “nhậu” với bông gỏi sầu riêng. Nó vừa giòn, vừa ngọt, bùi bùi, béo béo, đậm đà, ý nhị một món ăn quê hương”.
Biết bao giờ mới được thưởng thức?
Đã khá lâu rồi, một anh bạn người miền Nam quả quyết ở miền Đông Nam bộ khi trui cá lóc, người dùng lá sầu riêng vì loại lá này giữ nhiệt lâu. Thật lạ, không biết ai nghĩ ra cái tên trái cây sầu riêng, sầu đâu, sầu đông nghe tình tứ “thần sầu quỷ khốc” đến thế? Tra lại tài liệu mới biết sầu riêng là gốc ở tiếng Mã Lại, gọi là durio hoặc durion. Từ điển của cụ Huình Tịnh Paulus Của (1834-1907) giải thích: “Thứ trái cây lớn mà tròn, vỏ nó có gai giống gai mít, trong ruột nó cũng có mùi như mùi mít, chữ gọi là châu liên”. Cái tên gọi “châu liên” nghe lạ hoắc, xa lạ quá.
Lại nữa, hôm trước con rể cụ Ca Văn Thỉnh (1902-1987) là ông Nguyễn Long Trảo tặng quyển hồi ký. Thú thật, chỉ thích những chi tiết thời thơ ấu mà ông đã trải qua. Nó gắn với sinh hoạt của miền Nam thời trước. Trong lúc tát đìa có chi tiết này, lần đầu mới biết: “Có quy ước rất hay là mỗi con cá khi vọt ra phía sau là đã thuộc về quyền sở hữu của những “con hôi” lúc nhúc bám theo sau, chủ nhà không được tiếc của mà quay lại bắt. Vì toàn là sình lầy nên cá thoát ra phía sau là chuyện bình thường, nên chủ nhà bắt được mười thì “con hôi” cũng được hai ba, có thể mang về làm mắm chứ không bao giờ hết”. Chỉ một chi tiết nhỏ, có thể biết thêm tính cách của người Nam bộ. “Con hôi” trong ngữ cảnh trên là từ “hôi” mà có. “Hôi” có nghĩa mót, nhặt những thứ còn sót lại; dần dần “hôi” mang nghĩa xấu như hôi của, hôi cá, đánh hôi…
Sáng nay, dậy sớm. Nhận được tin nhà văn Trang Thế Hy vừa qua đời. Ông mất lúc 0g50 ngày 8.12.2015 tại nhà riêng (Khu phố 1, phường Phú Tân, Bến Tre), sẽ an táng tại đất nhà vào ngày 10.12.2015. “Hơn hai mươi năm ông "đi chỗ khác chơi" / đêm đêm, tôi ngồi vào bàn viết / không nghe tiếng gõ cửa / vẫn ông ngồi đó / đôi mắt nheo cười / tẩu thuốc khóe môi / trên tay, ly rượu nhỏ: / "Ê nhóc! / may lắm thì tụi mình chỉ là người truyền giảng hy vọng / người bào chế thuốc giảm đau / thế thôi nghe, đừng tưởng bở, nhà thơ!". Những câu thơ khắc họa đúng tính cách nhà văn Trang Thế Hy của bạn thơ Cao Xuân Sơn, sáng nay, đột ngột ùa về trong trí nhớ.
Nếu nhà nghiên cứu văn học Hoàng Ngọc Hiến có câu nói trứ danh “Cái nước mình, nó thế”, thì câu “Đi chỗ khác chơi” của nhà văn Trang Thế Hy cũng nổi tiếng không kém. Và bản thân ông đã sống như thế. Chừng hai mươi năm trước, thỉnh thoảng còn gặp ông ở Hội Nhà văn TP.HCM, nhưng sau đó mới hay, ông bỏ tất cả để trở về “ẩn dật” tại Bến Tre. Ở nhà văn ấy, từ văn chương đến phong cách sống gần như một “ẩn sĩ”. Nói như thế không ngoa ngôn, đố ai có thể tìm thấy những tuyên bố, tuyên ngôn loạn xị của ông trên các diễn đàn ồn ào tiếp thị nhằm “đánh bóng” tên tuổi.
Anh em đồng nghiệp Báo Sài Gòn Giải phóng, Phụ Nữ réo điện thoại phải có bài ngay. Thế là viết. Lật lại nhật ký, mới nhớ lại chính xác về đến thăm tư gia nhà văn Trang Thế Hy là ngày 10.10.2011. Lúc đó, tập sách Sơn Nam - Hạt bụi nghiêng mình nhớ đất quê do y biên soạn vừa in xong. Đơn vị xuất bản là NXB Kim Đồng đã thực hiện nghĩa cử tặng một số sách tại Nhà Lưu niệm của nhà văn Hương rừng Cà Mau ở Tiền Giang. Trên đường về, mọi người rủ nhau tạt qua đến thăm nhà văn Trang Thế Hy.
Ngồi trước vòm cây xanh, gió thoàng mát, anh em báo chí, xuất bản đã có cuộc trò chuyện thân mật. Còn nhớ rằng, qua sự quan sát ông, y mới thấy nhận xét của nhà thơ Cao Xuân Sơn là chính xác. Rằng, trong cuộc hàn huyên thân mật ấy, thỉnh thoảng, tác giả Vết thương thứ 13 lại tỏ ra quan tâm đến các chị em nhiều hơn một chút. “Đó tính cách của người am hiểu văn hóa, văn chương Pháp, thường hay galant phụ nữ”. Sơn nói đúng. Ở gương mặt chân thành, đôn hậu ấy, lời nói nhỏ nhẹ nhưng hai con mắt sáng đã toát lên sự điềm đạm, lịch lãm của một người từng trải, thanh lịch.
Nhà văn Trang Thế Hy tên thật Võ Trọng Cảnh, sinh ngày 9.10.1924 tại Châu Thành, Bến Tre, tham gia kháng chiến từ năm 1945. Và sự nghiệp cầm bút của ông cũng rất sớm, từ thập niên 1950, ông đã có nhiều truyện ngắn in trên báo chí xuất bản công khai tại miền Nam, cùng thời với các cây bút yêu nước như Lê Vĩnh Hòa, Viễn Phương, Sơn Nam, Ngọc Linh, Thẩm Thệ Hà… Vì lẽ đó, năm 1962, ông chính quyền Sài Gòn bắt giam; năm 1963, được thả tự do, sau đó, ông thoát ly ra vùng giải phóng và tiếp tục cầm bút.
Dù viết sớm, nổi tiếng sớm nhưng mãi đến năm 1964, ông mới in tác phẩm đầu tay Nắng đẹp miền quê ngoại. Có lẽ cũng cần nhắc lại, một trong những truyện ngắn tạo nên dấu ấn Trang Thế Hy chính là Anh Thơm râu rồng được Giải thưởng Nguyễn Đình Chiểu của Hội VHNT Giải phóng (1960-1965). Thế nhưng bẵng đi một thời gian dài, năm 1981, ông mới “tái xuất giang hồ” với tập truyện ngắn Mưa ấm. Nhân vật anh Thơm trong truyện ngắn trên có biệt danh “râu rồng” vì bộ râu cằm khác người, từ nhỏ đi ở đợ, nhiều lần bị hương quản Xung nhận đầu dìm dưới nước nhưng vẫn thoát chết. Sau này, sa vào tay kẻ thù, anh cũng bị những đòn tra tấn tương tự nhưng nhờ có kinh nghiệm nên sống sót: “Tôi nghĩ đây là thứ kinh nghiệm chua xót quá, chắc không ai muốn có những kinh nghiệm như vậy trong đời mình”. Đọc lại truyện ngắn ra đời đã lâu nhưng vẫn còn thấm thía, bùi ngùi quá đỗi.
Có thể nói, tác giả Người yêu và mùa thu viết không nhiều. Chính ông tự nhận: “Tuổi đời và tuổi nghề khá cao nhưng số lượng tác phẩm lại quá mỏng: chưa đầy hai mươi bài thơ, khoảng trên dưới nửa trăm truyện ngắn, chừng bốn hay năm tiểu thuyết, truyện vừa in nhiều ký trên nhật báo, tuần báo, tạp chí”. Dù viết ít, nhưng văn chương của ông vẫn cứ lừng lững trong nền văn học Việt Nam hiện đại, bởi lẽ hơn ai hết ông tự ý thức, rất ý thức đến sứ mệnh người cầm bút. Nói gì thì nói, với Trang Thế Hy đó chính là Nợ nước mắt - tên một tác phẩm được giải thưởng của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNTVN (1991) - vì thế, ông viết kỹ, cẩn trọng với từng chữ. Không quá lời, khi có nhiều nhà nghiên cứu ghi nhận sự cẩn trọng từng con chữ ở Trang Thế Hy cũng nhọc công không kém gì “ông vua tùy bút” Nguyễn Tuân.
Những gì của ông để lại, những con chữ ấy vẫn như còn đang cựa quậy trên trang viết, nó vẫn tươi mới và còn có ý nghĩa của thời cuộc. Mà nghĩ cho cùng văn chương thời buổi nào cũng thế, nếu ngòi bút nhà văn khai thác đến tận cùng nỗi đau, số phận của người cùng khổ, qua đó, thắp lên niềm hy vọng về ngày mai tươi sáng hơn, tốt đẹp hơn vẫn là cốt lõi của muôn đời. Nói như Trang Thế Hy, nhà văn “chỉ là người truyền giảng hy vọng”, "người bào chế thuốc giảm đau". Lâu nay, y rất thích và nhiều người cũng thích truyện ngắn Con mèo hoang và nhà thơ có gia cư. Dù thế nào đi nữa, nhà văn ấy dù sống trong hoàn cảnh bi đát, nghèo túng như Điền - nhân vật nhà văn trong truyện ngắn Giăng sáng của Nam Cao, thì họ vẫn không ngừng nuôi dưỡng sự hy vọng vì: “Nó giúp ông ùng vẫy ngoi ra khỏi nỗi cô độc bi thảm và chỉ hướng cho ông vươn tới niềm cô đơn cao quý của một người cầm bút”..
Hầu hết các truyện ngắn của ông, dù viết về đề tài gì, nhưng ẩn sâu ở đó chính là quan niệm về nghề. Thấp thoáng đâu đó, từ Một thiếu nữ không đáng kể, Chút hào quang từ mảnh vỡ, Một nghệ sĩ buồn thích đùa… đến Rác và hoa, Tiếng hát và tiếng khóc vẫn là sự đau đáu, tự vấn về sứ mệnh của nhà văn. Chẳng hạn, khi chàng nghệ sĩ nghèo khi nghe lời tâm sự của người đàn bà bán thuốc lá bên vỉa hè mà tự nhủ: “Tôi nghe đó là lời răn dạy rất nghiêm có giá trị thức tỉnh cao của một hiện thực đau buồn nhắc nhở người cầm bút đừng bao giờ đánh mất cái điểm tựa đáng tin cậy của mình là nỗi khổ đau lớn của đám đông thầm lặng”.
Suy nghĩ này, xuyên suốt trong sự nghiệp của Trang Thế Hy.
Ông còn bảo: “Chức năng của văn chương là thanh lọc tâm hồn người viết và cung cấp thuốc giảm đau cho người đọc. “Cái đẹp sẽ cứu rỗi thế giới”. Tôi vừa si mê vừa hoài nghi lời tiên tri ấy, của Dostoievky. Nhưng tôi cả tin rằng nếu như cái Đẹp cứu rỗi được thế giới thì trong cái Đẹp vĩ đại, mênh mông cao rộng không có đường biên ấy có cái Đẹp của văn chương”.
Ngày về Bến Tre thăm ông, thú thật, lần đầu tiên y mới biết nhà văn Trang Thế Hy có làm khá nhiều thơ. Điều thú vị nhất, lúc đó, ông khiêm tốn, nhã nhặn không đọc thơ của ông như mọi người yêu cầu mà đọc thơ của Tagore lại bằng… tiếng Pháp. Thử tưởng tượng, ở một vùng quê nghèo, chiều xế bóng, rít rít tiếng chim ca, bươm bướm bay thấp thoáng trên nhành đào, cây bưởi lại nghe du dương ngôn ngữ của Victor Hugo, Lamartine… còn gì thú vị hơn? Khi làm thơ, ông thường ký bút danh Phạm Võ, Văn Phụng Mỹ, Triều Phong, Song Diệp, Văn Minh Phẩm… và chắc chắn bạn đọc khó quên bài thơ Đắng và ngọt.
Tháng 9.1969, khi đang là chủ bút tờ báo Vui sống, nhà văn Bình Nguyên Lộc đọc bản thảo bài thơ Đắng và ngọt, cảm thấy cái tựa “chưa tiêu biểu cho cái vị đa tố chất của cuộc đời” nên đổi lại Cuộc đời. Qua tập thơ Đắng và ngọt, ông cũng gủi gắm ở đó những quan niệm về sứ mệnh nhà văn. Bài thơ Cuộc đời là một câu hỏi, một triết lý không cũ đi bao giờ: “Nghe anh theo nghề viết/ Nghệ thuật là gì em muốn biết/ -Mùi tanh nói mùi thơm/ Cây bút cầm tay: cần câu cơm/ Đó, em ơi! Nghệ thuật:/ Nhắm mắt quay lưng chào sự thật”. Sự tự vấn này nghe ra vẫn còn chua chát, thống thiết.
Lâu nay, thường có nhận xét người Nam bộ xuề xòa, hòa đồng, vui vẽ thân thiện, thường giúp đỡ những ai yếu thế v.v… điều này đúng, nhưng với nhà văn Trang Thế Hy có lẽ phải bổ sung thêm một tính cách nữa. Rằng, khác với nhiều người, dù đã đến lúc không còn viết được nữa, cảm hứng đã tàn lụi nhưng vẫn tiếc nuối hào quang của tiếng vỗ tay, của những lời ca ngợi nên cứ “bẹo hình hài rao lên bán”, Trang Thế Hy thì không, với ông, “đi chỗ khác chơi” vẫn là sự lựa chọn đầy tính cách, hào khí của một ngươi Nam bộ, quê hương Bến Tre, nơi đã từng cưu mang thi sĩ anh hùng Đồ Chiểu. Đó là sự trực tính. Không uốn éo. Không “bẹo hình bẹo dạng”. Không cưa sừng làm nghé. Không lập lờ. “Khi biết mình không viết được nữa thì đi chỗ khác chơi. Đừng bẹo hình bẹo dạng ở chốn trường văn trận bút để bắt độc giả lỡ yêu mến mình đọc những lời lếu láo”. Theo bạn thơ Cao Xuân Sơn, người có thời ở chung căn hộ với trên đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa chừng hai mươi năm trước, sinh thời Trang Thế Hy thường ngâm hai câu thơ của Nguyễn Du:
Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kỳ oan ngã tự cư
(Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi/ Cái án phong lưu khách tự mang).
Âu đó cũng là tất lòng của một “người hiền Nam bộ” vậy.
L.M.Q
Trang 21 trong tổng số 58