LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 23.8.2105

images.jpg_internet

(Ảnh:Internet)


Mấy hôm nay, vẫn thế. Tuy nhiên, lại đâm ra lười viết Nhật ký. Có lẽ lý do chính vẫn là đối mặt với quá nhiều những vấn đề thời sự gay góc. Mà không muốn mất thời gian phải suy nghĩ vào đó. Không muốn tự mình phải gieo vào trong đầu những chuyện quá đỗi nhố nhăng, lăng nhăng, tàn độc ngoài sức tưởng tượng. Một xã hội lạ lùng quá. Con người đã trở thành quỷ dữ. Tại sao? Có câu trả lời nào không? Chỉ tạm liệt kê vài vụ án gây rúng động dư luận trong thời gian gần đây:

Ngày 2.7.2015, tại Nghệ An, vì mâu thuẫn cá nhân, Vi Văn Hải giết chết 3 người lớn, 1 trẻ em.

Ngày 7.7.2015, tại Bình Phước, vì cướp tài sản, trả thù, Nguyễn Hải Dương và Vũ Văn Tiến giết chết 4 người lớn, 2 thiếu niên.

Ngày 7.8.2015 tại Quảng Trị, vì cướp tài sản, Hồ Chí Bảo giết 2 người chết, 1 bị thương.

Ngày 8.8.2015, tại Vĩnh Long, vì tâm thần, Nguyễn Thị Vân đâm 1 trẻ sơ sinh.

Ngày 12.8, tại Yên Bái, vì mâu thuẫn cá nhân, Đặng Văn Hùng giết chết 3 người lớn, 1 trẻ em.

Ngày 14.8. 2015, tại Bến Tre, vì va quẹt xe, Huỳnh Văn Phương và Lê Văn Tèo dùng dao cắt cổ 1 người chết.

Kinh khiếp chưa?

Đã có nhiều bài báo đề cập đến vấn đề “Người Việt ngày càng xấu xí”. Do đâu, người Việt ngày một tàn ác hơn? Mấy năm trước khi sang Kampuchia, sau khi chiêm bái các đền cổ, chùa chiền, vẫn là một câu hỏi đau đáu trong suy nghĩ: Tại sao đất nước Chùa Tháp rất mộ đạo lại sinh ra những tên đồ tể như Pol Pot, Khieu Samphan, Ieng Sary? Tại sao một đất nước giàu tinh thần hiếu hòa, tương thân tương ái “bầu ơi thương lấy bí cùng/ tuy rằng khác giống như chung một giàn”; “lên xe nhường chỗ bạn ngồi/ nhường nơi bạn dựa, nhường lời bạn trao”; “một ngày nên nghĩa, chuyến đò nên quen”, “thương người như thể thương thân”… lại có thể nhẫn tâm giết người như ngóe?

Xã hội Việt Nam ngày trước, nếu tức giận ai đó, con người ta chỉ lao vào đánh nhau là cùng. Bằng chứng có câu: "Chưa đánh được người, mặt đỏ như vang; đánh được người mặt vàng như nghệ". Nay, giết luôn cho bỏ ghét. Y chọn lấy cụm từ "Nhìn thấy ghét", chính nó đã phản ánh được thực trạng vận hành của một xã hội kỳ quặc, chỉ với ánh nhìn, bị cho là "nhìn đểu" chẳng hạn, có thể mất mạng như chơi. Vậy hóa ra câu: "Lời nói đọi máu" đã trở nên lạc hậu, chưa cần cãi cọ, chưa cần nghe các âm thanh ngứa tai là đã nhảy vào ăn tươi nuốt sống. Tra trên google "giết người vì nhìn thấy ghét" có "Khoảng 553.000 kết quả (0,51 giây)". Một môi trường sống như thế, con người ta sẽ đi về đâu?

Rồi hầu như trong các mối quan hệ xã hội đã khác trước. Ngay với trẻ con - những cô cậu thiên thần như tờ giấy mới, giấy trắng tinh khôi cũng bị lôi vào guồng máy chung. Thế mới đau. Lâu nay, ai cũng thừa biết rằng ngày khai trường của trẻ em thiêng liêng biết chừng nào, nhưng nay thế nào? Trong chuyên mục Cà phê sáng của báo Pháp luật TP.HCM số ra ngày 18.8.2015 có bài: Khai trương hay khai trường?:

"- Tớ đố ông câu này nhá: Bài học thuộc lòng nổi tiếng Tôi đi học, nhà văn Thanh Tịnh mô tả thời điểm nào?

- Dễ ợt. Bộ ông không nhớ đến câu: “Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn: Hôm nay tôi đi học”. Rõ ràng, nhà văn viết lúc các em tựu trường sau mấy tháng nghỉ hè.

- Ông nói đúng, nhưng bây giờ đã… lạc hậu lắm rồi!

- Ơ hay? Lạc là lạc thế nào? Hông lẽ sau mấy chục năm thì có ai đó phát hiện ra sự nhầm lẫn về văn cảnh, rằng bài này mô tả cảnh đi học… hè?

- Ông không biết gì sất. Sáng 17-8, học sinh cả nước bước vào năm học mới. Thế nhưng phải chờ đến ngày truyền thống 5-9 thì các em mới được dự lễ khai trường.

- Chà, vậy làm sao các em có được cảm xúc tươi mới, hồi hộp, xúc động của ngày đầu tiên đến trường? Lúc ấy, có lẽ từ thầy cô đến các em cũng phải tập “diễn kịch” thôi! Phải “tập diễn” sao cho đúng với cái cảm xúc đã trôi qua từ tháng trước. Làm vậy khác nào chuyện giả tạo!

- Vâng. Sự giả tạo có thể diễn ra ở nơi khác nhưng ở môi trường sư phạm quyết là không. Không gì buồn cười cho bằng lúc ấy, các bài diễn văn, mi cờ rô hếnh hoáng, cờ xí náo nhiệt cứ như thể ngày đầu tiên đón học trò tựu trường! Tội nghiệp, các em phải tham dự một sự giả tạo ngay tại ngôi trường của mình. Đáng buồn quá đi chứ!

- Vậy có thơ rằng:

Tựu trường nhập học đã lâu

Mãi ngày sau, mãi tháng sau… khai trường!

Khai tâm lại tưởng… khai trương

Một kiểu khai trường thật chẳng ra sao!".

Đúng. Ai cũng thừa biết, "chẳng ra làm sao" nhưng rồi nó vẫn cứ tồn tại. Mà thôi, chuyện vặt. Còn nhiều, rất nhiều trái khoáy khác nhưng vẫn cứ trêu ngươi tồn tại. Khi chứng kiến những thay đổi lớn lao, lạ lùng này đã khiến con người ta đôi lúc tự hỏi, mình đang sống ở đâu, sống trong xã hội như thế nào? Vậy, biết tin vào điều gì, tin vào cái gì để có thể vui sống mỗi ngày? Khi đã hỏi như thế, chỉ có cách tin vào chính mình, tin vào những sự hướng thiện đang có, dù nhỏ nhoi vẫn còn tồn tại đâu đó trong cuộc đời này. Đành tự nhủ với chính mình: “Chớ than phận khó ai ơi/ Còn da lông mọc, còn chồi nảy cây”.

Tin là thế.

Có tin thế, mới có thể làm chu đáo công việc của mỗi ngày. Bằng không, con người ta dễ dàng ngao ngán buông xuôi, bước qua một ngã rẽ. Ở ngã rẽ đó, sẽ nhìn thấy cuộc sống này u ám quá, tăm tối quá ắt lên tiếng phản biện, than phiền. Rút cuộc ai gánh lấy sự thở than đó trước nhất, nếu không là chính mình? Mà cũng phải vậy thôi, đó là trách nhiệm của Kẻ Sĩ đấy chứ? Vâng, nhưng y đứng ở ngoài. Vì hèn, vì nhát, vì quá yêu lấy bản thân, không dám đọc, phân tích, lý giải nhiều thông tin đã tiếp nhận bởi sợ sự va đập làm tổn thương lấy chính mình.

Cuối cùng, lại tìm một lối thoát khác. Ấy cũng là một sự lựa chọn khi y hèn nhưng lại đổ vấy rằng thì đã già rồi, chẳng ham hố, quan tâm gì đến việc đời nữa.

Thì đã sao?

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 14.8.2105


kieu2015-1439297603hoi-kieu-hoc-rjpg

Bản Truyện Kiều của Hội Kiều học Việt Nam thực hiện 2015

 

Thơ có ích gì không?

Ngày 29.7 Nhâm Tý (nhầm ngày 16.9.1792), vua Quang Trung băng hà. Ngài chết vì bệnh “huyễn vựng”? Nếu đúng, “chứng bệnh thường hay chóng mặt và mê mẩn từng chập, do bệnh bấn huyệt và bệnh thần kinh suy nhược sinh ra” (Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh). Nói nôm na ngài mất do tai biến mạch máu não.

Từ đó đến nay, các nhà sử học đau đáu nỗi niềm đi tìm lăng mộ của vị anh hùng dân tộc dã từng đánh tan tác 29 vạn quân Thanh vào mùa Xuân năm Kỷ Dậu (1789). Thật lạ, đây cũng năm nổ ra Cách mạng Tư sản Pháp “làm rung động cả châu Âu, đã lật đổ chế độ cũ bằng một thứ "xã hội mới" và là một khuôn mẫu mà các phong trào cách mạng sau này hướng vào, coi cuộc Cách Mạng Pháp năm 1789 là một cách mạng đi trước” (Từ điển wikipedia).

Từ năm 1789, người ta đã đặt câu hỏi: “Lăng mộ vua Quang Trung ở đâu?”

Suốt một thời gian dài, giới sử học tập trung về lăng Ba Vành (Huế). Năm 1961, tạp chí Bách Khoa có đăng bài Lăng Hoàng đế Quang Trung của Nguyễn Thiệu Lâu. Ông Lâu là nhân viên Đông phương Bác cổ học viện, làm việc dưới quyền cụ Nguyễn Văn Tố. Từ năm 1941, Linh mục L.Cadière - người sáng lập Hội Những người bạn Huế và cũng là chủ bút của tạp chí cùng tên, gợi ý ông Lâu: “Lăng Nguyễn Huệ ở miền núi phía Tây Huế. Anh hãy tìm đi và tiến hành khảo cứu”. Ông Lâu đã tìm ra lăng mộ Ba Vành ở Thiên An, khẳng định: “Đây là lăng Hoàng đế Quang Trung”. Có thể tìm đọc lại bài viết này trong tập sách Quốc sử tạp lục (NXB Mũi Cà Mau -  1994) của Nguyễn Thiệu Lâu. Từ đó đã có nhiều ý kiến khác nhau, trong nhiều năm liền giới nghiên cứu đã khảo sát rất kỹ về lăng Ba Vành.

Như ta đã biết, Đại Nam chính biên liệt truyện cho biết lăng mộ vua Quang Trung đã được “táng vu Hương Giang chi nam” (táng ở bờ nam sông Hương), trong khi do lăng Ba Vành lại quá xa bờ Nam sông Hương.

Vài năm trở lại đây, “nhà Huế học” Nguyễn Đắc Xuân lại đưa ra hướng khác. Theo ông Xuân, lăng mộ Quang Trung đặt ngay trong cung điện Đan Dương.

Tại sao ông Xuân đi theo hướng này? Là do ông đi theo sự mách bảo của… thơ! Ông căn cứ vào bài thơ Cảm hoài của Ngô Thì Nhậm và cho biết cụ thể như sau: “Ngày 29-7 (nhuận) năm Nhâm Tý (1792), vua Quang Trung mất. Ngô Thì Nhậm được cử sang Trung Quốc báo tang và cầu phong cho vua Cảnh Thịnh (Quang Toản). Vì uy tín của vua Quang Trung rất lớn, nhà nước Trung Hoa lúc ấy đã có những nghi lễ đón tiếp trọng thị. Điều đó làm cho Ngô Thì Nhậm càng cảm niệm công ơn to lớn của vua Quang Trung. Trong khi đang xúc động ấy, ông đã viết bài Cảm hoài 感懷 (Xúc động trong lòng). Câu 8 bài thơ: “Đan Dương cung điện nhật tam thu” (丹陽宮殿日三秋 Trông về Cung điện Đan Dương một ngày coi bằng ba thu). Tác giả giải thích rõ thêm hai chữ Đan Dương bằng một chú thích (référence) gần đầy một trang. Trong lời chú thích ấy có thông tin: “Cung điện Đan Dương là sơn lăng phụng chứa bảo y tiên hoàng ta”.

Chú thích của một câu thơ đã mở ra một vấn đề lớn trong sử học.

Quý thay.

Sáng hôm qua, cà phê cùng với Trọng Việt. Sực nhớ ông Xuân bèn điện thoại thăm hỏi, hơn nữa hôm trước được Alphabooks  có tặng quyển Đi tìm Cung điện Đơn Dương - Sơn lăng của Hoàng đế Quang Trung (NXB Thuận Hóa) của ông vừa tái bản, dày 430 trang. “Anh đang ở đâu?”. “Mình đang ở Huế. Đang viết kịch bản cho đạo diễn Đặng Nhật Minh làm bộ phim nhiều tập về cung điện Đan Dương”. Như vậy mọi việc đang tiến triển tốt, và vì viết kịch bản nên anh không thể vào Sài Gòn nhân có chuyện về Nhà lưu niệm Trần Văn Khê. Qua điện thoại, anh có nói loáng thoáng đôi điều. Chẳng rõ cuối cùng thế nào. Không nhắc lại nữa. Càng ngày càng bẽ bàng ra nhiều thứ. Thôi, gạt những chuyện đó đi, cũng như khối chuyện tương tự khác.

Quay về với lăng mộ Hoàng đế Quang Trung.

Biết đâu sau này, giới sử học đồng tình với phát hiện của Nguyễn Đắc Xuân thì sao? Khi đó, chắc chắn thiên hạ sẽ… đọc thơ của tiền nhân chu đáo hơn chăng? Biết đâu cũng sẽ có người phát hiện ra nhiều điều lý thú về thơ như trường hợp ông Xuân đọc Cảm hoài của Ngô Thì Nhậm? Nghĩ thế cho nó vui cái cuộc đời nhàm chán, tẻ nhạt này.

Thơ có ích gì không?

Thơ là sứ giả của văn hóa ngoại giao đấy chứ?

Tháng 11.2000, Bill Clinton - Tổng thống đầu tiên của Mỹ thăm Việt Nam sau 25 năm chiến tranh kết thúc, ông “lẩy Kiều”:

Sen tàn cúc lại nở hoa

Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân

Đó là hai câu 1795-1796 khắc họa tâm trạng của Thúc Sinh. Sau khi đã dán díu với Kiều, chàng về thăm vợ rồi “Chạnh niềm nhờ cảnh giang hồ”, thật ra nhớ Thúy Kiều. Nhớ mà cứ bó chân một chỗ, làm sao chịu nổi? Bèn tìm cách rời khỏi nhà. Hoạn Thư thừa biết nhưng cao cơ hơn nhiều, bảo Thúc Sinh hãy về thăm cha, dù biết tỏng chồng mình đang muốn gì, sẽ đi đâu. Khi Thúc Sinh rời khỏi nhà, Hoạn Thư cũng về thăm mẹ và kể hết mọi chuyện đã nghe thiên hạ đồn đãi. Lập tức một kế hoạch hoàn hảo “chước rất mầu” dược thi hành: sai bọn Khuyển Ưng đốt nhà, bắt cóc Kiều rồi ném vào đó thây ma chết đuối, tạo nên hiện trường giả là Kiều đã bị chết cháy. Quả nhiên, khi đến nơi, Thúc Sinh tưởng thật. Đi coi bói một quẻ xem sao. Gã thầy bói phán rằng Kiều chưa chết, hai người sẽ chạm mặt nhưng “Muốn nhìn mà chẳng dám nhìn lạ thay”. Quả nhiên đúng y như thế. Đó là chuyện về sau. Còn bây giờ, lúc này:

Sen tàn cúc lại nở hoa

Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân

Tìm đâu cho thấy cố nhân

Lấy câu vận mệnh khuây dần nhớ thương

Tội nghiệp Thúc Sinh, chàng dưới cơ Hoạn Thư xa lắc xa lơ.

Rồi mới đây, tại cuộc chiêu đãi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Phó Tổng thống Mỹ Joe Biden đã dẫn câu thơ trong Truyện Kiều của Nguyễn Du để nói về quan hệ Mỹ - Việt Nam:

Trời còn để có hôm nay

Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời

Trong Truyện Kiều, có lẽ hai câu thơ này lấp lánh ánh sáng reo vui vào bậc nhất trong chuỗi 3.254 câu lục bát dằng dặc đoạn trường “vó câu khấp khểnh bánh xe gập ghềnh”. Đọc Kiều, những người khóc thương cho số phận 15 phiêu bạt giang hồ của Kiều ắt phải òa khóc lên vì sung sướng, vì sự “có hậu” ở trần gian bể khổ này:

Trời còn để có hôm nay

Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời

Hoa tàn mà lại thêm tươi

Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa

Mấy hôm nay, những người mê Kiều chộn rộn, ồn ào phản ứng tập sách Truyện Kiều (NXB Trẻ) - ấn bản Kỷ niệm 250 năm năm sinh đại thi hào Nguyễn Du do Hội Kiều học Việt Nam hiệu khảo, chú giải. Phản ứng vì có những chú giải sai về điển tích, điển cố. Người phát hiện trước nhất là  PGS Đoàn Lê Giang, trưởng khoa Văn học và Ngôn ngữ, đại học KHXH&NV TPHCM, trên trang facebook cá nhân, anh cho rằng ở trang 29 phần chú thích cho câu thơ: “Đạm Tiên nàng ấy xưa là ca nhi” có ghi: “Ca nhi: Tống thư có câu “ca nhi, vũ nữ” (con trai hát, con gái múa)”. Nếu “ca nhi” là “con trai hát”  thì tình trạng giới tính “xưa là ca nhi” của Đạm Tiên là... con trai, hẳn đã “chuyển giới" cho “nàng ấy”! Ông Nguyễn Khắc Bảo, Phó Chủ tịch Hội Kiều học Việt Nam, 1 trong 8 nhà nghiên cứu tham gia biên soạn cuốn Truyện Kiều lý giải sự cố này xảy ra là do đánh máy thừa một chữ: Lẽ ra chú thích chính xác là: "ca nhi, vũ nữ" (con hát, con gái múa) thì in sai thành: "ca nhi, vũ nữ" (con trai hát, con gái múa).

Sự việc này không có gì ầm ĩ. Đã sai thì sửa. Nhưng có một vài người, nhân sự vụ này, “dấn” thêm một bước nữa là chê trách các câu trong bản Truyện Kiều của Hội Kiều học Việt Nam không giống như những câu mình đã đọc, đã nhớ. Nói như thế, đòi hỏi như thế là vô lý. Như ta đã biết, các văn bản Truyện Kiều thông dụng nhất hiện nay là những bản do các tác giả Bùi Kỷ - Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Hoàn, Nguyễn Thạch Giang, Đào Duy Anh... biên soạn; ngoài ra còn có thể kể thêm các bản Kiều của Kiều Oánh Mậu, Liễu Vân Đường, Quan Văn Đường, Duy Minh Thị, Nguyễn Văn Vĩnh, Hồ Đắc Hàm, Trương Vĩnh Ký, Tản Đà, Phạm Kim Chi, Văn Hòe, Nguyễn Quảng Tuân...

Các học giả này dựa trên các bản Kiều chữ Nôm mà mình có để phiên âm, tất nhiên, phiên âm theo sở học mà họ cho là đúng nhất, vì thế, khó có thể có sự trùng nhất của 3.254 câu Kiều giữa các bản. Mà cũng khó có thể đi đến việc xây dựng nguyên bản Truyện Kiều của Nguyễn Du như các học giả Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Tài Cẩn v.v… đã đặt ra từ lâu. Vậy trường hợp bản Truyện Kiều do Hội Kiều học Việt Nam khi hiệu khảo, chú giải thì họ dựa trên bản Kiều nào? Và khi chọn từ đó, câu đó, họ lập luận thế nào, cho biết vì sao đã chọn, thêm một nguyên tắc khoa học là họ phải trưng ra các dị bản để bạn đọc so sánh.

Bên cạnh đó, ta phải thừa nhận một sự thật là có những câu Kiều chắc chắn khác với nguyên bản của Nguyễn Du. Ấy là do người đọc tự sửa tùy theo cảm xúc, nhận thức, học thức… của mình (xin nhấn mạnh điều này), ví dụ, “Tiếc thay một đóa trà mi”. Làm gì có “trà mi”, phải là “đồ mi”: “Trong tiếng Hán chỉ có danh từ đồ mi chứ không có trà mi. Vì chữ đồ và chữ trà chỉ khác nhau một nét (chữ trước có một nét ngang nhỏ trên chữ mộc mà chữ sau không có nên người ta dễ nhầm chữ này thành chữ kia. Từ điển Truyện Kiều của Đào Duy Anh (Hà Nội, 1974) ghi nhận hai hình thức đồ mi lẫn trà mi nhưng mặc nhận rằng đồ mi mới là hình thức gốc và chính xác”. (An Chi - Chuyện Đông chuyện Tây, NXB Trẻ 2005- tập 2, tr, 96). Học vấn uyên bác cỡ Nguyễn Du thừa sức biết điều đó, nhưng rồi hiện nay trong các bản đã phổ biến, trong trí nhớ người thưởng ngoạn vẫn là “Tiếc thay một đóa trà mi”. Thế thì, ta chọn thế nào? Chỉ nêu một trong rất nhiều thí dụ khác nữa.

Mới đọc một đôi câu không “thuận tai” như đã nhớ đã đọc, đã thuộc nhiều người đã la toáng lên như cháy nhà đến nơi. Sự lo lắng thái quá ấy, cũng có thể do tâm lý “té nước theo mưa” đã khiến nhiều người nhầm tưởng bản Kiều do Hội Kiều học Việt Nam biên soạn chẳng giá trị gì, khi đọc “khiến phải mắc cười”.

Sổ toẹt như thế, nghe sao được.

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 12.8.2105

levanhuu-nhasuhoc

Có những con số, tự nó đã phản ánh não trạng nhà cầm quyền của một thời.

Sau khi lên ngôi, Lý Công Uẩn cho xây quá nhiều chùa chiền. Nhà sử học Lê Văn Hưu bình luận xác đáng: “Lý Thái Tổ lên ngôi mới được 2 năm, tông miếu chưa dựng, đàn xã tắc chưa lập mà trước đã dựng tám chùa ở phủ Thiên Đức, lại trùng tu chùa quán ở các lộ và độ cho làm tăng hơn nghìn người ở Kinh sư, thế thì tiêu phí của cải sức lực vào việc thổ mộc không biết chừng nào mà kể. Của không phải là trời mưa xuống, sức không phải là thần làm thay, há chẳng phải là vét màu mỡ của dân ư? Vét máu mỡ của dân có thể gọi là làm việc phúc chăng? Bậc vua sáng nghiệp, tự mình cần kiệm, còn lo cho con cháu xa xỉ lười biếng, thế mà Thái Tổ để phép lại như thế, chả trách đời sau xây tháp cao ngất trời, dựng cột chùa đá, điện thờ Phật, lộng lẫy hơn cung vua. Rồi người dưới bắt chước, có kẻ hủy thân thể, đổi lối mặc, bỏ sản nghiệp, trốn thân thích, dân chúng quá nửa làm sư sãi, trong nước chỗ nào cũng chùa chiền, nguồn gốc há chẳng phải từ đấy?”.

Thời đại chúng ta thế nào?

“Trước tiên nói về bảo tàng của ta thì ôi thôi đủ thứ chuyện, chuyện gì cũng có trừ chuyện không biết “treo” cái gì bên trong. Về “lượng”, sau khi có thông tin về 2 dự án “khủng” là Bảo tàng Lịch sử quốc gia tại Hà Nội với mức đầu tư sơ sơ trên 11.000 tỷ đồng và TP.HCM đề xuất xây dựng Bảo tàng TPHCM trên diện tích 15,45ha tại quận 9 thì cả nước sẽ có tổng cộng 149 bảo tàng. Con số thống kê còn kể “tích” rằng từ năm 2005 đến nay có 32 bảo tàng được xây mới, trong đó có những bảo tàng được đầu tư “tiền tấn” như Bảo tàng Hà Nội hơn 3.000 tỷ đồng, Bảo tàng Quảng Ninh gần 900 tỷ đồng… Tuy nhiên “chất” bảo tàng lại không tương xứng” (Báo SGGP ngày 2.8.2015).

Tượng đài thì sao?

“Hiện cả nước có 360 công trình tượng đài, số lượng tượng đài có thể tăng lên nhiều trong thời gian tới bởi các địa phương đang đua nhau xin làm” (Báo NLĐ ngày 7.8.2015). Thêm thông tin mới nhất, hầu hết các báo đều đưa tin, chẳng hạn cũng theo Báo NLĐ: “Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch đang chủ trì dự thảo quyết định của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch hệ thống tượng đài Chủ tịch Hồ Chí Minh đến năm 2030. Theo dự thảo, tượng đài Chủ tịch Hồ Chí Minh phải được xây dựng ở vị trí trang trọng, trung tâm, có chất lượng cao về kỹ thuật và mỹ thuật, thuận lợi cho nhân dân đến thưởng ngoạn và tưởng niệm. Các công trình chỉ được xây dựng khi đã có trong quy hoạch được Thủ tướng phê duyệt và bảo đảm thực hiện đúng các tiêu chí theo quy định.

Cũng theo dự thảo, hệ thống tượng đài Chủ tịch Hồ Chí Minh được ưu tiên xây dựng đến năm 2030 tại 14 địa phương: Bắc Kạn, Bắc Ninh, Bình Định, Đà Nẵng, Điện Biên, Hải Phòng, Hải Dương, Kiên Giang, Quảng Bình, Quảng Trị, Sơn La, Thái Bình, Thái Nguyên, Vĩnh Phúc.

Tính đến năm 2014, cả nước có 31 công trình tượng đài Chủ tịch Hồ Chí Minh được xây dựng tại trung tâm chính trị, hành chính các địa phương có quy mô lớn và 101 công trình tượng đài Chủ tịch Hồ Chí Minh được xây dựng trong khuôn viên, cơ quan, đơn vị, trường học”.

Đến thời điểm này, tượng đài Mẹ Việt Nam Anh hùng Nguyễn Thị Thứ chiếm “kỷ lục” về số tiền đầu tư lớn nhất: 411 tỷ đồng!

Những này này dư luận vẫn còn phản đối quyết liệt vụ UBND tỉnh Sơn La lập dự án “Bác Hồ với đồng bào các dân tộc Tây Bắc” - tổng số tiền là 1.400 tỷ. Sau khi bị dư luận phản ứng về một tỉnh nghèo vẫn quyết xây tượng đài nghìn tỷ, Thủ tướng đã lập tức ban hành công văn khẩn yêu cầu lãnh đạo tỉnh Sơn La phải báo cáo đề án trước 15.8.2105: “Đề án xây dựng quần thể tượng đài Bác Hồ với đồng bào Tây Bắc có tổng mức đầu tư khoảng 1.400 tỷ đồng từ ngân sách trung ương, ngân sách tỉnh và các nguồn vốn khác; nhận định quy mô Đề án quá lớn, chưa phù hợp trong bối cảnh kinh tế hiện nay”.

Lâu nay, ít ai nhắc đến thơ Tố Hữu, thế nhưng trong sự kiện này, thiên hạ lại nhớ đến:

Bác để tình thương cho chúng con.

Một đời thanh bạch chẳng vàng son.

Mong manh áo vải hồn muôn trượng.

Hơn tượng đồng phơi những lối mòn.

Trên báo Tuổi trẻ và đời sống, nhà thơ Trần Đăng Khoa phát biểu: “Đừng núp bóng Bác, lạm dụng Bác để làm những việc trái với ý nguyện của Bác. 1.400 tỷ đồng là số tiền rất lớn. Trong khi đó, Sơn La lại là một trong những tỉnh nghèo nhất nước. Theo ký giả Nguyễn Đức Lam, toàn tỉnh Sơn La có 11 huyện và 1 thành phố thì có tới 5 trên 62 huyện nghèo nhất cả nước; hơn 30.000 hộ cận nghèo, 31.000 hộ với hơn 141.000 nhân khẩu thiếu đói. Còn về thu-chi ngân sách, Sơn La là một tỉnh không “dư dả” gì, chỉ tạm “đủ ăn”, chưa nói đến đầu tư để “thoát nghèo”.

Tỉnh đang gặp hàng loạt vấn đề, như thiếu cầu đường, việc làm, nước sạch, thiếu các cơ sở phúc lợi xã hội như nhà trẻ, trường học, trạm xá, bệnh viện. Trước vô vàn vấn đề như vậy, điều quan trọng nhất có lẽ là chọn ưu tiên. Tại sao lại chọn việc xây quảng trường thành phố với quần thể tượng đài? Việc thiếu các công trình này tác động đến địa phương như thế nào? Liệu thiếu công trình này có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của đa số người dân không? Bao nhiêu người hoặc nhóm người chịu ảnh hưởng? Nếu chỉ tác động đến một số ít người thì cần cân nhắc vì sao đáng ưu tiên? Nếu không xây quảng trường và quần thể tượng đài sẽ dẫn đến hậu quả gì, có trầm trọng không?

Quan trọng nhất là đặt trong mối tương quan với các vấn đề khác, việc xây quảng trường và quần thể tượng đài có đáng ưu tiên hơn không, hay là có chuyện cần hơn? Cũng theo ký giả Nguyễn Đức Nam, tình cảm của đồng bào với Chủ tịch Hồ Chí Minh là sâu đậm. Nhưng điều đó không đồng nghĩa với nhu cầu xây tượng đài, xây quảng trường, ít nhất tại thời điểm này. Chắc rằng, gần 70.000 hộ nghèo, 30.000 hộ cận nghèo, nhất là hơn 31.000 hộ đói ăn chưa có nhu cầu như vậy. Như ông Tráng A Pao, nguyên Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội nói: “Bác Hồ được nhân dân tôn kính nhưng không phải vì thế mà xây tượng đài thật hoành tráng. Theo tôi nghĩ tôn kính Bác, phải học tập làm theo tấm gương của Bác đó là giản dị, tiết kiệm, biết lo cho dân”.

Trên các trang mạng xã hội, dư luận cũng có ý kiến tương tự.

Vạn Niên là Vạn Niên nào

Thành xây xương lính, hào đào máu dân

Bài học đó còn có tính thời sự không?

Cửu Trùng Đài trăm nóc xây dựng thời vua Lê Tương Dực.

Bài học đó còn có tính thời sự không?

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 1.8.2105

 

Bai-thoCustoRRRm

Bài thơ Ngày tệ nhất ư? (Worst Day Ever?) của em Chanie Gorkin, học sinh lớp 11 Trường Trung học nữ Beth Rivkah ở Crown Heights, Brooklyn, New York (Mỹ).



Mừng em sinh nhật thứ bao nhiêu

Bao nhiêu sinh nhật cũng không nhiều

Tình ta như tuyết giăng đầu núi

Không rét nhưng lòng buồn hiu hiu

Hai câu trên, ca từ của Trịnh Công Sơn; câu thứ 3 của Lưu Trọng Lư; câu thứ 4 của ai? Chịu. Không thể nhớ. Sáng thức dậy, tự dưng trong đầu đã hiện lên thấp thoáng, in đậm những câu đó. Thơ Hồ Dzếnh hay lắm. Đậm đà tâm sự. Khắc khoải nỗi niềm. Hai câu này, đọc một lần sẽ nhớ mãi. Ai không từng trải qua tâm thế:

Mộng tàn, nước chảy, mây trôi

Tôi lui hồn lại nhưng đời đã xa

Câu thơ viết nhẹ nhàng, dễ dàng như không. Lại gợi cảm. Lại ám ảnh khó quên trong ngăn trí nhớ chật hẹp. Những ngày này, có gì vui không? Chẳng có gì. Vẫn thế. Lặng lẽ đi qua mỗi ngày. Ngày bình thường hay ngày tệ hại? Vừa rồi đọc bài thơ Ngày tệ nhất ư? (Worst Day Ever?). Đọc trên báo TT&VH ra ngày 25.7.2015. Bài thơ này của em Chanie Gorkin, 16 tuổi, học sinh lớp 11 Trường Trung học nữ Beth Rivkah ở Crown Heights, Brooklyn, New York (Mỹ). Em gửi dự thi cuộc thi thơ của trang web PoetryNation.com. Nó lập tức gây sốt trên mạng khắp thế giới, sau khi có một thanh niên ở London post lên mạng bức ảnh bản in bài thơ Worst Day Ever? - được chụp tại một quán bar ở phía Bắc thành phố London. Nhiều người biểu dương: “Đây là bài thơ đã khích lệ tinh thần cho cả London”. Nguyên văn như sau:

“Hôm nay quả thực là một ngày tệ hại chưa từng có/ Và đừng cố thuyết phục tôi rằng/ Mỗi ngày đều có ít nhất một điều tốt đẹp/ Bởi, nếu bạn nhìn kỹ hơn/ Thế giới là một nơi quỷ quái”.

“Ngay cả khi/ Những điều tốt đẹp ít ỏi thỉnh thoảng cũng tỏa sáng/ Nỗi thỏa nguyện và niềm hạnh phúc thiếu bền lâu/ Và chẳng có đâu/ Sức mạnh của trái tim và tâm hồn/ Bởi/ Hạnh phúc đích thực có thể giành lấy được/ Giá như xung quanh chúng ta đầy điều tốt đẹp/ Nhưng điều tốt đẹp chẳng tồn tại đâu”.

“Tôi chắc rằng bạn sẽ đồng ý/ Thực tế/ Tạo nên/ Thái độ/ Mọi thứ nằm ngoài kiểm soát/ Và một triệu năm nữa, bạn cũng không bao giờ nghe tôi nói rằng/ Hôm nay là một ngày tươi đẹp” (Bản dịch của Nha Đam).

Bài thơ có gì đặc biệt?

“Nếu chỉ vậy thì bài thơ không có gì đặc biệt. Điểm đặc biệt nằm ở chỗ bài thơ có đọc thể đọc ngược lại từ dưới lên mà vẫn có nghĩa. Và ý nghĩa hoàn toàn trái ngược 180 độ. Tác giả đã rất tinh tế khi để các câu có tính phủ định trước mỗi câu, để đến khi đọc ngược, ý nghĩa từ phủ định chuyển thành khẳng định”. Dư luận cộng đồng mạng đánh giá là “một sự suy tưởng ngoạn mục”. Cuộc thi thơ của của Poetry Nation, giải Nhất 35.000 USD. Worst Day Ever? có lọt vào mắt xanh của Ban Giám khảo? Ta hãy chờ xem.

Sự suy tưởng ngoạn mục của em Chanie Gorkin do đâu mà có? Do nhiều yếu tố, tât nhiên trong đó còn có sự say mê đọc sách nữa. Chắc chắn thế. Người Việt có mê đọc sách không? Trả lời câu hỏi này, cần tjham khảo thêm thông tin: “Theo thống kê, hiện nay trên toàn quốc chỉ có 564.133 người đăng ký sử dụng thư viện công cộng thường xuyên. “Như vậy, nếu tính với tỷ lệ dân số nước ta hơn 90 triệu người thì chỉ có 0,057% người dân đến đọc sách, mượn sách ở thư viện công cộng”. Đây là con số gây sốc được bà Vũ Dương Thúy Ngà, Phó Vụ trưởng Vụ Thư viện (Bộ VH-TT-DL) đưa ra trong hội thảo xây dựng đề án “Phát triển văn hóa đọc trong cộng đồng giai đoạn 2015 - 2020, định hướng 2030” được tổ chức ngày 28-7, tại Hà Nội (Báo SGGP số ra ngày 29.7.2015). Xin nhắc lại, "chỉ có 0,057% người dân đến đọc sách, mượn sách ở thư viện công cộng”.

Tuần rồi, ăn sáng với anh Lê Hoàng - Phó Chủ tịch Hội Xuất bản Việt Nam, Trưởng Văn phòng đại diện phía Nam Hội xuất bản Việt Nam. Anh cho biết: “Văn phòng Hội Xuất bản Việt Nam tại TP.HCM cùng  Thành đoàn, Sở Giáo dục Đào tạo, Sở Thông tin Truyền thông TP. HCM và Thư viện Khoa học Tổng hợp đã ký kế hoạch liên tịch thực hiện chương trình: "Tặng sách cho học sinh ngoại thành - TP.HCM". Cuộc vận động này sẽ khích lệ tinh thần và hình thành một lớp bạn đọc mới ham mê đọc sách từ tuổi học trò, góp phần thực hiện chiến lược phát triển văn hoá đọc bền vững cho nền xuất bản Việt Nam”. Nghe, cảm thấy vui và mừng. Tất nhiên, y sẽ tham dự. Sự kiện này sẽ diễn ra vào lúc 8 giờ 30 sáng ngày 15.8.2015 tại Hội trường Thành đoàn TP.HCM số (1 Phạm Ngọc Thạch, Quận I).

Sau khi chia tay, trên đường vào cơ quan làm việc bỗng điện thoại reo réo rắt: “Q à, mình biết Q rất mê sách. Mình mới thu dọn, sắp xếp lại nhà cửa, có một số sách cũ đây. Mình sẽ tặng lại cho Q”. Mừng rơn. Vội vàng đồng ý ngay. Chị Tước - cán bộ cũ của NXB Trẻ đã có nhã ý này. Xin cám ơn nhiều. Rất nhiều. Còn chương trình mà anh Lê Hoàng đã thông báo, y sẽ tặng chừng một trăm tập thơ. Thơ của bạn bè, đồng nghiệp đã tặng từ nhiều năm nay. Hy vọng từ các tập thơ này, các em học sinh sẽ yêu thơ hơn một chút. Một chút thôi. Chỉ cần nhớ một hai câu thơ hay. Thói quen đọc thơ cần phải bắt đầu từ thuở còn đi học. Đọc rồi quên. Thỉnh thoảng đọc lại. Đến một lúc tự nhiên các câu thơ ấy định hình trong trí nhớ. Các lại hình nghệ thuật khác, chẳng hạn kịch, cần có lời thoại, người diễn xuất; tiểu thuyết cần tình tiết, nhân vật; âm nhạc cần đồ rê son fa mi du dương trầm bổng v.v…

Thơ có gì?

Chẳng có gì, ngoài chữ. Sắp xếp từng con chữ đứng cạnh nhau, đứng lên nhau như lắp gạch xây một ngôi nhà, không cần mạch vữa, chỉ bằng chữ. Mà những con chữ đó tự nó gắn kết lại một cách vững chãi, hoàn chỉnh. Thế thì, muốn đọc đọc thơ phải có kỹ năng, phải có khả năng thẩm thấu từng chữ để biết thơ hay hoặc thơ dở. Có điều phải nói thật rằng, thời buổi này, còn có mấy ai đọc thơ nữa đâu. Hỏi trăm người như một, các đồng nghiệp đều cho biết, họ không còn hào hứng in tập thơ như vài chục năm trước. In thơ vừa tốn tiền, vừa mất thời gian tặng. Chẳng có đơn vị phát hành nào mặn mà với thơ. Vậy in làm gì? Nhiều người đã chuyển sang hướng mới: post thơ lên các trang mạng xã hội, ai đọc thì đọc, chẳng tốn kém gì mà lại quảng bá rộng rãi hơn. Vừa rồi đi Hà Nội, quà đem về, nhiều nhất vẫn là thơ của các đồng nghiệp. Đọc thơ bạn mà ái ngại cho mình. Những tâm tình dằn vặt, những nỗi niềm đau đáu ẩn sâu trong từng câu, từng chữ có còn ai đọc nữa đâu.

Vậy làm thơ để làm gì?

Chẳng để làm gì cả. Viết là một cách thỏa mãn nhu cầu của chính mình. Thế thôi. Đừng bận tâm nghĩ ngợi xa gần. Nghĩ ngợi làm gì dẫu hôm nay là sinh nhật của y. “Mừng em sinh nhật thứ bao nhiêu”. Em đã ngũ thập. Đã già rồi. Còn có cái quái gì hân hoan, mới mẻ nữa mà nghĩ ngợi cho nhọc xác. Nghĩ thế, bèn làm thơ. Bài thơ viết vào buổi chiều ngày 30.7.2015, lúc ngồi với nàng chập chờn một chút men hoan lạc của rượu đỏ. Lúc ấy, mưa như thác nước đổ ào từ trời cao. Mưa nghi ngút. Mưa ngút ngàn. Mưa ngoan cố. Là mưa. Bài thơ đã viết xong. Đã viết xong từ những ngày mẹ bệnh:

Có những ngày nắng sớm cũng quạnh hiu

Trời trở gió mẹ lại vào bệnh viện

Làm nũng, làm nư như trẻ nhỏ lên mười

Khuya giường bệnh cần có con bên cạnh


Trái gió trở trời, nóng run, rét lạnh

Mẹ ngỡ như lúc lội ruộng mưa dầm

Thời thiếu nữ qua nhanh hơn chớp mắt

Đã gần chín mươi như lá sắp lìa cành


Viết câu thơ bên giường bệnh mẹ nằm

Chữ nghĩa nhẹ tênh chênh vênh phù phiếm

Thơ ơi thơ có an ủi nhọc nhằn

Vỗ về mẹ - cơn đau đang ùa đến?


Cầm tay mẹ những phút giây chống chếnh

Con lựa lời như dỗ ngọt trẻ thơ:

“Mẹ cố ngủ, cố ăn  mau khỏi bệnh

Mẹ có ngoan - bác sĩ mới cho về”


Phía ngoài trời mưa gió kéo lê thê

Đột ngột chân mây dần dần hửng nắng

Câu thơ con lặng lẽ ước mơ:

“Mẹ về với con” cửa nhà thôi quạnh vắng


Thơ về mẹ là câu thơ im lặng

Tuổi năm mươi - con là trẻ lên mười

Năm tháng của một thời thiếu nữ

Lại quay về với mẹ sắp chín mươi…

 

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 25.7.2015

buc-hoanh-phi-d_lqpp

Bài thơ mang ý nghĩa là bản tuyên ngôn độc lập của vương triều nhà Nguyễn tại điện Thái Hòa  -  Ảnh: Lê Công Doanh (nguồn: Báo TN)

 

“Một mẹ già bằng ba lần giậu”.

Đến một lúc nào đó, một hoàn cảnh nào đó, con người ta mới thấm thía câu thành ngữ này. Có đôi lúc, trong cuộc sống bề bộn, bận rộn của mỗi ngày, ở chung với mẹ, ta cảm thấy “xốn mắt” lắm. Làm sao có thể chìu được người già? Khoảng cách giữa hai thế hệ là một vực thẳm. Cả hai khó có thể hiểu, chia sẻ những mối quan tâm chung. Đứa con bước ra khỏi nhà, tự trong lòng đã gánh lấy một áp lực từ công việc, từ mối quan hệ ngoài xã hội; trong khi đó với người mẹ lại khác, chỉ là những chuyện vặt vãnh, bếp núc. Có cũng được, không cũng chẳng sao, nếu cần, thuê lấy Osin là xong tất. Chẳng gì phải bận tâm.

Nghĩ là nghĩ thế. Nhưng rồi, lúc mẹ nhập viện, ở nhà thui thủi một mình/với vợ con mới ngộ ra rằng, phải là mẹ, có mẹ thì mọi việc mới chu toàn đâu ra đó. Thích nhất trong đời của nhiều người, với nhiều người có lẽ vẫn là câu nói: “Con ăn gì mẹ nấu cho”. Một sự tự nguyện, tự giác mách bảo từ tình mẫu từ, chỉ biết rằng hễ con ưng ý, hài lòng là vui.

Niềm vui của người mẹ già đơn giản lắm. Chỉ cần con ăn ngon, ngủ ngon, không bệnh tật là vui. Niềm vui ấy, đã có, ngay từ lúc đứa con vừa lọt lòng cất tiếng khóc oe oe và thầm lặng suốt một đời. Chẳng người mẹ nào kể công đã nuôi con cực nhọc như thế nào, nếu nhắc lại cũng chỉ kể về niềm vui. Vui gì? Vui, lúc con bập bẹ tiếng nói đầu tiên gọi ba, gọi mẹ. Vui, lúc còn son trẻ, mỗi lần đi chợ về, con ùa ra níu áo: “Mẹ ơi, quà con đâu?”. Thế rồi, khi đã đủ lông đủ cánh, đủ sức bay nhảy giữa trời cao đất rộng, có lúc nào ta  nhớ đến món quà, tấm bánh dành cho mẹ? Hay có nhớ, nhưng rồi bận rộn quá, tặc lưỡi: “Dịp khác” Dịp khác ấy, bao giờ mới đến?

Ở trong nhà, vai trò của mẹ mờ nhạt lắm. Thế nhưng, khi không có mẹ mới thấy trống trải biết chừng nào. Thì ra, lâu nay nhà cửa gọn gàng, bếp núc đâu ra đó; cái bàn, cái ghế sạch sẽ không một hạt bụi; mọi vật dụng sắp xếp ngăn nắp, nề nếp… chẳng phải tự nhiên mà có. Một tay mẹ quán xuyến tất cả. Muốn tìm cái gì, hỏi cái gì trong nhà, quả nhiên mẹ như một “từ điển sống”. Một ánh sáng lặng lẽ phía sau lưng, khiến ta thấy cuộc sống của mỗi ngày ổn định, hài lòng.

Mà than ôi, người mẹ chẳng hề đòi hỏi gì cho riêng mình. Ngày nọ, y hào hứng ngồi vẽ. Tràn trề sắc màu hò reo nhảy múa. Bỗng nghe tiếng nói chậm rãi của mẹ, từ phía sau lưng: “Từ 11 giờ đến chừ, mẹ cảm sốt, không ngủ được”. Giọng nói ấy không hề than thở buồn rầu, nghe như bà cụ đang thủ thỉ, đang “méc” lại một chuyện oan ức gì đó. Cứ như thể thời còn bé bị ai đó bắt nạt; hoặc ấm ức điều gì chỉ đợi mẹ, chờ ba về đến nhà để “méc” cho bằng được. Già rồi, chỉ dựa vào con. Y vội trấn an: “Xoàng thôi. Mưa nắng thất thường, ai mà không cảm sốt. Không sao đâu”. Bà cụ im lặng. Không dám nói gì thêm, không “mè nheo” nữa. Mãi đến lúc vẽ xong tranh, y mới buột miệng một câu hú họa làm ra vẻ như đang an ủi: “Hay con đưa mẹ đi khám bệnh?”. Bà cụ mừng rỡ, gật đầu ngay, chứng tỏ nẫy giờ muốn nói nhưng không dám thổ lộ. Đưa mẹ đi khám bệnh. Và bác sĩ… cho nhập viện luôn.

Thế đấy, y vô tâm vô tư, vô ý vô tứ quá thể.

Mỗi lần vào bệnh viện thăm, bao giờ bà cụ cũng hỏi: “Con ăn gì chưa?”. Rồi lại nói: “Chịu khó vài ngày, ít bữa nữa về nhà, mẹ nấu cho”. Hỡi ôi, y chẳng ra làm sao cả. Ở với mẹ nhưng rồi có hiểu gì về mẹ, có bao giờ trò chuyện gì không? Chỉ năm thì mười họa. Chỉ là những câu hỏi nhát gừng. Hỏi bâng quơ rồi đắm đuối với những hư ảo, mộng mị xa vời. Vẫn đong đưa theo những cuộc chơi phù phiếm mơ mơ màng màng chẳng nên tích sự gì. Đến một lúc nào đó, một hoàn cảnh nào đó, con người ta mới thấm thía câu thành ngữ: “Một mẹ già bằng ba lần giậu”. Chẳng phải đâu, hãy ngay tự bây giờ, mỗi một ngày, cần dành lấy một khoảnh khắc nghĩ về mẹ. Nghĩ về những ngày còn có mẹ, chỉ cần thế, sẽ cảm nhận được biết bao điều có ý nghĩa nhất trong cuộc đời này.

Chiều hôm ấy, vao bệnh viện, mẹ y phải nằm chung giường với bà cụ khác. Ái ngại quá, bèn đi đóng tiền dịch vụ, may còn đúng một giường. Ở bệnh viện có 3 mức đóng tiền dịch vụ, tùy theo số giường trong phòng nhiều hay ít mà tính tiền. Cụ thể: Phòng máy lạnh tính theo từng ngày, mỗi người 1 giường: 430 ngàn, phòng 4 người; 300 ngàn, phòng 6 người; 240 ngàn, phòng 8 người. Khi bà cụ vừa nằm trên giường đã nghe tiếng nói cằn nhằn của bệnh nhân bên cạnh. Đại khái, ông này là thương binh thời chiến tranh, cụt chân, xếp loại 81% nhưng khi vào bệnh viện vẫn phải nằm chung giường với người khác. May có con đóng tiền dịch vụ nên ông mới được sang phòng này. Ông thở than, thời buổi nào cũng thế, nghèo chỉ khổ, nghèo chỉ hèn dù trước đó đã “cống hiến”, đã “công trạng” thế nào. Ông ta nói đúng, nhưng rồi chẳng ai thèm nghe. Có lẽ, điều cần thiết nhất của đất nước ngàn năm văn hiến này, vẫn là xây thêm nhiều bệnh viện nữa. Tận mắt nhìn thập loại chúng sinh phải nằm dật dờ, vật vờ dọc theo hành lang, nằm túm tụm, co ro dưới đất tại bệnh viện cảm thấy thân phận con người rẻ rúng, bọt bèo, nghèo hèn quá.

Ơn trời, vào bệnh viện, sức khỏe mẹ y phục hồi dần.

Mỗi lần vào thăm, bao giờ bà cụ cũng hỏi: “Con ăn gì chưa?”. Rồi lại nói: “Chịu khó ăn hàng quán vài ngày, ít bữa nữa về nhà, mẹ nấu cho”. Hỡi ôi, y chẳng ra làm sao cả. Đã ngoài ngũ thập, trong mắt người mẹ vẫn là đứa trẻ đấy thôi. Mỗi tối, anh của y vào ngủ chung, chăm sóc mẹ, còn y vẫn chăn êm nệm ấm ngày như mọi ngày. Vẫn như không có gì xẩy ra. Vẫn bình chân như vại.

ta cầm hương hoa vung vãi khắp nơi

cho mối tình đầu, tình sau, tình cuối

thì lúc ấy mẹ ngồi trong bóng tối

tựa cửa một mình chống chọi với mùa đông

Những ngày này, đụng vào cái gì dù nhỏ nhặt nhất, y cũng cảm thấy ngỡ ngàng lúng ta lúng túng. Đã có lần nàng bảo, anh ở với mẹ, đươc mẹ lo cho từng ly, từng tí nên anh sẽ rất khó… lấy vợ! Bèn tủm tỉm cười. Cười cho gã đàn ông được mẹ cưng chiều, yêu thương, đùm bọc như đúa trẻ làm sao có thể trưởng thành, có thể lo toan, gánh vác cho người khác?

Biết trả lời thế nào?

Chẳng trả lời gì.

Mọi ngày cứ đều đặn mỗi ngày. Nghĩ vòng vèo. Viết vớ vẩn. Đọc vu vơ.

Vừa rồi, đọc trên báo TN, thông tin này cần ghi lại: Hiện nay, các nhà nghiên cứu văn hóa đã “giải mã” hệ thống di sản tư liệu độc đáo trên các đền đài, lăng tẩm, cung điện triều Nguyễn tại cố đô Huế. Hàng ngàn bài thơ, văn, câu đối bằng chữ Hán thuộc di sản này đang được đề nghị UNESCO công nhận là di sản tư liệu thuộc Chương trình ký ức thế giới. Xin chép lại một bài thơ ghi trên Điện Thái Hòa - nơi đặt ngai vàng, thể hiện quyền uy của của một triều đại -  được các nhà nghiên cứu ghi nhận "mang ý nghĩa là bản tuyên ngôn độc lập của vương triều nhà Nguyễn". Bài thơ nguyên văn được phiên âm như sau:

"Văn hiến thiên niên quốc

Xa thư vạn lý đồ

Hồng Bàng khai tịch hậu

Nam phục nhất Đường, Ngu

Dịch nghĩa:

Nước Việt đã ngàn năm văn hiến

Cơ đồ vạn dặm đã thống nhất hoàn toàn

Từ thuở Hồng Bàng mở nước

Trời Nam đã một cõi sánh với Đường, Ngu

(bản dịch của Phạm Đức Thành Dũng)”

Đáng chú ý nhất, là câu thứ tư. Bài thơ này của nhà vua nào? Bài báo viết: “Tác giả những bài thơ trên điện Thái Hòa, theo nhiều nhà nghiên cứu là của vua Minh Mạng, trích trong tập Ngự chế thi. Trong khi đó, ông Nguyễn Phước Hải Trung, Phó giám đốc Trung tâm bảo tồn di tích cố đô Huế, lại cho rằng hầu hết các bài thơ đều không ghi tác giả, trên bờ nóc ngoại thất của điện Thái Hòa có một ô pháp lam ghi thông tin về tác giả một cách mơ hồ như sau: Ngự chế thi tam thập thủ. Thông tin trên cho thấy những bài thơ trên là do vua làm, nhưng cụ thể là vua nào thì vẫn rất khó xác định, muốn xác định tác giả cần phải đối chiếu với nhiều tư liệu Hán - Nôm về thơ của các vua triều Nguyễn đang lưu trữ nhiều nơi”. (TN 22.7.2105).

Từ bài báo này, nghĩ rằng, ngày càng có thêm nhiều sự phát hiện mới, qua đó, có một số sự kiện, giai đoạn lịch sử sẽ được đánh giá lại. Công tâm hơn. Đúng mực hơn. Không phiến diện như trước. Trường hợp nhà Hồ, nhà Mạc, nhà Nguyễn... nằm trong xu thế này; lại có những nhân vật lịch sử cũng được nhìn nhận ở góc độ khác trước. Vậy thì, chắc chắn một khi thời gian đã lùi xa, với các chứng cứ, tài liệu được công bố, tìm tòi ắt sẽ có nhiều sự kiện, nhân vật mà thế hệ sau sẽ nhìn khác. Công tội rõ ràng hơn, minh bạch hơn.

Đôi khi, y lại nghĩ lẩn thẩn như một kẻ vô công rỗi nghề. Nghĩ rằng, sau này, thế hệ sau sẽ nghĩ gì về hình ảnh của chính người Việt ngày hôm nay?

Họ nghĩ gì khi đọc lại thông tin, vào tháng 7.2015, đất nước Singapore không cho nhiều phụ nữ Việt Nam nhập cảnh? Nghĩ gì khi báo chí vừa đưa tin hai người du khách Việt ăn cắp tại Zurich (Thụy Sĩ) vừa bị cảnh sát nước này tạm giữ vì tội ăn cắp? Đọc tin này, sực nhớ  vào tháng 7.2008 khi sang Mỹ, anh bạn ở đó dẫn y vào một siêu thị rộng mênh mông, đầy đủ các loại hàng hóa nhưng không hề thấy có một nhân viên nào cả. Ai mua gì, cứ việc lựa chọn, chất đầy trên chiếc xe đẩy. Khi ra đến cửa, mọi người tự giác tiền qua thẻ. Một khi nhân viên siêu thị không có mặt, có thể “thuổng” cái gì chăng? Chắc là được. Nhiều người đã nghĩ thế. Và cuối cùng là bẽ mặt vì bị bắt quả tang, hết đường chối cãi.

Về trường hợp hai du khách người Việt bị “thộp cổ” tại Thụy Sĩ như sau:  “Nhân viên cảnh sát phụ trách vụ việc ở đây cho biết hai người này bị tạm giữ vì tội ăn cắp ba cặp kính mát đắt tiền hiệu Gucci, LV... trị giá hơn 300 euro/cặp. Theo băng hình ghi nhận được tại trung tâm mua sắm, hai người này sau khi xem kính thì tháo bỏ mẩu thông tin về kính, giá tiền ra và đeo lên như là kính của mình. Cả hai sau đó bước ra khỏi trung tâm thương mại nhưng không ngờ họ đã bị theo dõi bằng camera. Khi họ rời khỏi khu vực bán hàng đã bị bảo vệ giữ lại với ba cặp kính mát và gần như ngay lập tức cảnh sát (đồn cảnh sát ở rất gần trung tâm thương mại này) ập đến lập biên bản và đưa về đồn. Cả hai sau đó phải đóng tiền phạt trị giá 2.000 franc Thụy Sĩ để được tại ngoại” (TT 24.7.2015).

Cũng trên số báo này, TT có bài Dân bức xúc với khoảng cách giàu nghèo tăng. “Đó là nội dung tại buổi công bố kết quả khảo sát “Cảm nhận của người dân về Nhà nước và thị trường VN” năm 2014 (CAMS 2014), do Phòng Thương mại - công nghiệp VN (VCCI) và Ngân hàng Thế giới công bố ngày 23/7/2015”. “Kết quả khảo sát: 19% hài lòng về tình hình kinh tế hiện tại;  47% bức xúc trước khoảng cách giàu nghèo tăng lên ở VN; 56% cho rằng doanh nghiệp nhà nước cần minh bạch hơn; 49% đồng tình kinh tế VN hiện nay là kinh tế thị trường; 36% chưa hài lòng, cho rằng tốc độ chuyển đổi sang kinh tế thị trường còn chậm”. Bên cạnh đó, “Theo ông Đoàn Hồng Quang - chuyên gia cao cấp Ngân hàng Thế giới tại VN, nhóm khảo sát đã chọn 4 loại dịch vụ công mà người dân phải tiếp cận hằng ngày, gồm: y tế, giáo dục, công chứng và giao thông công cộng. Kết quả, giao thông công cộng có mức độ hài lòng/hoàn toàn hài lòng với dịch vụ do Nhà nước cung cấp thấp nhất, chỉ 10%. Với y tế, chỉ có 11% người được khảo sát hài lòng hoặc hoàn toàn hài lòng với dịch vụ y tế công. Với giáo dục, tỉ lệ hài lòng, hoàn toàn hài lòng với dịch vụ do Nhà nước cung cấp có cao hơn, nhưng chỉ đạt 15%”.

Những con số này đã nói lên điều gì?

Gì thì gì, cần ghi nhận để sau này, ai đọc lại có thể hình dung ra thời mà chúng ta đang sống.

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 22.7.2105

an-nam-nha-trang-nguyennam-huan-R

 

Chơi thế mới là chơi.

Ngày nọ, một người đàn ông Việt tình cờ biết trên trang Ebay có thông tin về quyển sách viết về Nha Trang: Mes trois ans d’Annam của Gabrielle M.Vassal (NXB Hachette - Paris) in năm 1912. Giá khởi đầu của cuộc đấu giá là 8 Euros. Vì sinh ra tại Nha trang, thích đọc quyển sách đã viết từ trăm năm trước về nơi mình chôn nhau cắt rốn, do đó, ông này tham gia quyết giành về tay mình. Cuối cùng, ông bỏ cuộc vì số tiền đẩy lên quá cao. Quyển sách quý thuộc về quyền sở hữu của ông Frédérie Pinet, người Pháp. Lập tức, một câu hỏi đặt ra trong đầu: Có thể năn nỉ xin người đang sở hữu quyển sách quý đó bản photocopy? Với dân chơi sách, họ cần gìn giữ, tìm mua cho bằng được bản chính; dân nghiên cứu thì bản nào cũng được, miễn đọc được nội dung trung thực, rõ ràng, không bị cắt xén.

Kết quả ra sao?

“Điều đáng nói là yêu cầu của tôi đã được Frédérie Pinet đáp ứng quá sự mong ước của tôi. Một tuần sau, tôi nhận được một bịch lớn gởi từ Pháp sang. Me xừ Pinet đã photocopy hơn 300 trang sách cho không (for free)!”. Nhờ thái độ hào hiệp này, bạn đọc Việt Nam mới được thưởng thức quyển Ba năm ở An Nam hay Nha Trang 100 năm trước (NXB Hội Nhà văn), bản dịch của dịch Nguyễn Nam Huân - chính là người đã nhận món quà trên.

Dân chơi sách cũ nước nhà hiện nay, dẫu có xách dép đuổi theo, còn lâu mới có thể theo kịp sự phóng khoáng, chịu chơi của Frédérie Pinet. Với họ, một khi đã sở hữu quyển sách cũ nào đó là giữ rịt, không cho nhân bản dưới hình thức nào; nếu muốn bản photocopy phải mua với giá cắt cổ, đơn giản chỉ vì chỉ mỗi họ độc quyền.

Bạn bè văn nghệ không có cái thói ấy. Sẵn sàng giúp đỡ ngay thôi. Mà dân văn nghệ còn có cái hay, dù chưa gặp mặt, chỉ mới đọc của nhau nhưng vừa sơ ngộ đã chứa chan cảm tình. Mới rồi ra Hà Nội dự Đại hội Nhà văn Việt Nam, tình cờ gặp anh Trần Huiền Ân ở nhà ăn tập thể, tay bắt mặt mừng. Mừng vì đọc anh đã lâu, thích những bài anh viết về văn hóa dân gian Phú Yên; mừng vì còn nhớ thời tiểu học đã Học thuộc lòng những bài thơ của anh in trong sách giáo khoa. Chẳng hạn, bài Lớp bình dân in trong sách giáo khoa Tân Việt văn lớp 5 do NXB Sống Mới ấn hành năm 1964:

1. Đêm đêm trên các nẻo đường

Từ trong thôn xóm đến trường Bình Dân

Rộn ràng vui những bước chân

Nhấp nhô bao ánh đèn gần, đuốc xa

Giòn giòn tiếng nói câu ca

Bao lời trò chuyện, trẻ già đổi trao

2. Đồng bào hiếu học làm sao

Mười hôm như chục, hôm nào cũng đông

Bà Tư con bế, con bồng

Tuy rằng bận bịu vẫn không ở nhà

Ông Thừa đã sáu mươi ba

Làm xong bài toán, cười xòa vuốt râu

Người hút thuốc, kẻ nhai trầu

Áo nâu, áo vải đậm màu thôn quê

Anh Bình thật chịu khó ghê

Chăm lo giảng dạy, không hề kể công

Mọi người viết thạo, đọc thông

Ai ai cũng nhớ ơn “ông giáo làng”

3. Khuya về, lúc lớp học tan

Đường thôn lại chói bao hàng sao sa…

“Những bài thơ in trong các bộ sách giáo khoa Tân Việt văn, Việt ngữ tân thư, mình viết lúc khoảng 23, 24 tuổi đó Q à”, anh Trần Huyền Ân nói. Bài học thuộc lòng này chỉn chu quá. Gợn lên được không khí của lớp học bình dân ở nông thôn miền Nam, miền Trung thập niên 1960. Mẹ của y cũng từng là học viên của lớp học bình dân thời “chín năm”. Cái thời trong thơ Nguyễn Bính lúc Tỉnh giấc chiêm bao: “Chín năm đốt đuốc soi rừng/ Về đây ánh điện ngập ngừng bước chân”. Có lần mẹ y kể rằng, thời ấy, mỗi sáng trên dường ra đến chợ, có cái “barie” chận lại, mấy anh chàng thanh niên đưa ra tấm bảng nhỏ có ghi vài chữ, quý bà, quý cô nào đọc được thì cho đi; bằng không, cắp rổ quay về nhà. Do có sự kiểm tra ngặt này, ai mù chữ, chưa đọc thông viết thạo phải lo mà học. Vài câu ca dao ra đời của thuở phát động phong trào bình dân học vụ:

Lấy chồng biết chữ là tiên

Lấy chồng dốt chữ là duyên con bò

Ai về chợ huyện  Thanh Vân

Hỏi thăm cô tú đánh vần được chưa?

Đánh vần năm ngoái, năm xưa

Năm nay quên hết nên chưa biết gì

Lưng trời tiếng sáo vu vi

Vẳng nghe ai học chữ i, chữ tờ

Thích nhất trong bài Học thuộc lòng của anh Trần Huyền Ân vẫn là câu: “Ông Thừa đã sáu mươi ba/ Làm xong bài toán, cười xòa vuốt râu”, vẽ được giây phút sảng khoái của người nông dân thứ thiệt. Chuyện trò một lúc, hỏi: “Anh có sách gì mới gửi cho Q đọc?”. Hỏi vu vơ vậy thôi, nhưng anh hứa sẽ gửi tặng qua bưu điện. Tưởng hứa cho vui, không ngờ ông nhà văn cốt cách nhà giáo không hề sai lời. Chiều qua đã nhận được tập sách Việc làm  nhà quê tại Phú Yên (NXB ĐH Quốc gia Hà Nội) của anh, ký tên thật là Trần Sĩ Huệ. Đang đọc loáng thoáng. À, thì ra mấy câu thơ này của Bùi Giáng:

Chung quanh bờ nước rập rình

Chiều qua phố chợ mang hình mắt xanh

Chợ chiều nhiều khế ế chanh

Nhiều cô gái lạ bước nhanh hàng hàng

Mắt xanh hình thể điêu tàn

Chào cô gái lạ cô càng lạ thêm

là ảnh hưởng, lấy cảm hứng từ ca dao Nam Trung bộ:

Chợ chiều nhiều khế ế chanh

Nhiều cô gái lứa nên anh chàng ràng

“Gái lứa”, “con gái, con lứa” là chỉ chung mấy cô gái trẻ, còn son rỗi. Hôm nọ, đọc câu được câu tục ngữ: “Gái có con như bồ hòn có rể”, nghĩa ra làm sao? Ca dao Phú Yên lại có câu:

Anh ngồi đầm Ô

Ngó vô cửa Mỹ

Thấy miệng em cười mủ mỉ mà thương

Ngọn trầu bò dưới đất là ngọn trầu lương

Bây giờ mới biết nẫu không thương ta rồi

“Cười mủ mỉ”, chỉ đọc qua, nghe âm vọng lên đã hình dung ra cái miệng cười e dè, rụt rè đáng yêu quá. Nhưng “trầu lương” là trầu gì? Anh Trần Huyền Ân giải thích: “Trầu lương không phải là một loại trầu mà chỉ là đoạn dây trầu bò dưới đất mà người ta tách để trồng ở nọc khác. “Nẫu không thương ta nữa”, nẫu muốn như ngọn trầu lương rời bỏ chốn cũ đi xa. Trong câu gồm cả thể hứng và thể tỉ”. Có thể hiểu, “hứng” thấy cảnh mà gợi hứng sinh tình; tỉ là so sánh. Nhân “trầu lương” nghĩ đến “áo lương” mà đàn ông thời xưa thường mặc. Thế “áo lương” là gì? Là áo dài bằng the, loại vải mỏng.

Chiều hôm kia ngồi quán Đo Đo cùng vài người bạn. Có cả anh Bảy Hoàng, người vừa tặng cho kình ngư Ánh Viên căn hộ ở khu dân cư cao cấp Gia Hòa. Khu dân cư này do anh chủ đầu tư cũng là nơi lần tiên được UBND TP.HCM cho phép lấy tên những văn nghệ sĩ nổi tiếng như Thanh Nga, Trịnh Công Sơn, Út Trà Ôn… đặt tên đường. Anh Bảy Hoàng kể: “Sở dĩ năm 1999, khi thành lập công ty đầu tư xây dựng các dự án khu đô thị mới, mình đặt tên Gia Hòa là vì…”. Ngập ngừng một chút, anh nói: “Vì mê… thơ Tường Linh”, nói xong rồi hào hứng ngâm luôn khổ thơ:

Bến mộng Gia Hòa xanh ngát dâu

Áo tơ vàng cũ biết tìm đâu

Con đường dương liễu reo ngày trước

Dương liễu chiều nay vọng nhạc sầu

Nếu biết thông tin này, ắt nhà thơ Tường Linh sẽ vui lắm đây. Mà sống trên đời, con người ta phải biết mê một cái gì chứ? Nếu không, đời tẻ nhạt lắm, phải không? Thật khâm phục cho cụ Phan Thanh Giản, cụ mê hoa hơn mê gái; cụ Huỳnh Thúc Kháng mê sách hơn mê bạn. Trong quyển Phan Thanh Giản (1796-1867), nhà nghiên cứu Nam Thọ Xuân, tức Thế Nguyên, Nhất Tâm, tên thật Nguyễn Bá Thế, có đoạn viết: “Một hôm có quan Tổng đốc Vĩnh Long là Trương Văn Uyển đến thăm, nhân vui miệng có hỏi: “Sao quan lớn không dùng hầu thiếp?”. Thanh Giản đáp: “Tôi không đủ ngày giờ lo việc quốc gia, có ngày giờ đâu mà lo việc hầu thiếp. Tôi chỉ thích hoa quỳ, vì sắc nó đẹp tự nhiên, hương nó thơm dìu dịu, sắc hương người có sánh được đâu. Vả lại tính nó có rõ ràng ngay thẳng nó mới dám nhìn mãi mặt trời mà không chút thẹn. Vậy nên tôi yêu quý nó hơn đàn bà đẹp”. Hoa quỳ còn gọi hoa hướng dương, Nguyễn Bính có câu thơ:

Lòng anh như hoa hướng dương

Trăm nghìn đổ lại một phương mặt trời

Về sở thích của Huỳnh Thúc Kháng, trên báo Tiếng Dân số ra ngày 10.3.1939, cụ tự thuật: “Tôi, một anh học trò gốc sinh trưởng nhà nông nghèo trong thôn quê, đã là cái hoàn cảnh phác dã, thô vụng, khô khan, quê kệch, gia dĩ đặc tính trời phú ham mê về sự học, nửa đời người tôi ngoài văn thơ sách vở ra, gần như không có cái gì gọi là “mỹ cảm”. Bởi vậy, trong bạn lứa anh em đồng thời với tôi như cụ Tây Hồ, Tập Xuyên v.v... thường có lời nhạo tôi là “lão phác” vì không biết bốn cái hứng thú mà làng văn thích thưởng ngoạn: Không biết uống rượu. Không biết chơi hoa. Không biết ngắm sắc. Không biết thưởng sơn thủy. Chính cụ Tây Hồ tặng tôi một bài thơ có câu: “Khách lai vô thoại chỉ đam thư” - khách đến không nói chỉ mê sách”.

Ôi những bậc hiền nhân quân tử, sự yêu thích, đam mê của họ cao vời vợi, thanh cao như mây bay trên nghìn ngọn núi. Còn y, y mê gì vậy? Mê gái. Vâng, chỉ mê gái. Vì thế, trong lời Tựa của quyển sách Tình éo le mà lý oái oăm mới có câu: “Nếu tự đánh giá về mình, tôi sẽ nói thế nào? Xin thưa: Đó là người cần cù bù thông minh, cũng có nhiều thói xấu khác nhưng lại có ưu điểm rất đáng khen là luôn luôn dại gái”.

Dại gái vì quá mê gái. Há chẳng phải là một lạc thú ở đời đó sao?

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 19.7.2105

100-nha-tho-Duong-1-R

 

Những ngày này, “hot” nhất vẫn là thông tin:  Bộ GD-ĐT vừa công bố Dự thảo điều lệ trường tiểu học với một số nội dung mới theo quy định hướng dẫn của Thông tư 30 - về đánh giá, xếp loại học sinh tiểu học theo mô hình trường học lớp. Theo đó, lớp trưởng được gọi là chủ tịch. Thật khó khăn khi tìm ra ý kiến đồng tình.

Báo TT sáng nay, có đăng ý kiến của nhà ngôn ngữ học Nguyễn Đức Dân: “Trong tiếng Việt, người đứng đầu một tổ chức hành chính, một tổ chức xã hội, một dòng tộc được gọi là trưởng: quốc trưởng, bộ trưởng, ngoại trưởng, cục trưởng, chỉ huy trưởng, hội trưởng hội phụ huynh, tộc trưởng, tù trưởng... Vậy lớp trưởng là oai lắm rồi.

Người đứng đầu một tổ chức hành chính, một tổ chức xã hội... cũng được gọi là chủ tịch: chủ tịch nước, chủ tịch Quốc hội, chủ tịch Mặt trận Tổ quốc, chủ tịch huyện, chủ tịch hội đồng quản trị, chủ tịch hội cựu chiến binh, chủ tịch hội nhà văn...Hai từ chủ tịch và trưởng gần như đồng nghĩa, nhưng được dùng phân bố với nhau. Nghĩa là danh xưng nào dùng từ trưởng thì không dùng từ chủ tịch và ngược lại. Tuy nhiên cũng có trường hợp dùng cả hai: chủ tịch tỉnh và tỉnh trưởng, chủ tịch xã và xã trưởng... Đây là dấu vết tên gọi theo những giai đoạn xã hội khác nhau.

Trong nhiều trường hợp từ chủ tịch nghe cao sang hơn, trọng vọng hơn từ trưởng. Khi người đứng đầu ở một đơn vị be bé, nhỏ nhỏ, con con thì người ta gọi là trưởng mà không gọi là chủ tịch: toán trưởng, đội trưởng, tổ trưởng, nhóm trưởng... Không ai thưa gọi chủ tịch toán (biệt kích), chủ tịch đội, chủ tịch nhóm, chủ tịch lớp... cả”.

Cải cách giáo dục nước nhà, từ mấy chục năm nay vẫn còn đi trong cái vòng lẩn quẩn, các bộ óc trí tuệ, uyên bác nhất của nước nhà đã phân tích, góp ý chán chê rồi. Nhưng đâu vẫn vào đó. Chẳng gì thay đổi. Nằm đọc sách vậy. Vui hơn. Đọc sách, mỗi độ tuổi có cảm nhận khác nhau. Thời nhỏ, có lần đọc truyện ngắn Miếng thịt vịt của nhà văn Vũ Hạnh. Thích quá. Trưa qua, thức dậy, với lấy trên đầu gường, lật đúng y ngang trang có truyện ngắn đó. Đọc lại. Lại không còn cảm giác thích như trước nữa. Chỉ thích chi tiết này: “Thủ Tự có được bốn con bò cái tuy cày hơi yếu, nhưng vùng đất cát người ta chỉ cần sức cuốc. Nuôi bọn bò cái vì nó đái nhiều, tốt phân. Hai anh bò đực thiệt lớn, ráng sức đái một trận không bằng một chị bò cái xề xề đái rất lửng lơ”. Chi tiết này, lần đầu tiên y biết. Quan sát quá giỏi. Nhà văn mà không biết quan sát thì viết cái gì?

Không những thế, còn phải đọc. Đọc nhiều. Cho đến nay, y vẫn nghĩ rằng, nếu chọn lấy một vài truyện ngắn hay nhất của văn học Việt Nam thế kỷ XX, chắc chắn phải có Bút máu của Vũ Hạnh. Trong chuyên luận Người Quảng Nam, y ghi nhận: “Đến nay, đọc lại truyện ngắn Bút máu của Vũ Hạnh, ta vẫn còn gai cả người, lạnh cả sống lưng và nghiệm ra rằng, ông đã viết thành công một vấn đề không bao giờ cũ. Bất luận thời đại nào cũng có những con người cầm bút gánh lấy bi kịch của Lương Sinh. Nó đau đớn ở chỗ, khi nhận thức ra vấn đề thì “cuộc chơi” đã kết thúc, không còn có mảy may cơ hội để “làm lại cuộc đời”. Đúng thế, kẻ sĩ cầm bút nếu không tỉnh táo, bị mua chuộc, tự nguyện làm cái loa phát ngôn cho kẻ cầm quyền, tô lục chuốc hồng, nói dối đổ trắng thay đen để chúng lợi dụng thứ văn chương mị dân đó để đàn ấp dân đen thì làm sao có thể trả được món nợ đó? Đó là bi kịch của Lương Sinh.

Vừa rồi ra Hà Nội đã nhận được vô số thơ của bạn bè, trong đó có 100 nhà thơ Đường, dày 830 trang in. Tập sách này do anh bạn thơ Đỗ Trung Lai soạn, dịch lại thơ, dù anh không hề biết… chữ Hán. Anh tham khảo bản dịch nghĩa, rồi dịch lại một lần nữa, dù trước đó các ông Tản Đà, Bùi Khánh Đản, Trần Trọng San, Khương Hữu Dụng… đã dịch. Sở dĩ thế, vì anh quá mê thơ Đường. Đọc tập sách này, thật ngạc nhiên khi nhận ra nhân vật Lương Sinh trong truyện ngắn Bút máu của nhà văn Vũ Hạnh có phần na ná nhà thơ Đỗ Tuân Hạc đời Đường.

Xin tóm tắt, Đỗ Tuân Hạc đậu Tiến sĩ đời vua Chiêu Tông (889-904), giỏi về thơ và từ. sau hai năm làm quan, thấy triều đình điên đảo bèn treo ấn từ quan về ở ẩn. “Một hôm thư nhàn, Đỗ đến thăm người bà con ở Hồ Thành, thấy ở đấy trăm họ đều ta oán, quan huyện họ Giang tham lam tàn ác vơ vét của dân không từ một vật gì. Đỗ đưa ý dân đến nói cho quan Thứ sử biết, nhưng họ Giang dủ thế lực nên quan Thứ sử cũng che lấp đi. Năm sau, Đỗ lại đến Hồ Thành, thấy trong huyện thành tấp nập hương án đón chiếu chỉ. Hỏi ta mới biết là quan Thứ sử đã tâu lên, quan huyện họ Giang rất thanh liêm, hết lòng thương dân nên triều đình xuống chiếu thăng chức và ban khen cho họ Giang, Đỗ phẫn uất đề ngay bài thơ vào cổng huyện:

Huyện này năm ngoái mới qua chơi

Dân huyện kêu oan tiếng dậy trời

Đỏ huyện năm nay quan được thưởng

Máu dân đã nhuộm khắp thành rồi (SĐD, tr.697).

Cái giỏi của nhà văn Vũ Hạnh là không dừng lại đó, chỉ là cái cớ để hư cấu, thêm thắt nhiều tình tiết đắc giá, xây dựng thành công truyện ngắn có sức khái quát lớn. Chủ đề của Bút máu là gì?

Có thể tóm gọn trong lời răn dạy của đạo sĩ họ Trình nói với Lương Sinh: “Ta từng bảo cháu ngòi bút không phải không có oan khiên. Lưỡi gươm tuy ác mà trách nhiệm rõ ràng, lỗi lầm tác hại cũng có giới hạn. Mượn sự huyển hoặc của văn chương mà gây điều thiệt hại cho con người, tội ác của kẻ cầm bút xưa nay kể biết là bao, nhưng chẳng qua vì mờ mịt hư ảo nên không thấy rõ hay không muốn rõ mà thôi. Làm cho thiếu nữ băn khoăn sầu muộn, làm cho thanh niên khinh bạc hoài nghi, gợi cho người ta nghĩ vật dục mà quên nhân ái, khêu cho thiên hạ tiếc điều tài lợi mà xa đạo nghĩa, hoặc cười trên đau khổ tha nhân, hát trên bi cảnh của đồng loại, đem sự phù phiếm thay cho thực dụng, lấy việc thiển cận quên điều sâu xa, xuyên tạc chân lý, che lấp bần hàn, ca ngợi quyền lực, bỏ quên con người, văn chương há chẳng đã làm những điều vô đạo? Tội ác văn chương xưa nay, nếu đem phân tích biết đâu chẳng dồn thành ngàn dãy Thiên Sơn! Thần tạng của cháu kinh động thất thường, nhưng mà bản chất huyền diệu có thể cảm ứng với cõi vô hình, chắc cháu làm điều tổn đức khá nặng nên máu oan mới đuổi theo như vậy. Hãy xem có lỡ hứng bút đi lệch đường chăng? Soát lại cho mau, soát lại cho mau, chớ để chậm thêm ngày nào!”.

Lời răn dạy bọn cầm bút, thời nào cũng đúng.

Vừa rồi, gặp nhà văn Vũ Hạnh tại sân bay Tân Sơn Nhất, cùng chuyến đi Hà Nội. Ngạc nhiên khi thấy ông bước qua tuổi 80 mà vẫn còn minh mẫn, khỏe khoắn. Ông sinh năm 1926, cùng năm với Bùi Giáng, Sơn Nam cũng là năm cụ Phan Châu Trinh từ trần. Kinh nghiệm gì để có thể sống khỏe? Ông Vũ Hạnh bảo, cơ thể con người ta tựa như chiếc xe máy, phải chạy bằng xăng, mà người ta lại ngộ nhận cho chạy bằng dầu hỏa. Vậy  mỗi ngày cần cung cấp cho cơ thể những gì mới là đủ và đúng? Thay vì trả lời, ông đã ghi ra một loạt thứ thuốc cần uống mỗi ngày, và giảng cho nghe các loại thực phẩm cần phải ăn ra sao để giữ gìn sức khỏe. Không những thế, ông còn dặn mỗi ngày phải đều đặn tập Dịch cân kinh với các động tác như thế này, thế này...

Nghe phục lăn.

Cái sự phục lăn này cũng tựa như lúc đọc bài viết của ông bạn già An Chi. Sở dĩ biết bài này, do bạn thơ Cao Xuân Sơn past đường link vì biết y khoái chuyện tỉ mẩn, tìm hiểu về vốn từ tiếng Việt. Chơi với nhau, chỉ cần chia sẻ đôi điều như thế đã là quý. Nhà nghiên cứu An Chi giảng thích về từ “luu manh” trên báo NLĐ rằng: “Âm xa xưa của chữ manh 氓 trong tiếng Việt là mống, còn được giữ lại trong những lối nói mang tính quán ngữ, như: không mống nào chạy thoát, chết không còn một mống” Và, nó hoàn toàn không liên quan gì đến “manh” trong “thong manh” (biến biến thể ngữ âm của “thanh manh”); chẳng liên quan gì đến chữ “manh” trong “manh mối” có nghĩa là “khai mào”, “khởi đầu”, “dấy lên” như có thể thấy trong một cấu trúc khá quen thuộc là manh nha v.v…

Có thể hiểu, “mống” bắt đầu “manh”. Từ điển Đào Duy Anh cho biết “manh” là “dân”. An Chi cũng giải thích như thế, chi tiết hơn và theo ông: “Lưu 流 có nghĩa gốc là trôi, chảy; rồi nghĩa phái sinh là du thủ du thực, rày đây mai đó. Hai tiếng trên ghép lại thành danh ngữ lưu manh, được Hán ngữ đại tự điển giảng là: “Nguyên chỉ vô nghiệp du dân, hậu lai chỉ phẩm chất ác liệt, bất vụ chính nghiệp, vi phi tác đãi đích nhân”. (Vốn chỉ lưu dân không nghề nghiệp; về sau chỉ những kẻ phẩm chất dữ dằn, không làm việc chính đáng, làm bậy làm càn)”.

Cách giải thích này lý thú quá, nhưng từ đây, y thắc mắc, thế thì hiểu như thế nào về “mống’ trong thành ngữ “khôn sống mống chết”? Bạn thơ C.X.S trả lời: “Trong kết cấu "khôn sống mống chết", chắc chắn "mống" trái nghĩa với "khôn", nghĩa là ngốc, dại, khờ, cù lần..., tương tự như "khôn cho người ta rái, dại cho người ta thương", dở dở ương ương người ta ghét". (Chữ "rái" cũng ngồ ngộ, nhỉ!)”. "Rái" là sợ, kiêng nể. Y hoàn toàn đồng tình, xin nêu thêm một thành ngữ khác “Con mống, sống mang”, hiểu rằng, con ngu dại thì người cha phải gánh chịu. Ơ hay, tự dưng sao lọt vào “người cha” ở đây? Xin thưa là nó nằm ở từ “sống”. “Sống là “trống” (gà sống/ gà trống), chỉ giống đực là người cha. Rõ ràng, "mống" không những chỉ "dân" mà còn có thêm nghĩa "ngu dại". Tương tự, “Con dại, cái mang”. Từ điển Lê Gia giả thích: “Chữ “cái” là che chở, chỉ về người mẹ dưỡng nuôi, dùm bọc. Do đó, người ta gọi giống vật nuôi con là giống cái”. Viết đến đây, sực nhớ câu thơ của Bảo Sinh:

Con ta không phải của ta

Tai họa của nó mới là của ta

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 15.7.2105

DSC00376RRRR

Hình chụp tại quán X ở Hà Nội

 

Vừa đi Hà Nộii về. Tham dự Đại hội Nhà văn Việt Nam khóa IX, nhiệm kỳ 2015-2020.  Không khác gì những lần trước. Vẫn một chuyến đi chơi xa. Gặp gỡ bạn bè. Ăn nhậu lai rai. Ngồi nghe báo cáo. Muốn thì nghe, không thì ra ngoài chụp hình, cà phê cà pháo, chém gió vang trời. Muốn thì đến dự, nếu không thì thôi, rủ nhau đi chơi đâu đó, chẳng ai phiền lòng ai. Tùy nghi. Tùy thích. Đơn giản, ai cũng nghĩ mình đang có một suất đi chơi Hà Nội. Miễn phí. Không tốn tiền. Nào phải hội nhà văn này. Các hội khác cũng thế thôi. Báo PN sáng nay tường thuật Đại hội Điện ảnh vừa diễn ra: "Nhiều hội viên cho biết, họ không đặt kỳ vọng vào Hội Điện ảnh Việt Nam. Họ xem đây là dịp để gặp gỡ bạn bè đồng nghiệp, cơ hội để đi… du lịch...”.

Nếu còn duy trì hội hè kiểu này,  như lâu nay, dứt khoát 5 năm sau, sau nhiệm kỳ này chắc chắn từ cung cách tổ chức theo mô hình “thành công, rất thành công” đến tâm thế người tham dự “hàng thần lơ láo” cũng giống y chang. Chẳng thể có gì thay đổi. Giữa nhà văn - những người lao động nghệ thuật và các hội nghề nghiệp muốn tìm ra tiếng nói chung? Không dễ. Đã có một khoảng cách. Rất xa. Ấy thế, các hội đoàn này, nó vẫn cứ tồn tại. Xuân thu nhị kỳ. Đến hẹn lại lên. Lại những cuộc gặp mặt. Rồi mạnh ai nấy đi. Mạnh ai nấy làm. Có một điều lạ, dù ai ai cũng nhận thấy vai trò của các cơ quan hội đã không còn giữ vai trò cần thiết như trước, đã lỗi thời, đã cũ mềm nhưng không hiểu sao nó vẫn cứ tồn tại? Tồn tại đến bao giờ nữa? Tồn tại để làm gì? Nếu muốn tồn tại, phải thay đổi. Thay đổi như thế nào? Đừng ai dạy khôn ai. Ai cũng biết. Có dám thay đổi hay không? Cốt lõi là chỗ đó.

Sau ngày họp thứ nhất, y đã viết ngay bài báo “Đại hội Hội Nhà văn Việt Nam lần thứ IX: Nhà văn quan tâm gì nhất?”. Làm báo phải thế. Nhanh chóng, kịp thời thông tin cho bạn đọc. Tất nhiên, cố gắng kiềm chế. Chỉ nói những gì cần nói. Điều cần nói lại không dám nói. Đó là đời. Báo PN số ra ngày 10.7.2015 đã in nguyên văn như sau: "Đại hội lần thứ IX Hội Nhà văn Việt Nam (NVVN) diễn ra từ ngày 9-11/7 tại Hà Nội. Hiện nay, hội viên Hội NVVN trên cả nước có l.014 người, chỉ có 542 NV về tham dự đại hội. Khác với những lần trước, năm nay, các chi hội địa phương đã tổ chức bình chọn người tham dự bằng hình thức tự gạch tên nhau. Theo báo cáo tổng kết nhiệm kỳ VIII (2010-2015), 5 năm qua, Hội được trợ cấp từ ngân sách nhà nước gần 197 tỷ đồng. Ngoài ra, còn có nhiều nguồn tài trợ khác trên 22 tỷ đồng. Điều này cho thấy, văn học và các NV nước nhà đã nhận được sự quan tâm đúng mức. Vậy, thời gian qua, nền văn học nước nhà có những tác phẩm nào nổi bật, những thành tựu nào đáng ghi nhận?

Báo cáo của nhà thơ Hữu Thỉnh - Chủ tịch Hội NVVN nhiệm kỳ VIII cho biết: “Còn ít tác phẩm có tính khái quát rộng lớn, khai phá mới lạ, mang tính đột phá. Đây là một hạn chế đã chỉ ra từ lâu nhưng khắc phục còn chậm. Mặt khác còn một số tác phẩm muốn có một cái nhìn mới về cuộc chiến tranh trong quá khứ, nhưng chưa nắm chắc biện chứng của cuộc sống nên đã rơi vào sự chông chênh, xóa nhòa ranh giới chiến tranh chính nghĩa và phi nghĩa”.

Theo nhà nghiên cứu văn học Trần Hữu Tá: “5 năm qua, đội ngũ hội viên đông đảo hơn trước nhưng vẫn chưa có nhiều tác phẩm sâu sắc. Hội NVVN cần chú ý đến các tác giả người Việt đang sống ở nước ngoài. Có như thế mới tạo nên dòng chảy văn học phong phú hơn”. Từ góc nhìn của một nhà lý luận, ông Lại Nguyên Ân đánh giá: “Đời sống thật với những thay đổi xã hội, không khí chính trị, mối quan tâm của nhân sinh đã vượt ra ngoài phạm vi của các trang viết của NV. Nói cách khác, NV hiện nay đang đứng ở đâu? Trang viết của họ có chạm đến được những đòi hỏi bức thiết, nhu cầu thẩm mỹ, mối quan tâm của bạn đọc?”.

Điều dễ nhận ra cuộc gặp gỡ của các NV cả nước lần này vẫn là không khí hội hè, thăm hỏi nhau, hơn là lắng nghe các văn bản liên quan đến đại hội hoặc tranh luận, trao đổi về chuyện nghề nghiệp. Có hai hình ảnh trái ngược: trong hội trường các bản báo cáo được đọc nghiêm nghị, phía bên ngoài, một lượng hội viên đông đảo không kém tranh thủ choàng vai bá cổ chụp hình lưu niệm, tán gẫu. Ngoài chuyện tình cảm đồng nghiệp lâu ngày mới gặp, còn là do cách tổ chức vẫn duy trì như cách đây hàng chục năm.

Nhà thơ Phạm Sỹ Sáu - Phó chủ tịch Hội NV TP.HCM cho rằng: “Hình thức tổ chức thiếu sự cách tân, vẫn là cách làm cũ khiến các đại biểu mệt mỏi vì đọc lại quá nhiều văn bản đã phát sẵn. Lẽ ra nên dành thời gian đó cho hội viên thảo luận sâu hơn những vấn đề đã tổng kết trong các văn bản”. NV Y Ban cũng tán thành: “Vấn đề quan trọng giữa các đồng nghiệp vẫn là sự trao đổi, tự vấn, suy nghĩ những gì sẽ viết và viết như thế nào trong hiện thực phong phú, đa dạng, nhiều chiều của cuộc sống đang diễn ra”. Rất tiếc đây không phải là mối quan tâm nhất của các NV. Được nhiều hội viên quan tâm nhất lại là... kết quả bầu bán nhân sự. Kết quả kiểm phiếu đề cử, ứng cử Ban chấp hành Hội NVVN khóa IX (2015-2020) có đến 402 người. Kết quả thế nào là câu chuyện được bàn tán rôm rả nhất từ trong hội trường ra đến ngoài sân, từ lúc diễn ra đại hội đến khi giải lao”.

Văn chương thiên cổ sự

Đắc thất thốn tâm tri

Câu thơ Cảm tác của thi hào Đỗ Phủ khái quát tâm thế người cầm bút từ thiên thu đến vạn kiếp đã trở nên lỗi thời rồi chăng? Đừng nên bi quan đến thế. Trước đây, người ta kháo nhau, suốt nhiều năm liền ở Hà Nội có 5 mùa. Ngoài xuân, hạ, thu, đông còn có mùa thứ 5. Đó là mùa chạy giải thưởng, mùa xin kết nạp vào hội. Mùa thứ 5, nay không còn náo nhiệt, thèm thuồng như trước nữa. Người ta cũng không còn mấy quan tâm đến nó. “Văn chương thiên cổ sự”? Thời nào cũng vậy, chế độ nào cũng vậy bất kỳ nhà cầm quyền nào cũng tìm cách đẩy người cầm bút đi chệch ngoài hoài bão cao thượng, thiên hướng tốt đẹp ấy. Bằng nhiều trò. Rất nhiều trò. Có làm được không? Tất nhiên là được. Nhưng chỉ nhất thời. Y tin thế. Rất tin thế.

Những ngày này, có lẽ câu chuyện được nhắc đến nhiều nhất lúc trà dư tửu hậu vẫn là vụ giết người ở Bình Dương. Có 6 người bị giết chết. Vụ án kinh hoàng này cũng giống như vụ Lê Văn Luyện ở Bắc Giang năm 2011, cơ quan công an cũng phá án rất nhanh, làm nức lòng nhân dân cả nước. Các báo đều đưa tin ngay trang nhất. Hình to đùng đoàng. Tít lớn vật vã. Lật vào trong, những hai trang báo dày đặc chữ. Trên các trang mạng xã hội cũng tràn ngập thông tin. Liên tục, liên miên, liên tiếp. Mà có lẽ chỉ báo TN đặt ra câu hỏi khiến y giật mình: “Có người đặt câu hỏi, tại sao nạn nhân nữ trong vụ thảm án ở Bình Phước lại bấm máy gọi cho người thân như báo chí phản ánh mà không phải là gọi cho cảnh sát, trong khi rõ ràng ở tình thế đó gọi cho cảnh sát ít rủi ro hơn? Người dân không được trang bị những kiến thức cần thiết nhất để bảo vệ mình trong tình huống khẩn cấp (chẳng hạn như phải biết 113 là số khẩn cấp gọi cảnh sát) hay người ta không tin cảnh sát có thể có mặt ngay để cứu mạng họ? Có lẽ là cả hai” (TN số 12.7.2015).

Câu hỏi trên, nó đã góp phần phản ánh hiện thực xã hõi của thời đang sống.

Thời buổi này khó sống hay dễ sống? Tùy vào chỗ đứng và tâm thế của mỗi người. “Nào ai có khảo mà mình lại xưng”? Đó là tâm trạng của Thúc Sinh - người đàn ông sợ vợ vào  bậc nhất của văn chương nhân loại, sau khi tí tởn với Thúy Kiều rồi quay  về với Hoạn Thư. Buồn cười quá, y nghĩ, trí thức Việt Nam hiện nay cũng là một loại Thúc Sinh đấy thôi. Tất nhiên, có cả y nữa. Nghĩ một đằng, nói một nẻo. Trong phòng ngủ nói khác. Ra hội hè nói khác. Nói dối mãi thành quen. Chẳng sao, dù biết tỏng tòng tong. An toàn, dù hèn. Uốn lưỡi, dù nhát. Tắc kè, dù nhục. Ấy là những ngày đang sống. Vậy những ngày sống ở Hà Nội có gì đáng nhớ? Thưa, nhớ nhất là vẫn không có dịp thưởng thức món phở.

Phở Bắc nóng, nồng như gái Bắc

Quán xá nhường nhau chật chội ngồi

Tôi nâng tô phở như… thành khẩn

Mơ thấy nắng vàng lững thững rơi !

Đã thế, lại không có dịp ăn bữa cơm với các món đặc trưng của xứ Bắc. Những cuộc la cà bia bọt quá nhiều. Mà nhà hàng sang trọng nào ở trong Nam ngoài Bắc lại không có những món đã ăn quen thuộc? Ăn đã mòn răng. Sài Gòn thế mà hay. Bất kỳ món ăn tiêu biểu của vùng miền nào cũng có. Có tất tần tật. Quay về Sài Gòn, lại được ăn những món mình thích, tất nhiên có phở, lại công việc của mỗi ngày, trong khi đó, các đồng nghiệp vẫn còn thong dong ngao du đây đó ở các tỉnh phía Bắc.

Nghĩ mà thèm.

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 4.7.2015

van-truyen-ki-u-1RRRR

 

Vừa mua được bộ Văn Nghệ đóng tập, gồm các số 6 tháng đầu năm 1977. Dưới manchette có ghi Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam, chứ không trực thuộc Hội Nhà văn Việt Nam như hiện nay. Năm 1977, y đi bộ đội, ngày 23.7. Con số ấy không quên. Cũng như làm sao quên được ngày ấy:

Đà Nẵng như một làn roi

quất vào trí nhớ những vết hằn đau điếng

mười tám tuổi ngậm nỗi buồn trong miệng

làm hành trang xuôi ngược vào đời

đứa vào Phú Ninh, đứa xuống An Điềm

đứa đạp xe thồ, đứa nửa tỉnh nửa điên

đứa lên rừng cầm súng

người tình dại dột đã vượt biên

Những câu thơ này, tâm trạng của một thời. Ngày ấy, phải nói thật, nước Mỹ vẫn là nơi nhiều người vượt biên ước mơ được đến. Thử xem, ngày ấy báo Văn Nghệ đã miêu tả nước Mỹ ra sao?

Cái rét Huê Kỳ rét rét ghê

Bốn mươi âm độ ở đâu về

Hàng nghìn nhà máy đành im đóng

Mấy chục con người phải chết tê

Mười tỷ đô la thành khói tỏa

Triệu dân thất nghiệp cúi mình lê

Một khi nhiên liệt không tiên liệu

Chết rét bây giờ mặt Cạc ê

“Cạc” là phiên âm, viết gọn Jimmy Carter, tổng thống Mỹ lúc đó. Bài thơ này in số 8 (694) ra ngày thứ Bảy 19.2.1977 của tác giả nổi tiếng. Ai vậy? Không nhắc lại. Nhắc lại làm gì. Mấy hôm nay, đã đọc một quyển sách hấp dẫn, cứ như đang đọc kiếm hiêp của Kim Dung, dù là thể loại lý luận, phê bình văn học. Sở dĩ thế, vì cuốn sách này, chọn in lại các bài tranh luận về kiệt tác Truyện Kiều. Người tuyển chọn là GS Nguyễn Văn Trung, tựa Vụ án Truyện Kiều, ngoài bìa ghi rõ “Tài liệu tham khảo dành cho Sinh viên văn khoa Sư phạm lớp Lý luận văn học”. Sách dày 304 trang, khổ 13x19cm. Cám ơn anh B đã tặng. Sinh viên thời đó, được tham khảo tài liệu này, quý quá.

Vụ án Truyện Kiều, có thể tóm tắt như sau: Năm 1919, trên tạp chí Nam Phong số 30, Phạm Quỳnh có bài ca ngợi Truyện Kiều, được dư luận chú ý. Tháng 9.1924, tạp chí Nam Phong cùng Hội Khai Trí Tiến Đức phối hợp tổ chức kỷ niệm Nguyễn Du rất long trọng, Phạm Quỳnh đọc diễn văn  khai mạc. Bài này in tạp chí Nam Phong số 86, trong đó có câu trứ danh: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta còn”. Câu này hiện được khắc tại mộ Phạm Quỳnh. Ngay sau đó, trên tạp chí Hữu Thanh số 21, Ngô Đức Kế có bài phản biện Luận về chánh học và tà thuyết cực kỳ gay gắt. Phạm Quỳnh không trả lời.

Sự việc tưởng chừng quên lãng, không ngờ dăm năm sau,  năm 1929, Phan Khôi phê bình quyển Nho giáo của Trần Trọng Kim. Sau cuộc tranh luận này, Phan Khôi viết Cảnh cáo nhà học phiệt: “Tôi lấy làm phục cái nhã độ của tiên sinh”, vì khi người ta công kích, tranh luận, đúng hay sai thì mình phải trả lời, chứ không nên tỏ thái độ không thèm quan tâm đến. “Tôi chẳng nói gần xa chi hết, tôi nói ngay rằng hạng “học phiệt” ấy ở nước ta chẳng bao lăm người, mà Phạm Quỳnh tiên sinh là số một”. Phan Khôi nhắc lại vụ bài viết trên báo Hữu Thanh năm 1924 của Ngô Đức Kế. Phạm Quỳnh liền viết bài phân bua, đại khái ông không trả lời là vì “Hàng thịt nguýt hàng cá”, là cái thói thường của bọn con buôn”, “Ai cũng biết rằng họ Ngô không phải vì Truyện Kiều mà bình phẩm Truyện Kiều, chỉ là kiếm cớ để gây cuộc “cãi lộn” với tôi, trước là làm một cách quảng cáo cho báo “Hữu Thanh”, sau cũng để thỏa một cái lòng ác cảm riêng chăng” v.v… Bấy giờ Ngô Đức Kế đã mất, Huỳnh Thúc Kháng lên tiếng bênh vực. Dư luận lại ồn ào lên một lần nữa về Truyện Kiều.

Thực chất của tranh luận năm 1924 là gì?

Có phải vì văn học, vì văn hóa nước nhà, vì tình yêu tiếng Việt nên Phạm Quỳnh đã hết lời ca ngợi Truyện Kiều, tổ chức lễ tưởng niệm rình rang; hay ẩn phía sau là nhằm đạt phục vụ mục tiêu chính trị nào đó? Có phải Ngô Đức Kế mạt sát Truyện Kiều đến mức: “Kim vân Kiều” là sách gì? Chưa nói đến sự tích thiệt không, chưa kể văn chương hay dở, chỉ nhắc đến cái tên sách thì nghe đã không thể nào ngửi được”, có phải đó là quan điểm văn học, hay chỉ là cái cớ nhằm vạch trần, phê phán thái độ chính trị của Phạm Quỳnh?

Cuối năm 1950, đầu năm 1960, trong Nam các ông Tử Vi Lang, GS Thanh Lãng cho rằng cuộc tranh luận trên phi chính trị hoặc không rõ rệt mục tiêu chính trị. Ngoài Bắc, chia làm hai nhóm, nhóm Lê Quý Đôn cho rằng phi chính trị; ngược lại trên tạp chí Nghiên cứu văn học khẳng định nó gắn liền văn học với chính trị.

Ngày 7.10.1962, GS Nguyễn Văn Trung nói chuyện tại Trường Quốc gia Âm nhạc Sài Gòn đề tài “Văn học và chính trị: một quan điểm mới về cuộc tranh luận Phạm Quỳnh - Ngô Đức Kế qua Truyện Kiều”. Đề tài của ông Trung lại tạo nên cuộc tranh luận mới từ trong Nam đến ngoài Bắc. Ngoài Bắc, GS Trần Văn Giàu, nhà văn Nguyễn Công Hoan, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Hoàn đã có bài tranh luận đăng trên báo Văn Nghệ, tạp chí Văn Học. Tiếc trong Vụ án Truyện Kiều, các bài in ngoài Bắc, GS Nguyễn Văn Trung chỉ cho biết tựa bài, tác giả, đăng trên số báo nào, chứ không in bài. Tuy nhiên, các bài đó nay vào thư viện dễ dàng tìm ra ngay. Sắp đến đây, năm 2016, UNESCO sẽ vinh danh Nguyễn Du và kiệt tác Truyện Kiều, nếu có nhà xuất bản này tái bản, bổ sung thêm tài liệu ắt hữu ích cho bạn đọc nhiều lắm.

Thiết nghĩ, thời nào cũng thế, khi một và nhiều cơ quan văn hóa được nhà cầm quyền đương thời “bật đèn xanh” ca ngợi một tác phẩm văn học nào đó lên chín tầng mây xanh, làm sao tách khỏi yếu tố chính trị? Cuộc tranh luận về Truyện Kiều năm 1924 cũng thế. Có điều Truyện Kiều là vàng thật nên càng trui qua lửa càng sáng ngời. Đã có, có quá nhiều tác phẩm dù chất lượng kém nhưng lại được lăng xê “quá cỡ thợ mộc” vì mục tiêu chính trị nhất thời, nay mấy ai còn nhớ đến?

Vừa rồi, đã đọc xong quyển Một thời như thế - Hành trình chữ nghĩa (tập 3) của nhà văn Nhật Tiến. Trong đó, ông có kể lại chuyến viếng “Đông Hồ Thi Nhân Kỷ Niệm Đường”. Qua có mấy thông tin đáng chú ý: Hai bên tiền sảnh có gắn hai tấm bia kỷ niệm. Tấm bên trái ghi tóm tắt tiểu sử Đông Hồ. Dọc theo hai bên tấm bia, có khắc câu đối: "Đông Hải mây giăng cánh hạc, vương theo hồn mặc khách; Hồ Thu sóng gợn làn gương, sáng chói chí anh tài". Tấm bia bên phải, nhắc nhở tới Trí Đức Học Xá, phía trên khắc câu: “Tiếng nào đã làm được văn không phải là tiếng tầm thường, người nào đã hay về văn cũng không phải là người tầm thường, đất nào đã có người hay văn lại không phải là đất tầm thường”. Câu này trích từ văn bia kỷ niệm Nguyễn Du do Bùi Kỷ soạn năm 1929. Phía dưới khắc bài thơ của Đông Hồ:

Hồn Đại Việt, giọng Hàn Thuyên

Nền móng văn chương cổ điển

Đặt đây viên đá đầu tiên

Xây dựng tương lai còn hẹn

 

Vũ trụ thiên thu vạn vật

Cảo thơm hiển hiện trước đèn

Đất nước ngàn năm văn hiến

Lâu đài tiếng Việt huy hoàng

Tả hữu hai bên tấm bia này còn có câu đối: "Tri thức làm gương, đạo đức làm mẫu, chắt tinh túy thời vun nền quốc học;/ Đông Hồ là nghiên, Tô Châu là bút, phẩy gió mây tô điểm đất hưng thịnh".

Trở lại với năm 1977, còn có gì đáng nhớ nữa không. Ắt có. Đó là thời điểm ở biên giới Tây Nam, đường 19B, đón cánh tân binh Hà Nội mới vừa bổ sung vào đại đội. Đêm trước của ngày đánh dứt điểm cao điểm XB, tràn qua Kampuchia, y đã trấn lột tập Truyện Kiều của Đoàn Tuấn. Tập thơ đồng hành cùng y suốt chặng đường chiến binh.

Nghiến răng không một tiếng than

Bốn bề máu chảy bàng hoàng bàn chân

Kiều ơi! Nức nở bao lần

Đêm chong trắng đĩa, lệ tràn đẫm khăn

Vẫn trong như ngọc trắng ngần

Tình em thắp sáng trăng rằm Angkor

Năm năm đất khách hẹn hò

Làm sao tri ngộ giày vò lẫn nhau?

Những câu thơ viết từ năm tháng đó. Năm tháng trú quân trên quê hương Chùa Tháp. Chiều nay, đọc lại. Tự nhiên buồn buồn…

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 2.7.2015

hanh_trinh_chu_nghia_NHAT_TIN

 

Một trong những điều khoái trá của Kim Thánh Thán, đọc đã lâu, còn nhớ đại khái, vào một chiều nhàn rỗi, ngồi một mình xem lại giấy tờ của các con nợ đã ghi. Giấy đã cũ. Vàng ố. Năm tháng đã qua. Không rõ họ đã phiêu dạt nơi nào. Cầm trên tay các tờ giấy ấy, tần ngần một lúc, đưa lên ngọn nến. Giấy cháy dần. Tro rụng xuống. Tỏa khói nhẹ lên trời. Nhìn khói lãng đãng bay. Há chẳng sướng sao?

Chiều qua trời mưa, ngồi một mình sắp xếp lại các phong thư cũ. Thư chứa đầy trong hai thùng carton. Bao nhiêu kỷ niệm cũ ùa về. Những lá thư của bạn bè thời ở chiến trường K. Những lá thư hẹn hò tình yêu đầu đời mực tím. Những lá thư của cuộc tình từ thứ A đến thứ Z. Đọc loáng thoáng. Không dám đọc kỹ. Sợ ngày tháng tháng ấy ùa về như thác lũ. Đành thôi. Tự dưng bùi ngùi khôn xiết. Không ai có thể sống lại thời hoa niên trong veo như mưa ngọt đầu mùa, như vạt trăng non tháng giêng cỏ non mộng mị. Không thể. Những cuộc tình đã xa của ngày tháng ấy, chẳng ai có lỗi, chúng ta ngây thơ, non nớt, bồng bột, dại khờ, trong trẻo và đáng yêu quá. Bây giờ, mỗi người một số phận, một đường đi, một giấc mơ, một nỗi niềm. Đã xa. Và đã khác. Không thể nào có thể níu kéo lại được. Những sợi tơ trời đã vụt khỏi tầm tay. Xa lăng lắc. Mơ hồ. Thấp thoáng. Vời vợi. Khói nhạt dần trên vòm trời. Hãy nghĩ tốt về nhau.

Chiều qua, mưa tầm tả. Bắt chước Kim Thánh Thán, đưa những lá thư ấy lên ngọn nến. Giấy cháy dần. Tro rụng xuống. Tỏa khói nhẹ lên trời. Nhìn khói lãng đãng bay. Nhưng rồi, không thể. Cất giữ lại. Như giữ lấy phần hồn, phần đời trong sạch nhất của thuở chưa vướng víu bụi bặm trần gian lục tặc tam bành hỉ nộ ái ố. Cất giữ lại. Dán kín lại. Vẫn giữ, dù thừa biết rằng, sau này cũng chẳng ai quan tâm đến nữa. Chẳng ai quan tâm những thư từ cá nhân còn để lại, nếu không là vợ, chồng, con cái. Biết thế. Vẫn giữ lại. "Nhớ tới mùa thu năm xưa gửi nhau phong thư ngào ngạt hương /nét bút đa tình lả lơi / nhớ phút ngập ngừng lòng giấy viết rằng / chờ đến kiếp nào / tình đầu trong gió mùa / người yêu ơi..." (Đoàn Chuẩn - Từ Linh).

Có những người thân tình, dù quen biết nhau đã hơn nửa đời nhưng vẫn chưa hề gặp mặt nhau. Mà vẫn nghĩ tốt về nhau. Ít ai biết, vì sao có thời gian y hay cặp kè với nhà văn Nhật Tuấn. Một phần vì nhà anh nhiều sách, một phần anh giỏi vi tính lại nhà gần nhà, khi máy móc trục trặc, anh qua giúp ngay, nhưng cái chính Nhật Tuấn là em ruột nhà văn Nhật Tiến. Y đã đọc hầu hết tác phẩm của Nhật Tiến từ thuở còn học lớp 8, 9. Cái thuở ấy, thuở mơ làm thi sĩ và sinh hoạt trong Gia đình Thiếu Nhi thuộc Tuần báo Thiếu Nhi do Nhật Tiến chủ bút, ông Khai Trí Nguyễn Hùng Trương chủ nhiệm. Phần thưởng trong các cuộc thi đều là tác phẩm của nhà văn Chim hót trong lồng. Đọc thời nhỏ, có điều lạ lùng là khó quên. Lớn lên, khôn ngoan hơn, học hành chu đáo, đọc nhiều hơn nhưng vẫn không thể nhớ rành mạch như thời còn trẻ.

Hôm nọ, ngồi cà phê với bạn văn P.C.L. Anh cho mượn tập sách Một thời để nhớ - Hành trình chữ nghĩa (tập 3) của nhà văn Nhật Tiến, do Huyền Trân in ở Mỹ năm 2012. Huyền Trân, tên nhà xuất bản mà nhà văn Thềm hoang đã chủ trương tại miền Nam của thuở đã xa, đã “mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm”. Cầm tập sách, cảm động như gặp lại cố nhân, dù chưa gặp mặt bao giờ. Đọc chậm rãi từng trang. Và bất ngờ, trong đó có tựa: “Nhà văn, Nhà thơ, Nhà biên khảo Lê Minh Quốc đã từng là độc giả của Thiếu Nhi”. Sau những dòng thiệu hết sức trân trọng, nhà văn Nhật Tiến đã “mạn phép in lại nguyên văn” Thuở mơ làm… thi sĩ. Bài này,  in báo xuân Áo Trắng năm 2009, nguyên văn như sau:

“Năm lớp bảy, suốt ba tháng hè được nghỉ học tôi tha hồ trốn nhà theo lũ bạn đi tắm biển Mỹ Khê, Thanh Bình (Đà Nẵng). Lần nọ khi hay tin tôi suýt chết đuối, ba bực lắm. Biết chắc thế nào chiều về cũng bị một trận đòn nên thân, tôi láu cá xin mẹ cho lên nhà ông ngoại tìm chỗ náu thân. Ở đây, ngày qua ngày tôi tha hồ thẩn thơ dạo chơi trong vườn cây xanh, xem hoa nở, nghe chim hót... Riết rồi cũng chán. Tôi chui vào phòng ngủ của ông cậu tìm sách đọc. Bất kỳ sách nào lọt vào tay là tôi đọc. Để giết thời gian. Không hiểu cũng đọc. May mắn, có những bài thơ in trên tạp chí Phổ Thông do nhà thơ Nguyễn Vỹ làm chủ nhiệm thì tôi hiểu chút đỉnh.

"Bằng bằng, trắc trắc, trắc bằng bằng...". Nhịp điệu khoan thai ấy đã đi vào trong trí nhớ từ lúc nào cũng không rõ nữa. Đến một lúc, tôi bắt đầu tập tễnh... làm thơ. Bấy giờ, tờ báo Thằng Bờm cũng của nhà thơ Nguyễn Vỹ đã ra đời. Tôi bắt đầu gửi những bài thơ đầu tiên của mình đến tờ báo này, nhưng không được in. Ít lâu sau, tờ báo Thiếu Nhi của ông chủ nhà sách Khai Trí cũng góp mặt trong làng báo. Tờ báo do nhà văn Nhật Tiến làm chủ bút. Tôi lại gửi thơ của mình về địa chỉ mà đến nay tôi vẫn còn nhớ như in trong óc: "159 Thiệu Trị, Phú Nhuận, Gia Định".

Gửi thơ cộng tác với báo như gieo hạt. Chờ ngày hạt nảy mầm. Chờ từng số báo. Mỗi kỳ báo ra là hồi hộp lật từng trang báo còn thơm mùi mực in để xem bài mình có được in hay không? Sau nhiều lần thất vọng, lần đầu tiên tôi rú lên khi thấy cái bút hiệu của mình nằm chình ình trên mặt báo. Sướng nhé. Sướng suốt mấy ngày liền. "Tác phẩm" đầu tiên của tôi được in trên báo là bài thơ Em tôi - in trên báo Thiếu Nhi số 89 (13-5-1973). Năm đó tôi 13, 14 tuổi. Sau này, trong một lần lang thang tại các hiệu sách cũ, tôi mua lại được tờ báo này và đọc ngấu nghiến. Như gặp lại người bạn thuở ấu thời. "Em tôi bé nhỏ/ Bầu bĩnh dễ thương/ Trên môi son đỏ/ Nụ cười trầm hương...". Nay đọc lại những bài thơ thuở ấy, tôi thấy mình làm thơ ngày một... tiến bộ. Bằng chứng là sau đó tôi liên tục có thơ in trên báo này - mà thơ ngày càng hay thế có chết không chứ! Này nhé: "Mười ba tuổi tập làm thơ/ Ngồi trong lớp học ngẩn ngơ nhìn trời/ Lắng nghe chim hót đầy vơi/ Quên lời cô giảng được xơi trứng gà”; hoặc "Quê nhà buổi sáng tinh sương/ Con gà trống gáy sau vườn ó o/ Xa xa bác mặt trời to/ Như vừa thức giấc tròn vo là tròn"...

Ít lâu sau, tôi gửi thơ của mình đến các báo khác như tờ Tuổi Hoa, Mây Hồng phát hành hằng tuần và các nhật báo khác. Và cũng được đăng. Oách quá đi chứ! Nhưng khổ nỗi thuở ấy dù có thơ in nhưng tôi cũng không hề được tòa soạn gửi tặng báo biếu hoặc nhuận bút gì sất! Chả cần, mình "phục vụ cho văn học nghệ thuật" (!) thì cần quái gì ba cái chuyện lẻ tẻ ấy? Nghĩ thế, tôi ưỡn ngực về phía trước, ngếch mặt nhìn lên trời mà mơ mộng và tiếp tục làm thơ.

Mà hồi đó, tôi đã "nổi tiếng" lắm chứ chẳng đùa. Bằng chứng trên tờ báo Thiếu Nhi, ngay bìa 2 quảng cáo số báo Xuân Giáp Dần phát hành ngày 8-1-1974, giá bán 160 đồng, có câu, rằng... Khoan, để khỏi mang tiếng "nổ" cho phép tôi chép lại nguyên văn: "Nội dung là cả một công trình biên soạn của các cây bút quen thuộc đã góp mặt vẻ vang trên Thiếu Nhi trong những năm qua". Trong đó liệt kê những tên tuổi như Nguyễn Hùng Trương, Nhật Tiến, Minh Quân, Đỗ Phương Khanh, Nguyễn Đình Toàn... còn có Thiên Bất Hủ nữa chứ! Bút danh của tôi đó!

Chẳng nhớ vì sao tôi lại ký bút danh này. Có lẽ ảnh hưởng từ một tuồng cải lương nào chăng? Chắc chắn là thế vì bấy giờ cả xóm chỉ mỗi nhà tôi sắm được cái truyền hình - chỉ cỡ màn hình vi tính hiện nay, mỗi lúc có phát cải lương là cả xóm lũ lượt kéo đến xếp hàng ngồi xem chật nhà! Sau này tôi mới biết, thế hệ cùng làm thơ với tôi hoặc nhích hơn tôi một vài tuổi cũng đều ký bút danh, chứ ít ai dùng tên thật. Chẳng hạn, anh Nguyễn Đông Thức năm 11 tuổi đã làm thơ, ký Long Nhi; anh Phạm Sỹ Sáu ký Ngy Xuân Sơn; anh Nguyễn Nhật Ánh ký Hoài Mộng Diễm Thư; anh Nguyễn Thái Dương ký Nguyễn Mặt Trời; anh Đoàn Thạch Biền ký Nguyễn Thanh Trịnh... Riêng anh Đoàn Vị Thượng, lúc ấy đang sống ở Quảng Ngãi, ký tên thật Trần Quang Đoàn dưới nhiều bài thơ in trên tờ Tuổi Hoa...

Ngoảnh lại đã mấy chục năm trời. Viết dăm dòng chung vui với bạn đọc Áo Trắng trong dịp Xuân Kỷ Sửu (2009), cho phép tôi chép lại bài thơ của Thiên Bất Hủ đã in trên tờ Thiếu Nhi Xuân Ất Mão (1975):

KHAI DÒNG

Hát khúc ca viết từ nỗi nhớ
Xuân đã về cúc nở đầy hoa
Mừng năm mới tươi cười như nắng vỡ
Trong vòng tay cầu chúc mẹ cha

Lên chùa nghe kinh kệ thiết tha
Bé hồn nhiên môi cười rạng rỡ
Cầm tay bà hái lộc xanh mới nở
Tung tăng đùa nghe chuông đổ ngân nga

Mồng một Tết về thăm quê nội
Cắn hạt dưa môi đỏ màu son
Bé như chim mãi hát véo von
Bên dòng sông đậm đà ngăn trí nhớ

Đứng trong vườn mù sương hơi thở
Nhìn bướm ngoan vui hội mùa xuân
Bé nghe ông nhắc về kỷ niệm
Chợt cõi lòng cũng thấy bâng khuâng

Mùng hai Tết đi chúc láng giềng
Đầy hoa mai nở thắm đầu tiên
Cùng cô bạn nhỏ chơi u mọi
Lén ba me uống rượu sầu riêng

Năm mới đi lên chúc cô thầy
Ngoài trời nắng ấm có mưa bay
Bạn bè dăm đứa bưng trà rượu
Chúc thầy cô hạnh phúc đắm say

Thầy cảm ơn nước mắt rưng rưng
Chúc môn đệ học hành tấn tới
Như phấn thông hương rừng năm mới
Tình thầy trò ngát nắng mùa xuân

Mùa xuân đó, tôi học lớp chín. Đây là bài thơ cuối cùng tôi được in trên báo chí Sài Gòn. Ít lâu sau miền Nam giải phóng. Tôi vẫn tiếp tục làm thơ và trước ngày đi bộ đội, tôi bắt đầu ký tên thật dưới các bài thơ in trên báo Quảng Nam, Tin Sáng... Lần đầu tiên trong đời tôi được nhận nhuận bút là của báo Tin Sáng, tòa soạn trả tôi 13 đồng cho ba bài thơ in trên ba số báo trong năm 1976. Đến nay, tôi vẫn giữ được thư chuyển tiền, đánh máy chữ có chữ ký của nhà báo Hồ Ngọc Nhuận...”.

Đọc xong tập sách Một thời để nhớ của nhà văn Nhật Tiến, tự hỏi, thế giới này rộng, mênh mông hay chật hẹp? Chẳng biết nữa. Dù gì đi nữa, “sân chơi” Thiếu Nhi, Thằng Bờm, Tuổi Hoa… rồi sau này, Áo Trắng, Mực Tím, Thiếu Niên Tiền Phong… chắc chắn sẽ còn được nhiều người nhớ đến. “Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy/ Ngàn năm hồ dễ mấy ai quên” (Thế Lữ). Sống trên đời, ta chịu ơn của nhiều người lắm. Chịu ơn cả những người làm báo đứng đắn, viết sách đàng hoàng mà ta đã đọc. Chịu ơn cả những người nắn nót từng lá thư tình ta đã đọc. Đọc một câu thơ hay, nghe một ca từ xao xuyến là đã chịu ơn rồi. Còn nhiều lắm, nhiều lắm. Nghĩ thế, chiều qua, vẫn giữ lại những lá thư, rất nhiều những lá thư của thời mới lớn ghi dấu tình bạn, tình yêu của một thời hoa mộng...

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

Trang 24 trong tổng số 58