Thì ra thế.
Ngay sau ngày Thống nhất đất nước, năm 1976 lần đầu tiên về quê nội, được ông chú dẫn lên chơi Hà Nội một ngày. Với thói quen đã định hình ngay từ lúc học đệ ngũ, đệ tứ thường la cà mỗi ngày tại các nhà sách, thì lúc ra Hà Nội cũng thế. Y đã mua khá nhiều sách. Thời đó, sách in tại miền Bắc đã là một sự hấp dẫn ghê gớm, lần đầu thấy tận mắt nên có bao nhiêu tiền đều dành mua sách. Còn nhớ, thời ấy đã đọc bài thơ Sáng mồng một Tết. Nay còn nhớ loáng toáng. Đọc và ngạc nhiên quá. Về Nam, đọc lại cho bạn bè nghe, chẳng ai tin. Bởi lâu nay, thời ấy, lũ nhóc thế hệ y đã tin “Mồng một Tết cha, mồng hai Tết mẹ, mồng ba Tết thầy”. Mà thơ này lại nói khác đi. Khác như thế nào?
Mấy hôm nay đã có thể thong thả, không bận tâm gì công việc mỗi ngày, do đó, sắp xếp lại tủ sách cho ngăn nắp, gọn gàng. Mà có toàn tâm toàn ý được đâu. Vớ tay lấy cuốn sách này, lật vài trang, thấy hay hay liền đọc luôn, thay vì phải đặt thứ tự theo phân loại. Đang đọc, lại cao hứng vớ lấy tập sách kia. Lại qua lật lại để cảm nhận mùi sách cũ xao xuyến đến nao lòng. Tình cờ, rất tình cờ được đọc lại bài thơ Sáng mồng một Tết trong bộn bề sách, báo cũ.
Thì ra, tác giả bài thơ là ông bạn già đáng kính của y, đã về chín suối. Ông đã mất nên không thể hỏi vì sao, ông lại viết bài thơ này? Nguyên cớ ra là sao? Mà dù có ra làm sao, y vẫn tin là ông viết thật lòng mình, trong thời điểm đó. Dù có “lên gân” nhưng với tính cách của ông mà y đã biết, dám quả quyết ông “nghĩ sao viết vậy”, chứ không hề nghĩ một đàng viết một nẻo. Tư cách hơn nhiều người trong giới cầm bút, nghĩ A, nói A nhưng khi viết sặt mùi B. Thậm chí nhận tiền của tổ chức nào đó, của ai đó để viết minh họa cho quan điểm, lập trường của nơi chi tiền.
Chẳng ai tài thánh gì, nhất là những người bút.
Để kiếm sống, họ có thể ký bút danh khác, viết những thể loại khác không thuộc sở trường. Chê trách làm gì, đấy cũng là một cách kiếm sống lương thiện. Đêm qua đọc Lược sử văn nghệ Việt Nam (Vàng Son XB tại miền Nam năm 1974), ông nhà phê bình kia "châm chích" nhà văn nọ: “Những sách dưới biệt hiệu khác, là những mánh khóe kiếm cơm tầm thường, chép dịch tài liệu ngoại quốc (Trẻ, đẹp sống lâu, Vệ sinh lớp ba), một lối kiếm cơm hạ đẳng của nhà văn trốn tránh nhiệm vụ, và không có tinh thần bao biện một tác phẩm. Mặc dầu nhà văn có thể có nhiều biệt hiệu, nhưng tinh thần sáng tác phải coi như là một” (tr.311). Chà, nghe ra “lớn lối” quá. Thử hỏi, nhà phê bình lấy cái quyền gì để viết câu mạt sát đến thế? Một nhà văn nhận tiền mật vụ và một nhà văn viết thể loại khác kiếm sống, ai có tư cách, đạo đức hơn? Xin bật mí, nhà văn bị phê bình ấy, hiện nay sách văn học của ông đã được tái bản, được trích đoạn đưa vào sách giáo khoa. Ai muốn tìm hiểu thêm, xin “bật mí” khi viết các sách về làm đẹp, vệ sinh thường thức… ông ký bút danh Hoàng Thị Trâm. Đây là nhà văn y kính trọng và lưu giữ lại những gì ông đã viết.
Mỗi nhà văn, đọc lại những gì họ đã viết, có thể với quan điểm, góc nhìn hôm nay, ta không bằng lòng, thậm chí chê trách nhưng phải thấu hiểu, phải chia sẻ với hoàn cảnh một thời họ đã sống. Cần có cái nhìn khoan dung hơn. Đánh giá một nhà văn, nghĩ cho cùng phải xét trên tinh thần “gạn đục khơi trong” thì mới thỏa đáng và có tâm, có tầm.
Mấy năm trước đây, từ Hà Nội, anh em bán sách cũ đã bán cho y nhiều số báo Văn Nghệ đã đóng thành 15 tập, xếp lên kệ sách dài mấy gang tay, còn đóng dấu mộc Thư viện Trường Đại học Sư phạm, xuất bản tại miền Bắc từ thập niên 1960; vài chục số tạp chí Nghiên cứu Lịch sử cũng in năm tháng đó… Thú thật, đọc lại, khó có thể ngờ vì sao lúc đó, nhà văn này, nhà thơ kia, nhà nghiên cứu nọ kia lại có thể viết như thế? Nếu ác tâm trích dẫn lại, bình phẩm thì chắc chắn công chúng hôm nay sẽ có cái nhìn khác về họ. Hỡi ôi, làm như thế để được cái gì? Chẳng được gì cả. Đánh giá sự nghiệp một người cầm bút, hãy tìm lấy những đóng góp đích thực của họ. Đừng lấy những cái họ đã chối bỏ, đã viết vì sự o ép nào đó để bây giờ chế giễu. Đọc một tác phẩm hãy nghĩ đến thời đại họ đang sống, có thế mới nhận ra được sự đóng góp; hoặc hạn chế mà có cái nhìn khách quan hơn, công tâm hơn.
Đấy mới là tinh thần “gạn đục khơi trong”.
Tinh thần đó cũng rất cần đối với văn học miền Nam; “vùng trắng” của văn học, báo chí miền Bắc nhất là giai đoạn 1954 - 1975. Nhìn nhận và sử lý vấn đề đó thế nào? “Để lâu phân trâu hóa bùn” là làm nghèo đi di sản văn học đã có. Bây giờ chối bỏ, thế hệ sau sẽ tìm kiếm. Chắc chắn thế. Thế giới internet đã mở ra, con người ta đã có thể tiếp cận thông tin từ nhiều chiều hướng. Nghĩ thế, mới thấy tội nghiệp và đáng thương hại cho nhà nghiên cứu nọ, là tác giả của bộ sách xóa sạch văn học “thời Mỹ ngụy”. Hỡi ôi, đến nay không ít các tác giả bị phê phán đã có sách tái bản, đã được ghi nhận trong Từ điển văn học bộ mới. Nói như thế, để thấy rằng nhận thức của mỗi người trong mỗi thời mỗi khác.
Tại sao đã gần hết năm Ngọ, đã 26 Tết lại nghĩ đến chuyện này?
À, chỉ vì đôi lúc cảm thấy nghề cầm bút nhọc nhằn quá. Kiếm sống bằng nghề viết không dễ dàng, không thể làm giàu, chắc chắn vậy, nhưng rồi chính mình phải chịu trách nhiệm với những gì đã viết, đã công bố. Trách nhiệm đó còn đeo đuổi dẫu sau này đã về nơi chín suối. Làm cái tủ, cái bàn, cái ghế… bán cho khách hàng là xong trách nhiệm. Một quyển sách đã in, đã đến tay bạn đọc không đơn giản như thế. Dám nói rằng, dù sau này có nghĩ gì về nhà văn nọ đi nữa, nhưng rõ ràng truyện ngắn Bút máu của ông vẫn là tuyên ngôn sắc bén, phù hợp với mọi thời về trách nhiệm của người cầm bút.
Còn ham hố trở thành nhà văn, nhà thơ nữa không?
Mấy hôm nay đã đi ký nhuận bút báo Xuân. Có nhiều tòa soạn chuyển qua tài khoản cá nhân. Chẳng phải giỏi giang gì, năm nay cũng như mọi năm, y vẫn là tác giả có nhiều bài in trên báo Xuân, báo Tết. Những trên dưới 30 tờ báo. Đơn giản, chỉ vì y không có thêm bất kỳ một khoản thu nhập nào ngoài cái nghề cầm bút. Cái nghề “lấy chữ đổi ra tiền / tiền tiêu rồi cũng hết / lấy chữ đổi ra danh / danh phai nhạt không còn dấu vết” đã đeo đuổi y từ lúc bước chân vào đời cho đến cuối đời. Vậy thì, chuẩn bị đón Tết, ai kinh doanh ngành nghề gì, mua bán thứ nấy. Ai cũng mong mọi sự hanh thông, mau lẹ đặng kiếm tiền xài Tết; y có chữ, bán chữ. Đơn giản vậy thôi.
Nêu một vài con số cho vui, cũng để thấy nhuận bút của thời đang sống: Từ nhiều năm nay, Thanh Niên vẫn là cơ quan báo chí trả nhuận bút cao nhất, chẳng hạn, mỗi bài thơ trị giá 2 triệu; một bài tạp bút chừng 1.200 chữ, in nửa trang (như bài của y) trả 5 triệu 300 ngàn. Các báo khác như Tuổi Trẻ, Phụ Nữ… có thấp hơn chút xíu. Tại sao báo TN trả nhuận bút cao? Tết năm kia thì phải, có hỏi anh Đặng Việt Hoa - Phó TBT, anh bảo, đại khái: “Anh em cộng tác viên với mình cả năm, nhân dịp Xuân về Tết đến nâng cao nhuận bút không ngoài mục cám ơn họ”. Câu trả lời đơn giản mà thấu tình đạt lý. Thật ra, nhiều tờ báo cũng muốn thế nhưng quảng cáo “bèo” quá, số lượng in thấp thì chắc chắn “lực bất tòng tâm”. Báo Xuân bán chạy nhất năm nay vẫn là báo Phụ Nữ TP.HCM. Từ 23 tháng Chạp đã hết sạch, nếu còn chỉ bán khách quen, chứ không bày lên kệ bán cho khách vãn lai. Nhiều đại lý mua thêm, nhưng tòa soạn cũng không thể đáp ứng. Các báo đã bắt đầu ra số Tất niên và nghỉ Tết.
Mấy hôm nay, đường phố đã thông thoáng hơn. Đường Hàm Nghi vẫn đang khẩn trương thiết kế trở thành Đường hoa Tết - dài 510m từ Phó Đức Chính đến Hồ Tùng Mậu với ba phân đoạn chính Hào khí Việt Nam, Bản sắc Việt , Vinh quang Việt Nam. Theo nguồn tin báo TT, nơi này sẽ chưng bày cả thẩy 120.000 chậu hoa tươi. Hôm qua, đồng nghiệp Lam Điền cho biết Thư viện Khoa học Tổng hợp TP.HCM thực hiện chỉ đạo của UBNB TP.HCM là tái bản tập tranh Ký họa đời sống Nam bộ xưa (in 1935); tập ảnh Sài Gòn xưa (in 1930). “Cả 2 bộ này không có bán anh ơi. Chỉ in với số lượng rất ít nhằm triển lãm tại Lễ hội làm sách”.
Nghe mà thèm.
Sáng nay, đọc báo mới hay tin ông Nguyễn Bá Thanh - trưởng Ban Nội chính Trung ương, nguyên Bí thư Thành ủy Đà Nẵng qua đời lúc 13g10 ngày 13.2.2015. Có lẽ, đã khá lâu rồi mới có trường hợp một cán bộ cao cấp mà từ lúc bệnh đến khi mất lại được nhiều người dân quan tâm đến thế. Báo TT dùng cụm từ khái quát sự nghiệp ông Thanh “Người kiến tạo nên Đà Nẵng”. Rất chuẩn xác. Còn nhớ khi bắt tay viết Người Quảng Nam có ghi nhận vài chi tiết liên quan đến ông Thanh lúc đi điền dã. Nay lật sổ tay, thấy vẫn còn ghi: “Chỉ khi nào “đày tớ” của Dân làm được những điều ích Nước lợi Dân thì Dân mới làm thơ ca ngợi. Vinh dự này thuộc về ông Nguyễn Bá Thanh - chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng. Thường trước mỗi trận đấu của đội bóng đá Đà Nẵng, ông Thanh thường mời các huấn luyện viên của đội tới để cùng thảo luận từ đấu pháp của trận đấu cho tới cách bố trí đội hình. Biết chuyện dân Đà Nẵng mới có thơ rằng:
Hoan hô ông Nguyễn Bá Thanh
Làm việc cũng giỏi, đá banh cũng tài
Lại một chuyện khác khi tiến hành xây dựng cầu sông Hàn đã có không ít lời ra tiếng vào. Nhưng sau khi bàn bạc chu đáo, ông Thanh quyết định tiến hành. Chiếc cầu được xây xong và một trong những chiếc cầu hiện đại, đẹp nhất ở Đà Nẵng. Có nhà thơ dân gian khen rằng:
Mong ông công tác dài lâu
Để ông xây tiếp vài cầu cho dân
Rõ ràng, các nhà thơ dân gian rất nhạy trong các vấn đề thời sự!”.
Mấy hôm nay đã có không khí Tết. Trở lại với Sáng mồng một Tết của ông bạn già, nay đã quá cố. Bài thơ này, tác giả viết năm 1970 tại miền Bắc, nguyên văn như sau:
Sáng mồng một Tết đi đâu
Hỡi em gái nhỏ áo màu hồng tươi?
- Đảng ta, tuổi đúng bốn mươi
Em đi chúc Đảng đời đời Vinh quang
Sáng mồng một Tết đi đâu
Hỡi em trai nhỏ bước mau trên đường?
- Hai mươi nhăm tuổi anh hùng
Việt Nam yêu quý em mừng Việt Nam
Sáng mồng một Tết đi đâu
Hỡi bầy em nhỏ bên nhau, hoa cài
- Nhớ công ơn Bác đời đời
Mùa xuân sáng rực những lời Bác khuyên
Sáng nay, chẳng nhớ gì đến ngày Valentin. Đi ăn sáng với Nàng. “Hoa em đâu?”. Thế à? Phải tặng hoa à? Biết trả lời thế nào? Chà, chuyện này, nói thật hoàn toàn không hề có trong trí nhớ của một người đàn ông đẹp trai và thanh lịch đã ngoài “ngũ thập”.
Người đàn ông đó là ai? Là y chứ còn ai nữa.
Biết thế, sao còn hỏi?
L.M.Q
Đã có không khí Tết.
Tết đang đến từng ngày trong sự tất bật, bận rộn của từng người. Từng người cứ như đang phải chạy thật nhanh về phía thời gian với biết bao công việc phải lo toan, phải gấp rút thực hiện cho xong. Sáng dậy sớm, tự dặn lòng phải mua ngay hai chậu hoa vạn thọ, màu vàng nghệ chưng trước nhà để mẹ nhìn vui mắt, thầm nhớ đến quê nhà xa lắc. Tết rồi. Hoa vạn thọ quê mùa ấy, chẳng hiểu sao luôn gợi trong tâm trí ý hình ảnh rất Quảng Nam. Lúc nhìn hoa, y có thể mường tượng nhớ về, nhớ lại những tháng ngày đã chìm sâu trong ký ức. Lạ chưa?
Sáng nay, đi ăn phở với Nàng. Bên góc đường Nguyễn Du, gần Bưu điện. Trước đây, đọc báo đã thấy nghe nói đến các cụm từ chõi tai “phở quát”, “miến chửi”. Những tưởng chỉ có tận đẩu tận đâu, xa tít tắp chứ tại Sài Gòn thì không thể. Ấy thế, đã có. Sáng nay, khi cần thêm ít hành, y gọi, lập tức một gã trơ mắt: “Không có”. Giọng nói một thanh niên vùng nào phía Bắc sao mà đanh đá, cộc cằn quá. Tưởng không nghe rõ, nhắc lại, vẫn câu trả lời dửng dưng lạ lùng ấy. Nhìn vào phía trong vẫn thấy ề hề những thứ mà y cần. Điều này có thể hiểu, tô phở giá tiền X thì chỉ có thế, không thêm bất kỳ thứ gì khác. Thích thì ăn, không thích thì "biến cho nước nó trong". Lạnh lùng, rạch ròi, sòng phẳng. Buôn bán của người miền Nam lại khác, nếu khách cần gì thêm, họ sẵn sàng ngay, hoặc tí nữa tính thêm tiền. Chẳng việc gì gằn giọng, tỏ thái độ xem thường khách. Mà chìu khách thì đôi bên cùng hài lòng, cùng có lợi. Ở quán phở này lại khác, vẫn giữ cái thói buôn bán thời mậu dịch. Cái thói bán như làm ơn, như ban phát vẫn chưa tẩy xóa khỏi cái óc cạn hẹp. Thế thì, sự rạch ròi về cái lợi đã giết chết sự thân thiện cần thiết giữa người mua và kẻ bán. Chẳng lẽ giữa người với người chỉ là sự "tiền trao cháo múc". Một xã hội nếu diễn ra như thế, nghĩ gì?
Với y, lâu nay quán xá tại Sài Gòn, khi ngồi ăn, nếu cần thêm một ít hành ngò, ớt, tiêu, chanh thì người phục vụ lễ phép: “Dạ, có ngay”, chứ không hề câng câng cái mặt. Vì thế, sáng nay lấy lạ quá. Lạ đến độ lần sau, y không thể bước chân vào lần nữa, dù chỉ thêm một lần.
Mà đã xong đâu, lúc ấy, có 3 nam thanh nữ tú bước vào, ngồi xuống ghế, gọi: “Cho 3 tô phở, 1 tô có hành, 2 tô không hành”. Lập tức người bán quát lên như mắng vào mặt: “Ba tô vừa có hành vừa không có hành. Ai biết mà bán? Có hành thì có hành hết, không hành thì không hành hết”. Đi ăn một mình thì dễ, những trường hợp này có thể đứng dậy, bước qua quán khác, không việc gì phải chuốc lấy cái sự bực mình của một lũ tự cho mình cái quyền mắng, quát người khác. Hóa ra, sự giao tiếp ngày càng “chợ búa” đến thế sao? Lâu nay, y hoàn toàn không nghĩ đến nên cảm thấy bất ngờ.
Nói thật, càng đi xa càng thấy sợ sự “gài bẫy” có thể xẩy ra bất cứ lúc nào. Ngày nọ, nhân kỷ niệm 50 ngày lịch sử nọ kia, y cùng bạn bè phương Nam ra chơi vùng cao ở ngoài Bắc. Đêm ấy, cả bọn kéo nhau vào một quán ăn sang trọng. Quán vắng. Chỉ có nhóm bạn của y. Lúc tính tiền, trả tiền sòng phẳng chuẩn bị ra về, chủ quán la toáng lên mất cái điện thoại. Nào có ai thấy cái điện thoại ấy tròn, méo thế nào. Chủ quán sai người đóng rịt cổng. Nội bất xuất, ngoại bất nhập. Buộc phải trả lại cái điện thoại. Bằng không phải trả bằng tiền. Nếu không sẽ đập phá xe hơi. Đừng hòng có cửa quay về Hà Nội. Vô lý quá sức tưởng tượng. Tranh cãi mãi không xong. Giằng co mãi cũng không xong, anh tài xế người Bắc bèn gọi điện thoại cầu cứu. Chỉ dăm phút sau, một lũ đầu trâu mặt ngựa lù lù xuất hiện. Khách ung dung ra về, không phải trả thêm đồng nào. Bù lại, anh bạn chiêu đãi bữa nhậu phải móc tiền “cảm tạ ân nhân” vừa kéo đến!
Nhân đây nói luôn anh bạn chiêu đãi y và nhóm bạn là doanh nhân gốc Bắc, có học thức,sống ở Sài Gòn đã lâu năm. Thích chơi với cánh nhà văn, nhà báo. Chơi chỉ là chơi chứ không nhờ cậy gì. Lần đó, nghe tin anh em báo chí có chuyến công cán ra Bắc, anh mua vé máy bay đi theo, nhân tiện về thăm quê. Ra đó, anh thuê luôn chiếc xe hơi, "tài trợ" mọi ăn nhậu chỉ vì "lâu lâu các bạn mới có dịp ra Bắc". Nói như thế, để thấy về tiền, anh không thiếu, thừa sức lo cho bạn bè. Chuyện bị trấn lột với cái cớ mất điện thoại, anh không tiếc tiền mà bực mình vì lâu nay đã từng khoe, từng ca ngợi tính tốt, hiếu khách, chân tình của người dân quê mình. Đó mới là cái đau khó phai.
Mà không nên quơ đũa cả nắm, ở đâu cũng có người tốt kẻ xấu. Cách đây vài năm, dọc tuyến đường Quốc lộ 1 nhan nhản các quán "cơm tù" cũng là một kiểu lưu manh trấn lột. Có nhiều câu chuyện chẳng ra làm sao. Nếu không trải qua, chắng bao giờ y nghĩ đến tình huống đó. Mà thôi những tình huống tương tự còn nhiều lắm. Qua sách vở, qua ca dao cổ tích, truyện cổ đã khiến mình từng yêu dấu vùng đất này, cảm tình vùng đất kia nhưng rồi khi đến nơi mới biết không phải.
Tác động nào đã làm sự tha hóa tính cách con người ngày một xấu đi?
Phép ứng xử đàng hoàng hay thô lỗ từng vùng miền có thể nhìn thấy rõ nét khi bước vào quán ăn. Chắc chắn, cung cách buôn bán của con người vùng miền nào đó khi du nhập vào Sài Gòn sẽ làm thay đổi tính cách người Sài Gòn? hay nó sẽ bị con người ở vùng đất này “đồng hóa” hoặc “uốn nắn”? Suy nghĩ này tưởng rằng nhỏ nhặt, vặt vãnh lại là điều đáng sợ hơn những công trình, những di tích này bị đập bỏ dù nhân danh bất kỳ sự tốt đẹp nào. Đã nghĩ đến những “mạch nước ngầm” ngày càng ăn sâu, len lỏi trong quan hệ giữa người và người, nó sẽ khoét rỗng ngay từ bên trong nhận thức, tính cách của mỗi người. Đó mới là điều đáng sợ.
Mấy hôm nay, đọc lai rai Sài Gòn chuyện đời của phố (NXB Hội Nhà văn) của đồng nghiệp Phạm Công Luận. Năm ngoái, anh đã in phần I, nay anh cho in phần II. Đọc lý thú. Nhiều thông tin liên quan đến Sài Gòn xưa. Phải là người yêu Sài Gòn, có nhiều gắn bó từ thuở khóc oe oe chào đời mới có thể nhọc công đến thế. Từng mảnh vụn, dù nhỏ, dù ít, dù nhiều nhưng cũng giúp người đọc có dịp hình dung về một vàng son đã mất. Nhờ đọc quyển này mới biết, năm 1972, chính quyền Sài Gòn đã có ý định xây lại chợ Bến Thành, kinh phí khoảng 1,5 tỷ đồng. Thực hiện theo đồ án đoạt giải Nhất, trị giá 1 triệu 500 ngàn đồng của cuộc thi “Đồ án chợ Sài Gòn trong tương lai” của kiến trúc sư Huỳnh Kim Mãng. Cuối củng ý định này không thành. Không phải do kinh phí mà chính người dân Sài Gòn phản đối, họ không muốn một kỷ niệm đã từng gắn bó nhiều thập kỷ bị mất đi. Liên hệ với hiện tại, thấy gì?
Trong sách này, Phạm Công Luận bảo: “Ký ức đáng quý, vì đó là điều còn lại sau bao nhiêu thay đổi không còn nhìn ra. Chúng ta cần vội vàng lên để ghi nhận lại những điều đáng quý như vậy, từ những nhân vật lừng lẫy hay những người bình thường. Chúng ta cần và “hãy giữ gìn ký ức của mình, hãy bảo vệ chúng, vì chúng ta sẽ không bao giờ kể lại được điều mình đã quên đi” như lời của Louisa May Alcott, một tiểu thuyết gia người Mỹ đã nói (…) Không có mấy ký ức về Sài gòn xưa, nên tôi muốn góp sức nhỏ để tiếp tục lục lọi, ghi chép, lưu giữ phần nào ký ức của các bậc trưởng niên, và từ kho báo cũ chồng chất bụi thời gian” (tr.13).
Việc làm này đáng hoan nghênh lắm.
Hôm trước, gặp nhau ở họp tất niên của Công ty Phương Nam, y có hứa sẽ giúp bằng cách cho Luận đến nhà chụp lại những tài liệu sách, báo liên quan đến Sài Gòn, nếu thấy cần thiết. Thấy bạn làm việc tốt, mình không làm được, vậy góp thêm cho bạn một chút ít tài liệu vậy. Tin Phạm Công Luận có thể làm được công việc lặng lẽ, hữu ích này vì ngoài nhiều lý do còn do Luận có người bạn đời đứng phía sau toàn tâm toàn ý với công việc của chồng. Nhìn sự gắn bó, hạnh phúc của đôi bạn mà đêm ấy, đã say nên y nói một điều thật lòng: “Đôi ương Đông Hồ - Mộng Tuyết là “duyên văn tự” đẹp nhất trong lịch sử văn học hiện đại. Luận và Đông Vy cũng phải như vậy nhé”. Nghe thế cả hai cùng cười. Rằng, khi nhìn về mối tình của thi nhân đất Hà Tiên, Huy Cận cho rằng: “Cặp thi nhân Đông Hồ - Mộng Tuyết sẽ ở lại trong lịch sử thi ca Việt Nam thế kỷ này như là một mối tình thơ đằm thắm, thủy chung, đã nhuốm chút màu huyền thoại (Núi mộng gương hồ, tr.11)”. Chúc bạn mình cũng thế. Có thế, có thể tiếp tục với Sài Gòn chuyện đời của phố phần III. Đang chờ đấy.
Sáng nay lên tòa soạn nhận quà Tết. Dừng lại một chút với cái thư pháp viết giấy gió, dán trên nền lụa, đóng khung nền nã, gương sáng loáng, cực đẹp. Thế nhưng, nhìn chữ viết, đọc nội dung của nó, hết muốn treo trong nhà. Đơn giản chỉ vì người viết chẳng có tên tuổi gì. Lại nữa câu chữ tầm thường quá, sáo rỗng quá như trước câu mừng Xuân là mừng X Y Z với từ ngữ rổn rảng nào là lộc, tài, thọ, giàu sang, phú quý, văn minh, hiện đại hóa v.v.. và v.v… Thử hỏi, nếu không tận tâm, tận lực, không đổ mồ hôi, không sôi nước mắt, không thức khuya dậy sớm, không “văn ôn võ luyện” mỗi ngày, làm gì có tài lộc? Treo trong nhà bức thư pháp hô hào linh tinh ấy để làm gì? Trước kia, bạn văn Trần Nhã Thụy có viết tạp bút, đại khái anh cho biết thích treo trong nhà các bức tranh do con mình vẽ, dù xấu, chưa đẹp. Bởi ngoài cái tình, nó còn là tranh thật. Treo tranh thật dù xấu vẫn còn hơn treo tranh chép, dẫu tranh của các danh họa. Vâng, y cực ghét tranh chép. Lại ghét luôn những cái gọi là thư pháp của những người chẳng ai biết đến tuổi tên với mớ chữ nghĩa vô hồn, nội dung sáo rỗng.
Vậy chiều nay, đã sử lý cái thư pháp bằng cách nào?
À, y lật ngược tờ giấy gió đã ghi những câu lảm nhảm ấy và tự tay viết:
Cát bụi ngày sau ai thắp nến
Dẫn cái linh hồn ghé thăm quê?
Mổi năm, hết năm, thêm một tuổi, lại nghĩ đến điều này. Nghĩ về sự hư vô trống rỗng của phận người. Nghĩ thế, càng thương mẹ quá, bà cụ đã gần 90 rồi còn gì. Thời tiết đang lạnh. Tự nhủ phải mua hai chậu hoa vạn thọ chưng trước nhà cho bà cụ nhìn ngắm mỗi ngày. Ấy thế, hôm nay có làm được đâu. Cũng chỉ lằng nhằng với những công việc "đầu cua tai nheo" loằng nhoằng…
L.M.Q
Thôi thì, thế thì, vậy thì, thì chỉ xin anh em, bạn bè, đồng nghiệp dành cho hai chữ “đại xá”. Đừng giận, đừng trách bởi không thể có mặt trong các cuộc tất niên, liên hoan, họp mặt những ngày này. Hầu như ngày nào cũng có những réo rắc điện thoại, những tấp nập tin nhắn về một địa chỉ, một nơi chốn để ngồi cùng nhau trong một chiều sắp tắt từng phút, một năm sắp cạn từng ngày để bù khú bia bọt lai rai. Cũng đủ lãng quên đời trong chốc lát. Nhưng rồi cũng không thể. Tự nhiên, lại thấy bận rộn quá. Đôi khi cái sự bận rộn ấy chẳng rõ từ nguồn cơn nào, chỉ biết thời gian trôi qua nhanh hơn mọi ngày.
Tính nhẫm từng ngày đã thấy đến 23 tháng Chạp. “Nhà mình có đưa ông Táo không hả mẹ?”. Bà cụ chỉ cười. Trong lúc đó, “Anh ơi, một con gà, một con cá chép để cúng ông Táo. Gấp. Gấp. Gấp”. Một mệnh lệnh dứt khoát đạt đến tầm cỡ “quân lệnh như sơn”. Chỉ có thể chắp hành răm rắp. Không dám cãi đến nửa lời.
Sáng hôm qua, người bạn cũ Nguyễn Đăng Lâm của thời đôi mươi cùng sống trên chiến trường K gọi điện thoại nhắc về cuộc gặp mặt ngày Tết ở quê nhà. Đi trên trên đường, ngang qua chùa Vĩnh Nghiêm, nghe chuông vọng lên tự dưng lại nhớ câu thơ của Tản Đà:
Nực cười cho bác Mai Lâm
Thương nhau chi sớm mà lầm khóc nhau
Bài thơ này có cả một giai thoại văn học, không nhắc lại vì nhiều người đã biết. Ơ hay, cái đầu óc con người ta cũng lạ, đang nhớ đến Lâm này bỗng dưng có một Lâm khác chen vào. Ấy là nhà báo Kỳ Lâm. Lại nhớ ngày mới vào nghề, thỉnh thoảng trưa trưa ngồi hầu rượu rồi lúc xế bóng quay về nhà ông nằm ngủ vật vờ. Còn nhớ ông sở hữu khá nhiều tranh của danh họa Bùi Xuân Phái. Vẽ trên những mảnh giấy cỡ hộp diêm, bao thuốc lá. Nay trôi dạt về đâu? Ông mất khoảng năm 1993 thì phải. Lúc ấy, ông chuyên viết Tản mạn cuối tuần cho báo Lao Động. Sau ngày ông mất, các đồng nghiệp có in tập sách Chóe - Kỳ Lâm Lai rai vẽ… viết. Hôm nào tìm đọc lại. Hôm qua, vừa đi đường vừa lẫm nhẫm mấy câu thơ vụt đến trong đầu:
Bỗng dưng nhớ bác Kỳ Lâm
Cầm ly từ độ dẫm chân vào nghề
Một già, một trẻ rủ rê
Rượu suông nắng gắt tỉ tê mưa dầm
Nói cười tếu táo Kỳ Lâm
Cầm ly, cầm bút như cầm giọt say
Kỳ Lâm xòe những ngón tay
Từng con chữ béo, ốm, gầy cầm ly
Trong đời sống, có những người đi qua kỷ niệm, đi qua ngày tháng chỉ trong khoảnh khắc ngắn rồi quên béng, quên hẳn, vậy mà có lúc lại nhớ như nhớ đến một ảo ảnh, một hình ảnh đậm nhạt xa tít chẳng còn rõ nét trong trí nhớ. Nhật ký hôm nọ có nhắc đến hai câu thơ của anh bạn Bùi Đức Long, do chỉ nhớ loáng thoáng nên không ghi ra. May sao, anh A còn nhớ rành rọt, “đó là bài thơ Đến Củ Chi, gặp ao:
Giữa đồng còn một hố bom
Hỏi ra mới biết bà con để dành
Chỉ vỏn vẹn 2 câu. Bài thơ này in trong tập Nhìn nhau và nói in khoảng năm 1976, Võ Ngọc An chủ biên, Bùi Chí Vinh tuyển chọn”. Trong tủ sách của y, có tập thơ này. Sẽ tìm đọc lại.
Những ngày này, dư luận ồn ào với vụ con ruồi nằm trong chia nước ngọt. Người phát hiện đòi nhà sản xuất phải trả 1 tỷ, sau thương lượng “chốt” là 500 triệu nếu không sẽ tung thông tin này cho báo chí. Những tưởng vậy là xong, nào ngờ, lúc đưa tay nhận tiền thì công an bắt quả tang vì tội tống tiền. Về chuyện này, có lẽ ý kiến bình luận của ông Phạm Phú Ngọc Trai - Tổng giám đốc Công ty tư vấn kinh doanh Hội nhập toàn cầu GIBC là xác đáng nhất - Gặp sự cố, đừng bưng bít (TT ngày 6.2.2015):
“Câu chuyện này là bài học cho các doanh nghiệp: không nên thỏa hiệp bất cứ vấn đề gì mà hãy chạm trán sự việc. Nếu thỏa hiệp thì những câu chuyện con ruồi và 500 triệu đồng như vậy sẽ còn xảy ra nữa. Từng ở cương vị giám đốc của một hãng nước giải khát, tôi không phủ nhận đôi lúc cũng có sản phẩm bị lỗi nhưng so với hàng triệu triệu sản phẩm chất lượng trên thế giới mà hãng đã cung cấp thì một vài sản phẩm “khuyết tật” có thể thông cảm được.
Nếu không may gặp sự cố, doanh nghiệp cần kiểm tra, xác định có phải lỗi của mình hay không, nếu đó là sản phẩm bị lỗi thì doanh nghiệp phải nhận, đừng bưng bít hay thỏa hiệp. Cứ nói thật, dù sự thật xấu xí cũng nên công khai thông tin và cho truyền thông hiểu được quá trình xử lý của mình, cho họ hiểu đó chỉ là sự cố, nhà sản xuất không cố tình làm điều đó.Cứ thuyết phục người tiêu dùng bằng quy trình quản lý chất lượng an toàn, đảm bảo vệ sinh mà mình đang có. Như vậy công chúng dễ tha thứ hơn.
Bưng bít hay chống chế chỉ làm giảm uy tín doanh nghiệp và kéo theo những cách xử lý thiếu minh bạch khác. Đừng để việc “đi đêm” như vậy trở thành văn hóa xử lý khủng hoảng của doanh nghiệp, 500 triệu đồng đó làm tổn thương người tiêu dùng, làm xấu đi môi trường xã hội”.
Đêm qua lai rai với nhiều doanh nghiệp, lúc bàn chuyện này, ý kiến trên được nhiều người tán thành.
Lại thêm chuyện này nữa, cũng cần ghi lại. Đại khái, lâu nay, hễ dịp xuân về tết đến là ở nông thôn có diễn ra các lễ hội truyền thống. Chẳng hạn ở Bắc Ninh có lễ hội "Chém lợn" - nghe sặc mùi chém giết, chết chóc, vì thế Sở VH-TT&DL tỉnh Bắc Ninh đề nghị đổi thành lễ hội “Rước lợn”. Cần ủng hộ đề nghị này. Theo thông tin báo chí, từ ngày 27-1, Tổ chức động vật châu Á (Animals Asia) đã phát đi thông điệp kêu gọi lấy chữ ký của cộng đồng để các cơ quan chức năng Việt Nam sớm ban hành luật chấm dứt lễ hội Chém lợn tại Bắc Ninh. Animals Asia đưa ra quan điểm: “Việc chém những con heo còn đang sống khỏe mạnh là một lối đối xử tàn ác với động vật, làm trơ lì cảm xúc của người xem khi chứng kiến cách thức động vật bị đối xử dã man, đặc biệt là đối với trẻ em, đối tượng có tâm lý chưa hoàn thiện ổn định và dễ bị ảnh hưởng”. Đúng quá. Thế nhưng, các cụ bô lão làng Ném Thượng (Bắc Ninh) cương quyết phản đối. Họ vin vào lý do lễ hội này đã có nguồn gốc lịch sử rõ ràng, và từ xưa đến nay vẫn duy trì nghi thức đó, nên không thể bỏ đi được. Lập luận này nghe ra cực kỳ “cùi bắp”.
Có thể phân tích thêm. Nhưng thôi. Y bỏ phiếu tán thành xóa bỏ cái gọi là “lễ hội” chém lợn, đâm trâu… đã trở thành sự man rợ, không nên khuyến khích; nếu duy trì nên linh hoạt chuyển qua hình thức khác.
Vấn đề thời sự này, hầu hết báo chí đều thông tin và ủng hộ quan điểm Sở VH-TT&DL tỉnh Bắc Ninh, tuy nhiên chỉ có tờ TT&VH thể hiện có “tầm” hơn cả. Nhà báo Linh Lan đã khảo sát từ tập sách Hội hè đình đám của nhà nghiên cứu văn hóa Toan Ánh, đưa ra chứng cứ “Thành hoàng làng Ném Thượng là cướp”. Bài báo viết:
“Là người Bắc Ninh gốc, nên Toan Ánh miêu tả khá kỹ: “Làng này nằm bên tỉnh lộ đi từ Bắc Ninh tới Thuận Thành cách tỉnh lỵ vào khoảng trên mười cây số. Dân làng không đông lắm vào khoảng trên năm trăm người, quanh năm sống về nghề canh nông. Dân làng chia làm hai giáp”. Ông cũng cung cấp thông tin: “Thành Hoàng làng này, họ Lý, không rõ tên gì nhưng được gọi là Lý Công, lúc sinh thời làm nghề ăn cướp, chết gặp giờ linh nên được dân làng thờ phụng. Lý Công quê ở làng Châm Khê cùng huyện, thường kiếm ăn ở các làng quanh vùng. Một hôm Lý Công đi ăn cướp, bị dân chúng và khổ chủ đuổi đánh ráo riết chạy bán sống bán chết, chạy đến núi Nghè gần làng Niệm Thượng. Tới núi, Lý Công tìm chỗ ẩn núp, dân chúng kiếm không ra. Tuy kiếm không ra, nhưng mọi người đều biết họ Lý ẩn ở trên núi, nên cùng nhau vây quanh ngọn núi canh chừng.
Bị vây, ẩn mãi trên núi, tên cướp họ Lý không có gì ăn đang lo chết đói. May thay giữa lúc đói lòng, một con lợn lớn không hiểu từ đâu đi tới, đi từ trong bụi rậm ra. Chàng cướp ta không để lỡ cơ hội, lập tức, sẵn dao dài trong tay, chém một nhát ngang mình lợn, con lợn bị chặt làm đôi, đầu với hai chân trước rời khỏi mình. Chém xong chàng lột bì lợn bỏ đi lấy thịt ăn sống. Không thấy thần tích nhắc tới, sau này Lý công bị chết ra sao, chỉ biết khi chết gặp giờ linh nên được dân làng Niệm Thượng thờ làm Thành Hoàng”.
Chính vì thế trong phần Những cổ tục, Toan Ánh viết: “Hội làng Niệm Thượng ngoài những lễ nghi thường lệ có những cổ tục nhắc lại kỷ niệm lúc sinh thời của Lý Thành Hoàng... Trong hội làng Tích Sơn, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Yên, cũng có tục chém lợn chúng tôi đã nhắc qua, nhưng tục chém lợn ở làng Niệm Thượng khác hẳn tục chém lợn ở làng Tích Sơn. Con lợn hy sinh ở làng Niệm Thượng khác hẳn tục chém lợn ở làng Tích Sơn. Con lợn hy sinh ở làng Niệm Thượng khi bị chém còn đang bị nhốt ở trong cũi, và ở đây một năm chém hai con lợn do hai giáp trong làng. Tục này nhắc lại lúc Lý Công bị đói đã chém con lợn ở núi Nghè”. BOX: “Theo lời ông Nguyễn Đăng Chương (Khu phố Thượng, Bắc Ninh), trong thần phả còn lưu giữ tại làng Ném Thượng, nghi thức chém lợn gắn liền với những truyền thuyết về tướng Đoàn Thượng thời Lý - người được dân Ném Thượng thờ làm Thành hoàng - và duy trì từ vài trăm năm qua” (TT& VH ngày 10.2.2015).
Có thể hiểu, thành hoàng là thần chủ được tôn vinh theo tín ngưỡng thờ thần của cộng đồng dân cư làng xã Việt Nam truyền thống. Có Nhân thần (người thật được suy tôn), Nhiên thần (nhân vật huyền thoại được suy tôn) lại có cả Phúc thần. Đại khái thế.
Thêm thông tin khác cũng cần ghi nhận, đó là việc khởi tố và cách chức Tổng Biên tập báo Người Cao Tuổi. Nhà văn Nguyễn Quang Lập vừa được tại ngoại, trước đó, ngày 6-12-2014 Người thổi kèn Trom-pet bị Cơ quan an ninh điều tra Công an TP ra quyết định khởi tố, bắt tạm giam về hành vi tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo điều 88 Bộ Luật Hình sự.
L.M.Q
Hình chụp tại Nhà Lưu niệm Nguyễn Bính ở Gò Vấp ngày 3.2.2015
Tết đang đến từng ngày. Có quá nhiều cuộc họp mặt, liên hoan, tất niên trong tuần. Hầu như ngày nào cũng có những cuộc mời mọc, hẹn hò. Cũng ăn nhậu lai rai nhưng những ngày này lại có ý nghĩa khác, do đó, khó né tránh. Thôi thì, cứ đi vậy. Chẳng hiểu vì nguyên cớ gì, y chẳng hề thấy mình già đi một chút nào. Lúc nào cũng ngỡ như đang xuân xanh phơi phới, vì thế, cứ bia bọt rót xuống đất, hất tung lên trời theo những ngoa ngôn vô tội vạ trong vòng vây của anh em bè bạn.
Chiều hôm kia tham dự chương trình bình thơ Tết cho HTV9. Có mấy ý kiến cần ghi lại. Về bài thơ Gái xuân của Nguyễn Bính, tựa bài thơ đã là một sự táo bạo, cách tân cách đây hơn 50 năm. Thời Lê Thánh Tôn mới dừng lại ở Đề miếu bà Trương, thời Hồ Xuân Hương cũng chỉ Thiếu nữ ngủ ngày. Chẳng ai nói sổ sàng là "gái". Đến thời Thơ mới, đã thấy đàng hoàng xuất hiện, cụ thể Gái xuân. Bẵng đi thời gian dài, gần đây mới thấy Miền gái đẹp (Hoàng Phủ Ngọc Tường), Gái đẹp trong tôi (Lê Minh Quốc)… “Gái xuân giũ lụa trên sông Vân”. Sông Vân ở đâu? Tra tự điển biết rằng con sông này ở Ninh Bình; nhiều tư liệu khác cho rằng sông Vân ở làng quê Nguyễn Bính tại Nam Định. Điều này không quan trọng. Có thể, Vân là tên của một người đẹp thì sao? Ai dám bảo nhà thơ không gài “mật mã” ngay chính trong câu thơ của mình.
Nhớ khi xưa ta là chim Phượng Hoàng
Vỗ cánh bay chín tầng trời cao ngất
Bay từ Đao Lỵ đến trời Đâu Xuất
Và lùa theo không biết mấy là hương
(Hàn Mặc Tử)
Địa danh Đao Lỵ, Đâu Xuất ở đâu? Nào ai biết nếu không am tường thuyết nhà Phật. “Tố của Hoàng ơi Tố của Hoàng”, câu thơ của Vũ Hoàng Chương đó. Ai là Hoàng? Ai là Tố? Nếu ngày xưa, các cô gái có mái tóc demi garcon, hoặc xanh đỏ tím vàng như diễn viên Hàn Quốc, đố Nguyễn Bính có thể viết được câu “Đôi tám xuân đi trên mái tóc”. Câu thơ ấy, có thể liên tưởng đến mái tóc mượt, dài, thậm chí dài chấm gót, có được không? Tại sao không? Bài thơ Chùa Hương của Nguyễn Nhược Pháp có nhiều điều để bàn. Chẳng hạn, thơ phải Mộng, Hư ảo nhưng ở đây lại Thật, Cụ thể đến từng chi tiết:
Khăn nhỏ, đuôi gà cao,
Em đeo giải yếm đào;
Quần lĩnh, áo the mới,
Tay cầm nón quai thao.
Có thể nói rằng, các câu thơ ngũ ngôn, cụ thể 136 câu sẽ nhẹ tênh, không đủ sức trụ lại với thời gian, nếu không có câu này. Câu gì? Câu: “Nam mô A Di Đà”. Câu thơ đó cho thấy sức sống một chiều dài văn hóa truyền thống ngàn đời của người Việt. Nhờ câu đó, bài thơ còn sống thọ qua nhiều năm tháng nữa. Nó đã vượt lên chuyện tình đôi lứa mà chạm đến một điều khác, thiêng liêng hơn trong tâm linh của một dân tộc. Câu thơ ấy ngẫu nhiên hay cố ý? Nào ai biết. Bí mật của thơ đôi khi nằm ngoài trí tưởng tượng, kiểm soát của người viết ra nó.
Rồi, MC lại hỏi về con người cụ thể trong bài thơ Chùa Hương. Bèn cười mà rằng, đừng quan trọng chuyện đó. Hãy cứ để cô gái mười lăm ấy mãi mãi sắp trăng rằm. Ngày kia, ông Thế Nhật đi tìm cụ thể T.T.Kh là ai? Đã chứng minh, đã tìm ra con người cụ thể. Đúng sai thế nào chưa rõ nhưng oái oăm, chính con người cụ thể ấy, từ Pháp, đã phản ứng dữ dội. Những hình bóng tình nhân, nhan sắc trong thi ca nhạc họa cứ nên để công chúng nghĩ theo trí tưởng tượng của họ. Cần gì phải biết người thật. Biết, lắm khi vỡ mộng. Ngày qua Mỹ, gặp anh bạn nhà báo Việt kiều. Anh quả quyết câu thơ này, Quang Dũng viết tặng mẹ mình và lấy làm sung sướng, hãnh diện:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội giáng kiều thơm
Anh cho biết, mẹ anh lúc ấy đã ngoài 80, thời trẻ cũng quen biết nhiều nhà thơ và có làm thơ, ký bút danh Giáng Kiều. Anh tự hào vì, ít ra mẹ mình là phụ nữ đẹp, thời trẻ nhan sắc của bà cũng là nguồn cảm hứng cho nhà thơ nổi tiếng, chứ nào phải tầm thường. Nào ai biết cụ thể ra sao? Thôi thì, đến với câu thơ, tự người đọc liên tưởng đến nhan sắc ấy theo trí tưởng tượng của mình vậy.
Tối hôm kia tham dự lễ đặt tên đường văn nghệ sĩ trong Khu Dân cư Gia Hòa ở Quận 9. Chiều tối hôm kìa, tất niên cùng Công ty Văn hóa Phương Nam. Trong phần sổ xố vui chơi cuối tiệc, không ngờ nhà văn Nguyễn Đông Thức cũng biết hô lô tô. Anh hô rất dí dỏm, có duyên. Nghe và nhớ đến đến cách hô bài chòi ở Hội An quá chừng. Theo nhà văn Sơn Nam: “Nói thơ Vân Tiên, theo tôi, rõ ràng là điệu “hô bài chòi” ở miền Trung, du nhập vào Nam bộ, có cải cách một vài chi tiết”.
Có lẽ tác phẩm lớn nhất của nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Xuân, phải kể đến Khi những lưu dân trở lại, viết năm 1967. Ông đã chứng minh, trả lời câu hỏi: “Văn nghệ miền Bắc chuyển vào Nam và tại sao văn học miền Nam căn bản là nói và trình diễn?”. Đọc lại vẫn còn thấy hợp thời và hợp lý. Đọc lại để thấy tầm vóc lớn lao của Nguyễn Văn Xuân có một vị trí đặc biệt trong học thuật không riêng gì với các tác phẩm Phong trào Duy Tân; hoặc khẳng định Chính phụ ngâm diễn âm tân khúc là của Phan Huy Ích - phát giác quan trọng này vào năm 1971. Từ năm 1954 đến năm 1975 tại miền Nam, nhà văn ca ngợi Lục Vân Tiên đến mức tót vời, chỉ có thể Nguyễn Văn Xuân. Trộm nghĩ rằng, Truyện Kiều là một viên ngọc toàn bích, ảnh hưởng đến nhiều thể loại khác trong nhiều tầng lớp, thế hệ người đọc. Và đặc biệt “bói Kiều” là một sáng tạo độc đáo nhất của người Việt. Không một tác phẩm nào trên thế giới có thể tạo ra sức sống tâm linh vĩ đại cho dân tộc họ như Truyện Kiều đối với người Việt. Tuy nhiên, Lục Vân Tiên lại đi vào đời sống người miền Nam bằng một hình thức khác: “nói thơ Lục Vân Tiên”.
Sáng hôm qua, dự tổng kết, phát giải, kết nạp hội viên mới tại Hội Nhà văn TP.HCM. Nghe loáng thoáng Phan Trung Thành - chánh văn phòng của Hội cho biết hiện nay, tổng số hội viên lên đến 450 người thì phải. Một con số không nhỏ, nhưng còn có bao nhiêu người đang trong sức viết? Nhà thơ Lê Quang Trang - chủ tịch Hội đọc Báo cáo Tổng kết năm 2014, phương hướng công tác 2015 mở đầu “Đặc điểm tình hình” như sau (nguyên văn): “Năm 2014, kinh tế xã hội TP.HCM và cả nước vẫn ổn định và có sự tăng trưởng. Tình hình biển Đông căng thẳng khi Trung Quốc xâm lấn, ngang nhiên hạ đặt trái phép dàn khoan HD 981 trong thềm lục địa và quyền tài phán của nước ta. Cả nước đồng lòng biểu thị tinh thần yêu nước bằng nhiều hình thức khác nhau. Cũng thời gian này, giới văn học xuất hiện cái gọi là “Văn đoàn độc lập” - một loại hình tổ chức không phù hợp với đời sống văn học hiện nay, một thứ ngụy tạo dân chủ tiềm ẩn nguy cơ làm mất ổn định chính trị. Trừ dăm bảy người tham gia ghi tên Ban Vận động, còn lại nói chung Hội viên Hội Nhà văn TP.HCM không hưởng ứng, mà còn đấu tranh, vận động hội viên không tham gia các tổ chức kiểu này”.
Có điều lạ, một vài người nghiêng tai hỏi nhỏ: “Văn đoàn độc lập” là cái chi?”. Rõ ràng, nhiều người không hề biết đến hội đoàn này; hoặc nếu có biết, chỉ loáng thoáng hoặc cũng không quan tâm đến. Thời gian là cái gì? Khủng khiếp. Đã nhìn thấy thời gian trên thể xác những bạn bè cũ. Lâu lắm mới gặp nhiều người bạn nhưng không chào hỏi, chỉ quan sát. Ngày trước, anh bạn nhà thơ Bùi Đức Long khỏe khoắn là thế, cười nói rổn rảng mà nay đã đi đứng lụm khụm lắm rồi. Trước mỗi lần gặp anh hay bảo: “Q à, cậu viết câu thơ này, tớ thích quá. Đúng là xuất sắc”. Nghe thấy vui vui, bèn hỏi: “Câu gì anh?”. Anh đọc luôn:
Chợ Cồn tô cháo trắng
Ngon như là quê hương
Trích từ bài thơ Quê hương, y viết đã từ lâu lắm. Rồi anh kể những ngày đã sống, đã đến Đà Nẵng. Ít ai biết, sau năm 1975, anh có bài thơ nhớ mài mại Ghi ở Củ Chi, đăng Đứng Dậy (Đối Diện) thì phải. Trí nhớ tồi quá, chỉ vỏn vẹn 2 câu mà không nhớ nổi. Đại khái, sau chiến tranh ở sau nhà có hố bom nhưng bà con không lấp mà dành để lấy nước tưới cây. Anh viết được là lúc đi thực tế ở vùng kinh tế mới ở Củ Chi. Kiểm tra trên mạng không thấy 2 câu thơ này của anh. Rồi những người bạn khác cũng thế. Đã già. Ái ngại cho tuổi già.
Sáng nay, đi xuống Sài Gòn. Nhiều đường đi tắt nghẽn, Đoạn đường Hàm Nghi đang tiến hành làm Đường hoa của Tết này. Hôm qua, đọc báo biết rằng: “650 triệu đồng là lời rao bán cây mai của ông Giang Kiến Hòa, 66 tuổi ở phường Hiệp Phước, quận Thủ Đức, TP.HCM. Cây mai này có vòng tròn gốc đo được 1,37 mét, cao 5,5 mét được ông Hòa mua ở miền Tây từ năm trước và được cho là đã hơn 100 tuổi” (báo SGTT - 6.2.214).
Khiếp chưa?
Báo chí cũng đưa nhiều tin liên quan đến Liên hoan phim Berlin - khai mạc vào ngày 5.2.2015. Điều thú vị hầu như đều nhắc đến bộ phim R (Restricted): Fifty shades of grey (50 sắc thái), chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn nhà văn E.L Jame. Tuy không nằm trong 23 phim trình chiếu chính thức hay 19 phim tranh giải Gấu vàng nhưng được thu hút chú ý nhất ở LHP, bởi đây là lần đầu tiên bộ phim được ra mắt.
Tại Việt Nam, phim đã chính thức lọt qua cửa kiểm duyệt của Hội đồng duyệt phim quốc gia và ấn định ngày ra rạp là 13.2 tới. Tuy nhiên, phim bị đóng mác 16+ bởi nội dung nóng bỏng. Hội đồng duyệt phim quốc gia Malaysia (LPF) đã quyết định không cấp phép cho 50 Sắc thái vì “Nó mang tính khiêu dâm hơn là một bộ phim!”. Đã đọc tác phẩm này. Hay. Quan điểm của nhà văn E.L Jame, tình dục là chuyện của 2 người, vì thế họ có quyền tận hưởng những gì mà họ sáng tạo và cảm thấy thích thú, cùng đồng lòng. Quyền của họ, họ có quyền thực hiện các động tác tình dục ấy trong bốn bức tường thì can cớ gì người khác đứng ngoài xía vào có ý kiến ý cò? Hôm nào đi xem, nếu phim ra rạp.
Một buổi sáng thứ Bảy. Đã nghỉ ngơi chưa? Vẫn chưa? Vẫn tiếp tục bài vở cho số Tân niên.
Ngày tháng qua nhanh quá.
L.M.Q
Thủ bút Vũ Hoàng Chương (Tư liệu Lê Minh Quốc)
Đã bắt đầu sang tháng 2 của năm 2015.
Thời gian lao nhanh như vó ngựa. Lao qua năm tháng. Rất vội. Chứ không đủng đỉnh như một kẻ nhàn tản ngày ngày thong thả, ngắm nhìn, đu đưa với cảm hứng trời xanh mây trắng. Báo Xuân, báo Tết đã phát hành nhiều rồi. Như một sự trùng lặp ngẫu nhiên, hầu hết các báo đều có những bài viết về Sài Gòn. Như một sự hoài niệm và có chút gì rưng rưng, hân hoan, ngậm ngùi, đau đớn trong giây phút “ôn cố tri tân”. Sài Gòn. Một vùng đất, một khái niệm, một văn hóa như ma lực hấp dẫn nhiều người. Tất nhiên thôi. Khi đã không còn nét cũ, khi đã xa rời ký ức thì bao giờ cũng đọng lại tâm tưởng những buồn vui không rõ nét. Nhớ và quên. Rồi cứ thế, đời sống lại lao đi. Hiện tại của hôm qua đã trở thành dĩ vãng của tương lai. Không gì có thể níu kéo mãi hình ảnh cũ đang từng ngày mất dần. Ngay cả chính thân phận trần tục và tầm thường của mỗi người cũng thế. Thay đổi dần theo năm tháng. Rồi đến lúc ngoảnh lại, ơ hay, gương mặt của mình hiển hiện trên gương soi đấy ư?
Sáng thức dậy sớm, nhìn lên trời, ngó xuống đất và chẳng biết để làm gì. Đôi khi trong lòng rỗng rễnh như cái rương không còn có gì ở đó nữa. Đôi khi cũng cần sắp sếp lại; hoặc xé bỏ, đốt hết những trang thư cũ, những hình ảnh cũ ngay chính trong tâm hồn mình. Để làm gì? Chẳng làm gì cả. Một sự níu kéo giữa hiện tại và quá khứ chỉ còn là làn khói mỏng, nhẹ tênh lễnh loãng từ bàn tay thả vào không gian xa tít. Y nhìn vào y. Nhìn và roi rọi lại một kiếp người đã ngoài ngũ thập. Đã thấy gì? Tự dưng từ đâu đó trong tiền kiếp ảo ảnh xa xăm nghe réo rắt, nghe thì thầm, nghe nức nở, nghe vỗ về những bước đi nhịp nhàng Sáu Tám:
Ta còn để lại gì không?
Kìa non đã lở, này sông cát bồi
Lang thang từ độ luân hồi
U minh nẻo trước xa xôi dặm về
Trông ra bến hoặc, bờ mê
Nghìn thu nửa chớp, bốn bề một phương
Ta van cát bụi bên đường
Dù nhơ, dù sạch đừng vương gót này
Ðể ta tròn một kiếp say
Cao xanh liều một cánh tay níu trời
Nói chi thua được với đời
Quản chi những tiếng ma cười đêm sâu
Tâm hương đốt nén linh sầu
Nhớ quê dằng dặc ta cầu đó thôi
Ðêm nào ta trở về ngôi
Hồn thơ sẽ hết luân hồi thế gian
Một phen đã nín cung đàn
Nghĩ chi còn mất, hơi tàn thanh âm
Thơ Vũ Hoàng Chương. Những câu thơ viết như chơi như phóng bút viết lên nền mây trắng. Viết như một tiếng thở dài. Như nửa khuya tỉnh giấc nghe buồn vu vơ, buồn não ruột bởi tiếng mèo ăn đêm đi ngang qua mái nhà. Những câu thơ đã viết. Rồi quên. Quên béng đi. Chẳng hề nhớ. Ấy thế, có người lại nhớ nếu tìm ở những câu thơ ấy một sự đồng cảm. Một cảm thông. Một an ủi. Dẫu là trong lâu dài, trong chốc lát cũng đã là đủ rồi. Đừng tơ tưởng thêm gì khác. Đôi khi thích đọc thơ là vậy. Có những câu thiêng liêng. Có những câu tầm thường. Có thể câu thơ như viên đạn đồng K.54 xuyên qua óc. Mà có thể cũng như vệt gió non trợt ngoài trí nhớ, không hề hằn lại một dấu vết nào của sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng. Những lúc ấy, khép lại cánh cửa mở ra phía cuộc đời, con người ta quay về nhìn lại chính mình. Soi rọi vào trong bản ngã để rồi tự hỏi rằng, ngày tháng đã dẫm hai chân trên trái đất này, đã sống thế nào, đã yêu thế nào và đã giữ được những gì trong tay. À, có gì? Chỉn thấy trong lòng bàn tay là những rãnh sâu ngang dọc số mệnh vô hình tướng. Vui là thế. Chán là thế. Chẳng mấy chốc “Tâm hương đốt nén linh cầu” chỉ nhợt nhạt, tan biến như vệt khói ven sông lúc chiều dần khuất nẻo.
Một ngày của y thế nào? Điều đó không quan trọng. Một đời của y thế nào? Điều đó không quan trọng. Nghĩ cho cùng, trong cái cõi nhân sinh dằng dặc phận kiếp mỗi người, điều đáng kể nhất chỉ gói gọn trong một giây. Vâng, chỉ một giây. Phút tột cùng dâng hiến của cảm giác va chạm rờn rợn giữa Nước và Lửa, giữa Địa ngục và Thiên đàng chỉ tích tắc trong mỗi một giây. Từ ngút ngàn, hăm hở của Sự sống bước sang cái Chết cũng dài thăm thẳm trong một giây. Thế thì, một giây dài kinh khiếp. Dài đến độ chẳng ai có thể cảm nhận được hết. Một buổi sáng đi qua. Rồi một đời cũng biến mất.
Ta còn để lại gì không?
Kìa non đã lở, này sông cát bồi
Chẳng có gì tồn tại vĩnh viễn dưới gầm trời này. Tất cả, tất cả vòng quay của vũ trụ cũng chỉ trọn vẹn trong một giây bất biến. Và y đã nghĩ gỉ? Nghĩ gì cũng chẳng là gì quan trọng, chỉ biết rằng có một điều vừa đến trong tâm thức của y. Những con chữ quẫy đạp, đòi tuôn ra, đòi phải được xuất hiện từ bàn tay gõ phím:
Tưởng rằng giọt máu tím bầm
Trên tay giữ được là cầm đấy sao?
Xòe ra thoáng chốc hư hao
Nhòe nhoẹt ngọn gió tiêu dao bẽ bàng
Ngày vừa sang, xuân mới sang
Ai chia sẻ tiếng kêu vang rã rời?
Đi trên trái đất cõi người
Dấu chân còn lại phía ngoài hư không?
Dạ rằng, không cũng là không
Có tôi lặn giữa bụi hồng nhỏ nhoi
Tưởng còn một vệt trăng soi
Không là không mắt và môi hữu hình
Thời gian vời vợi phiêu linh
Thiên thần hỗn độn yêu tinh gần kề
Đi qua bến Giác bờ Mê
Đi là Đi đến cõi Về lại Đi
Nói gì đi! Nói gì đi!
Dạ thưa, tôi biết nói gì nữa đâu?
Lắng nghe một tiếng kinh cầu
Phương Đông trầm mặc chân cầu nước trôi
L.M.Q
Phim trường VTV 9 chiều ngày 28.1.2014, từ trái: Nghệ sĩ Quế Trân, nhà thơ Lê Minh Quốc, đạo diễn VTV 9, nghệ sĩ Quyền Linh
Những ngày này, mỗi sáng thức dậy cảm thấy trời lành lạnh. Rất Tết. Thèm một chút nghỉ ngơi. Nhưng rồi cũng khó. Đã phải chuẩn bị bài vở cho số Tân niên. Bận rộn. Chiều qua, đã lên phim trường VTV9 cùng nghệ sỉ Quế Trân, Quyền Linh thực hiện chương trình trao đổi về phụ nữ sẽ phát sóng vào… ngày 8.3.2015! Đây là khoảng thời gian chạy ngược gió. Chạy hết tốc lực. Hào hứng say mê. Rồi chắc chắn chỉ khoảng thời gian ngắn nữa là Tết. Cuộc nghỉ dài ngày. Lại quay về Đà Nẵng. Lại bãi bờ. Lại những tiếng sóng ầm vang chiều xuân. Lại đón nhận thêm tuổi mới. Một tuổi của quê nhà.
Sực nghĩ, những người sống xa quê, dịp này, tâm trạng như thế nào?
Tình cờ hôm nọ, lang thang hiệu sách cũ mua được tập bản thảo song ngữ, chừng 100 trang, in vi tính. Tựa tiếng Hà Lan West En Oost Ontmoeten Elkaar (Việt Âu Á gặp nhau) của Trương Thị Diệu Đế. Cái tên nghe là lạ. Ngộ nghĩnh. Những gì đã viết, dưới thức nào cũng không quan trọng, nếu có “duyên” ắt có người tìm đọc. Bằng không, chỉ là nước chảy hoa trôi. Lỡ làng duyên phận. Đọc và biết tác giả sinh tại Đà Lạt, đậu Tú tài vào tháng 5.1972, sang Hà Lan năm 1980. Cô viết lại những cảm nhận thời gian đầu ở xứ người.
Đọc và thích câu chuyện này, ngày nọ vì trễ chuyến xe lửa đi Leerdam, nên cô thả bộ từ nhà ga Dordrecht đến chiếc cầu gần đó, như một cách giết thời gian, đợi chuyến sau. Ở đó, cô thấy một con mèo bị thương nằm trong bụi cây. Bỗng nhiên có xe cứu thương cho súc vật chạy đến và đem con mèo đi. Chứng kiến cảnh kỳ lạ ấy, cô thầm nhớ về quê nhà. Nghĩ đến cảnh ngộ đồng bào mình nghèo khó, tàn tật, ăn xin lê lết ngoài phố nhưng nào có ai thèm đoái hoài đến. Trong khi đó, ở xứ này một con mèo bị thương lại được chăm sóc rất đỗi tận tình, chu đáo, vì thế: “Nước mắt tôi trào ra và tôi không nín khóc được. Bỗng nhiên tôi cảm thấy một bàn tay đặt lên vài mình. Có một bà cụ đang cố gắng an ủi tôi”.
Xin dừng một chút để nói rằng, một truyện ngắn hay là có thể phút cuối có một vài chi tiết tạo ra sự bất ngờ cho bạn đọc. Chuyện con mèo bị thương không là truyện ngắn. Ấy thế, lời an ủi của bà cụ cũng bất ngờ không kém.
Bà cụ đã nói gì?
Có lúc nghĩ rằng, có phải người Việt đều hiểu tiếng Việt? Không ai dám ưỡn ngực gật đầu cả. Nếu ai đó bảo giải thích tường tận những địa thế đất đai, sông rạch đại loại như bàu, trảng, giồng, vàm, gò, rú, xẻo, gành, phá, truông, trủng, trủn, rộc, rạch, vũng, hóc, đụn… thì y xin chào thua. Đã thế, hôm nọ anh B có mail cho bài viết của nhà thơ Lê Ký Thương giải thích về từ “chụt”. Chụt là gì? Đố ai biết? Câu hỏi khó mà dễ. Dễ bởi ai cũng biết “chụt” là “tiếng kêu phát ra khi hôn nhau hay mút mạnh” như Đại từ điển tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên đã giải thích. À, ai lại không từng có cảm giác sung sướng của lúc lúc ăn ốc hút cái chụt nhỉ?
Thế nhưng ở Nha Trang, có địa danh Chụt! Nghe lạ tai quá. Ắt nhiều người cũng lần đầu tiên biết chăng? Hãy nghe nhà thơ Lê Ký Thương giải thích: “Khách du lịch đến Nha Trang, có dịp thăm Khu Nghỉ mát Biệt thự (lầu vua Bảo Đại), Viện Nghiên cứu biển (trước đây gọi là Hải học viện Nha Trang) hay hồ cá Trí Nguyên đều phải qua xóm Chụt. Đây là một xóm ven biển, nằm cuối đường Độc Lập (nay là đường Trần Phú) đã một thời nổi tiếng món phở gà của ông Nguyễn Bảy, mà mọi người quen gọi là “phở Chụt”.
Nhưng Chụt nghĩa là gì?
Khi có người tò mò hỏi như vậy thì hầu như dân địa phương đều trả lời là CHỤT là do tiếng Pháp mà ra. Người Pháp viết CHUTT, mình đọc là CHỤT (?).Có đúng vậy không? Chúng tôi đã tra cứu các tự điển tiếng Pháp không có chữ CHỤT mà chỉ có chữ CHUT - một tiếng ta thán có nghĩa: im, làm thinh. Và chữ CHUTE nghĩa là: rơi, rớt, sa ngã, thất bại, suy đồi, đốn mạt… Nhưng câu trả lời trên không phải là vô lý. Thời Pháp thuộc, khi người Pháp tráng nhựa con đường biển chạy thẳng xuống cảng Cầu Đá, họ đã đặt trụ cây số và khắc lên đó chữ CHUTT.
Theo đó, các hiệu buôn nằm hai bên đường xóm Chụt có lẽ muốn Tây hóa đều ghi trên bảng hiệu là CHUTT. Và chữ CHUTT dần dần ăn sâu trong cách viết, cách nói của người địa phương - cứ tin chắc đó là chữ Pháp - cho tới giờ. Chúng tôi thiển nghĩ có sự nhầm lẫn như vậy, vì người Pháp phát âm chữ CHỤT thành CHUTT, nên viết là CHUTT.
Vậy CHỤT nghĩa là gì? Tại sao gọi là xóm Chụt?
Theo Đại Nam Quấc Âm Tự Vị (1895) của Huình Tịnh Của, Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức. Tự Điển Việt Nam của Lê Ngọc Trụ và Lê Văn Đức, Việt Ngữ Chính tả tự vị đều giải thích: Chụt là vũng nước nhỏ ở dựa gềnh biển có thể cho ghe thuyền núp gió. Trong Đại Nam Quấc Âm Tự Vị còn ghi cụ thể: (CHỤT) NHA TRANG - chỗ núp gió tại Nha Trang về tỉnh Khánh Hòa. Trong bài VÈ THỦY TRÌNH TỪ HUẾ VÔ SÀI GÒN của dân ghe bầu, tức dân đi buôn bằng ghe thuyền ngày xưa có đoạn:
Nha Trang xuống CHỤT bao xa
Kẻ vô mua đệm, người ra mua chằng.
Anh em mừng rỡ lăng xăng,
Người hỏi thăm vào, kẻ hỏi thăm ra.
Anh em chè rượu hỉ ha…
Qua đó, chúng ta thấy CHỤT đã có trước khi người Pháp đặt chân tới Nha Trang và chúng ta có thể hình dung được cảnh sinh hoạt khá tấp nập ngày xưa ở đây. Dân ghe bầu từ Nam ra Bắc hoặc từ Bắc vô Nam đều ghé vô CHỤT. Họ mừng rỡ gặp nhau, chén thù chén tạc vui vẻ, trao đổi tin tức, tình hình buôn bán và điều quan trọng là mua lá buông (đệm) làm buồm và song mây làm cột buồm (chằng). Hai thứ lâm sản này có rất nhiều ở Khánh Hòa và chỉ có bán ở Chụt vào thời đó.Qua nhiều thời ký phát triển, xóm Chụt ngày nay trở thành một khu phố thuộc thành phố Nha Trang. Các cơ sở hành chánh, kinh tế, văn hóa đều tập trung ở đây. Nó lại gần cảng Cầu Đá, một trong những cảng lớn của Miền Trung, nên có nhiều điều kiện thuận lợi cho việc phát triển trong tương lai” (Tạp chí Bách khoa văn học số 5 - tháng 5-1991). Nói tắt một lời: “Chụt là vũng nước nhỏ ở dựa gềnh biển có thể cho ghe thuyền núp gió”.
Cần gì đọc nhiều. Mỗi ngày đọc vài trang viết mà cảm thấy thích thú là đủ. Đã được NXB Trẻ tặng 2 quyển sách hay, đáng đọc: Di cảo Dỡ mắm của cụ Vương Hồng Sển; Hồ sơ về lục châu học - Tìm hiểu về con người ở vùng đất mới của GS Nguyễn Văn Trung. Sẽ đọc kỹ.
Thử hỏi “dỡ mắm” nghĩa là gì? Tóm tắt vài ý của cụ Sển, đại khái mắm gài từ mấy năm trước, nay lấy ra ăn gọi là “dỡ mắm”. Trước đó, “mót vài ba con cá hôi trong ao bùn, thêm muối và gài vào lu hũ, chờ qua năm sau, cá muối thành mắm, dù lua hột cơm cho qua bữa”. Nếu chỉ có thế, chẳng gì đáng bận tâm, oái oăm chính là ở chỗ khi dỡ nắp mái ra chỉ thấy những giòi!
Ngồi buồn dỡ mắm nhau ra
Mắm ông thì thúi, mắm bà không thơm
Lần đầu tiên đọc được câu này. Ngày còn nhỏ, ở ngoài Trung, mẹ y cũng thường xuyên làm mắm cá cơm. Những lúc có giòi, mẹ thường đùa mà rằng: “Giòi mẹ thì ngon, giòi con thì béo”. Nói thế thôi, chỉ cần vớt giòi bỏ ra ngoài chén mắm là xong. Lại nghe câu tục ngữ: “Ăn mắm mút giòi”. Mút sạch chất mắm trên con giòi rồi mới bỏ đi. Sự hà tiện, tằn tiện ấy đố ai có cách nói hay hơn? Có phải người Việt học ở người Chiêm Thành về cách làm mắm? Bằng chứng, phía ngoài Bắc chỉ rành về tương. “Dưa La, cà Láng, nem Báng, tương Bần, nước mắm Vạn Vân, cá rô Đầm Sét”. Suy nghĩ này có đúng không? Sự cách biệt văn hóa thể hiện rất rõ nét trong nghệ thuật ẩm thực. Không rõ ông Tây bà đầm nếu chứng kiến cái cảnh người dân quê y “ăn mắm mút giòi”, họ sẽ có ấn tượng gì?
Trở lại với chuyện con mèo bị thương ở Hà Lan mà cô Trương Thị Diệu Đế đã chứng kiến. Lúc cô ôm mặt nức nở vì nhớ đến thân phận nguời nghèo ở quê nhà thập niên 1980, có bà cụ người Hà Lan đến gần đặt tay trên vai an ủi. Bà cụ nói gì? Bà cụ nói rằng: “Maak je maar geen zorgen over de poes, hij wordt goed verzorgd en wordt vast wel weer beter" (Thôi con đừng lo lắng cho con mèo nữa, nó đã được săn sóc chu đáo và chắc chắn là nó sẽ khỏe ra).
Thế đấy!
Ôi đời!
Đọc mẩu chuyện nhỏ ấy, tự dưng lại liên tưởng đến những chuyện khác. Mà thôi, đã cuối năm rồi hãy nghĩ đến những gì nhẹ nhàng, tươi tắn có phải hơn không?
Xin hoan nghênh và hoàn toàn nhất trí.
L.M.Q
QUÂN DỤNG PHIẾU CỦA CỤ PHAN BỘI CHÂU (DO BÁO ANTG XUÂN 2015 CÔNG BỐ)
Đã sắp Tết. Đã phát hành lai rai báo Xuân. Đã dự nhiều cuộc liên hoan, tổng kết cuối năm. Đã ngày tháng vẫn còn đủ sức đánh đu cùng bài vở chuẩn bị cho các số mới. Mỗi một ngày vẫn thế. Đọc báo Xuân loáng thoáng. Chưa có thời gian đọc kỹ. Dừng lại với tờ An Ninh Thé Giới Xuân 2015, chú ý bài viết về nhà sưu tập người Mỹ Howard A.Daniel.
Đọc xong, nghĩ rằng, những hiện vật trong trời đất, nếu có duyên thì gặp, bằng không chỉ là không. Những gì của mình ắt của mình, cho dù cho chìm nổi ở tận chân trời góc biển nào. Ông Howard A.Daniel đã sở hữu một hiện vật liên quan đến cuộc đời của một Con Người “lấy sóng gió làm gối, lấy sương tuyết làm cơm”: Chí sĩ Phan Bội Châu.
Bài báo này cho biết, vào năm 1970 tại hội chợ đấu giá tiền tổ chức ở Hồng Kông, Howard A.Daniel nhìn thấy hiện vật độc nhất vô nhị nằm trong phần tiền Trung Quốc. Linh tính mách bảo không phải tiền Trung Quốc mà của Việt Nam. Quả nhiên, nhờ chữ có “An Nam” in trên tờ giấy đó. Là dân sưu tập chuyên nghiệp, lõi đời, Howard A.Daniel thừa biết đây là báu vật mà ông và các đồng nghiệp chưa hề nhìn thấy bao giờ. Giá bán khởi điểm 65 USD, ông muốn mua ngay với số tiền gấp mười lần. Tuy nhiên một người bạn đứng gần khẽ bảo không nên vội vàng, vì như thế, thiên hạ sẽ chăm chú, tìm hiểu giá trị của tờ giấy này. Và sẽ đẩy giá lên rất cao. Chi bằng cứ tỉnh bơ xem sao. Cuối cùng, ông đã sở hữu với giá chỉ 85 USD.
Đó là tờ Quân dụng phiếu do tổ chức cách mạng của Phan Bội Châu in năm 1912. Về sau, có nhà sưu tập người Việt ở hải ngoại sẵn sàng mua lại với giá 10 ngàn USD nhưng ông từ chối.
Trong lịch sử nước nhà, Hồ Quý Ly là người đầu tiên có sáng kiến in tiền giấy. Và trong lịch sử cận đại, người tiên phong in tiền giấy lần thứ 2 chính là Phan Bội Châu. Do đó, hiện vật này có một vị trí đặc biệt quan trọng là vậy. Theo bài báo cho biết: “Mặt trước của tờ Quân dụng phiếu, phía trên có in quân kỳ Việt Nam Quang phục hội, chính giữa in hình chiếc xe lửa và dòng chữ in bằng hai thứ tiếng Hoa - Pháp”. Kiểm tra lại hình ảnh in trên báo, thấy miêu tả đúng.
Tuy nhiên ngờ ngợ với một thông tin. Bài báo này cho biết: “Mặt sau ghi bằng tiếng Hoa nội dung: “Loại giấy bạc này được Cục Kho bạc phát hành để đáp ứng nhu cầu chi trả các chi phí quân sự của quân đội và lưu hành tương đương với đồng bạc đô la mà không có sự chênh lệch về tỷ giá. Loại tiền này có các mệnh giá 1, 5, 10 và có thể quy đổi tại ngân hàng và các công ty được chỉ định bởi Cục kho bạc. Chúng được sử dụng như một loại tiền tệ chính thức ở những nơi mà quân đội đóng và cũng có thể dùng để đóng thuế. Bất kỳ người nào giả mạo, sử dụng gian lận hoặc từ chối chấp nhận loại tiền này sẽ bị phạt theo mức tối đa của pháp luật quy định. Sắc lệnh lưu hành loại tiền này được ban hành bởi Tư lệnh Lực lượng Hải quân và Cục trưởng Cục Kho bạc”.
Ơ hay, hải quân hải quyết gì ở đây? Thông tin này, có thật vậy không? Tiếc bài báo không in mặt kia của tờ Quân dụng phiếu nên không thể kiểm tra.
Vậy phải làm cách nào? Sáng nay, lục tung lại sách vở, tìm đọc Phan Bội Châu niên biểu xem sao? Sự kiện này, cụ Phan cho biết: “Quân dụng phiếu chia ra 4 loại, mặt trước hàng trên viết chữ “Việt Nam Quang phục quân dụng phiếu”, hàng giữa viết số tiền bằng chữ lớn “Ngũ nguyên, thập nguyên, nhị thập nguyên, bách nguyên”, bốn góc cũng viết chữ số như thế, mặt sau viết hai thứ chữ Hán và Quốc ngữ: “Phiếu này do lâm thời quân chính phủ của Việt Nam Quang phục quân phát hành, đổi lấy thực ngân, đợi sau này chính phủ dân quốc chính thức thành lập, sẽ đem thực ngân đổi lại và trả lại gấp đôi, cấm không ai được làm giả, người nào trái lệnh sẽ bị trừng phạt”, dưới ký tên Phan Sào Nam, người kiểm phát là Hoàng Trọng Mậu. Phiếu in bằng điện rất tinh xảo không khác gì giấy bạc Trung Hoa”.
"In điện" có thể hiểu in bằng máy móc chứ không phải thủ công. Thông tin của cụ Phan đáng tin cậy hơn. Cụ viết Phan Bội Châu niên biểu vào năm 1929, tức chưa xa sự kiện trên nên không thể bảo cụ nhớ sai, hơn nữa, cụ còn là người trong cuộc. Nhân đây nói luôn, người hiến kế cho cụ Phan là ông Tô Thiếu Châu, đảng viên Cách mạng Trung Quốc. Quân dụng phiếu đã phát hành tại hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây (Trung Quốc) và cả trong nước. Ngoài ra, Việt Nam Quang phục hội còn “chế ra quốc kỳ Việt Nam lần đầu tiên” (chữ dùng của cụ Phan). Quốc kỳ thế nào? Cụ Phan cho biết: “Nước ta trước kia chỉ có cờ Hoàng đế mà không có quốc kỳ cũng là một sự lạ; lúc ấy mới định dạng quốc kỳ dùng kiểu ngũ tinh liên châu (một chuỗi 5 ngôi sao), vì nước ta có 5 bộ phận lớn, dùng kiểu này để tỏ ý 5 bộ phận lớn liên lạc thống nhất, sắc cờ dùng nền vàng sao đỏ làm quốc kỳ, nền đỏ sao trắng làm quân kỳ: vàng là để biểu hiện giống người nước ta, đỏ để biểu hiện nước ta ở phương Nam thuộc về hỏa, hỏa là sắc đỏ; sắc trắng thuộc về kim, chủ của việc sát phạt nên dùng làm sao của quân kỳ” (xem Văn học Việt Nam thế kỷ XX - NXB Văn Học- 2001). Thử hỏi, khi cụ Phan viết, "nước ta có 5 bộ phận lớn", có thể hiểu lúc đó Liên bang Đông Dương thuộc Pháp ngoài ngoài Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ còn có cả Cambodia và Lào.
Sở dĩ báo Xuân nào cũng có nhiều bài hay, đáng đọc nhưng chọn chi tiết về Quân dụng phiếu đưa vào Nhật ký bởi lẽ, thông tin này mới mẻ, đáng quan tâm. Tư liệu này có gì quan trọng? Đọc lại các tập như 100 năm tiền giấy Việt Nam (NXB Trẻ, Hội Tem TP.HCM - 1994), Lịch sử tiền tệ Việt Nam (NXB Văn hóa Sài Gòn - 2010) của Nguyễn Anh Huy… cũng không trưng ra được hiện vật này. Và chắc chắn Bảo tàng Lịch sử Việt Nam cũng không lưu giữ được. Nếu hiện vật Quân dụng phiếu của cụ Phan Bội Châu do Howard A.Daniel sở hữu được các nhà nghiên cứu sử tiếp cận, có lẽ sẽ giúp ích nhiều hơn nữa cho bạn đọc.
Mà thôi, nghĩ ngợi làm gì. Âu cũng là cái duyên đó thôi.
Đọc hồi ký của nhà sưu tập Vương Hồng Sển nhớ mãi chi tiết này, đại khái, khoảng thập niên 1960, cụ được mời dạy học ở ngoài Huế. Nhân đó, những ngày ở Huế, cụ biết có người muốn bán một món đồ cổ (nếu nhớ không lầm người bán có tên ngộ nghĩnh là Khóa Ổi). Nhìn hiện vật, cụ thích lắm nhưng ngặt nổi chủ nhân hô giá quá cao. Cụ muốn mua, phải mua cho bằng được, nhưng vẫn làm “cứng” cò kè bớt một thêm hai. Chủ cũng không phải tay vừa. Vì thế, cứ chần chừ mãi. Sau khi về Sài Gòn, cụ lại nhờ người thỉnh thoảng đến thăm dò món ấy đã bán chưa? Chưa à? Thế là cụ yên tâm. Rồi vài lần sau ra Huế, cụ lại tìm đến, lại trả giá, lại mân mê, sờ soạt, ve vuốt cho thỏa lòng nhưng cũng chẳng đi tới đâu. Rồi quay về Sài Gòn là nhớ, là ước ao phải mua cho bằng được. Chỉ có mua được món ấy thì ngủ mới yên giấc, bằng không cứ trằn trọc mãi, chỉ sợ lọt vào tay người khác thì tiếc hùi hụi. Cuối cùng, cụ quyết định mua. Khi ra Huế, đến nhà Khóa Ổi, cụ tưởng như đất lún dưới chân, như sét đánh ngang tai: món đồ cổ ấy đã bán rồi! Cụ dậm chân kêu trời, tưởng chừng có thể chết đi được. Vậy phải làm sao đây hở trời? Suốt mấy ngày liền cụ thẩn thờ, tiếc đứt ruột. Về lại Sài Gòn, cụ dò hỏi mọi cách, phải tìm cho ra chủ nhân đã mua món đồ cổ ấy. Cuối cùng, cụ tìm ra và mua lại được. Tất nhiên, mua với giá cao hơn của Khóa Ổi đưa ra. Dù vậy, cụ cũng hài lòng vì cuối cùng, vật quý cũng về tay mình.
Âu cũng là cái duyên đó thôi.
Hiểu thế để hài lòng với những gì đang có. Nếu không, đôi lúc đi trên đường tình cờ thấy cô nàng con nhà giàu, học giỏi, mắt bồ câu, mũi dọc dừa, sắc nước nghiêng thành nhưng lại cập kè với thằng cha cực kỳ cùi bắp. Và ngược lại. Nhìn cảnh ấy chõi mắt quá! Tiếc quá đi mất! Tự dưng lại thấy tiếc! Buồn cười chưa? Vô duyên chưa? Chữ “duyên” này khác với: “Còn duyên kẻ đón người đưa / Hết duyên đi sớm về trưa một mình”. Thôi thì kể ra chuyện này cho nó nhẹ lòng. Chuyện rằng, mấy hôm nay hễ đi ngang qua con đường đó, nhớ lại chuyện đó là cứ tức anh ách. Chuyện gì vậy? Chuyện rằng, hôm đó tình cờ đi đi ngang qua đó thấy mấy bà bán ve chai đạng tụ năm tụm ba. Như thói quen, y dừng xe, sà đến xem có bán sách báo cũ gì hay không. Trời ơi, ngày hôm đó, lúc đó, không thể tin trước mắt y là những bộ Bách Khoa đóng bìa cứng nằm ngổn ngang. Y mừng rú như bắt được vàng. Sờ tay vào túi quần, có tiền. Vậy yên tâm. Mừng ơi là mừng. Nếu đổi cái mừng này để lấy trúng số độc đắc y cũng quyết không là không. Chả dại.
Nhưng than ôi. Ôi, than ôi. Lúc y hỏi mua, bà bán ve chai cho biết trước đó một phút đã bán cho người khác rồi. Y choáng váng. Tiếc quá đi mất. Trước y chỉ một phút, đã có người hỏi mua, nhưng do không đủ tiền, nhờ giữ lại, sẽ lấy sau. Vậy biết làm thế nào? Chẳng lẽ trả tiền cao hơn để giữ lấy như gợi ý của bà bán ve chai? Giá bán rẻ như bèo, mà dù có phải mua với giá cao gấp nhiều lần, y vẫn đủ sức. Vậy có nên không? Không. Ai lại làm thế. Người này vui ắt có người kia buồn. Do mình không có duyên nên không thể sở hữu. Nếu ma mãnh mua giá cao hơn, nhưng chắc gì sẽ giữ được mãi? Cứ tin cái gì của mình, tự nó sẽ tìm đến, bằng không cũng là không. Tự an ủi nhưng đến nay vẫn ấm ức mãi.
Thì ra, con người ta nhỏ nhen, ham hố, tham lam là thế.
Y đang nói về y đấy ư?
Vâng ạ.
L.M.Q
Đôi khi, có những lúc gặp những điều ngẫu nhiên khiến thấy vui một chút. Dù chỉ một chút thôi, trong thời buổi này, đã là nhiều. Sáng nay, xem giúp luận văn Thạc sĩ của một cô giáo trẻ dạy Văn ở Bình Dương. Góp ý thay đổi bố cục. Phải chịu khó viết lại lần nữa. Nhờ trang web www.leminhquoc.vn nên cô có email để liên hệ. Đề tài của cô là Thế giới tâm linh từ Truyện Kiều đến Lục Vân Tiên”. “À, anh tưởng em sinh viên chứ?”. “Không em đã đi dạy rồi”. Cô kể rằng, trước đây, trong lúc tuyệt vọng, nhờ đọc bài thơ Đức tin nên cô đã có cái nhìn khác về cuộc đời. Bài thơ như thế nào? Cô đọc ngay:
Tôi dỗ tôi từng ngày
Gieo một niềm tin để còn hy vọng
Tin ẩn giấu dưới tro tàn
Vẫn còn lửa nóng
Tin sau bão giông chập chờn những sóng
Vẫn còn có cánh buồm đỏ thắm
Tin đi tôi ơi dù chiều đang xế bóng
Nếu bền lòng
Sẽ gặt được nắng mai
Tôi gieo niềm tin ngay dưới gót giày
Đi tìm em, sẽ gặp
Gieo lên niềm tin nào khác gì nhìn những ngôi sao trên nền trời xa tắp
Dù rất xa nhưng cũng rất gần
Ngôi sao kia là đôi mắt em tròn
Là cúc áo trên chiếc áo mỗi ngày em mặc
Tôi lại mặc áo em
Để níu lại thời gian dù đang xa cách
Tôi bền lòng gieo lấy niềm tin
Dỗ mình hãy yêu đời để sống
Làm thơ như trẻ thơ chạy trên thảo nguyên
Những vần thơ lót dưới gối em nằm
Ta gối tay nhau
Ta thở cho nhau
Ta sống cho nhau
Mơ về môt giấc mơ bình dị dưới mái nhà
Nơi ấy không có chỗ cho thay lòng đổi dạ
Bài thơ nghe quen quen. Không nhớ đã đọc nơi nào, lúc nào nữa. Nhưng rõ ràng rất quen. “Anh không nhớ đây là bài thơ của anh à?”. Đúng vậy, y chẳng hề nhớ đã làm lúc nào. Đã in ở báo nào. Trước kia, mỗi lúc làm thơ thường ghi trong sổ tay. Bài thơ nào đã in trên báo, cắt dán giữ lại cẩn thận. Dần dần thói quen ấy đã mất. Cứ ỷ còn lưu trong máy tính. Cứ ỷ đã giữ lại tờ báo. Rồi thỉnh thoảng máy hư. Rồi sách báo trong nhà ngày một nhiều. Vì lẽ đó, khó có thể nhớ những bài thơ nào đã viết, đã in. Chẳng thể nào nhớ nổi. Rồi sau này còn có thói quen viết trực tiếp trên máy, email đến tòa báo luôn nên khó có dịp đọc lại bản thảo. Bài thơ Đức tin là trường hợp như thế. Y đã quên. May còn có người chép lại. Cô tặng lại bản viết tay đã giữ gìn cẩn thận chừng mươi năm trước. Vâng, thơ chẳng là gì trong thời buổi này, nếu giúp ích cho ai đó lúc ngã lòng cũng là cái duyên giữa tác giả và bạn đọc. Vậy là đủ.
Cuộc đời, đôi khi cũng có những bất ngờ như thế. Còn gì bất ngờ hơn, ngày chủ nhật vừa rồi, Nàng kể câu chuyện có thật mà báo chí phương Tây đã đưa tin. Rằng, ngày nọ có một chiếc máy bay bị rớt trong rừng già, cả thẩy đều bỏ mạng. Duy chỉ có đứa trẻ lên mười may mắn sống sót, bé lầm lũi vượt qua mọi cánh rừng, đi qua mọi trở ngại và tìm đến một ngôi nhà trong làng báo tin. Nhờ đó, mọi người mới phát hiện ra nơi máy bay bị rơi. Tại sao xẩy ra điều kỳ diệu đó? Đó không phải là kỹ năng sống. Đứa bé chưa được ai dạy phải ứng phó thể nào trước tình huống xấu đó, thế nhưng, tại làm sao cháu có thể hành động như một người đã trưởng thành? Càng ngày càng tin vào câu nói: "Phúc cho ai không thấy mà tin".
Công việc mỗi ngày cũng thế. Đã có thông tin về giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2014: Giải Văn xuôi: Tiểu thuyết tư liệu lịch sử Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75 của nhà báo, nhà văn Trần Mai Hạnh; Giải Thơ: Tập Trường ca ngắn, kịch thơ của Nguyễn Thụy Kha; Giải Lý luận Phê bình: Trăm năm trong cõi của Phong Lê, Thơ Việt Nam hiện đại, tiến trình và hình tượng của Nguyễn Đăng Điệp; Giải văn học dịch: Cuộc chiến đi qua của Kanta Ibragimov do Đào Minh Hiệp dịch.
Gần một tháng nay, mạng Internet trục trặc quá. Hầu hết các email gửi về địa chỉ gmai không sử lý được. Sáng nay, đơn vị điều hành tuyến cáp quang biển quốc tế châu Á - Thái Bình Dương (Asia America Gate Wat - AAW) cho biết việc kết nối Internet đi quốc tế đến các dịch vụ nước ngoài sẽ trở lại bình thường vào ngày 24.1.2015.
Lâu nay, tình hình Internet Việt nam thế nào? Báo Sài Gòn tiếp thị sáng nay cho biết: “Theo báo cáo thực trạng Internet toàn cầu trong quí 3-2014 nhà cung cấp dịch vụ công nghệ thông tin Akamai Technologies (Mỹ), tốc độ Internet Việt Nam gần chậm nhất khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Riêng tại ASIA, tính trong 6 quốc gia có thống kê là Việt Nam, Philippines, Thái Lan, Singapore, Malaysia và Indonesia thì tốc độ đường truyền Internet tại Việt Nam đang “đội sổ” dù theo xếp hạng toàn cầu, Việt Nam hiện xếp trên Philippines bốn bậc (101 so với 105)”.
Về vấn đề này, Thời báo Kinh tế Sài Còn cho biết ý kiến của các chuyên gia: “Tốc độ kết nối internet của các quốc gia nhanh hay chậm tỉ lệ thuận với sự phát triển kinh tế của các quốc gia đó. Vì kinh tế phát triển thì các doanh nghiệp mới có nhiều tiền để đầu tư cho cơ sở hạ tầng mạng internet. Do kinh tế Việt Nam kém phát triển hơn các quốc gia trong khu vực nên tốc độ kết nối internet của Việt Nam chậm hơn các nước là điều tất yếu”.
Mấy đêm nay, đọc lại Giai thoại hồng của Hồ Trường An in ở Mỹ năm 1989. Có những từ quen thuộc của miền Nam, nay hầu như ít ai sử dụng: kiểu tóc demi garcon, nhiễm, trổ mã, xệ (nghĩa như mắc cỡ, xấu hổ), bà chị cứng đầu của tôi nã cho tôi một tràng “rốc kết”, tôi còn kẹt bên hội, nấu rề sô đốt bằng dầu hỏa, ba tôi đến thăm bị chị quạt phải dội ngược trở ra, hách xì xằng, đi picnic, viết feuilleton cho nhựt báo, đừng có théc méc, cô ta đang chạy chọt gì đây, chẳng ra cái thá gì hết, họ cho de, buồn ơi bỏ qua đi Tám v.v.. Quyển này viết về kỷ niệm với các nữ nhà văn, nhà thơ tên tuổi trên văn đàn miền Nam trước 1975. Nay hầu như chẳng còn ai nhớ đến. Tự nhiên bùi ngùi cảm thương mấy thế hệ cầm bút: Nguyễn Thị Vinh, Trần Thị Tuệ Mai, Linh Bảo, Minh Đức Hoài Trinh, Vân Trang, Minh Quân, Thanh Phương, Phương Đài, Quỳnh Hương, Tuệ Nga, Như Hiên, Hương Khuê, Hoàng Hương Trang, Lê Thị Ý, Thanh Nhung, Trùng Dương, Nhã Ca, Dung Sài Gòn, Túy Hồng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Đỗ Phương Khanh, Lệ Hằng v.v… Sách của các tác giả này đến lúc nào đó cũng có thể được tái bản lại chăng? Chắc chắn thế. Nếu thật lòng ''gạn đục khơi trong" thì không gì là không thể.
Chiều này, có dịp gặp vài bạn bè nhân Hội Xuất bản Việt Nam ở phía Nam tổ chức họp mặt cuối năm "Những người bạn của Hội".
L.M.Q
Bút tích nhạc sĩ VŨ HOÀNG
Sáng nay, cùng anh B đến Bệnh viện 115 thăm nhạc sĩ Vũ Hoàng. Anh bị đột quỵ chiều tối thứ 6 tuần rồi. Sực nhớ lại một kỷ niệm cũ: Khoảng cuối thập niên 1980 của thế kỷ trước, Vũ Hoàng bắt đầu được biết với ca khúc Hương thầm (phổ thơ Phan Thị Thanh Nhàn). Lúc bấy giờ, y vừa ra trường và bắt đầu bước vào nghề báo, cộng tác với nhiều tờ báo. Ngày kia, nhà văn Trần Thanh Tâm giao đi viết bài phỏng vấn Vũ Hoàng. Bấy giờ, anh Tâm đang làm tờ Bản tin Quận 6 và nhận “thầu” tờ Tuổi 18 - ấn bản phụ của tờ Tây Ninh thuộc cơ quan Đảng bộ Tây Ninh. Tờ Tuổi 18 ra đời phù hợp với xu thế báo chí lúc ấy. Sau một thời gian dài, chỉ đọc các tờ báo “chính thống” với tin tức chính trị - xã hội khô khan thì nay đã có những tạp chí chỉ thuần về giải trí, làm đẹp, tình yêu, hôn nhân, nấu bếp... nên cực kỳ “hút” khách. Còn nhớ tạp chí Hãy nuôi dưỡng tình yêu - phụ trương của báo PN mỗi lần in đến vài trăm ngàn bản. Cũng như Hãy nuôi dưỡng tình yêu, tờ Tuổi 18 đều do nhạc sĩ Từ Huy trình bày. Lúc ấy, trình bày đơn giản, ngoài bìa chỉ hình nữ diễn viên hoặc nữ sinh mặc áo dài trắng, đi xe đạp hoặc người đẹp cầm hoa, cười tươi roi rói là được. Do đáp ứng nhu cầu giải trí, bàn về chuyện đời thường thiết thực, hình ảnh đẹp nên hầu hết các tờ phụ san đều bán chạy.
Từ Tuổi 18 dưới sự chỉ huy của anh Tâm, một loạt sinh viên mới ra trường sau này đã trở thành nhà báo chuyên nghiệp như Hữu Bảo, Trần Kim Sơn, Lê Khắc Cường…, tất nhiên có cả y nữa. Nhận lời phân công của anh Tâm, y đạp xe cọc cạch đến Nhạc viện, ngồi ngay quán cóc lề dường Nguyễn Du thực hiện bài viết về Vũ Hoàng. Tiếc không còn giữ bài báo này. Dần dần mối thân tình ngày một đầy và y cũng bắt đầu có tác phẩm xuất bản. Rồi trong một cuộc trò chuyện, không nhớ ai đề xướng, hình như Nguyễn Văn Hiên thì phải, anh em đồng tình bắt tay thực hiện chương trình “Thơ nhạc vòng quanh Ký túc xá”. Cứ mỗi cuối tuần luân phiên đến các Ký túc xá thực hiện chương trình văn nghệ, thành phần gồm có nhạc sĩ Nguyễn Ngọc Thiện, Vũ Hoàng, Nguyễn văn Hiên, Thế Hiển…; nhà thơ có Nguyễn Thái Dương, Trương Nam Hương, Đoàn Vị Thượng, Lê Thị Kim, Lê Minh Quốc… Thời đó, còn trẻ nên còn sung. Có bài báo y đã viết đăng báo PN, không nhớ số nào, kể lại chuyện các em sinh viên leo lên cây nghe thơ, nhạc do hào hứng quá, vỗ tay nên... rớt té ạch đụi! Bây giờ chắc nhiều người tưởng bịa, nhưng sự thật là thế. Thời ấy, đời sống còn thiếu thốn lắm, không có gì giải trí vào cuối tuần nên anh em nhạc sĩ, nhà thơ đến Ký túc xá làm chương trình văn nghệ là cả ngàn sinh viên tham dự.
Thoáng đó đã xa. Sáng nay, nhìn “lão” Vũ Hoàng mà nản. Mấy tháng trước anh điện thoại cho biết sắp in một tuyển tập nhạc và có nhờ anh em viết giúp đôi lời cảm nhận, in trong sách như kỷ niệm bạn bè. Y nhận lời. Nhận email các ca khúc của anh đã sáng tác, bỗng giật mình. Anh viết nhiều đề tài. Cả hàng trăm ca khúc đã phổ biến. Lúc đó, y viết rằng:
“Nhạc sĩ Vũ Hoàng đã thuộc về tuổi trẻ.
Tuổi trẻ một thế hệ và nhiều thế hệ chắc chắc vẫn còn nhớ đến nhiều tình khúc đã từng say đắm lòng người. Vẫn còn nhớ đến những ca khúc thắp lửa sức sống sinh viên và các giai điệu lúc hào hùng, khi trầm lắng viết về quê hương, đất nước... Trên cung bậc của sáu sợi dây đàn đã gắn kết với một số phận tài hoa, Vũ Hoàng hầu như đã chạm đến nhiều đề tài khác nhau.
Một sự nghiệp có chiều sâu, bề dầy của Vũ Hoàng đã phản ánh một quá trình lao động bền bĩ theo năm tháng. Muốn được như thế, chắc chắn từ trong sâu thẳm của tâm hồn, Vũ Hoàng phải sống cùng, sống với những cảm xúc có thật để thăng hoa thành nhạc. Trong nhạc có thơ, có lúc anh phổ thơ bạn bè, có lúc những dòng thơ của anh đã tung tăng trên phím đàn.
Người nhạc sĩ ấy, khi nhìn lại một chặng đường đã đi qua của anh, tôi đã thấy tựa cánh chim sải cánh bay giữa trời mà không gì có thể xóa được dấu tích ấy. Bởi lẽ âm nhạc anh đã và còn ngân nga mãi trong trí nhớ của nhiều thế hệ”.
Bây giờ nhìn thấy anh trên giường bệnh. Nản quá. Mà ai ai cũng có lúc thế thôi. Đời người cũng chán. Đời sống của một tác phẩm nghệ thuật cũng chán nốt. Khó có thể nói trước điều gì. Trong Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan ghi nhận trường hợp: “Hiện nay nhà văn mà được nam nữ thanh niên yêu chuộng, được họ coi là người hiểu biết tâm hồn họ hơn cả, có lẽ chỉ Khái Hưng… Khái Hưng là văn sĩ của thanh niên Việt Nam cũng như Alfred de Musset là thi sĩ của thanh niên Pháp thuở xưa”. Cha đẻ của Chí Phèo không được chọn đưa vào Nhà văn hiện đại, thế nhưng bây giờ đọc lại Nam Cao vẫn còn thấy hấp dẫn, hiện đại. Một tác phẩm văn học, có thể hôm nay nhiều người tìm đọc, qua ngày mai thiên hạ đã quên béng. Vẫn biết thế. Mà chẳng gì ngại. Cứ viết. Viết như một thú vui ở đời. Chẳng ham hố gì. Có như thế, mới có thể viết lặng lẽ mỗi ngày.
Thế thì cứ viết ư?
Sáng nay, trên dương đi tình cờ nghe anh B buột miệng nói một câu vu vơ mà lạnh cả người: “Chữ nghĩa nó phản như chơi”.
Thật thế, có đôi lúc người ta lại viết sai một cách kỳ lạ. Không thể hiểu nổi. Đọc bài báo nọ, cũng sáng nay, anh bạn nhà văn N điện thoại bảo: “Đường Phan Thanh Giản nay đường Điện Biên Phủ; đường Trương Minh Giảng mới là Lê Văn Sỹ”. Chi tiết này, ai cũng biết nhưng đôi khi lại viết sai một cách lảng xẹt. Cũng có thể trong đầu nghĩ thế này, nhưng lúc đặt bút lại viết thế kia. Chính người viết chẳng rõ lúc ấy “ma đưa lối, quỷ đưa đường” thế nào lại nhầm. Còn nhớ tờ báo nọ đã rút tít thế này: “Hôm nay đã dời chợ chó X”. X là tên nhân vật lịch sử. Oái oăm chưa? Khi viết, cứ viết một cách tự nhiên chứ chẳng hàm ý xỏ xiên gì. Lẽ ra phải là "Hôm nay đã dời chợ chó đường X ". Bản thảo qua nhiều khâu biên tập, nhưng rồi vẫn “lọt lưới” như thường. Có ai chịu khó hỏi han các nhà báo về những sai sót “chết người” trên mặt báo ắt ghi nhận được nhiều chuyện dở khóc, dở cười. Cái trò chữ nghĩa đôi khi nó lạ lùng đến vậy. “Chữ nghĩa nó phản như chơi” cũng là một cách giải thích chăng?
Trong tuần này, mọi việc hầu như đã giải quyết sắp xong. Có 2 việc phải tư vấn, hướng dẫn đề tài tốt nghiệp ra trường giúp 2 em sinh viên đồng môn: “Vấn đề nữ quyền từ Nữ giới chung đến Phụ nữ tân văn”; “Thế giới tâm linh từ Truyện Kiều đến Lục Vân Tiên”. Đề tài hay. Có thể giúp được gì đây? Để rồi xem. Nghĩ cho cùng, trên đời này, đáng quý nhất trên đời vẫn là những ai cần mẫn làm việc mỗi ngày. Kiếm sống bằng nghề nghiệp lương thiện. Vẫn biết thế, nhưng rồi lại tự trách rằng, dạo này y lười đi xa quá. Một phần công việc bề bộn, lúc bài vở khi họp hành ở cơ quan nên cứ nấn ná, chần chừ rồi từ chối nhiều lời mời. Hôm thứ 6 vừa rồi anh em có về Vĩnh Long đưa ma mẹ vợ của nhà văn Nguyễn Đông Thức. Không đi được. Cả một ngày bận rộn nên không thể.
Anh B kể, chuyến đi đó, có nghe được câu này: “Trẻ làm ma, già làm hội”. Có thể hiểu khi một người chết trẻ, gia đình, xóm giềng làm tang ma thương xót; còn một người sống đã thọ khi được về cõi trên thì con cháu, láng giềng làm hội tiễn đưa vui vẻ. Quan niệm này hay, thiết thực quá. Có phải chỉ ở Nam bộ mới có câu này hay các vùng miền khác cũng thế? Thử lật quyển Kho tàng tục ngữ Việt Nam (NXB VHTT- 2002) tra cứu thử xem. Cả 2 tập, dày 2.946 trang, tiệt nhiên không hề ghi nhận câu: “Trẻ làm ma, già làm hội”. Lật thêm các quyển từ điển khác về thành ngữ, tục ngữ khác cũng không có nốt.
Thế mới biết đời sống bên ngoài phong phú, đa dạng, tươi mới biết chừng nào. Trong khi đó, y chỉ là công chức “sáng vác ô đi, tối vác về”. Nghĩ mà chán cho y. Đời sống ngoài kia mới là chất liệu sống quý báu cho trang viết, chứ nào phải tầm chương trích cú mỗi ngày.
Nhớ chưa?
Vâng, xin nhớ.
L.M.Q
Khác với lịch làm việc lâu nay, hôm nay ngày thứ Bảy nhưng vẫn ra khỏi nhà. Đi ăn sáng. Thông thường những ngày cuối tuần, không phải phân tâm với công việc hành chánh, ở nhà làm việc vẫn tốt nhất. Nhưng rồi, đôi khi cũng phải có sự thay đổi một chút. Chẳng ai có thể sống theo sở thích của riêng mình. Đường phố vắng hơn mọi ngày. Thời gian trôi qua nhanh. Những câu chuyện tâm tình. Đời sống đôi lúc cũng cần như thế. Chẳng lẽ mỗi ngày, từng ngày lại leo núi mãi sao?
Vẫn biết thế, vì biết nên mới tự dặn dò rằng: Có một người nuôi con cá rất đẹp trong bầu bằng thủy tinh, mỗi ngày ông ta bỏ vào trong đó một ít đất. Mỗi ngày, đất mỗi nhiều thêm, nước ít dần đi. Con cá vẫn thích ứng và dần dần sống không cần nước. Trước đây, mỗi lần đi chơi, muốn khoe cá, phải xách theo cái bầu. Nay không cần nữa. Đã có thể dắt cá theo. Con cá chạy tung tăng trên đường phố. Vậy là ổn rồi chứ gì? Chẳng may, ngày nọ đang đi chơi, thình lình trời mưa to. Con cá sa xuống hố. Chết ngộp vì nước. Ăn chơi nhảy múa mỗi ngày, thích quá đi chứ? Đúng rồi. Chỉ sợ sau đó, khó trở lại với nhịp điệu làm việc của mỗi ngày.
Ăn sáng và đọc báo. Một thú vui có lẽ sẽ tồn tại dài dài. Khó có thể thay đổi. Chà, đài truyền hình quốc gia lại “sụp hố” vụ chương trình Điều ước thứ 7 VTV 3 - phát sóng ngày 10.1.2015: Anh chàng nọ được giới thiệu là sinh viên Học viện Âm nhạc quốc gia Việt Nam, con trai duy nhất trong gia đình, vượt qua định kiến của gia đình để kết hôn với cô gái nọ bị khiếm thị từ nhỏ. Họ sống bằng nghề hát rong và luôn mơ ước có ngày được đứng trên sân khấu chương trình Sao Mai - Điểm hẹn. Nuôi ước mơ đó, hai vợ chồng đã đặt tên cô con gái nhỏ là Sao Mai. Đại khái anh chàng này ở Thanh Hóa, đã vợ con đùm đề từ đời tám hoánh, nghỉ học từ cấp 2 chứ chẳng hề học viện nhạc nhẹo gì. Năm qua, đài truyền hình này cũng ầm ĩ bởi nhiều vụ khác, chẳng hạn, vụ truy tìm tuổi thật của cầu thủ bóng đá nọ bằng nhiều cách, kể cả về tận quê cầu thủ nọ quay luôn mộ em/ anh ruột để so tuổi thật (!?),rồi vụ “nhặt xương cho thầy” (!?)… gây phản cảm. Qua vụ Điều ước thứ 7, thấy gì?
Thấy rằng, đã đến lúc cần thay đổi một quan niệm ca ngợi về trị sống.
Lâu nay, người ta thường ca ngợi những hoàn cảnh thương tâm, tật nguyền, nghèo khó nhưng vẫn dám nuôi dưỡng ước mơ hướng đến sự hoàn thiện. Điều này tốt quá. Nhưng chẳng lẽ chỉ có thế? Thử nghĩ, một gia đình giàu có, nuôi con ăn học thành tài có đáng ca ngợi không? Đáng quá đi chứ. Thông thường do mải mê làm giàu nên bố mẹ tỷ phú ít quan tâm đến con cái, họ chỉ nghĩ có tiền lo cho con là đủ. Nhưng ở đây họ vẫn có thể vừa làm giàu, vừa chu toàn cho con cái. Sao lại không đáng khen? Hơn nữa bản thân đứa trẻ sống trong gia đình giàu có, tự nó còn phải ý thức vượt qua biết bao cám dỗ khác về tiện nghi, vật chất, sự nuông chiều v.v… Cũng đáng khen nữa. Trong khi đó, giới truyền thông vẫn thèm thuồng khai thác cho bằng được những hoàn cảnh thương tâm nhằm tạo sự xúc động, lấy nước mắt công chúng.
Do quan niệm một chiều ấy, thỉnh thoảng lại thấy vài đài truyền hình bị hố khi đưa tin không đúng sự thật vốn có vì muốn "thêm mắm thêm muối" ly kỳ hơn, bi thảm hơn. Có như thế mới đáng ca ngợi (!?). Còn nhớ vụ cô Lượm ở Huế trên chương trình Người xây tổ ấm trên VTV 1 - có nhà có cửa, có cha có mẹ đàng hoàng nhưng "nhập vai" người mồ côi, vô gia cư, nuôi con bị tật bẩm sinh…; rồi vụ “tỷ phú Bìm” của nhà báo nọ, in trên tờ báo Xuân nọ đã bịa ra gương vượt khó làm giàu v.v… Chẳng nhất thiết phải là những hoàn cảnh éo le, thương tâm, nghèo khổ mà một người bình thường như hằng triệu người khác, nếu thành công gì gì đó cũng đáng ca ngợi. Cuộc sống muôn màu muôn vẻ. Cứ phản ánh tự nhiên như nói vốn có, cần gì phải thêm nghịch cảnh, bất hạnh mới khiến người khác khâm phục?
Lại nghĩ, đã đến lúc cần thay đổi một quan niệm ca ngợi về trị sống.
Lâu nay, giới truyền thông vẫn ca ngợi những tấm gương, tổ chức làm từ thiện. Điều này không sai, vì nó phản ánh tinh thần, đạo lý người Việt “lá lành đùm lá rách”, “bầu ơi thương lấy bí cùng”… Tuy nhiên, một xã hội có quá nhiều người, nhiều tập thể đi làm từ thiện đó là một xã hội không bình thường. Vấn đề đặt ra, tại sao sự phân hóa giàu nghèo lại ngày có khoảng cách đến thế? Nếu cứ chăm bẵm làm từ thiện mà không có biện pháp thay đổi nghịch lý đó, chẳng giải quyết được then chốt của câu hỏi đang đặt ra. Nếu cứ chăm bẵm làm từ thiện mà nếp nghĩ của từng cá thể không thấy xấu hổ trước nghịch lý giàu và nghèo thì thiện chí ấy cũng không là giải pháp tích cực. Một xã hội vận hành bình thường là không ai phải nhờ cậy sự trợ giúp của ai. Ông bà ta dạy: “Giúp ngặt chứ không giúp nghèo”. Tục ngữ Trung Quốc có câu: “Cho một người con cá, bạn nuôi người đó một ngày. Dạy người đó câu cá, bạn nuôi sống người đó một đời” (Tục ngữ Trung Quốc). Cần có chính sách "dạy nuôi cá" trong sự hoàn thiện của một cơ chế. Cần thay đổi nguyên nhân dẫn đến cái nghèo mới là giải pháp căn bản. Bằng không sự từ thiện ấy chỉ là "muối bỏ biển".
Do nghĩ như thế, cảm thấy buồn cười khi đọc trên báo đã có nhiều ý kiến cực kỳ ngộ nghĩnh. Chẳng hạn, cô ca sĩ nọ kêu gọi không nên ăn thịt chó, bớt nghiện facebook; hoặc quan chức nọ mong đêm khuya người đi đường vẫn dừng đèn đỏ v.v… Những ý kiến này quá sức ngộ nghĩnh, bởi nếu muốn giải quyết một vấn đề cụ thể không thể tách ra riêng lẻ mà phải đặt nó trong quan hệ chằn chịt của một sự vận hành chung. Khi Chí Phèo muốn làm người lương thiện trong cái xã hội của Bá Kiến, Nghị Hách, Nghị Quế, Đội Tảo, Năm Sài Gòn, Binh Tư… thì sự thức tỉnh ấy có trở thành hiện thực? Tất nhiên là không. Chỉ với câu nói này, Chí Phèo xứng đáng là tác phẩm có thể sánh với bất kỳ truyện ngắn hay nhất, có ý nghĩa nhất của nhân loại:
“Hắn vênh cái mặt lên, rất kiêu ngạo:
- Tao đã bảo là tao không đòi tiền.
- Giỏi! Hôm nay mới thấy anh không đòi tiền. Thế anh cần gì?
Hắn dõng dạc:
- Tao muốn làm người lương thiện!
Bá Kiến cười ha hả:
- Ồ tưởng gì! Tôi chỉ cần anh lương thiện cho thiên hạ nhờ.
Hắn lắc đầu:
- Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không? Chỉ có một cách... biết không! Chỉ có một cách là... cái này biết không?
Hắn rút dao ra xông vào. Bá Kiến ngồi nhỏm dậy, Chí Phèo đã văng dao tới rồi. Bá Kiến chỉ kịp kêu một tiếng. Chí Phèo vừa chém túi bụi vừa kêu làng thật to. Hắn kêu làng, không bao giờ người ta vội đến. Bởi thế khi người ta đến thì hắn cũng đang giẫy đành đạch ở giữa bao nhiêu là máu tươi. Mắt hắn trợn ngược. Mồm hắn ngáp ngáp, muốn nói, nhưng không ra tiếng. Ở cổ hắn, thỉnh thoảng máu vẫn còn ứ ra”.
Câu nói: “Ai cho tao lương thiện?” có ý nghĩa cho mọi thời đại, dù con người ta sống ở dưới gầm trời nào. Bi hài kịch cuối cùng mà nhân vật A.Q của Lỗ Tấn gánh lấy cũng chỉ mang sức khát đến thế là cùng.
Sáng nay, ăn sáng với Nàng, chăm chú với cái tin này in trên báo TT 17.1.2015, cần ghi lại: “Quyển sách Capital in the twenty - first century (Tư bản trong thế kỷ 21) của nhà kinh tế Pháp Thomas Piketty nói về bất bình đẳng giàu nghèo hiện nay - năm vừa qua được tạp chí Esquire gọi là “cuốn sách quan trọng nhất thế kỷ 21”, có ý nghĩa hơn cả phong trào “Chiếm đóng phố Wall”.Ông Piketty cảnh báo hố ngăn cách giữa người giàu và người nghèo đang đưa thế giới đến “kỷ nguyên vàng” của bất bình đẳng, đồng thời ông kêu gọi nền kinh tế lớn nhất là Mỹ hãy khắc phục vấn đề này.Cũng nên biết nhà kinh tế 43 tuổi này là người đã thẳng thắn từ chối đề cử nhận huân chương Bắc đẩu bội tinh của Chính phủ Pháp vừa công bố đầu năm nay. “Tôi từ chối đề cử này vì nghĩ rằng chính phủ không có quyền quyết định ai là người danh giá. Họ nên tập trung cải thiện tăng trưởng của Pháp và châu Âu thì hơn” - ông Piketty khẳng khái nhắn với chính quyền Paris thông qua giới truyền thông”.
Thái độ của Piketty là thái độ của kẻ sĩ. Đọc Chiến quốc sách, mới biết có Kẻ sĩ quân tử/ Kẻ sĩ tiểu nhân. Lỗ Trọng Liên, người nước Tề cho rằng: “Kẻ sĩ (quân tử) sở dĩ đáng quý ở trong thiên hạ là vì giải trừ được hoạn nạn, cởi bỏ được rối loạn mà không nhận một chút báo đáp nào. Nếu nhận sự báo đáp thì thành con buôn rồi”. Còn kẻ sĩ (tiểu nhân) thì sao? “Nằm thì nằm cùng, dậy thì cùng dậy, đi thì đi cùng, ngừng thì cùng ngừng, không cắn nhau. Nhưng ném cho chúng một khúc xương thì chúng vùng dậy mà nhe răng ra cắn nhau. Tại sao vậy? Tại tranh ăn”.
Thoáng đó, đã hết buổi sáng thứ Bảy rồi. Chẳng việc gì phải nghĩ ngợi linh tinh nữa. Làm thơ đi. Thì thơ vậy:
Ngày mai, ừ nhé. Mềm môi
Một góc phố. Một chỗ ngồi. Nến thơm
Nghiêng ly. Rượu đỏ như son
Thướt tha váy mỏng chập chờn nắng xanh
Đường dài đi đứng loanh quanh
Chẳng mấy chốc dốc bộ hành bước qua
Nhìn trong bốn cõi ta bà
Hương từ ngày cũ tà tà dậy men
Ngước nhìn bươm bướm bay lên
Nhụy hương in dấu rất mềm khó phai
Ừ thì, một chút lai rai
Một giọt rượu đỏ nguôi ngoay một ngày...
L.M.Q
Trang 29 trong tổng số 58