LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 29.6.2015


trang-hdinhnguyen

Trang facebook cá nhân của nhà báo Hà Đình Nguyên (Báo Thanh Niên)

 

Sáng thứ Bảy vừa rồi, dẫn chương trình cho buổi ra mắt tập truyện nắng Cỏ lau vạn dặm của nhà văn Tiểu Quyên. Không khí thân mật, ấm áp tình bạn. Sau đó cùng Hà Đình Nguyên, một vài nhà báo khác đến thắp nén nhang vĩnh biệt GS-TS Trần Văn Khê. Có một dòng chữ cực lớn, ấn tượng, nổi bật ngay linh đường tang lễ: “Thiên Nhạc Vinh Quy”. “Bốn chữ Thiên Nhạc Vinh Quy là chữ dùng của Thượng tọa Thích Lệ Trang (người chủ tế nghi thức an táng GS Khê theo di nguyện của ông). Bốn chữ này mang ý nghĩa Thiên tài âm nhạc quy tiên; hay Thiên tài âm nhạc đã trở về đất mẹ” (báo PL số 27.6.2015).

Ngày hôm qua, ngày Chủ nhật. Vẫn như mọi lần. Đôi lúc tự hỏi, mỗi ngày, bề bộn thông tin, chọn lấy tin nào?

Không còn trẻ, không còn cảm hứng hăm hở như thuở mới vào nghề. Mỗi ngày, có thể cần cù nhặt nhạnh từng thông tin đáng nhớ, tương tự Chuyện từng ngày của ông Đoàn Thêm. Loại sách hữu ích này, cần thiết cho đời sau nhưng mấy ai kiên tâm đeo đuổi? Đã không thể ghi chép đầy đủ, bình luận theo suy nghĩ riêng tư mà phải uốn éo, giả vờ nói vuốt đuôi, né tránh nhiều sự việc đã nghe, đã thấy, đã biết, đã nhận thức thì cách tốt nhất là gì? Là không nghe, không thấy, không biết.

Vì thế, Nhật ký chỉ có thể ghi chép những gì mà mình thích, đang lưu tâm. Thích gì? Thích mày mò, tìm hiểu ngữ nghĩa tiếng Việt. Nếu trẻ, còn trẻ, sẽ học hỏi, nghiên cứu sâu hơn, nay không còn thời gian. Chẳng mấy chốc sẽ quay về nơi hư không thăm thẳm. Làm gì có kiếp sau mà mơ với mộng. Ham hố làm gì nữa? Thôi thì, “gặp đâu xâu đó”, nói đùa tếu táo “không nở bề ngang cũng nở nang bề dọc”.

Báo TT ngày 25.6.2105, có bài tường thuật phiên làm việc của Quốc hội vào chiều ngày 24.6.2015. PV V.V.Thành ghi nhận ý kiến của đại biểu Đồng Hữu Mạo (Thừa Thiên - Huế), điều ngạc nhiên là ngay cả các văn bản Nhà nước cũng sử dụng tiếng Việt không chính xác: “Ví dụ trong Luật tổ chức chính quyền địa phương, dùng từ “chấp nhận” trong trường hợp đại biểu HĐND xin thôi nhiệm vụ, đúng ra phải dùng từ “chấp thuận”. Nghĩa là HĐND chấp thuận cho đại biểu xin thôi nhiệm vụ (vì lý do nào đó) chứ không phải là “chấp nhận”. Hoặc trong Luật kiểm toán nhà nước (sửa đổi) vừa thông qua, tại điều 27 quy định về miễn nhiệm kiểm toán viên nhà nước đã dùng cụm từ “bị miễn nhiệm” trong các trường hợp như khi bị kết tội bằng bản án của tòa án đã có hiệu lực pháp luật, vi phạm về phẩm chất đạo đức kiểm toán viên nhà nước... Ông Đồng Hữu Mạo cho rằng trong các trường hợp như vậy mà dùng cụm từ “bị miễn nhiệm” là không đúng. Luật cán bộ công chức đã định nghĩa “miễn nhiệm là việc cán bộ, công chức được thôi giữ chức vụ, chức danh”. Lẽ ra trong các trường hợp trên nên dùng từ “bãi nhiệm” (với hàm ý như là hình thức kỷ luật không được tiếp tục giữ chức vụ, chức danh - PV). Ông Mạo cho rằng dùng từ ngữ thiếu chính xác trong luật sẽ dẫn đến dùng sai trong xã hội và làm mất đi sự trong sáng của tiếng Việt. Do vậy, trong quy trình xây dựng pháp luật phải có bộ phận rà soát từ ngữ trước khi trình Quốc hội thông qua”.

Những chi tiết này, lý thú quá phải không?

Vâng, ạ.

Còn gì nữa?

Rằng, hôm chủ nhật ngồi với nàng kể chuyện ngày xưa ở quê ngoại có người đàn ông tên Xu, không vợ con, mỗi ngày gánh đậu hủ bán quanh xóm. Tiếng rao lanh lãnh “ai… đậu… hẩu… hôn…” mai mái giọng nữ, mọi người bảo “lại cái”, có thể hiểu “ái nam ái nữ”. Sực nhớ, trong tập sách tập Ngôn ngữ văn hóa vùng đất Sài Gòn và Nam bộ (NXB THTP.HCM - 2012) của người bạn ngày trước làm việc chung cơ quan là TS Lý Tùng Hiếu, ghi nhận: “Cùng với sản phẩm văn hóa, một loạt từ ngữ tiếng Chăm đi vào tiếng Việt ở Trung và Nam Trung Bộ, và lưu dân Việt chuyển tiếp vào Nam Bộ” (tr.61). Anh dẫn chứng, tiếng Chăm Ninh Thuận, Bình Thuận gọi “likay” để chỉ “đàn ông, nam, trai”, chính nó là nguồn gốc của “(đàn bà) lại cái” mà Nam Trung bộ đã sử dụng. Không những thế, anh còn liệt kê một loạt từ có mối quan hệ giữa tiếng Chăm và Nam Trung bộ, chẳng hạn:

ray: (vậy) > ri;

re ro: (rón rén, lân la, lò mò) > rị mọ;

rik: (cổ, xưa) > (cũ) rích;

têh (đó, nọ, kia) > tê;

ro ro (trơn tru) > ro ro;

palao (đảo, cù lao) > cù lao;

ke (ghe, bè, đò) > ghe;

lôi (bơi, lội) > lội

v.v…

Vậy hóa ra “lại cái” có nguồn gốc từ “likay” tiếng Chăm? Nghe thế, nàng bèn cười mà rằng: “Này anh, chẳng hạn, ngày Tết, bánh tét, bánh chưng đã nấu chính nhưng khi cắt ra ăn lại thấy từng hạt sống sít, ta gọi “lại gạo”. Xét theo nghĩa “lại cái” đã xử dụng, vậy “lại” trong “lại cái” / “lại gạo” có gì khác nhau đâu?” Biết trả lời thế nào? Thế là, dù trời đang mưa tầm tả, sấm sét đùng đùng, dù đang ngất ngưỡng men say, khề khà rượu đỏ, dù đang thèm thuồng mắt ngon môi đỏ nhưng vẫn quyết rời khỏi quán ăn, phóng xe quay về nhà… lật từ điển xem sao.

Việt Nam tự điển do Hội Khai Trí tiến đức khởi thảo (1931) ghi nhận “lại”, loại trừ các nghĩa khác, trong đó có nghĩa đang bàn, chẳng hạn, “lại mặt”: Tức là lễ nhị hỉ. Lễ làm sau hôm cưới, dâu rể về thăm nhà vợ: “Đám cưới chẳng tày lại mặt”; “Lại quả”: Nói khi đưa lễ sêu, lễ hỏi, lễ cưới nhà gái biếu lại nhà trai một phần lễ”. Với nghĩa trên, từ điển Huình Tịnh Paulus Của không hề ghi nhận. Thử hỏi, trong Nam có dùng từ “lại quả”? Từ điển từ ngữ Nam bộ của Huỳnh Công Tín cho biết: “Lại mâm: lại quả, tặng lại một phần lễ vật của nhà trai đưa đến”. A, nơi dùng “lại quả”; nơi dùng “lại mâm”. Tiếng Việt phong phú quá đi mất. Cứ thế, đôi bên cứ tranh luận nhì nhằng. Cuối cùng, nàng thỏ thẻ mà rằng: “Thôi, tùy anh. Miễn anh đừng “likay” là được”. Nàng vừa dứt lời, y lập tức knock-out ngay tấp lự. Đã bảo rồi mà không nghe, chớ dại tranh luận với người đẹp. Chớ dại.

Dù biết thế, nhưng rồi những lần gặp sau lại tiếp tục tranh luận. May quá, trưa qua cũng rượu đỏ tại một nhà hàng sang trọng trên đường Đồng Khởi. Bèn đố rằng: “Hiện nay có một từ mới nào vừa du nhập vào Việt Nam. Đố nàng, từ nào?”. Câu đố rất đỗi hàm hồ, vì nó không có sự khu biệt, giới hạn rõ rệt nào cả. May quá, do đang mơ màng cùng vị ngon beefsteak, cá chẽm đút lò nên nàng nhẹ nhàng lắc đầu. Y bèn buột miệng nói chắc chắn như đinh đóng cột: “Đó là từ Kiss cam”. Rồi vội vội vàng vàng chạy ra khỏi quán ăn, may quá, trời không mưa, bèn tìm mua ngay tờ báo TT số ra ngày 26.6.2015. Lật trang 11, thì thầm cùng nàng như đang đọc thư tình:

“Trên mạng xã hội những ngày qua, các bạn trẻ nói nhiều về một trò chơi mang tên Kiss cam xuất hiện trên đường phố...”. Nguồn gốc của trò chơi này, bài báo cho biết: “Từ những năm 1980, Kiss cam là một trò chơi xã hội diễn ra trong các sân vận động thể thao của Mỹ và Canada. Nó như một trò tiêu khiển nhẹ nhàng trong thời gian chờ trận đấu, chờ truyền hình lên sóng hoặc bù đắp thời gian chết. Một camera lướt qua khán giả, và dừng lại ở người nào thì người đó sẽ hôn người bên cạnh, hình ảnh của họ (thường là vợ chồng) được hiển thị trên màn hình lớn ngay sân vận động. Nhưng nó không phải là Kiss cam như những người trẻ hiện nay chơi. Năm 2014, một trò Kiss cam khác lấy cảm hứng từ clip ngắn First kiss của đạo diễn Tatia Pilieva được thực hiện vào năm 2014 với 20 nhân vật. Họ vốn là những người không quen biết, gặp lần đầu và trao cho nhau những nụ hôn mà không phân biệt giới tính, độ tuổi với thông điệp đầy tích cực về tình yêu không biên giới. Giữa tháng 6-2015, Kiss cam hôn người lạ trên phố phổ biến ở Mỹ, các nước phương Tây và Việt Nam”.

Sau này, khi tái bản Từ điển Từ mới tiếng Việt ắt Viện Ngôn ngữ học sẽ bổ sung. Nếu không, có những từ đã quen dùng, nhưng nay đã mang thêm một (hoặc nhiều) hàm nghĩa khác. À, chuyện này mới vui. Với từ từ “sao” đã có thêm nghĩa mới chỉ những người trẻ tuổi nhưng nổi tiếng, nổi bật nhất - thường dùng trong giới showbiz. Nhiều người mặc nhiên thừa nhận "sao" là thế nhưng lại mù tịt nghĩa đã có. Trên trang facebook cá nhân của nhà báo Hà Đình Nguyên cho biết: “Định nghĩa “Sao”: Sau loạt bài (11 kỳ) HĐN viết về GS-TS Trần Văn Khê trên báo TN (chấm dứt ngày 21.6) thì đến ngày 24.6.2015 ông vĩnh viễn ra đi. Tiễn chân thầy Khê, mình viết bài "Sao Khuê phương Đông đã tắt" (báo TN ngày 25.6.2015). Lúc 12:15 cùng ngày, nhà thơ Lê Minh Quốc nhắn tin: "Tựa của anh trên TN sáng nay rất đắt giá, có sức khái quát". Nhưng chỉ ít phút sau, có một người đàn ông gọi điện thoại tới tòa soạn, tự xưng là "đang làm ở quận" (không biết quận nào) mắng mình tới tấp: "Tại sao dám gọi GS-TS Khê là..."sao". Ổng già gần 100 tuổi chứ có còn ở tuổi teen, hay như cỡ... Đàm Vĩnh Hưng thì gọi là "sao" mới đúng ! Đồ... không biết kính trọng người già! Mình... bó phổi, đành lả giả: "Chúc mừng quận nào có một cán bộ tầm cỡ như ông!”.

Thế đấy! Oái oăm thật!

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 26.6.2015

VAN-BAN-3-TUOI-TRERRR-


Một ngày. Một ngày. Đã ngày. Buổi sáng, đẹp trời. Dậy sớm, chích thuốc cho mẹ. Rồi bàn phím. Cà phê. Nghe tiếng chim hót. Nhìn nắng trải dài ngoài hiên. Lại viết. Lúc nhẩn nha, khi vội vã. Không vướng bận gì. Đã là vui. Vui theo từng ngày.

Từng ngày lặng lẽ đi qua

Thời gian thắp sáng búp hoa nõn mùa

Nghĩ bâng quơ một chút. Có lẽ cần thiết bổ sung cho giáo trình giảng dạy báo chí hiện nay, phải có thêm điều này nữa. Điều gì? Đó là công tác tư liệu. Những ghi chép từ những lúc quan sát thực tế, tài liệu nhận được trong các cuộc họp báo, thư từ bạn đọc v.v… cần giữ lại. Chẳng nên tin vào trí nhớ. Đừng ỷ lại Goolge. Phải là những tài liệu có thật, đang sờ sờ trước mắt, khi viết mới có thể tránh sai sót. Hầu như trong cuộc sống có quá nhiều thông tin, có quá nhiều sự chọn lựa khiến người ta cảm thấy mọi thứ bề bộn quá, cần phải vứt bỏ cho gọn gàng. Đã từng nhìn thấy vào dịp cuối năm, các bà mua bán ve chai thu gom biết bao tài liệu, giấy tờ từ cơ quan, từ nhà riêng, từ cá nhân… Những thứ vụn vặt, lặt vặt ấy tưởng không cần thiết, nhưng rồi đến lúc cần, biết tìm đâu?

Chẳng hạn, GS-TS Trần Văn Khê nhận căn nhà số 32 Huỳnh Đình Hai, Q. Bình Thạnh, TP.HCM vào ngày nào, có những tài liệu gì đã chuyển từ Pháp về, lúc ấy UBND TP.HCM đã phát biểu những, các văn bản cụ thể thế nào? Đố các nhà báo có thể nhớ, dù ngày đó cũng có mặt chứng kiến sự kiện này. May quá, y đã có thói quen làm công tác tư liệu từ nhiều năm nay, dù không tầm cỡ, không chuyên nghiệp như các tay tổ, các bậc thượng thừa cỡ Phạm Duy, Vương Hồng Sển, Đào Duy Anh, Nguyễn Đổng Chi, Trần Văn Khê… nhưng ơn trời, y cũng học tập, bắt chước được đôi chút. Đọc hồi ký Phạm Duy, biết ông còn giữ được cả tấm hình chụp năm 16 tuổi, thời học trường Thăng Long, phía sau lưng có bạn học, sau này là nhà thơ nổi tiếng Tây tiến Quang Dũng; đọc Vương Hồng Sển biết ông giữ cả những vé xem cải lương, tờ giấy thiệu chương trình của thập niên 1920 v.v... Phục sát đất.

Những ngày này, có một sự kiện văn hóa không thể không nhắc đến: GS-TS Trần Văn Khê vừa qua đời lúc 2g55 phút sáng ngày 24.6 năm 2015 (nhằm ngày mùng 9.5 năm Ất Mùi), hưởng thọ 94 tuổi, hỏa táng tại Nghĩa trang Hoa Viên Chánh Phú Hòa, huyện Bến Cát (Bình Dương). Tro cốt của ông sẽ được mang về tư gia (số 32 Huỳnh Đình Hai, quận Q.Bình Thạnh) để những người yêu kính ông có thể tiếp tục thăm viếng. Sáng qua, ngồi nhà viết bài vĩnh việt GS-TS Trần Văn Khê. Nhờ đã làm công tác tư liệu nên mọi việc suông sẻ, viết nhanh, một loáng là xong, kịp yêu cầu của tòa soạn. Làm báo cũng như chuẩn bị một trận đánh. Phải thực hiện đầy đủ mọi thứ cần thiết, tâm thế sẵn sàng, không chần chừ, phải đúng giờ. Hết số báo này đến số báo khác. Có bài báo chỉ in vào số ra hôm nay, cạnh tranh với báo khác, kịp thời phục vụ thông tin cho bạn đọc, vì thế không cho phép nhà báo trễ hẹn giao bài. Sáng nay, báo PN TP.HCM đã in bài của y:

Hết lòng cứu thoát kẻ trầm luân

Một mình làm chúa giữa dòng sông

Bát cạy ngược xuôi tiếng đập đùng

Quyết chí dắt người qua bể khổ

Hết lòng cứu thoát kẻ trầm luân

Đó là những câu thơ của GS-TS Trần Văn Khê vừa từ biệt “cõi tạm” ngày 24.6. đó chăng? “Bát” là vừa chèo, vừa lái cho thuyền quẹo tay mặt; “cạy” là ngược lại. Có điều bài thơ này, tác giả sáng tác lúc tóc còn để chỏm, năm 12 tuổi, lúc đang học lớp Sơ học. Đọc xong, thầy Thượng Tân Thị kinh ngạc, gọi lại hỏi: “Có ai gà cho trò không?”.”Thưa thầy không, em làm một mình”. Ngay từ lúc nhỏ, Trần Văn Khê đã được thọ giáo với ông thầy hay chữ, yêu thơ và rất nổi  tiếng với bài thơ “thập thủ liên hoàn” Khuê phụ thán. Những năm tháng êm đềm đó, ghi sâu vào ký ức của ông cho đến cuối đời.

Thêm một may mắn nữa, Trần Văn Khê đã được tiếp cận âm nhạc ngay từ lúc còn trong bụng mẹ. “Tôi may mắn được cậu Năm đề nghị và má tôi chấp nhận một sự “thai giáo” rất đặc biệt là giáo dục âm nhạc từ trong bụng mẹ. Hàng ngày, trong lúc có thai tôi, má tôi được cậu Năm tôi đờn cò, đàn tranh, thổi sáo cho nghe”. Rồi đêm rằm rạng ngày 16.6 năm Tân Dậu (1921), Trần Văn Khê chào đời. Sinh ra trong dòng tôc bốn đời nhạc sĩ, từ đây suốt một đời, cụ Khê có sứ mệnh truyền bá về cái hay, cái đẹp của âm nhạc truyền thống Việt Nam.

Do công việc làm báo, tôi có cơ duyên được diện kiến GS-TS Trần văn Khê vào lúc 6 giờ chiều thứ Sáu ngày 6.1.2006. Đó là ngày UBND TP.HCM quyết định trao căn nhà số 32 Huỳnh Đình Hai, Q. Bình Thạnh cho ông. Nơi ở, làm việc của cụ được biết đến sẽ là Nhà Lưu niệm Trần Văn Khê với 2.000 cuốn sách, tạp chí trong đó có 100 Từ điển bách khoa của nhiều nước trên thế giới; các báo cáo tham luận tại 200 hội nghị khoa học tại 68 nước; các tài liệu ghi chép diền dã tại Việt Nam, Nhật, Ba Tư, Ấn Độ… Thậm chí còn có cả tài liệu độc nhất vô nhị như cuộc trò chuyện với các nghệ nhân NSND Quách Thị Hồ nói về Ca trù; NSND Năm Đồ, cô Ba Út về nghệ thuật Hát bội miền Nam; nhạc sư Vĩnh Bảo về lịch sử của nhạc Tài tử v.v…

Có những con người, thật lạ, dù chỉ gặp một lần nhưng tình cảm của ta lại khó quên. GS-TS Trần Văn Khê là một mẫu người như vậy, tự ông đã có một sức hút thân thiện và gần gũi dù ai mới chỉ tri ngộ lần đầu. Ngày đó, được diện kiến và trò chuyện cùng ông, trong lòng tôi đã dạt dào một niềm ngưỡng mộ. Tôi được nhìn tận mắt một con người đã từng viết bền bĩ trên tạp chí Bách Khoa với chuyên mục “Lá thư hải ngoại” mà tôi đã say mê đọc từ thời bé. Những bài biết đó, khiến độc giả thời đó thích thú vì tác giả đã đi qua nhiều lãnh thổ khác nhau và kể lại bằng văn phong thân mật, dí dỏm mà uyên bác. Ông đi nhiều lắm. Gần 30 năm được cử làm thành viên cá nhân, có quyền bỏ phiếu trong các Hội đồng Quốc tế Âm nhạc thuộc UNESCO, ông cho biết: “Không thể tính nổi trong suốt cuộc đời mình, tôi đã đi bao nhiêu cây số trên các chuyến bay - riêng trong năm 1987 tôi đã vượt trên 80 ngàn cây số, tính ra bằng hai lần vòng quanh trái đất”. Những chuyến đi đó không ngoài mục đích tâm niệm về việc truyền bá âm nhạc cổ truyền Việt Nam - một đề tài mà Luận văn năm 1958 đã đưa ông trở thành người Việt đầu tiên đậu Tiến sĩ Âm nhạc học tại Pháp.

Năm 1974, Trần văn Khê có trở về nước sau 25 năm xa cách, các nghệ sĩ Phùng Há, Kim Cương, Năm Châu, Vĩnh Bảo, Phạm Duy, Nguyễn Hữu Ba… đón tiếp tại sân bay rất nồng nhiệt. Tạp chí Văn tại Sài Gòn có thực hiện bài phỏng vấn “Nói chuyện với Nhà Âm nhạc học Trần Văn Khê”, trong đó có  nhiều chi tiết thú vị. Chẳng hạn, với cây đàn nguyệt, ông cho biết từ đường kính của thùng đàn, bề dài sợi dây từ “con dơi” đến “con cóc”, trục đàn, đầu đàn v.v… đều lấy con số 36 làm căn bản “do đó hình dáng đàn đẹp, và kích thước cây đàn đã được chú ý một cách đặc biệt”. Và lúc đó, ông đã có ý  kiến phải đưa âm nhạc cổ truyền vào chương trình giáo dục học sinh. Mà vấn đề này, cho đến lúc cuối đời ông vẫn giữ nguyên ý kiến, không thay đổi.

“Hết lòng cứu thoát kẻ trầm luân”, câu thơ của GS-TS Trần Văn Khê viết năm 12 tuổi, thuộc loại “ngôn chí”, nói lên cái chí của mình. Tôi hiểu rằng, chí nguyện ấy rất gần với triết lý nhà Phật. Có điều, cụ Khê “hành pháp” theo sứ mệnh đã chọn là vận dụng, phát huy, truyền bá âm nhạc dân tộc Việt Nam mà sức sống của loại hình âm nhạc ấy còn giúp ta tìm được niềm vui sống ở trên đời…” (Báo PN 26.5.2015).

Sáng qua, nhà báo Lưu Đình Triều nhắn tin hỏi, đã làm báo TT khoảng thời gian nào? Hỏi, vì anh đang là một trong những người đang thực hiện bộ sách hoành tráng kỷ hiệm 40 năm ngày báo TT phát hành số đầu tiên. Nhờ làm công tác tư liệu, chỉ một loáng, có thể trả lời ngay: Làm việc ở đó chỉ vỏn vẹn chưa đầy một năm, từ ngày 7.9.1987đến ngày 1.5.1988. Chỉ có thế, nhưng đây là khoảng thời gian quan trọng ban đầu giúp y có thể hiểu rõ hơn vai trò tác nghiệp của nhà báo. Ngày tháng đó nhiều kỷ niệm đáng nhớ. Đã kể lại để in trong tập sách sắp in của báo TT.  Y rời khỏi tờ báo này với văn bản số 35/QĐTC-88 do anh Huỳnh Quý đã ký ngày 1.5.1988: “Lý do: Qua 8 tháng thử việc, không thể hiện được hướng phát triển trong công việc làm báo".  Nhìn lại văn bản này, tự dưng bật cười giòn giã, vui vẻ. Thì ra, ngày đó, y tệ đến mức ấy sao? Tệ quá đi chứ.

Mà cũng chẳng sao cả. Không làm nghề này thì làm nghề kia. Ai cũng có phải có một cái nghề. Cuối cùng, nghề của y chỉ có thể làm báo. Nghề cầm bút. Phải vậy thôi.

Từng ngày lặng lẽ đi qua

Thời gian thắp sáng búp hoa nõn mùa

 

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 22.6.2015


TAT-DEN-r

 

“Ngày chủ nhật ngày của riêng mình”.

Câu này trở thành ca từ của một bài hát. Thỉnh thoảng hát lên một chút cho đời nhộn một chút. Một mình, hai mình, riêng mình và cuối cùng không thể tùy mình. Sống, khó có thể chìu lòng mình, đôi khi phải vì người khác một chút. Chút ít thôi. Đã lấy làm vui. Tự nguyện mà vui. Có thế, đời sống mới nhẹ nhàng. Từng ngày trôi qua. Nhìn nhau. Nhìn vào mắt nhau và nói như thơ Nguyên Sa “Hãy để môi rót rượu vào môi”. Câu thơ này không chỉ hình ảnh mà còn gợi lên cảm giác của mùi vị. Nghe ra trong đó có cả rượu. Rượu đỏ. Của một ngày chủ nhật. Ngồi trên bancon nhìn xuống con đường Đồng Khởi sũng nước. Ngay tầm tay là vòm xanh cây điệp vàng. Từng chiếc lá tríu nặng giọt mưa.

Trước đó, đã bún riêu bà Béo. Đã cà phê ngay trước Continental. Lồng lộng gió. Gió thổi một vệt dài qua môi son đỏ. Rồi đi mua sách. Hội sách nho nhỏ tại Nhà triển lãm Lê Thánh Tôn. Ngoài trời vẫn mưa. “Mua gì sách gì vậy Q?”. À, mua quyển The oak tree’s dream (NXB Giáo Dục Việt Nam - 2011) của Nguyễn Hồ Thụy An, khổ sách 38 x 54 cm, 40 trang (cả bìa), giá 300 ngàn đồng, nay chỉ bán 20 ngàn đồng, cân nặng 900 gr. Mua, dù không đọc nhưng ít ra cũng được cầm một quyển sách in khổ lớn. Mua thêm quyển Tắt đèn của nhà văn Ngô Tất Tố.

Hiện nay, Công ty sách Nhã Nam đang thực hiện Tủ sách danh tác Việt Nam. Việc làm này rất đáng hoan nghênh. Những danh tác ấy cần phải có bản in chính xác nhất, có như thế, mới phục vụ tốt nhất cho bạn đọc. Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân, trước đây cũng đã thực hiện văn bản tiểu thuyết Giông tố của Vũ Trọng Phụng rất công phu, đối chiếu từng bản in, đối chiếu với bản mà sinh thời nhà văn đã cho in từng kỳ trên báo. Tất nhiên Nhã Nam cũng in Tắt đèn, nhưng gặp sự phản ứng từ phía gia đình Ngô Tất Tố. Đơn giản cũng chỉ vì họ chọn bản in không chuẩn (theo ý kiến phía gia đình nhà văn).

Nay, y tìm mua bản in Tắt đèn (NXB Văn Học - 2013) do con gái và con rể của nhà văn là ông bà Cao Đắc Điểm - Ngô Thị  Thanh Lịch công bố. Phải thừa nhận rằng, cụ Tố có con gái và con rể quá tuyệt vời. Họ đã làm hết sức mình với những gì ông bố đã viết. Đáng quý cái lòng dành cho đấng sinh thành. Có như thế, họ mới dành nhiều thời gian sưu tầm, khảo dị, hiệu đính, chú giải, giới thiệu trọn vẹn (trong chừng mực có thể) những trước tác của ông bố. Từ đó, họ cung cấp một bản chuẩn nhất. “Con hơn cha là nhà có phúc”, vẫn biết thế, tuy nhiên có những ông bố mà tầm vóc quá lớn lao, các con chỉ cần làm công việc như ông bà Cao Đắc Điểm đã làm cũng là một đóng góp hữu ích cho nền học thuật nước nhà.

Đọc bản in này, y thích quá. Đã học được thêm một một ít vốn từ của người nông dân Bắc bộ qua Tắt đèn. Xin liệt kê ngẫu hứng, “Thợ cày và tuần phu đều biết cái hách dịch của ông Lý, ai nấy chỉ đáp lại những câu chửi chùm chửi lợp bằng sự nín im”- “chửi chùm chửi lợp”: ý nói chửi mắng tới tấp, liên tục; “Thêm mấy ngày nay, Lý trưởng ngày ngày sai người giục thuế, anh càng luống cuống như con kiến bò trong chảo nóng” - “kiến bò trong chảo nóng”: ý nói luống cuống, không tìm được lối thoát khi khó khăn; “Quả nhiên mới cất miệng hỏi, nó đã mắng sấm sơi sơi” - “mắng sấm sơi sơi”: mắng tơi tới, mắng át đi làm người bị mắng phải sợ; “Cái Tý vẫn bai bải van như tế sao”; dễ hiểu rồi, là động tác vái / lạy / van lia lịa, miệng ca cẩm, cầu khẩn, xin xỏ điều gì đó như động tác, điệu bộ của người cầu khấn trời đất;  “Đĩ Dậu có nhà đấy không? - “Đĩ”: từ dùng để gọi thân mật người nông dân có con gái đầu lòng còn bé.

Đọc đến đây, y thắc mắc thế sinh con trai, chứ không phải “con gái đầu lòng còn bé”, gọi  là gì hay cũng gọi chung là “đĩ”?

“Chị Dậu vội gạt nước mắt đứng dậy, mượn thắng Mới cái bát yêu đàn, chị ra giếng xin một bát nước bưng vào” -“bát yêu đàn”: bát miệng loe rộng, khoảng giữa thắt lại, trôn bé, làm bằng đất nung tráng men hạng xấu; về nhân vật thằng Mới, đọc nhiều phóng sự của Ngô Tất Tố ắt biết đó chính là thằng mõ. “Nhà em “kiết xác mồng tơi” ai còn dám rời hoa tai cho mượn”; từng nghe có câu “nghèo kiết mồng tơi”."nghèo rớt mồng tơi"; mồng tơi là loại rau dây leo, khi ngắt hết lá để nấu ăn chỉ còn trơ lại thân xác; “Đứa nào ăn vèn của thày thì chị không cho đi chơi với chị” – “ăn vèn: ăn vẹm vào, ắn bớt đi, lấy bớt đi; “Thằng Dần, cái Tý thôi không ăn khoai nữa, dĩn dĩn vừa van vừa khóc” - “dĩn dĩn” có nghĩa là gì?

“…và tiếng xay lúa giã gạo ở mấy nhà hàng xay hàng xáo” - “nhà hàng xay hàng xáo: nghề lấy công làm lãi, đi đong thóc rồi về xay giã thành gạo, đem bán cho người tiêu dùng; “Lý trưởng vừa xếp bằng tròn bên cạnh bao lan, vừa uống rượu vừa cà riềng cà tỏi” - “ cà riềng cà tỏi”: chê những kẻ hay kiếm chuyện trách móc người khác; “Mấy đĩa đậu phụ lòng lợn trong mâm đã sạch ngoen ngoẻn” -  “ngoen ngoẻn”: từ gợi tả về nói năng trơn tru một cách trơ tráo không biết ngượng; “Một ông móc liền dạ cá lôi ra một khối đồng vuông đưa cho nhà hàng và nói:” - “dạ cá”: đồ vật có hình giống như bụng con cá để đựng tiền nong hay tư trang.

Đọc đến con cá, y liên tưởng đến con gì?

Rất tự nhiên, y nghĩ đến... con cóc. Năm xưa đọc quyển Quảng tập viêm văn: An Nam văn tập của ông giáo Edmond Nordemann, in năm 1898 có đoạn: “Sự phòng xa của người Trung Hoa và người An Nam thường thường là chôn dưới đất tất cả của để dành của họ. Những của để dành này thường được tiêu biểu bằng các khối kim loại nhỏ có hình dáng con cóc. Từ đó, có từ ngữ An Nam “bắt cóc’ để nói bắt buột phải chuộc”. Tương tự, ở đây, “dạ cá” có thể hiểu do hình thù cái túi đựng tiền, tư trang giống như tên gọi. Sau ngày Đổi mới, Việt kiều về nước, thường có đeo dây nịt ngay thắt lưng, thấy ngay phía trước bụng có cái túi dài màu đen, chừng gang tay cũng cất giữ tiền bạc, tư trang hoặc giấy tờ tùy thân, gọi là “bao tử”. Nay chẳng mấy ai còn thấy “dạ cá” hay “bao tử” nữa. Mỗi thời mỗi khác. Ăn theo thuở, ở theo thời.

Tiếp tục đọc Tắt đèn.

“Con bé này đẹp thật đấy nhỉ. Của này nếu dược thắng bộ cánh bốp thì… kém gì đời” - “bốp”: (áo) đẹp một cách saNg trọng, chải chuốc. Trước đây, từng nghe từng “kẻng” cũng làm nghĩa nghĩa như “bốp”; ngữ cảnh trên cho phép hiểu “thắng”: còn có nghĩa là mặc, nhưng không là mặc theo nghĩa thông dụng mà hàm ý chưng diện. “Mụ Cửu thay lời chị Dậu, kết luận bằng việc mụ ấy gặp chị ở hàng cơm và muốn đưa chị lên Dinh quan cụ làm vú sữa”- “vú sữa”: người đàn bà sau khi sinh con, phải bỏ con, đi ở nuôi con cho chủ bằng sữa của mình; “Chỉ tiếc cái oản bụt hơi xệ”- “oản bụt”: ý chỉ cái vú.

Những liệt kê này, còn nhiều lắm. Đọc một quyển sách có chú thích chu đáo, rồi người đọc lại liên tưởng thêm ngoài sách, há chẳng phải là điều lý thú đó sao?

Đọc bản in lần này, có thể rút ra kết luận: Từ truyện ngắn Một ổ chó và một đứa con đăng lần đầu trên báo Tương Lai số 1 (27.9.1936), nhà văn Ngô Tất Tố đã triển khai thành danh tác Tắt đèn. Chính ông bà Cao Đắc Điểm - Ngô Thị  Thanh Lịch đã đưa ra các phụ lục để ta có kết luận đó. Viết đến đây, liếc nhìn Tổng tập tản văn Ngô Tất Tố đặt trên kệ sách dày hàng ngàn trang, khổ lớn càng quý trọng tấm lòng của con gái, con rể nhà văn. Sự báo hiếu là ở đó.

Lan man chuyện chữ nghĩa một lát, nhìn ra ngoài trời đã thấy bóng xế. Đã trưa. Đã nghe có tiếng gà gáy vọng về. Đã nghe tiếng xe cộ ầm ĩ ngoài phố vọng đến. Đã nửa ngày rồi. Cơm trưa thôi. Chiều đi họp. Mà khoan, đã chữ với nghĩa thì thêm cái này nữa cho nó vui. Rằng, tạp chí Văn hóa dân gian thuộc Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam (số ra tháng 1.1983, tr.76) có bài sưu tầm ký tên V.N.K. Chẳng rõ có phải nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Khánh ký tắt không? Hỏi, vì lãnh vực này, ông Khánh có nhiều đóng góp rất quý. Thấy ký tắt nên đoán vậy, chẳng rõ đúng sai.

“Ngọt mà mặn

Ơ tỉnh Nghĩa Bình, tại vùng Phù Cát, Phú Mỹ có một cái đầm là đầm Nước Ngọt (còn gọi là vũng Đề Gi). Nhưng oái oăm nước trong đầm lại mặn. Vì vậy, có câu hỏi mà chưa ai trả lời được:

Thật thà là thói hồng nhan

Ăn xuôi nói ngược thế gian lạ gì

Mặn chằng nước vũng Đề Gi

Gọi đầm Nước Ngọt lẽ gì hả em?

Mặn mà ngọt

Cũng ở Bình Định, khoảng từ Phụng Du đến sông Tam Quan có cái cầu (cách đường số 1 chừng ba trăm mét) được gọi là cầu Nước Mặn. Nhưng nước dưới cầu lại ngọt! Vì thế cũng có câu hỏi:

Tiếng đồn hay chữ

Tài ngang tú cử

Lại đây em hỏi thử đôi câu:

Ngọt ngang nước chảy dưới cầu

Gọi cầu Nước Ngọt, bởi đâu hỡi chàng?”

"Tú cử" là  tù tài, cử nhân có ăn học đàng hoàng, chứ không phải "đơ dem cùi bắp" chữ nghĩa không đầy lá mít;  “mặn chằng” là rất mặn, mặn hết chỗ chê; hơn cả mặn đắng; “ngọt ngang” có thể hiểu hiển nhiên nó là ngọt rồi, không phải tranh cãi lôi thôi gì nữa. Bài ngăn ngắn này nằm trong chuyên mục “Bạn có biết”, có thể hiểu, bạn nào có biết, giải thích giúp. Vậy ai có thể giải thích đây?

Sáng qua, lúc rượu đỏ, nhìn vòm xanh điệp vàng thấy từng chiếc lá tríu nặng giọt mưa mà nhớ đến mấy thất ngôn. Thơ của một người bạn thơ. Nguyễn Thái Dương. Mấy câu thơ thế này:

Cây hoàng điệp trước nhà em mỗi tối

Xác hoa vàng rụng xuống kín chân tôi

Không hò hẹn, sao tôi còn mãi đợi

Đứng lơ ngơ lóng ngóng dưới hiên đời

Nguyễn Thái Dương người quê Bình Định, anh có thể giải thích mấy câu hỏi của V.N.K? Bằng không sẽ hỏi bạn thơ Nguyễn Thanh Mừng - cũng quê Bình Định, ngoài thơ, Mừng còn là một tay chuyên tìm hiểu văn hóa dân gian. Có những người bạn đã lâu rồi không gặp lại. Chẳng rõ khi gặp lại, có còn thân thiết như ngày trước không?

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 21.6.2015

 

LMQ-ve-LMQ-TU-HOA

Sơn dầu - Lê Minh Quốc tự họa

 

Hôm nay, Ngày của cha. Có lẽ, nhiều người không rõ nguyên cớ nào, do từ đâu lại có ngày này. Y cũng thế. Đâu có biết tường tận. Hôm nay, Ngày báo chí Cách mạng Việt Nam. Hôm nay, còn là ngày gì nữa? Ngày nào cũng là ngày chăng? Đúng thế. Ngày nào lại không bắt đầu một ngày bằng một thói quen đã hình thành từ lâu. Sáng sớm, dậy sớm, ngồi trước bàn phím và bắt đầu công việc của một ngày. Ngày nào cũng như ngày nào. Bất chấp nắng mưa và không thèm quan tâm đến cây kim đồng hồ đang nhích dần theo vòng quay của 24 giờ trong một ngày. Ngày bình thường. Ngày hân hoan. Ngày tẻ nhạt. Cứ như thế. Chẳng mấy chốc. Ngoãng lại nhìn phía sau, đã thấy từng chuỗi ngày lùi sâu vào dĩ vãng.

“Nghe nói anh rất nghiêm túc trong việc viết lách. Vậy trong một ngày thời khóa biểu của anh thế nào?”. Với câu hỏi của đồng nghiệp, y tâm sự: “Tài năng nhiều hay ít là trời cho, nhưng đạt kết quả công việc thế nào là do mình. Ngày nào cũng như như này nào, kể cả ngày chủ nhật ngày nghỉ: buổi sáng thức dậy, tôi ngồi trước bàn phím, nhâm nhi ly cà phê và viết. Viết như một thói quen, không đợi cảm hứng. Không cà phê ngoài quán, mất thời gian lắm. Sáng nào bận họp thì rời nhà sớm, còn không cứ lặng lẽ viết một lèo đến chừng 9 hoặc 10 giờ, rồi đi ăn sáng, vào cơ quan. Chiều thức giấc, tôi lại ngồi vào máy tính, tiếp tục viết. Hôm nào có hẹn hò lai rai thì 17 giờ tắt máy; còn không cứ viết đến 19 giờ. Sau đó, mới cơm nước, khoảng 21 giờ đi nghỉ.

Trước lúc ngủ mỗi đêm, và lúc rảnh rỗi bao giờ tôi cũng đọc sách, nguyên tắc này không thay đổi dù bất kỳ không gian nào. Thích cái gì đọc cái nấy, cũng như ra hiệu sách, thấy thích là mua, dù sách đó chẳng thuộc chuyên môn của mình. Thời gian cà phê cà pháo, bia bọt anh em bạn bè cũng vui nhưng chắc chắn sẽ không thu nhập thông tin bằng đọc một quyển sách. Đã có lần tôi viết: “Một ngày của anh mưa nắng đã lập trình/ phải chạy đua cùng khoảnh khắc bình minh/ mười ngón tay gõ phím/ mười ngón tay quen đếm/ bao nhiêu niềm vui lọt xuống sàn nhà”. Chẳng rõ nên vui hay buồn?” (Chuyên đề Sức khỏe cuối tuần - báo Khoa học phổ thông số 20.6.2015).

Chẳng rõ nên vui hay buồn?

Khi tự hỏi lòng mình, có nghĩa đôi lúc cũng phân vân, nghĩ ngợi một chút. Cũng chẳng sao. Ai cũng có một cái nghề. Nghề của y chỉ có thể là viết. Nếu không viết, lấy gì mà sống? Tự thân, phải nuôi lấy mình bằng cái nghề nhọc nhằn và nhẹ nhàng này. Phải như thế, nếu không, y chẳng thể làm một nghề gì khác. Đã có lần tự nghĩ về nghề. Nghề báo. Cái nghề đã đeo đuổi từ cái thuở bước vào đời kiếm sống. Và cho đến lúc nhắm mắt xuôi tay vẫn không từ bỏ nó. Nghiệp và nghề đã hình thành ngay từ lúc khóc oa oa lọt lòng mẹ.

nhìn vào trang giấy trắng

thấy gương mặt cuộc đời

tham sân si ái ố

chứ nào phải chuyện chơi

có gan chơi như thật

là ám sát con người

bịa chuyện rồi thêm thắt

bao số phận chết tươi?

có gan chơi như thật

từ những chuyện đùa chơi

đưa vô danh dưới đất

vụt bay lên cõi trời?

có gan chơi như thật

mà thôi, cái cõi đời

nợ có vây có trả

máu ngàn đời vẫn tươi

hoa một ngày đã héo

người muôn năm vẫn người

làm sao anh dám viết

nửa thật với nửa chơi?

ngồi trước trang giấy trắng

là đối diện cuộc đời

là mỗi ngày đi chợ

mẹ tính toán từng hào

này tiêu hành ớt tỏi

này mớ cá bó rau

chi li từng xu lẻ

còn anh, anh tính sao?

chẳng lẽ lại cao hứng

cứ tô đen một màu

hoặc sơn son trét phấn

trên gương mặt khổ đau?

những số phận nát nhầu

đang chờ anh an ủi

nếu chẳng viết được gì

nghĩa là anh xua đuổi

cũng có thể viết gì

nhưng chỉ là hứa cuội

mây còn bay trên trời

thời gian như gió thổi

ngòi bút cạn mực rồi

có bao giờ tự hỏi?

có bao giờ tự hỏi

lòng anh chai sạn rồi?

Đoạn thơ này, trích từ trường ca Hành trình của con kiến (NXB Trẻ - 2006). Đã là ngày của nghề. Nghề viết. Viết cũng như nói. Có những lúc, tự dưng lắp bắp. Nói năng ngọng nghịu. Thốt không thành lời. Chữ đực chữ cái. Chữ tác chữ tộ. Cứ như nói ngọng. Có những lúc nói năng dạt dào như sóng biển vỗ bờ. Nói ào ào như nhà hùng biện, đứng đám đông mà cứ ngỡ như đang nói cho riêng mình. Viết cũng thế. Có những lúc chữ nghĩa tuôn ra ào ào, bàn tay không đuổi kịp theo suy nghĩ đang có ở trong đầu. Có lúc đang phóng xe ngoài đường, muốn dừng lại, tấp vào lề, viết một cái gì đó đã ngẩm nghĩ suố chặng đường dài. Có lúc ngật ngừ, viết rồi lại xóa. Ngồi mãi, thừ người ra, viết này viết nọ, đọc lại, thấy nhạt, bèn xóa. Viết mãi, nó thành thói quen. Đã có thể, ngồi là viết một lèo. Đến lúc dừng tay là đã viết xong một cái gì dù đó, hay dở thế nào chưa rõ nhưng rõ ràng đã xong. Quái, cũng là những gì đã viết, đã in. Tình cờ đọc lại, đã nhiều lần tự hỏi, ơ hay, sao người ta viết hay (viết nhảm) thế nhỉ? Nhìn kỹ một chút, thấy cái tên (hoặc bút danh) của mình nằm chình ình trên trang in. Sung sướng nhật vẫn là thời mới vào nghề. Nhìn trang báo có in bài, sung sướng lắm, phớn phở lắm, tươi vui lắm. Giờ đã khác. Chỉ nghĩ đến nhuận bút. Thì ra, người ta thiếu cái gì, thường nghĩ về cái đó. Bình thường thôi.

Báo TN sáng nay, cho biết: "Theo báo cáo của Bộ Thông tin và Truyền thông, cả nước hiện có 849 cơ quan báo in, 67 đài phát thanh - truyền hình, 98 báo, tạp chí điện tử, một hãng Thông tấn quốc gia. Nếu năm 2009 mới có 31.000 người làm việc trong lĩnh vực báo chí thì đến nay lực lượng ấy đã là 35.000 người, trong đó có gần 18.000 là nhà báo chuyên nghiệp; tỷ lệ người làm báo có trình độ đại học và trên đại học là 95,9%". TN cũng dẫn nguồn tin từ TTXVN: Đến nay, TP.HCM, có hơn 1.800 nhà báo công tác tại 38 cơ quan báo chí và hơn 1.300 hội viên Hội Nhà báo". Báo Người đưa tin (số ra ngày 20.6.2015) có bài viết Thủ tướng giao Bộ TT &TT làm việc với từng cơ quan báo chí về việc quy hoạch". Vấn đề này, từ nhiều tháng nay đã nghe các đồng nghiệp bàn râm ran, chẳng rõ người ta sẽ quy hoạch cụ thế thế nào, ra làm sao.

Nghĩ một chút về Ngày của cha.

Nhờ internet, các thông tin ngồn ngộn đã giúp y có thể biết: Tháng 12.1907, cô Grace Golden Clayton, một người con mất cha trong thảm họa hầm mỏ ở Monongah, tây Virginia (Mỹ). Thương nhớ cha, cô Clayton chọn ngày chủ nhật gần nhất ngày sinh nhật người bố để tổ chức lễ tại một nhà thờ ở Virginia. Đó cũng chính là nguồn gốc của Ngày của Cha, diễn ra lần đầu vào ngày 5.7.1908. Khoảng 2 năm sau, cô Sonora Smart Dodd, sống ở Shokane, Washington, có người cha từng là cựu chiến binh trong cuộc nội chiến nước Mỹ. Vợ mất khi sinh người con út, kể từ đó, ông “gà trống nuôi con”. Cảm phục trước sự hy sinh và tình yêu thương vô bờ của cha dành cho gia đình, cô Dodd quyết định kêu gọi thành lập một ngày để tưởng nhớ công ơn người cha. Với sự giúp đỡ của các mục sư và Hiệp hội Thanh niên Thiên chúa giáo, ngày lễ của Cha đã được tổ chức vào năm 1910. Kể từ đó, Ngày của Cha được vận động trở thành quốc lễ của Mỹ. Năm 1972, tổng thống Richard Nixon đã ký duyệt và công bố Ngày của Cha chính thức là ngày quốc lễ của nước này và được tưởng niệm vào chủ nhật thứ ba của tháng 6 mỗi năm.

Ngày hôm nay, y làm gì?

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 18.6.2015

tai-lieu-VNQD-Dang

(Nguồn: Tập san Sử Địa ấn hành tại miền Nam trước 1975)

 

Vô tâm.

Ai vô tâm?

Chúng ta, chính chúng còn ai nữa. Ngày hôm qua, ngày gì? Chẳng ai nhớ nữa. Hầu như các phương tiện truyền thông không hề nói đến. Sáng nay, dậy sớm, tự nhủ dường như y đã có điều gì không phải. Điều gì? Chịu. Lướt qua các trang mạng xã hội, giật thót người mới nhớ rằng ngày hôm qua: Kỷ niệm 85 năm ngày giỗ 13 vị anh hùng dân tộc - 13 đảng viên Việt Nam Quốc dân đảng bị giặc Pháp chém đầu tại Yên Bái, sau thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái (17.6.1930-17.6.2015). Kỳ quái chửa? Chẳng có một tờ báo nào nhắc lại sự kiện này. Chúng ta đã có lỗi với tiền nhân. Máu của người yêu nước phải được lưu truyền, gìn giữ từ thế hệ này sang thế khác. Thiên thu. Muôn đời. Chỉ chưa gần trăm năm, đã vội chóng quên. Tự dưng ngậm ngùi.

Có những người, dù chưa một lần gặp mặt, chưa một lần được thọ giáo nhưng trong thâm tâm bao giờ y cũng nghĩ đó là thầy của mình. Một trong rất nhiều người như thế đối y là nhà văn hóa Nguyễn Hiến Lê. Nhân đọc tập hồi ký của ông, dày hàng ngàn trang, nhưng chỉ có dăm dòng của ông đã thay đổi cả cách sống, cách viết của y. Ông viết rằng, đại khái, khi muốn tìm hiểu một vấn đề gì, cách tốt nhất là viết một cuốn sách về vấn đề đó. Từ lời khuyên lạ lùng và hữu ích này, nay nhìn lại công việc đã làm, ngay cả y cũng ngạc nhiên tại sao mình lại có thể viết được nhiều đến thế. Y bắt đầu lao vào viết nhân vật lịch sử từ những năm 1994. Năm đó, trong một lần đến thăm thầy Trần Hữu Tá tại nhà riêng, qua trò chuyện, y biết chị Đỗ Thị Phấn - Giám đốc Fahasa, nhà văn Hoàng Lại Giang - Giám đốc chi nhánh NXB Văn Học đang thực hiện Tủ sách Truyện danh nhân. Thầy gợi ý nên nhận lời viết về một nhân vật lịch sử hằng ngưỡng mộ. Lập tức trong trí óc của y hiện lên hình ảnh lãnh tụ Nguyễn Thái Học. Chao ôi! Còn gì hấp dẫn tuổi trẻ hơn hình ảnh một nhà cách mạng  lúc bước ra pháp trường còn ngẩng đầu lên đọc thơ? Những câu thơ “Chết vì Tổ quốc/ Cái chết vinh quang/ Lòng ta sung sướng/ Trí ta nhẹ nhàng” của Nguyễn Thái Học bỗng quay về trong tâm trí của y lúc ấy...

Ngay sau đó thầy Trần Hữu Tá ứng nhuận bút, số tiền này nằm trong túi áo không lâu. Vì từ nhà thầy bên hông trường Đại học Sư Phạm TP.HCM, (trên đường An Dương Vương) qua chợ sách cũ (đường Nguyễn Thị Minh Khai) chỉ là một đoạn ngắn, y đã dùng toàn bộ để mua tài liệu liên quan đến nhân vật sẽ viết. Khi bắt tay vào viết, có một lời đề nghị khác khiến y phân vân. Số là như thế này, trong thời điểm này, có một người bạn học cũ đang làm việc tại hảng phim nọ, sau khi biết công việc của y đang làm, đề nghị nên viết về nhân vật khác. Nếu làm như thế, sau khi sách ra phát hành, họ sẽ dễ dàng xin tài trợ để làm phim. Lời đề nghị nghe cũng hấp dẫn. Nhưng nhân vật đó, thật ra đã có nhiều người viết, nay có viết thêm hoặc không thì vị trí trong lịch sử cũng đã được khẳng định. Còn nhân vật Nguyễn Thái Học lại khác. Với vai trò là người cùng với Nguyễn Khắc Nhu, Phó Đức Chính, Ký Con... lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Yên Bái long trời lỡ đất, trước cả phong trào Xô Viết Nghệ Tỉnh. Và Việt Nam Quốc dân đảng do các ông thành lập trước cả lúc Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời, tại sao không viết lại, không đề cập lại một giai đoạn đáng tự hào của dân tộc?

Do khúc ngoặt của lịch sử, không ít người rất ngại khi viết về tổ chức này. Nhưng điểm son, mặt tích cực của nó thì không thể phủ nhận. Đánh giá sự vật phải đặt nó trong hoàn cảnh lịch sử đương thời, vậy mới là khoa học. Nghĩ nôm na, đơn giản như thế nên y càng quyết tâm phải viết cho xong quyển tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Thái Học. Quyển tiểu thuyết này, y viết xong vào ngày 26.11.1994 - đã được nhiều báo giới thiệu và đánh giá tốt. Nhưng điều không ai ngờ là nó đã được báo Nhân Dân (số ra ngày chủ nhật 9.6.1996) đã có bài giới thiệu rất trân trọng. Người đầu tiên kêu lên một cách ngạc nhiên và thú vị là nhà báo Nam Đồng (lúc ấy, Tổng biên tập báo Pháp Luật TP.HCM), anh gọi điện thoại cho biết đã đọc bài báo này khi ngồi trên máy bay từ Hà Nội về TP.HCM. Nhờ vậy, y mới biết và tìm đọc. Thú thật, trong các bài điểm sách, bài viết này đối với y rất quan trọng. À! Thì ra lâu nay ta cứ “sợ bóng sợ vía” khi đề cập đến một vài nhân vật nào đó “có vấn đề”, nhưng thật ra giới sử học có cách nhìn nhận, đánh giá đã khác trước. Có điều, ta dám dũng cảm bày tỏ quan điểm hay không? Hay tốt nhất là cứ chọn những nhân vật đã khẳng định để viết cho an toàn? Đó cũng là sự lựa chọn của mỗi nhà văn, nhà nghiên cứu sử.

Chao, thời đó sao mà viết sung, viết khỏe, viết hăm hở đến thế.

Cuộc khởi nghĩa Yên Bái, ý nghĩa của nó thế nào? Nhiều nhà nghiên cứu đã nói đến, chỉ nhấn mạnh đây là cuộc khởi nghĩa bằng võ trang của một tổ chức chính trị, có cương lĩnh hoạt động, có chủ trương rõ rệt, cùng lúc diễn ra trên phạm vi nhiều địa phương. Hoàn toàn khác với các cuộc bạo động trước đó, chẳng hạn, khác với các cuộc ám sát, ném bom của Việt Nam Quang phục Hội do cụ Phan Bội Châu cử các chiến sĩ quả cảm từ hải ngoại về nước hoạt động, gây tiếng vang; khác với khởi nghĩa năm 1916 của vua Duy Tân, Thái Phiên, Trần Cao Vân; khác với cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên của Đội Cấn, Lương Ngọc Quyến năm 1917… Chính từ khởi nghĩa Yên Bái, nhà cầm quyền Pháp nhận ra rằng, họ phải đối đầu với đường lối đấu tranh mới, khác hẳn trước đó. Nghĩa là, một dân tộc nô lệ đã có một chính đảng chỉ đạo và tổ chức đó không lệ thuộc vào vai trò của một cá nhân nào. Chỉ đưa một thí dụ, chẳng hạn, sau cái chết của Hùm thiêng Yên Thế, cuộc kháng chiến ròng rã 30 năm hoàn toàn chấm dứt. Nhân đây nói luôn, theo quan điểm của y, cuộc kháng chiến của Đề Thám vẫn là sự nối dài của phong trào Cần Vương. Có thể lấy cột mốc 1913, năm Đề Thám qua đời là năm kết thúc lời kêu gọi của vua Hàm Nghi vào năm 1885.

“Yên Bái,

Đây là cái từ nhắc nhở chúng ta rằng không thể bịt miệng một dân tộc mà người ta khuất phục bằng lưỡi kiếm cong của đao phủ.

Yên Bái,

Gửi đến các bạn da vàng lời nguyền này. Để mỗi giọt của cuộc sống các bạn sẽ tràn máu của một tên Varenne”.

Đó là thơ của thi sĩ Pháp Louis Aragon. Ghê gớm chưa? Lâu nay, có lẽ do thiếu tài liệu nên nhiều nhà nghiên cứu có nhắc đến đảng kỳ nhưng không đề cập đến đảng ca của Việt Nam Quốc dân đảng. Bài hát này do Nguyễn Khắc Nhu soạn lời Việt, phỏng theo điệu bài quốc ca Marseillaise của Pháp: “Đầy đường hùm beo, đồng tâm cùng bước. Dưới ách cường quyền, mấy ai ngồi yên? Phất cờ Tự Do đuổi quân đế quốc, quyết sống mái… Gan cho vững… Chí cho bền. Trên đường vinh quang, kìa trông người đua chen. Anh em ơi mau cùng đứng lên! Chị em đâu mau cùng tiến lên! Thề cùng đem xương máu đắp xây nhân quyền… Lắp súng anh em tiến quân. Tuốt gươm chị em xung phong. Tuốt gươm lắp súng. Tiến lên! Đồng tiến… Ta phấn đấu tới cùng!”. Cung cấp thêm thông tin này cho ai cần nghiên cứu sâu hơn.

Lại chi tiết này nữa, ít ai biết, trong số 13 đảng viên gan dạ bị án chém, anh Phó Đức Chính gan dạ đòi nằm ngửa để nhìn tận mắt lưỡi dao chém và anh đã hô to được: “Việt Nam vạn tuế”. Trường hợp này, chỉ xẩy ra duy nhất một lần trong suốt năm tháng giặc Pháp sử dụng án chém ở Đông Dương. Chẳng mấy ai còn nhớ đến chi tiết, khi ra tòa, quan tòa gọi tên chị Nguyễn Thị Bắc (chị ruột cô Giang), chúng chưa kịp hỏi, chị đã vung tay thét: “Chúng mày về nước Pháp mà kéo đổ tượng Jeanne d’Arc đi thôi!” Cả Hội đồng đề hình giận tím mặt, Jeanne d’Arc là người đã được nhà nước Pháp phong Nữ thánh, đã từng cầm quân đi đánh giặc Anh lúc xâm lược Pháp. Sau cô bị thiêu sống ở quảng trường Rouen vào năm 1431 lúc 19 tuổi - bằng tuổi với chị Bắc lúc bấy giờ.

Chi tiết Nguyễn Thái Học bị bắt lúc đi qua lĩnh vực đồn điền Cổ Vịt của tên thực dân Klieber, y đã tham khảo từ tài liệu ghi chép của nhà văn Nguyễn Công Hoan. Theo cha đẻ Kép Tư Bền, hoạt động của Việt Nam Quốc dân đảng thất bại còn vì cách tổ chức quá dễ dãi, kết nạp cả những người chưa qua thử thách. Do đó, đã không giữ được bí mật hoạt động của một tổ chức chính trị, ngày giờ khởi nghĩa... Đọc Nhớ gì ghi nấy, thỉnh thoảng nhà văn  Bước đường cùng có kể lại khá nhiều chi tiết rất hay.

Theo Nguyễn Vỹ, trong Tuấn, chàng trai nước Việt do tác giả in năm 1969: “Thế hế hệ sinh viên và học sinh Việt Nam từ ngày cụ Phan Bội Châu về nước, năm 1925 đến ngày khởi nghĩa của Việt Nam Quốc dân đảng, năm 1930, có thể gọi là thế hệ Nguyễn Thái Học" (tập 2, tr.63). Chủ soái của trường phái thơ Bạch Nga còn cho biết: “Nguyễn Thái Học bước lên đoạn đầu đài có hơi khác Nguyễn Thái Học lúc hoạt động cách mạng. Lần này đầu anh bị cạo trọc, đôi mắt anh sâu hóm như hai cái lổ thẳm. Má anh cóp và người anh gầy đi nhiều. Anh không ngó ai cả, đăm đăm bước rất mau lên bàn máy chém, hai tay bị trói còng ra sau lưng. Anh đứng trên bục sắt đen ngòm, la lên với một giọng run run mà những kẻ tò mò được chứng kiến đứng ngoài vòng lính, ít người được nghe rõ. Sương còn buông xuống nhiều, Tuấn cố lắng tai nghe tiếng anh “ Việt Nam vạn …vạn …tuế. Hai tiếng “ Việt Nam “ và tiếng “ tuế” sau cùng thì hét lớn lên, còn hai tiếng “ vạn …vạn “ rất nhỏ, chỉ nghe thoáng như hơi thở cuối cùng. Lưỡi dao sắc bén rơi mạnh xuống cổ anh, kêu một tiếng “phập“. Đầu anh rơi xuống một chiếc thùng mạt cưa kê ở dưới bàn máy chém (SĐD, tr.92-93).

Muốn tìm hiểu sự đấu tranh kịch liệt về tư tưởng, chủ thuyết, quan điểm chính trị giữa đảng viên Việt Nam Quốc dân đảng và Đảng Cộng sản Đông Dương khi ở tù đế quốc, cần đọc kỹ Hồi ký Trần Huy Liệu (NXB KHXH - 1991). Không chỉ tranh cãi về học thuật, họ còn có thể giết, ám hại khi chung khám. Ký giả Louis Roubaud có viết tập sách về Việt Nam Quốc dân đảng, đó là cuốn Việt Nam bi thảm Đông Dương. Trước năm 1975 tại miền Nam, ông Đường Bá Bổn (tức nhà văn Thế Phong) có dịch sang tiếng Việt, sau này NXB Văn hóa Thông tin tái bản.

Nếu lãng quên những người con ưu tú đã chết vì Tổ quốc, dù họ không cùng quan điểm, đường lối chính trị, chủ nghĩa này nọ thì trách nhiệm đó của ai? Của chúng ta đấy thôi. Lãng quên cái gì cũng có thể sửa sai, nhưng quên máu đã đổ xuống vì Tổ quốc, không một nhà cầm quyền nào được phép quên. Quên ấy là nợ. Không chỉ nợ với tiền nhân mà còn là nợ với cuộc đời đang tiếp nối từng ngày. Món nợ ấy, chắc chắn văn hào Lỗ Tấn có nói rằng: “Hễ mắc nợ càng lâu thì phải trả lãi càng nhiều”.

Đời sống, tự nó, mỗi ngày cứ đi qua. Đi qua. Đi qua. Đi qua. Có bao giờ tĩnh tâm, dừng lại, suy ngẫm một điều gì thật sâu không?

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 15.6.2015

 

tan-dan-tap-chi-Van-1-R
Tạp chí Văn thực hiện chuyên đề về Thi sĩ Tản Đà - số 35 (1.VI.1965) ấn hành tại Sài Gòn.Tư liệu L.M.Q

 

Phường chèo bôi nhọ trắng xanh

Cái nơi lục tặc tam bành nhiễu nhương

Đã chơi. Chơi với văn chương

Chơi gì với cái hội trường mà chơi

Văn nhân bước xuống cuộc đời

Ngoa ngôn mồm mép tuôn lời quỷ ma

Lập lờ láu lưỡi líu lo

Nhe răng phọt tiếng hoan hô rầm rầm

Dọn mặt? Mặt cũng từ tâm

Dọn tâm? Giấu lưỡi dao đâm bất ngờ

Văn chương? Chữ nghĩa? Câu thơ?

Cũng tang thương đến dật dờ tang thương

Về chơi trong cõi thư hương

Chơi gì với cái hội trường mà chơi

Có những câu thơ viết cho riêng mình. Nó thoáng qua nhưng thật ra suy nghĩ đã lâu. Có cần phải ghi vào Nhật ký? Nàng bảo thôi. Chẳng cần đâu. Cuối cùng vẫn ghi. Tại sao? Sự hiện diện của từng con chữ rành rành giấy trắng mực đen đã là sự nhắc nhở mỗi ngày. Một mũi tên đã rời khỏi cung, đố thu lại được. Vết mực mong manh là thế, nhạt mờ là thế, đố tác giả có thể tẩy xóa. Làm sao có thể tẩy xóa lòng mình?

Thế thì, y biết tỏng tòng tong cái tính giao động, sáng nắng chiều mưa, bốc đồng, dễ nghe theo lời dụ dỗ, mời mọc, thiếu kiên định, quyết đoán của chính y. Y biết y lắm mà. “Đó là một gã đàn ông mạnh mẽ, ngang tàng nhưng thích bông phèng và dễ bị chìm đắm. Một người thường đút tay túi quần lững thững đi bộ, mắt ngước cao xanh. Khi đã chán đi bộ thì như vùng chạy. Chạy mãi miết, không còn nhìn thấy gì mà chỉ nghe hơi thở của chính mình. Hoặc đi bộ, hoặc là chạy chứ không có kiểu lật đật, vội vội vàng vàng. Đó chính là Lê Minh Quốc”. Nhận xét này là của bạn văn Trần Nhã Thụy, lúc viết Bạt cho tập trường ca Hành trình của con kiến, năm 2006. Ngẫm lại, vẫn thấy đúng. Một người “dễ bị chìm đắm”. Biết thế, phải tự thoát ra trong trường hợp cụ thể này. Viết vào Nhật ký như một sự nhắc nhở. Đừng quên. Đừng dễ dãi. Đừng vui đâu chúc đó. Ừ, vâng ạ. Sẽ vắng mặt trong cuộc họp ở hội trường vào ngày mai.

Đã gần đến Ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam. Đã có nhiều chương trình giao lưu, sinh hoạt nghiệp vụ về nghề. Ngày hôm qua vui. Có dịp đến Hội Nhà báo xem các đồng nghiệp trổ tài nấu bếp. Lúc nghe bác sĩ Yến Thủy nói chuyện về dinh dưỡng, sức khỏe của bác sĩ Yến Thủy - Trung tâm Dinh dưỡng TP.HCM, ghi được câu này: “Giầu ăn ba bữa, khó cũng đỏ lửa ba lần”. Sau khi kết thúc, Ban Tổ chức mời cùng ra quán Ngon ăn trưa, nhưng từ chối. Bởi là ngày Chủ nhật. Ngày của rượu đỏ. Ngày của hai người. Ngày của cái sự phiêu bồng. Nến thơm. Trầm dậy lên thoang thoảng. Bám lấy da thịt người. Nhai ngấu nghiến. Vì lẽ đó, vội vã chuồn ngay. Sợ đồng nghiệp níu kéo. 

Trưa qua, tạt vào đường Hai Bà Trưng, đối diện khách sạn Park Hyatt. Ở đó có một ngõ nhỏ, bề ngang độ bốn mét. Đi sâu vào bên trong, tả hữu đều có quán ăn. Có một khoảng sân rộng. Có thể nhìn thấy cả bầu trời xanh giữa bốn bề cao ốc. Hầu hết bảng hiệu các quán đều ghi bằng tiếng nước ngoài. Do dốt ngoại ngữ, nên không thể nhớ hết. Chỉ biết, nếu dịch ra tiếng Việt các quán có nghĩa như Tinh chế, Phù dung v.v… Trong tập Ve vãn Sài Gòn, Chị Đẹp cho biết “thực chất trước đây là một nhà máy chế biến thuốc phiện từ thời Pháp”. Thông tin lý thú này, trong Sài Gòn năm xưa, cụ Vương Hồng Sển cũng không nêu ra.

Ngồi ăn và thầm mong có một cơn mưa ùa đến cho đất trời thanh tân mát mẻ. Nhưng không hề. Trong khi đó, ngày 13.6.2105 ở ngoài Hà Nội lại có lốc xoáy, giông bão lớn. Theo báo TN sáng nay: “2 người chết, 5 người bị thương, hơn 1.290 cây xanh bị đổ, gần 140 căn nhà bị tốc mái, nhiều ô tô, xe máy, trạm điện bị hư hại. Hai người chết do bị cây đổ đè đều xảy ra ở Q.Hai Bà Trưng, trong đó 1 người chết tại chỗ, 1 người chết trên đường đi cấp cứu; 5 người khác bị thương do rơi mái tôn, rơi biển báo xây dựng và cây đổ ở các quận Hoàng Mai, Cầu Giấy, Hoàn Kiếm…”. Chi tiết này mới lạ lùng: “Tại đường Khuất Duy Tiến, Nguyễn Trãi, Lê Văn Lương… cũng có nhiều cây xanh mới trồng bị giông lốc quật bung gốc để lộ bầu cây còn nguyên lớp ni lông bọc kín khiến rễ cây không bám sâu được vào đất”. Với y, lạ nhưng không mới, vì vài năm trước đây khi về thăm quê sau bão, đã nghe các đồng nghiệp ở Đà Nẵng đã kể cho nghe cái kiểu trồng cây kỳ quặt, cẩu thả thế này rồi. Tưởng chỉ là “sáng kiến” của một địa phương, không, nó cũng phổ biến rộng đấy chứ?

Những ngày này, lúc cà phê tán phét, bàn phiếm mua mua vui thường nghe bạn bè kháo nhau nhiều thông tin. Bằng không, cứ lang thang trên các trang mạng xã hội thì rõ. Thượng vàng hạ cám. Đủ tất. Biết tất, Cuối cùng, để làm gì? Vì thế, lại quay về với chuyên môn, với sở thích cá nhân. Chẳng phiền ai mà cũng chẳng phiền mình.

Lâu nay, trong lòng tự nhủ, cố gắng sưu tập các bản Truyện Kiều. Chẳng phải ham hố chơi sách cũ. Đơn giản, có dịp, có lúc đối chiếu xem câu đó, chữ đó các bản đã in sử dụng thế nào; hoặc đã chú giải, giải thích ra làm sao. Nói thật, rất thích bản Vương Thúy Kiều chú giải tân truyện của thi sĩ Tản Đà. Lúc viết Thi nhân Việt Nam, nhằm tổng kết một gian đoạn rực rỡ nhất của phong trào Thơ mới, Hoài Thanh Cung chiêu anh hồn Tản Đà: “Tiên sinh sẽ đại biểu cho một lớp người để chứng giám công việc lớp người kế tiếp. Ở địa vị ấy còn có ai xứng đáng hơn tiên sinh”. Vậy người đó thẩm thấu Truyện Kiều ra sao? Lâu nay, tìm mãi vẫn không mua được tập sách Tản Đà chú giải về Truyện Kiều. Ngày kia, tình cờ tạt ngang qua một tiệm sách cũ như một cách giết thời giờ, lại thấy nó sờ sờ ngay trước mắt. Đọc xong, nghĩ rằng, nghệ sĩ cỡ như “ông thần ngông” Tản Đà là có quyền mỗi ngày đàn đúm, ăn nhậu bạt mạng, xem trời bằng vung, “sáng sỉn, chiều say, tối lai rai nhậu tiếp”?

Trời đất sinh ta rượu với thơ

Không thơ không rượu sống như thừa

Mê man chìm đắm trong rượu để làm thơ, sướng quá chăng? Tâm sự của Tản Đà đó chăng? Y từng nghĩ thế. Các nhà phê bình văn học cũng nghĩ thế. Nay phải nghĩ khác một chút. Có lẽ phải xếp nó vào dạng thơ “tự trào” của Tản Đà thì hợp lý hơn. Đọc Vương Thúy Kiều chú giải tân truyện, mới cảm nhận được sức lao động miệt mài chữ nghĩa của Tản Đà - một người nghệ sĩ đích thực. Ai lại không lao động mỗi ngày? Nhà văn nào không viết? Vẫn biết thế nhưng lý thú ở chỗ, đôi khi tư duy của nhà thơ về Truyện Kiều lại có những phát hiện lý thú.

Rằng: “Nghe nổi tiếng Cầm Đài

Nước non luống những lắng tai Chung Kỳ”

Một, hai điển tích, điển cố trên không cần phải giải thích nữa. Đọc bản Kiều nào cũng có thể tìm thấy. Theo học giả Đào Duy Anh: “Một hôm Bá Nha đàn mà bụng nghĩ đến núi, Tử Kỳ khen: Tiếng đàn cao vòi vọi như núi. Đến khi Bá Nha đàn mà bụng nghĩ đến sông, Tử Kỳ khen: Tiếng đàn cuồn cuộn như nước chảy” (Tự điển Truyện Kiều). Tuy nhiên chỉ ở bản của Tản Đà mới có được câu này: “Chung Kỳ người sành nghe đàn, Bá Nha đánh đàn, bụng nghĩ ở non hay ở nước, Chung Kỳ nghe điều hiểu cả. Cho nên trong câu đây có hai chữ “nước non”. Thú vị chưa? Cái hay của Tản Đà là phát hiện ra hai từ “nước non” ở đầu câu. Nó  có ý, có tứ chu đáo rõ ràng mà nhiều văn bản khác không đề cập đến, bỏ sót, kể cả nhiều người tự xưng "nhà Kiều học".

Đất say đất cũng lăn quay

Trời say mặt cũng đỏ gay ai cười

Nếu thật sự Tản Đà sống trong tâm thế đó, liệu ông có kiến văn, thời gian để suy ngẫm được gì khác?

Văn nhân bước xuống cuộc đời

Ngoa ngôn mồm mép tuôn lời quỷ ma

Lập lờ láu lưỡi líu lo

Nhe răng phọt tiếng hoan hô rầm rầm

Học tập người xưa, y cũng răn lấy mình đấy thôi. Nếu cứ cả nể, nể nang rồi đu đưa mãi theo những gì  ngoài chữ nghĩa, liệu có còn thời gian làm được cái gì khác? Mà cũng chẳng cần được đến thế, chỉ cần hỏi, liệu tâm hồn có còn an nhiên để mỗi ngày bình tâm "Về chơi trong cõi thư hương"?

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 9.6.2015

 

sach-cua-Tu-Ke-Tuong-R-1

Tập truyện dài Gió vàng thu của nhà văn Từ Kế Tường in trước năm 1975


Có chuyện này vui:

Giây phút thư giản thú vị nhất vẫn là lục lọi, tìm kiếm, sắp sếp lại tủ sách của riêng mình. Chiều nay, tìm thấy quyển truyện dài Gió vàng thu của nhà văn Từ Kế Tường in trước 1975 do cơ sở in ấn Đồng Nai (270 Đề Thám, Sài Gòn) xuất bản. Bèn điện thoại hỏi tác giả: “Anh có còn giữ không? Nếu không. Q sẽ tặng”. Sở dĩ hỏi, vì thỉnh thoảng vào trang facebook của anh, biết chuyện anh đang tìm lại các tác phẩm đã viết thuở đôi mươi để tái bản. Đã có một hai bạn đọc nhiệt tình giúp anh.

Lật ra trang cuối cùng của quyển Gió vàng thu, thấy có dòng chữ giới thiệu của cơ sở in ấn Đồng Nai: “Sẽ phát hành một bộ tiểu thuyết tình cảm của nhà văn Từ Kế Tường: Suối mây hồng, Cơn mưa bạc tình, Đôi mắt sầu mây, Những sợi tóc chiều, Như một chỗ nghỉ chân. Đã đọc Gió vàng thu, các bạn không thể thiếu những tác phẩm trên sẽ làm bạn đọc say mê và thấy niềm ray rức - nỗi âu sầu - một linh hồn dân tộc đang ầm ĩ nung nấu làm bạn trở về thực tế mà bạn đang mộng mơ… Số in có hạn ưu tiên. Đại lý đặt trước”.

Tìm được tác phẩm đã in chừng 50 năm trước, nay không còn giữ, với nhà văn, niềm vui đó lớn lắm.  Sau cuộc điện thoại ấy, lòng thấy vui vì đã đem lại niềm vui cho đồng nghiệp.

Có chuyện này vui:

Đã lâu lắm rồi. Ngồi lai rai đâu đó cùng anh Biền và Đoàn Tuấn. Câu chuyện lan man trên trời dưới biển, rồi quay về thời ở chiến trường K. Tuấn có kể về ngày tháng của năm 1981 - mà hắn đã viết trong tập thơ Đất bên ngoài Tổ quốc:

“Ngày nào cũng có người bị thương hoặc hy sinh, không của đơn vị tôi thì của đơn vị khác chuyển đến. Tôi nhớ mấy cái sạp làm tạm ở bìa rừng dành cho thương binh, tử sĩ, lúc nào cũng đầy máu. Vừa khiêng người này đi, chưa kịp lau máu đọng trên sạp thì đã phải đặt người khác vào. Tranh thủ lúc rỗi, chiều nào tôi cũng bẻ mấy cành tre xuống xua ruồi, đuổi muỗi cho anh em bị thương nằm la liệt không cử động được.

Chính dạo ác liệt đó, tôi được chuyển từ thông tin lên thay anh Nguyễn Văn Cúc, người Nghĩa Bình, làm trợ lý chính trị Tiểu đoàn. Anh Cúc về làm phó Đại đội trưởng C6. Quân số hy sinh quá nhiều. Lúc đầu còn có máy bay lên thẳng HU-IA đến chở đi hoặc chuyển lên Sư đoàn bằng cách khiêng bộ. Sau máy bay không có nữa. Khiêng bộ thì tốn kém. Hai trung đội dải đường dài 16 kilômét từ đơn vị đến phum Camtuất, cộng một tiểu đội dẫn đường, lại thêm mấy người thay nhau khiêng một ca. Mà vẫn bị phục, vẫn bị mìn clâymo quạt. Thêm bao nhiêu người hy sinh. Người chết rồi bị chết thêm lần nữa. Cuối cùng Sư đoàn quyết định làm một nghĩa trang ở ngay giữa Tiểu đoàn tôi. Cử thêm một trung đội vận tải xuống chuyên cưa cây, xẻ gỗ, đóng quan tài. Nghĩa trang được làm nằm giữa Tiểu đoàn bộ và đơn vị Quốc. Tôi biết Quốc phải đi tuần, đi phục liên tục. Rất dễ hy sinh. Mà tôi được tiểu đoàn giao nhiệm vụ giữ di vật tử sĩ và tổ chức chôn liệt sĩ cho chu đáo. Chính trị viên Nguyên Văn Vẳng giao nhiệm vụ cụ thể cho tôi: “Chôn vì người sống chứ không chỉ vì người chết. Làm sao để anh em đang sống, nhìn vào, biết được rằng, khi họ hy sinh, cũng được đối đãi tử tế như thế!”. Tôi hiểu. Và làm hết sức mình. Đun nước. Nhặt thịt xương. Rửa ráy. Chắp lại. Xếp cho đủ các bộ phận cơ thể. Mặc quần áo. Quấn vải liệm. Gác đêm, canh thú rừng khỏi mò đến ăn xác. Đào huyệt. Tổ chức đội vệ binh đứng bên bờ huyệt. Đọc lời điếu và bắn súng tiễn biệt đàng hoàng. Sau đó mới chôn. Hết sức “oách” theo kiểu nhà binh”.

Nghe Tuấn kể xong, anh Biền rưng rưng cảm động. Lặng người. Giây lát sau, anh bảo: “Thế T đã đọc Vài ngày làm việc ở chung sự vụ của nhà thơ Nguyên Sa chưa?”. Tất nhiên là chưa. Y cũng thế. Sở dĩ có câu hỏi đó, vì quyển sách của Nguyên Sa cũng viết về công việc tương tự mà T đã kể. Những trò chuyện trong các cuộc nhậu, hầu như sau đó ít người còn nhớ đến, dù rằng lúc đó do tác động của bia, của rượu nên đã hăng hái nói, tranh giành nói, nói hăng tiết vịt, nói bừa phứa, nói ngang cành bứa rồi quên tuốt luốt. Không ngờ anh Biền lại nhớ. Chiều hôm kia có mặt trong cuộc đàn đúm, chém gió do anh Lưu Đình Triều mời, vừa ngồi vào ghế, anh Biền đã lấy ra quyển Vài ngày làm việc ở chung sự vụ: “Q chuyển cho Tuấn”. Quyển này Nguyên Sa in năm 1972, Tự điển văn học (bộ mới) do NXB Thế Giới in năm 2004 có nhắc đến.

Cầm lấy sách, lòng thấy vui vì biết bạn mình khi nghe tin này rất vui ắt nhảy cỡn lên sung sướng như đứa trẻ được mẹ đi chợ đem về cho tấm bánh. Sẽ gửi cho Tuấn. Nhưng phải đọc trước đã.

Có chuyện này vui:

Quán mà anh Triều mời đến nhậu, đối diện với Thảo Cầm Viên, đi sâu vào con hẻm nhỏ. Quán lạ, nhưng tại sao y lại có cảm tình? Chỉ vi cái thực đơn thiết kế như trang nhã như một tờ báo. Ca dao, hò vè liên quan đến Hà Nội 36 phố phường, đã đọc, đã nghe nhiều rồi. Bây giờ mới biết thêm bài ca dao về Nam Định. In ngay trang đầu tiên của thực đơn:

Thành Nam quê tôi

Thành Nam cảnh trí an bài

Phố phường trên bộ, vạn chài dưới sông

Nhất thành là phố cửa Đông

Nhất lịch Hàng Ghế, Hàng Đồng, Hàng Thao

Hàng Giầy đẹp khách yêu đào

Muốn tìm quốc sĩ thì vào Văn Nhân

Ba năm một hội phong văn

Lại lều lại chõng về thăm Cửa Trường

Ngọt ngào lên đến Hàng Đường

Say sưa Hàng Rượu, phô trương Hàng Cầm

Hàng Tiện, Hàng Sũ, Hàng Mâm

Gặp nhau Bến Gỗ, vui sân một nhà

Hàng Cót, Hàng Sắt bao xa

Ai về Bến Ngự rẽ qua Khoái Đồng

Vải màn nhỏ chỉ, nõ bông

Hàng Cấp dệt lĩnh, Hàng Song buôn thừng

Hàng dầu, Hàng Lạc, Hàng Vừng

Hàng Nâu tươi vỏ đỏ lòng vốn quen

Hàng Vàng lắm bạc nhiều tiền

Hàng Sơn  gắn bó gần bên Hàng Quỳ

Trăm năm nghĩa bạc tình ghi

Hàng Đàn, Hàng Ghế chung nghề thủ công

Cột Cờ lên đó mà trông

Đò chè lơ lửng bến sông cắm sào

Phố Khách buôn bán vui sao

Lợi quyền chểnh mảng nỡ trao tay người

Hàng Dầu, Hàng Mã, Hàng Nồi

Hàng Trống, Hàng Thiết lên chơi Hàng Thùng

Hàng Cau, Hàng Nón tưng bừng

Thành Nam văn vật lẫy lừng là đây

Thành Nam là tên gọi thành phố Nam Định. Hai câu: “Phố Khách buôn bán vui sao/ Lợi quyền chểnh mảng nỡ trao tay người” cho thấy lúc ấy đã sự cạnh tranh buôn bán với giới Hoa kiều. Đọc một văn bản, căn cứ vào từ ngữ, cách diễn đạt có thể suy luận thêm một vài thông tin cần thiết. Chẳng hạn, khi cái gì sắp mất đi thì người ta lại càng tiếc nuối, muốn ghi chép lại cho đời sau, mà cũng là một cách thể hiện tình cảm của riêng mình. Vì thế, đọc xong bài ca dao này, nghĩ rằng, có lẽ nó xuất hiện trước hoặc cùng lúc với Hà Nội 36 phố phường. Cụ thể xuất hiện trong thời điểm nào? Y nghĩ chỉ có thể vào thời người Pháp mới sang. Sự thay đổi cấu trúc chính trị, va chạm văn hóa, tâm tư tình cảm đã khiến nhiều người thở dài qua những câu vần vè gửi gắm nỗi niềm. Suy luận thế có đúng không? Trả lời câu hỏi đó, chiều nay bèn đọc lại quyển Thành Nam xưa của Vũ Ngọc Lý (Sở VHTT Nam Định) xem sao. Đọc lướt qua, mới biết còn có một dị bản khác. Dị bản này có nối thêm vài chục câu nữa, đã cho thấy suy luận trên là đúng:

Hàng Cau, Hàng Nón tưng bừng

Thành Nam văn vật lẫy lừng là đây

Lang Sa có mặt từ ngày

Đỏ đèn Bến Củi đọa đày hồng nhan

Hàng Thao tấp nập canh tàn

Tám nghề, bảy chữ mở hàng phấn son

v.v…

Câu kết thúc như sau:

Non xưa nước cũ tan tành

Nào ai phá lũy, dâng thành là ai?

Câu hỏi này xin dành cho các nhà nghiên cứu lịch sử Nam Định.

Có chuyện này vui:

Sáng nay đi dự tọa đàm triển khai Cuộc Vận động sáng tác văn học và âm nhạc về Tòa án nhân dân. Nhờ vậy, gặp lại một vài bạn bè đã lâu ngày không hàn huyên tâm sự. Trước khi đi họp đã phở cùng vợ chồng Trương Nam Hương và Ngô Kinh Luân. Mà vui nhất, trước đó đã thực hiện nghĩa vụ đưa một người đi ăn mì Nam Lợi, đã lưng lửng no, nhưng tiếp tục với phở. Vẫn ngon. Thế không vui là gì?

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 8.6.2015

KHONG-TU-R


Lâu rồi không phở với nhau

Tâm tình chín, tái, nạm, gầu, sụn, gân

Tiêu, hành, tỏi, ớt… kinh luân

Mỗi ngày mỗi phở là xuân mỗi ngày

Kinh Luân là tên riêng, một đồng nghiệp; cũng là một phần của câu 2.452 trong Truyện Kiều: “kinh luân gồm tài”. Sáng nay, nhớ phở, thèm phở nhưng rồi cũng không thể. Bấy lâu nay, mỗi sáng và mỗi chiều phải đi ăn với một người. Chữ “phải” nghe ra tủi thân quá nhỉ? Chẳng hề gì, đôi khi con người ta phải thay đổi thói quen vì một ai đó. Mà lấy làm hả hê. Sung sướng. Có kỳ quặc không? Chỉ làm hài lòng một người thôi. Là đủ. Không gì dẫn đến thất bại nhanh chóng bằng cách muốn lấy lòng, được lòng tất cả mọi người. Lúc đã ngoài ngũ thập, cách tốt nhất là hãy sống cho chính mình. Miễn cảm thấy hài lòng, không phải cố gắng vì hài lòng một người và nhiều người.

Chiều kia, nghe điện thoại réo rắt. Nhìn thấy tên của người bạn. “Có việc gì không T? Đang ở Sài Gòn à?”. “Không, mình đang đứng ở Bờ Hồ Hà Nội. Có tin vui muốn báo cho Q?”. “Tìn gì?”. “Mình sắp đi Mỹ, tháng 7 này”. “Vậy vui quá, B biết chuyện này chưa?”. “Chưa báo cho B. Vui với mình nhé”. Tất nhiên là vui. Tin ấy lẽ ra phải thông báo ngay với vợ, nhưng không, T lại nghĩ đến y. Thử hỏi, làm sao không cảm động?

Như thói quen không thể bỏ. Mỗi lúc ăn, nếu ngồi một mình, bao giờ cũng cắm mặt xuống trang báo. Sáng nay,  trong lúc chờ một người đến, tranh thủ đọc vài tớ báo mới. Tự nhiên bật cười với bài báo Di tích 317 tuổi chờ... sập in trên báo TN. Đồng nghiệp Lê Công Sơn viết về đình Thông Tây Hội được xây dựng vào năm 1698 (107/1 Nguyễn Văn Lượng thuộc P.11, Q.Gò Vấp - TP.HCM); năm 1998, được xếp hạng Di tích Kiến trúc Nghệ thuật cấp Quốc gia.

Thời mới chân ướt chân ráo vào nghề báo, y đã có lần viết một bài tương tự về đình này. Còn nhớ, một ấn tượng khiến y khó quên là nơi một góc đình còn có tượng thờ ông Tà, phủ vải điều. Đó là một cục đá tròn lẳn, trông như như con lợn con rất đẹp mắt. Sờ thấy bóng loáng. Lúc ấy, ngôi đình này đã xập xệ lắm rồi. Không ngờ, gần ba mươi năm sau, một đồng nghiệp thế hệ sau lại viết tiếp. Có nghĩa, mọi việc vẫn không có gì thay đổi. Nhà báo cứ viết, dòng đời cứ trôi. Không hẹn mà gặp. Báo TT, lại có bài viết về Dự án xây dựng Văn miếu tỉnh Vĩnh Phúc với tổng số vốn đầu tư gần 271 tỉ đồng. Bài báo của đồng nghiệp Vũ Viết Tuân cho biết: “Trong tờ trình của Sở Kế hoạch - đầu tư, Sở VH-TT&DL Vĩnh Phúc gửi UBND tỉnh Vĩnh Phúc tháng 10-2011 về việc đề nghị phê duyệt dự án xây dựng công trình Văn miếu tỉnh Vĩnh Phúc nêu rõ: “Văn miếu là nơi thờ Khổng Tử, nhà tư tưởng và giáo dục lớn thời cổ đại. Các nước theo Nho giáo trước đây như Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam đều xây dựng Văn miếu”.

Tiếp nhận thông tin này, có nhiều luồng ý kiến khác nhau.

Chẳng hạn, TS Nguyễn Quốc Tuấn - Viện trưởng Viện Nghiên cứu tôn giáo - Viện hàn lâm Khoa học xã hội VN cho rằng việc chi tiền ngân sách xây Văn miếu vài trăm tỉ để thờ Khổng Tử là không hợp lý. Theo GS Ngô Đức Thịnh - nguyên viện trưởng Viện Nghiên cứu văn hóa dân gian Việt Nam: “Hiện nay một số địa phương nước ta đang có xu hướng xây dựng lại Văn miếu thờ Khổng Tử và các vị khoa bảng ở địa phương. Nhưng xây ở đâu, xây như thế nào? Ta có thể xây rất đẹp, trang nghiêm, nhưng không nên dùng số tiền lớn như vậy". Với đình Thông Tây Hội, ông Trương Kim Quân, Giám đốc Trung tâm bảo tồn di tích thuộc Sở VH - TT TP.HCM cho biết: “Trăn trở lắm nhưng không biết tìm đâu ra kinh phí”.

Tréo ngoe thật. Có một cơ chế nào san sẻ kinh phí cho sự trùng tu, xây dựng về văn hóa trong phạm vi cả nước không?

Y mạo muội nghĩ rằng, kinh phí chỉ là chuyện nhỏ, vấn đề cần quan tâm hơn là nhân vật Khổng Tử có còn “hợp thời” nữa không? Có những nền triết học, dòng tư tưởng là sự cống hiến, thúc đẩy tiến hóa của nhân loại trong bối cảnh lúc đó, thời điểm đó. Nhưng vài mươi thế hệ sau, nó lại trở nên lạc hậu, thậm chí phản động, vậy vẫn tiếp tục bám rịt, bấu víu lấy nó hay phải tìm cách thoát ly?

Trước đây, y đã đọc hai quyển sách Khổng tử, Nhà giáo họ Khổng của học giả Nguyễn Hiến Lê nhưng thú thật không thể tự mình rút ra một kết luận. Chỉ biết rằng, nhà nghiên cứu Will Durant - tác giả bộ Lịch sử văn minh mà Nguyễn Hiến Lê có trích lại: “Nhưng chỉ một triết lý Khổng học thôi, chưa đủ. Nó rất thích hợp với một quốc gia cần thoát cảnh hỗn loạn nhu nhược để lập lại trật tự lấy lại sức mạnh, nhứng đối với một quốc gia cần cải tiến hoài để ganh đua trên trường quốc tế thì triết lý đó là một trở ngại” (Khổng Tử - NXB Văn Hóa, 1995- tr.229). Khi nghiên cứu về Khổng Tử, Nguyễn Hiến Lê cho rằng: “Từ xưa đến nay, hầu hết các học giả viết về Khổng tử đều dùng cả tứ thư lẫn Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Khổng tử gia ngữ v.v… làm tài liệu, như vậy theo tôi không phải là tìm hiểu Khổng từ mà tìm hiểu Khổng giáo trong suốt thời Chiến Quốc, vì ngoài bộ Luận ngữ là bộ đáng tin cậy nhất, còn thì bộ nào cũng chứa nhiều tư tưởng của người sau, không phải của Khổng tử (SĐD, tr.7).

Theo báo Tuổi trẻ cuối tuần (12/11/2014 05:00 GMT+7) “TTCT- Trong vòng một tuần qua, hai trường đại học có uy tín tại Mỹ - Đại học Chicago và Đại học Pennsylvania - đã lần lượt ra tuyên bố ngưng hợp tác và đóng cửa Viện Khổng Tử, cơ quan giảng dạy ngôn ngữ và văn hóa Trung Quốc. Cùng thời điểm này, tại Canada, Ban điều hành hệ thống trường học thành phố Toronto cũng đưa ra quyết định tương tự. Các quyết định này được công bố ngay tại thời điểm Trung Quốc rầm rộ kỷ niệm 10 năm thành lập và mở rộng Viện Khổng Tử trên toàn cầu”. Theo trang điện tử vietnamnet.vn (11/01/2015 12:38 GMT+7): “Thuỵ Điển đóng cửa Viện Khổng tử. ĐH Stockholm, Thuỵ Điển là trường đại học mới nhất thông báo sẽ đóng cửa Viện Khổng tử - một trong hàng trăm trung tâm được Chính phủ Trung Quốc rót ngân sách để phục vụ việc học tiếng Trung và văn hoá nước này trên toàn thế giới”. Trang vnexpress.net (Thứ bảy, 27/12/2014 | 19:43 GMT+7) cho biết: “Đại học Hà Nội thành lập 'Học viện Khổng Tử: Theo Hiệu trưởng ĐH Hà Nội Nguyễn Đình Luận, việc thành lập Học viện Khổng Tử sẽ thúc đẩy việc nghiên cứu, giảng dạy tiếng Trung Quốc, góp phần củng cố và phát triển quan hệ Việt - Trung”.

Thật lạ, trong khi Trung Quốc rất tôn thờ Không Tử, có  cả học viện nghiên cứu về nhân vật này, chẳng rõ họ đã tiếp thu, vận dụng ra làm sao mà ngày nay họ đã như thế này? Thế này là thế nào? Là những gì đang xẩy ra, chứng kiến mỗi ngày đó thôi. Chẳng cần phải đi sâu vào thời sự. Chỉ biết rằng, hiện nay Nhà nước ta đang chủ trương mở tour du lịch Trường Sa  thuộc chủ quyền Việt Nam thì Trung Quốc phản đối ầm ầm!

Kệ mày. Mày cứ phản đối. Dòng đời cứ trôi. Thế thôi.

Hôm qua, hôm nay nhiều báo đưa tin về trường hợp anh Nguyễn Sự - Bí thư Hội An bất ngờ xin nghỉ hưu trước tuổi. Tết vừa rồi có buổi trò chuyện với anh tại Hội An. Rất thú vị. Sổ tay ghi chép có nhiều chi tiết hay, chưa khai thác. Sẽ viết sau. Nay kể thoáng qua chuyện này: Một tập đoàn đầu tư nọ nhờ có sự can thiệp trực tiếp của anh, vượt qua nhiều trở ngại về thủ tục "hành chánh" nên đã xây dựng đúng thời hạn một khu nghỉ dưỡng. Sau đó, ban  giám đốc có đến tư gia và tặng riêng anh một số tiền rất lớn thay lời cảm ơn. Nếu anh nhận, họ chỉ mất một số tiền là 1 và được quyền khinh anh. Tuy nhiên, anh đã không nhận, thẳng thắn từ chối và nói rằng số tiền anh cần là 100 chứ không 1. Mà số tiền đó nhằm xây dựng một công trình công cộng. Cảm phục sự liêm khiết, trong sạch của anh, tập đoàn kinh tế đó đồng ý. Họ đã bỏ ra số tiền lớn hơn rất nhiều lần và tự hào đã có đóng góp cho nhân dân Hội An. Công trình này, vẫn còn sờ sờ đó. Chính những người trong cuộc đã kể lại chuyện này. Không viết cụ thể các chi tiết khác, chưa phải lúc. Đánh giá  về một con người là khó. Tuy nhiên, bằng cảm nhận trực giác, y tin, rất tin anh  Nguyễn Sự là người tốt, có lòng với cộng đồng. Nếu cán bộ, quan chức nhà  nước mà ai ai cũng như anh thì Dân đỡ khổ biết bao nhiêu.

Qua việc từ chức của anh Nguyễn Sự, có một điều tức cười, khi quan chức "treo ấn từ quan" là điều bình thường trong một xã hội bình thường. Nhưng rồi, dư luận lại cảm thấy bất thường vì lâu nay dù đã hết xí quách, đã đến tuổi về vườn nhưng rồi người ta vẫn bám lấy ghế, chứ có ai dám về hưu trước thời hạn đâu. Một xã hội, điều bình thường trở nên bất thường, và ngược lại, đó là một xã hội thế nào?

Câu trả lời khó quá phải không?

 

L.M.Q

 

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 7.6.2015

 

giadinh-bao-Tu-lieu-L.M.QBộ Gia Định Báo từ năm 1882 đến năm 1885. Tư liệu của L.M.Q

 

Ngày hôm kia, đã nhận Gia Định Báo. Bản photocopy. Cân nặng đúng 7 ký rưỡi. Đó là các số báo liên tục từ năm 1882 đến năm 1885. Thư viện của Trường Đại học Khoa học và Nhân văn TP.HCM hiện nay chỉ lưu trữ chừng đó. Cô cán bộ giảng dạy ở trường là Thạc sĩ Hoàng Khuyên cho biết, Thư viện Quốc gia Việt Nam còn lưu trữ nhiều hơn. Đã “số hóa” toàn bộ Gia Định Báo hiện có. Tờ báo này tồn tại bao nhiêu năm? Các nhà nghiên cứu vẫn chưa thống nhất. Có tài liệu cho rằng Gia Định Báo đình bản chính thức vào ngày 1.1.1910.

Nhìn hai tập Gia Định Báo, khổ lớn, tự nghĩ, chẳng thể đọc một cách chu đáo. Chỉ có thể lật qua loáng thoáng. Đọc nhảy cóc. Chỉ lúc trẻ, nhất là thời sinh viên, khoảng thời gian đó luôn thèm đọc. Đọc ngấu nghiến. Hễ cái gì lọt vào tay là đọc. Hơn nữa, thời bao cấp, những ngày cuối tuần, các bạn đã về Sài Gòn; hoặc về quê ở các tỉnh lân cận như Sông Bé, Long An, Biên Hòa…, y ở lại ký túc xá với cái bụng đói meo. Cô độc. Vắng vẻ đến lạnh người. Giết thời gian, chỉ có thể nằm đọc sách. Đọc cho quên đói. Quên ngày rộng tháng dài của cái thời đang trẻ, đang sung sức, thèm bay nhảy mà phải bó gối nhìn thời gian trượt dần ngoài hiên nắng... Lúc rời bộ đội, phục viên về cố xứ, đã có ý định làm giấy tờ đi học ở Nga. Bấy giờ, Đoàn Tuấn đang học ở đó, thư về, hắn cho biết bên đó bọn sinh viên còn khổ hơn thời đi bộ đội. Chẳng biết hư thực ra sao. Nghe nản quá, bỏ luôn ý định đó.

Bây giờ, chẳng thiếu thốn gì, kể cả thời gian nhưng rồi lại lười. Lười đọc. Chỉ bù khú, tán phét, buôn dưa lê, chém gió là giỏi. Ngày hôm kia, ngồi lật từng trang. Đọc qua, để biết tình hình chính trị xã hội, lời ăn tiếng nói của năm tháng xa xưa có gì lạ? Tất nhiên, nhiều cái lạ, cái mới mà lần đầu tiên y được tiếp cận. Sau đây, một vài ghi chép vụn vặt, ngẫu hứng:

Ngay trang nhất của tờ Gia Định Báo có mục “Tóm tắt” nhằm liệt kê các tin bài chính trong số báo đó.

“Cấm nhặt các chủ ghe lồng cùng các thứ ghe gì khác của người Annam hay là người Khách, hễ đi lên hay là đi xuống sông Saigon, mà có gặp tàu khói, thì đừng lướt mà đi trước các tàu lớn ấy”. Nếu xẩy ra tai nạn, tự chịu trách nhiệm. “Từ nay trở về sau, hễ các ghe thuyền đi trong sông Saigon ban đêm, đi xuống hay đi lên  thì phải  có thắp hai cái đèn, một cái ở trước mũi, một cái ở đàng sau lái… Còn những ghe chạy buồm thì phải có thắp một cái đèn một bên ghe, cho người ta biết ghe đi hướng nào” (Gia Định Báo số 32 - mồng 9 Aout 1884).

Ngày 22 janvier 1885, lúc 8 giờ rưởi tối cháy Khám lớn Sài Gòn “khi ấy trong khám có 600 tội nhơn”. Những người Việt Nam phạm tội, bị xử ở tòa án Nam Vang bên Cao-mên (Campuchia) cũng bị đày ra Côn Lôn. Có đăng nhiều thông tin liên quan đến Cao-mên. Mối quan tâm lớn nhất của nhà cầm quyền Pháp lúc bấy giờ vẫn là tổ chức Thiên Địa Hội. Những người Khách (tức người Hoa) bị bắt, giam tại Khám lớn Sài Gòn, hoặc đày ra Côn Lôn; có thể sau đó bị trục xuất; toàn bộ gia sản bị “biên phong”. Có số báo ghi rõ đã “biên phong” những gì, qua đó, có thể biết vật dụng sinh hoạt của thời xa xăm đó. Vài ba số báo lại thấy đưa tin về bắt bớ, xử án những ai liên quan đến Thiên Địa Hội.

Theo y, đến nay, quyển Hội kín ở xứ An Nam (bản tiếng Pháp) của G.Coulet in năm 1926 tại Sài Gòn vẫn là quyển biên khảo đầy đủ, giá trị nhất về tổ chức Thiên Địa Hội. Ông Trương Minh Hiển - Ban Tu thư ĐH Dân lập Hồng Bàng đã dịch ra tiếng Việt, dày gần 300 trang, khổ A 4. Mới đây, y có “xúi” một đơn vị làm sách cần liên hệ tác quyền với người dịch để in ấn, phát hành rộng rãi. Không rõ nay đã đến đâu rồi? Thị trường sách hiện nay có quá nhiều loại sách vô thưởng vô phạt. Cũng phải thôi, phải làm sách bán chạy, ăn khách thì mới tồn tại. Nhưng đáng tiếc vẫn thiếu, rất thiếu những người làm sách vì mục tiêu truyền bá văn hóa, chứ không đơn thuần vì lợi nhuận. Cỡ như NXB Đời Nay của các ông Tự Lực Văn Đoàn, như NXB Tân Dân của ông Vũ Đình Long thời tiền chiến; hoặc trước năm 1975, tại miền Nam có ông Nguyễn Đình Vượng với cơ sở ấn loát Văn; hoặc ông Lãng Nhân với Nam Chi Tùng Thư; hoặc sách của NXB Tân Việt v.v... Tất cả của tư nhân, chứ không phải trực thuộc "cơ quan chủ quản" của một tổ chức chính trị nào. Ý thức của người xuất bản gắn liền với sứ mệnh mà tự họ nghĩ rằng, mình phải gánh vác. Sự tự nguyện ấy cho thấy ngoài lợi nhuận còn là một sự thúc đẩy cho nền văn hóa nước nhà. Nghĩ thoáng qua, lại thấy còn có ông Khai Trí “chịu chơi” cỡ nào. Nếu không có tài chính của ông, làm sao tập san Sử Địa, tờ báo Thiếu Nhi có thể thực hiện? Nghe đâu, bộ Sử Địa đang được một đơn vị làm sách tư nhân in lại trọn bộ.

Nếu có ai chịu khó ghi lại các vụ án thuộc chuyên mục “Ngoài công vụ”, tường thuật trên Gia Định Báo, qua đó, có thể hình dung ra thực trạng xã hội của một thời.

Cần xác định lại, người Việt Nam đầu tiên phổ biến thơ La Fontaine là Trương Minh Ký, chứ không phải ai khác, trước Nguyễn Văn Vĩnh rất nhiều năm. Có điều, ông Ký viết lại thành văn xuôi, chứ không dịch thành thơ. Chuyên mục “Thứ vụ” trên Gia Định Báo đã cho phép dẫn đến kết luận đó.

Trong cuộc họp hội đồng quản hạt, người chủ trì gọi là “ông làm đầu”; khi biểu quyết, ý kiến đồng thuận, ghi văn bản là “ưng”. Chữ Nho gọi là “chữ Nhu”. “Cò” đã xuất hiện trong các vụ kiện tụng, nhất là bọn biết tiếng Pháp: “Khuyên ai chớ nghe lời những đứa gian trá, biết một hai tiếng Langsa, một hai chữ Langsa, lếu láo không biết làm ăn chi”, dù án đã tuyên nhưng vẫn nhận tiền chạy án!

“Người chủ xe đò số 193 có đặng hai cái dao cạo bỏ quên trong xe ấy, bây giờ để tại tại lính tuần thành Bang-kok. Nếu ai mất thì tới đó mà nhìn” (Gia Định Báo số ra ngày 14 Mars 1882). Thì ra cái dao cạo thời ấy là một vật mà không phải ai cũng có thể sở hữu, chắc rằng giá bán không rẻ. Mặt hàng quảng cáo nhiều nhất thời đó là thuốc Tây chữa các bệnh như ghẻ lác, đau mắt, ho, nghẹt mũi…

Ôn cố tri tân là cái lẽ cần thiết của người đọc báo cũ. Trước đây và gần đây, có những nơi hễ xe đò, xe lửa đi ngang qua bị kẻ xấu ở địa phương đó ném đá, gây thương tích cho hành khách. Mới đây, ngày 1.6.2015, khi xe khách đi trên đường Hồ Chí Minh, ngang qua thôn Brông Mỹ, xã Đắk Môn, huyện  Đăk Glei (Kom Tum) đã bị một lũ thanh niên hư hỏng ném đá gây thương tích nhiều người. Đã nhiều năm rồi vẫn chưa thể ngăn chận triệt để được hành động bất nhẫn này. Thời thuộc Pháp, những trường hợp tương tự xẩy tại địa phương đó như mất an ninh, đánh nhau, ẩu đả, giết người, nhà cầm quyền xử lý bằng biện pháp nào?

“Vì có giấy quan tham biện Biên Hòa ngày 23 décembre 1884, nói trong đêm 19 rạng ngày 20 tháng ấy, có một đảng ăn cướp đến đánh giết một tên Khách cùng lấy của cải trong nhà tên Khách ấy tại chợ Lò-gạch, làng Bình-điền, tổng Phước-vĩnh-trung;

Xét trong làng ấy không lo tiếp cứu người ấy;

Xét vì quân ăn cướp thường năng tới đánh phá làm dữ như vậy, là bởi các làng không tuần cảnh chăm sóc.

Y theo lời quan Thượng thơ tỏ bày.

Đã có bàn cùng tòa nghị tư.

Nghị định:

Khoản thứ nhứt - Phạt chung làng Lò-gạch, làng Bình-điền, tổng Phước-vĩnh-trung thuộc hạt Biên Hòa tám chục đồng bạc. Các người ở gần chỗ ăn cướp đánh hơn hết phải tùy theo ruộng đất, mà chịu.

Khoản thứ 2 - Người giám thâu thuế tại Biên Hòa sẽ thâu tiền ấy cùng đem vô kho, để nhản hiệu là: các phần lợi, phạt cùng tịch ký, trong sổ thâu chuẩn năm 1884.

Khoản thứ 3 - Quan Thượng thơ lo cho lời nghị này thi hành.

Sài Gòn, ngày 12 janvier 1885”.

(nguồn: Gia Định Báo số 4, ngày thứ bảy 24 janvier 1885).

“Tám chục đồng bạc” năm 1885 nhiều hay ít? Giá bán Gia Định Báo thời điểm đó, mua 6 tháng phải trả 2 đồng.

Qua văn bản này, ta có thể rút ra điều gì?

Thời trước, nếu vớ phải sách báo cũ, tài liệu quý, đã hào hứng đọc say mê và viết thành bài gửi cộng tác các báo. Cái thời sinh viên mới ra trường, ai ai cũng khó khăn, khó nhờ cậy nhau:

Đều là sa sút khó khăn

May thuê viết mướn kiếm ăn lần hồi

Nhờ đó, có thể “kiếm ăn lần hồi” một cách thong dong. Viết cũng là một cách học. Ai đó, đã nói một câu cực kỳ chí lý, đại khái, muốn tìm hiểu một vấn đề gì, cách tốt nhất hãy viết một quyển sách về vấn đề đó. Bây giờ trong tay có 2 tập Gia Định Báo cân nặng đến 7 ký rưỡi, có thể xem bất kỳ lúc nào, không phải ngồi ngáp vặt, đứng chầu chực tại thư viện, nhưng rồi lại khó có thể viết được gì từ nguồn tư liệu ngồn ngộn này. Khó có thể kiên nhẫn, hăm hở đọc từ trang báo, từng số báo như thời trẻ. Mà chiều qua càng đọc, càng phát hiện ra nhiều vấn đề cực kỳ lý thú về Sài Gòn xưa từ văn bản gốc, chứ không phải từ những gì người ta đã viết trước đó.

Kinh nghiệm của người già là cần thiết, về già, ai cũng tích lũy kinh nghiệm, nhờ vậy họ sẽ làm được nhiều việc hơn chăng? Chưa chắc. Thời trẻ, tuổi trẻ mới là sức bật, là sự năng nổ, năng động quý giá gấp bội phần.

 

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 4.6.2015

tieng-cuoi-2

 

Đôi khi vì nể nang, không ưng bụng nhưng rồi người ta nằng nì quá, đành tặc lưỡi: “Thôi kệ”. Cho nó xong. Xong đâu chẳng thấy, đêm nằm vắt tay lên trán, tự chì chiết: “Sao lại thế? Từ chối phắt đi có phải nhẹ lòng hơn không?”. Tự nhủ phải rút kinh nghiệm cho lần sau. Rồi lần sau cũng thế. Cái sự nể nang đã ăn sâu vào máu thịt rồi. Thay đổi không dễ. Nói “không” dứt khoát, rạch ròi ngay từ đầu, nếu không thích, vẫn là sự lựa chọn khôn ngoan.

Ấy thế, hôm kia y lại vấp một  lần nữa.

Chuyện rằng, sắp đến Ngày Nhà báo Cách mạng Việt Nam, một tờ báo ngoài Hà Nội mời viết một bài về nghề nghiệp mà y đã đeo đuổi từ lúc còn hỉ mũi chưa sạch. Y gật đầu. Cái gật đầu hấp tấp quá. Vội vã quá. Liệu y có dám nói tất tần tật những gì đã nghĩ về nghề đã kiếm cơm gần 30 năm qua? Tất nhiên là không. Y hèn. Y nhát. Chẳng bao giờ dám. Thôi thì, cứ cho y đột nhiên cao hứng trở thành người dũng cảm, dám ăn dám nói, cứ huỵch toẹt ra thì báo có in? Tất nhiên là không. Hoặc in đi nữa cũng cắt xén chán chê. Cho nó tròn trịa. Đã ngoài ngũ thập, chẳng lẽ cứ mãi là đứa trẻ lớn xác? Biết vậy, sao còn nhận lời để rồi cuối cùng phải uốn éo, hót líu lo, thốt ra dạt dào những lời đầu môi chót lưỡi, chứ không phải là những gì đã nghĩ trong đầu? “Làm việc ấy, để làm gì vậy Q?”. Chiều hôm kìa, đã gọi điện thoại xin từ chối. Lần trước người ta năn nỉ mình, nay ngược lại.

Chẳng ra làm sao.

Sáng nay, không vui chút tẹo nào. Đọc cái phát ngôn của ông Phó chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam, ông ta tên Hà Minh Huệ. Đọc xong, ngao ngán quá. Buồn nôn. Muốn buột miệng chửi thề một tiếng. Nghĩ thế thôi, chẳng ngốc dại. Hà cớ gì phải ôm vào người cái nỗi bực dọc bởi phát ngôn của cha căng chú kiết nào đó?
Đã từng tự nhủ, mỗi ngày có đọc báo, chỉ nên loáng thoáng qua, đọc lướt qua nắm bắt một vài thông tin thời sự. Là đủ. Chớ dại dành thời gian quan tâm đến nó quá nhiều. Biết thêm nhiều thông tin, càng thêm bực bội, làm sao còn thấy đời vui, đời đáng sống? Tự răn, rồi lại vi phạm. Y thừa biết do cái tính vô kỷ luật, dễ dãi, tự chìu lấy mình chứ không hề nghiêm khắc một cách dứt khoát.

Chính vì thế, sáng nay, y mới ngốn thời gian đọc trên mạng Vietnamnet bài “Trưng cầu ý dân phải xem lòng Đảng”, tường thuật về cuộc họp Quốc Hội đang diễn ra. Trong đó, có những dòng (nguyên văn): “Thảo luận tại tổ về luật Trưng cầu dân ý chiều nay, Phó chủ tịch Hội Nhà báo VN Hà Minh Huệ muốn làm rõ những vấn đề hệ trọng với sinh mệnh đất nước cần trưng cầu ý dân. Theo ông, dự thảo luật quy định chung chung có thể khiến "những người to mồm thành thiểu số". "Dân chủ của ta có hạn, dân trí còn rất thấp, số người dân trí cao là thiểu số, trưng cầu có khi gây hại, không thể tùy tiện", ĐB Huệ phát biểu”.

Ý kiến của một người có vấn đề về thần kinh chăng?

Vâng, chính là thế, chắc chắn là thế. Nếu không, ai dám há mồm khẳng định “dân trí còn rất thấp”. Ngay cả Đức Phật, một vĩ nhân đáng kính trọng của nhân loại cũng chỉ dám nói: “Ta là Phật đã thành, và các ngươi là Phật sẽ thành”. Chẳng có ai cao, chẳng có ai thấp. Ai cũng có vị trí, sự đóng góp, dù ít dù nhiều. Tại sao lại điên rồ, lú lẫn, huyễn hoặc về vị trí, vai trò của mình rặn ra một câu trịch thượng: “dân trí còn rất thấp”. Đã nhà báo ắt khi phát ngôn một điều gì phải có cơ sở kiểm chứng mức độ chính xác của thông tin đó. Hiện nay, “dân trí còn rất thấp” là căn cứ từ luận chứng khoa học, điều tra xã hội học của Bộ, ban nghành nào?

Đừng quên, ngoài các chức năng, nhiệm vụ, mục tiêu gì gì đó, báo chí còn có vai trò khai trí cho nhân dân. Nền báo chí cách mạng Việt Nam ra đời từ năm 1925, đến nay đã bao nhiêu năm? Trong chừng ấy năm, Hội Nhà báo Việt Nam đã làm được những gì mà đến nay “dân trí còn rất thấp”? Trách nhiệm đó, nếu có, rõ ràng Hội Nhà báo Việt Nam không thể vô trách nhiệm, phủi tay sạch trơn như kẻ vô can, như thể kẻ đứng ngoài để rồi dám há mồm nôn ọe câu láo xược đó. Có nhiều người thật quái đản, họ không biết đang đứng ở đâu trong cõi đời rộng lớn này. Càng nghĩ càng thêm bực. Cộng đồng mạng “dậy sóng” với câu nói đó là lẽ tất nhiên. Những ai “đồng hội đồng thuyền” với hạng người ấy có “đẹp mặt” không? Y đang tự vấn lấy y đấy thôi. Trả lời thế nào?

Hôm nay, đưa cái phát ngôn ấm ớ vào Nhật ký bởi không thể ngờ, nhà báo lại có những suy nghĩ bệnh hoạn, quái dị đến cỡ đó. Mà sống ở đời, đã nói đi thì cũng phải nói lại. Ai lại không có những lúc lỡ lời, sai lầm? Chấp nhất làm gì. Đừng nghĩ thêm một điều gì về cái phát ngôn đó nữa nhá? Hãy quên đi. Như chưa từng đọc, từng biết đến. Vâng, y nhất quyết vâng theo. Vừa nói thế, tiện tay lật tập Kinh Thánh đang trước mặt, thấy hiện lên dòng chữ này:

“Cây mà tốt thì quả cũng tốt; cây mà sâu thì quả cũng sâu, vì xem quả thì biết cây. Loài rắn độc kia, xấu như các người, thì làm sao nói điều tốt được? Vì lòng có đầy, miệng mới nói ra. Người tốt thì rút cái tốt từ kho tàng tốt của mình; kẻ xấu thì rút cái xấu từ kho tàng xấu của mình. Tôi nói cho các người hay: đến Ngày phán xét, người ta sẽ phải trả lời về mọi điều vô ích mình đã nói. Vì nhờ lời nói của anh mà anh sẽ được trắng án; và cũng tại lời nói của anh mà anh sẽ bị kết án" (Mt 12: 33-37).

Thôi không bàn nữa. Bàn tán về thời sự, nói thật, y hoàn toàn không có khả năng, không có thông tin và nhất là không mấy quan tâm đến nó. Lại quay về chuyện trò với chữ nghĩa vẫn lý thú hơn. Ngày hôm qua, có anh bạn nhà thơ đố một câu trớ trêu: “Q có biết ai làm thơ lục bát bằng tiếng Anh không?”. Bằng tiếng Pháp thì dễ rồi. Có thể trưng ra hàng loạt tài liệu. Dễ ẹt. Cứ tìm ở tạp chí Văn Học số chủ đề về Hôn nhân dị chủng; hoặc đọc Chơi chữ của Lãng Nhân v.v… Còn lục bát viết bằng tiếng Anh, y mù mờ lắm. Chào thua vậy. Anh bạn cho biết báo Văn hóa Phật giáo số ra ngày 1.6.2015 có đăng bài viết của nhà văn Hồ Anh Thái. “Q tìm đọc đi”. Tất nhiên, tìm đọc. Quả nhiên, thấy rằng: “Có lần một nhóm mấy vị An Nam biết tiếng Anh ngôi với nhau, bày vẽ ra làm thơ lục bát bằng tiếng Anh:

Today dig meat eaten

Go home meet dog how can i do

Phiên âm:

Tớ đây đoóc mít ít tần

Gâu hôm mít đoọc hao cần ai du

Ghi chú: chữ Today, trong cả một câu đầy đủ, nếu không đặt dưới trọng âm hoặc điểm nhấn của câu, có thể phát âm thành tơ-đây, gần như tớ đây. Chữ can cũng vậy, khi không cần nhấn giọng, thì không phát âm là ken nữa, mà đọc lướt nhanh thành Kân hơi giống cần. Vậy câu phiên âm cũng khá chuẩn về vần lục bát. Lại có thể vừa hiểu lẫn lộn Việt - Anh, như chữ hao (how trong tiếng Anh), phiên âm ra có thể hiểu là hao hụt, hao cái cần, thì ai mà biết làm sao. Đồn rằng, nhà từ điển Bùi Phụng đã dịch thành lục bát:

Hôm nay thịt chó đánh tràn

Về nhà gặp chó biết làm sao đây”.

Đọc xong đoạn này, bèn cười tủm tỉm. Y sực nhớ đến mẩu chuyện hài dân gian Việt Nam: Có một anh học trò nhỡ độ đường, vào huyện ăn xin, nói là học trò nghèo. Quan huyện vốn trước cũng là trò nghèo, thương hại, bảo:"Có phải học trò thì ta ra thơ "Con chó" cho mà làm, làm được sẽ có thưởng".Anh học trò nghĩ một hồi lâu đọc:

Thoạt thấy chúa về ngoe nguẩy theo

Thương ôi! Con chó ngỡ con mèo.

Quan liền thưởng cho một quan tiền và một thúng gạo. Anh kia lạy tạ ra về. Giữa đường gặp một anh học trò khác, anh này hỏi: "Tiền gạo đâu ra thế?". Anh kia kể đầu đuôi câu chuyện. Anh này liền vào huyện, cũng nói là học trò nghèo, nhỡ độ đường vào huyện. Quan huyện cũng lại ra thơ như lúc nãy. Anh ta mừng quýnh, tưởng chuyến này ăn chắc, liền đọc:

Thoạt thấy chúa về ngoe nguẩy thời

Thương ôi! Con chó ngỡ ông trời.

Quan huyện nghi anh ám chỉ mình, tái mặt, sai lính đánh mấy chục roi, rồi đuổi ra.

Ngày trước, còn sung, nhờ lang bạt nhiều nơi, ghi ghi chép nên mới có tập Tiếng cười dân gian Việt Nam hiện đại. Dần dà, thói quen ấy mấy đi dần. Ấy là lúc con người ta đã già. Già là lúc ấy không còn mấy hào hứng tiếp cận với cái mới. Thật ra trong vốn cũ, có rất nhiều cái mới.

Cái gì mới? Nghe hỏi thế, không thèm trả lời, bởi rằng thì là mà vì: “dân trí còn rất thấp”!

Chó thật!

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

Trang 25 trong tổng số 58