LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 6.12.2015

tumblr_mhcw76QfyP1s3g9tso1_500(ảnh: Internet)

 

“Căn nhà đó nằm trong ngõ vắng. Ngõ có bức tường dài, sâu thăm thẳm. Trên tường, rải rác có những dòng chữ nghệch ngoạc, viết bằng hắc ín: Cấm đái… Cấm đái… Dưới dòng “Cấm đái” là những bãi nước dải vòng vèo, đêm trước, còn hắt lên những vệt cũ đã lên rêu. Ngoài đầu ngõ, treo lủng lẳng cái biển sơn cấm xe hạng nặng đi vào, tuy đường trong ngõ, chỉ một cái xe bò đi đã chật”. Viết về ngõ vắng, nơi căn nhà y đang trú đấy chăng? Cũng có thể như thế. Có điều đoạn văn trên viết từ thập niên 1950 tại Thủ đô Hà Nội. Trích từ truyện ngắn Tết năm ấy… của tác giả Đỗ Quang Tiến, in trong tập sách Thơ văn Xuân 1957 của NXB Văn Nghệ ở ngoài Bắc. Hầu như ít ai biết đến tập sách này. Không rõ, căn cớ gì sau đó không thấy Đỗ Quang Tiến viết thêm gì khác?

Đọc đoạn văn trên giật mình nghĩ rằng, hóa ra cái sự tiến hóa văn minh đô thị của đất nước Đại Nam văn hiến này vẫn không có gì thay đổi. Vẫn giẫm chân tại chỗ, giữ rịt lấy cái nếp sinh hoạt đã tồn tại hơn 50 năm trước. Ngõ ngách nào hiện nay lại không có những dòng chữ chết tiệt trên? Đến bao giờ mới chấm dứt đây? Hỏi như thể bởi từ mấy chục năm qua, cái Bộ phụ trách về văn hóa nước nhà đã phát động rầm rộ phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”.

Kết quả ra làm sao?

Sáng ngày 3.12.2015, Ban chỉ đạo trung ương của phong trào họp tổng kết năm 2015, triển khai nhiệm vụ năm 2016. Theo số liệu công bố: “Đến nay cả nước có gần 19 triệu gia đình trong tổng số hơn 22 triệu gia đình đạt chuẩn danh hiệu gia đình văn hóa, đạt tỉ lệ 85,03%, tăng 2% so với năm 2014”. Với các con số đó, dư luận "phản biện" ầm ầm và quả quyết chính là biểu hiện của bệnh thành tích bởi nó không phản ánh đúng thực chất đang diễn ra.

Sáng ngày 5.12.2015, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang tiếp xúc với cử tri tại TP HCM. Ông phát biểu: “Tại sao nước mình là anh hùng trong các cuộc kháng chiến chống đế quốc mà vấn nạn tham nhũng lại bị xếp hạng cao? Bê bối quá, không chấp nhận được”. Cũng trong bài báo "Chủ tịch nước: 'Xấu hổ khi Việt Nam bị xếp hạng tham nhũng cao", Báo diện tử Vnexpress còn cho biết: “Chỉ số nhận thức tham nhũng do Tổ chức Minh bạch thế giới công bố dựa trên ý kiến chuyên gia toàn thế giới về tham nhũng trong lĩnh vực công. Năm 2014, ba nước được đánh giá là trong sạch nhất là Đan Mạch, New Zealand và Phần Lan. Singapore là quốc gia châu Á duy nhất lọt top 10 với 84 điểm, xếp thứ 7. Việt Nam xếp hạng 119 trên 174 nước với 31 điểm”.

Mỗi ngày, lật tờ báo, bao nhiêu thông tin hắc ám như cơn gió độc quật, quất te tua cái tâm hồn chỉ mong muốn được sống trong một xã hội lành mạnh? Biết thế nào được. Rồi cuối cùng vẫn phải sống. Vẫn phải tồn tại. Có điều sự nguy hiểm nhất ở mỗi con người, dần dần tự nó sẽ dẫn đến sự vô cảm. Bàng quan, Dửng dưng. Bịt tai. Nhắm mắt. Chẳng còn phải đau đáu, trăn trở, nặng lòng với cái xấu, cái ác đang tác oai tác quái như làm xiếc. Nghệ thuật xiếc đã đạt đến mức độ siêu việt. Dù rằng, ai ai cũng thừa biết tỏng bản chất của nó, nhưng người ta vẫn tuôn ra dạt dào lời hay ý đẹp cứ như thể mục hạ vô nhân.

Mới đây, trang web của Trường Đại học Văn Hoá Hà Nội (Hanoi University Of Culture) có post bài viết: “Đặc tính của người Việt qua nhận xét của Viện Nghiên Cứu Mỹ”. Nguyên văn: “Viện Nghiên Cứu Xã Hội Học Hoa Kỳ (American Institute for Social Research) sau khi nghiên cứu đã nói lên 10 đặc tính căn bản của người Việt, xin tạm dịch như sau:

1. Cần cù lao động nhưng dễ thỏa mãn.

2. Thông minh, sáng tạo khi phải đối phó với những khó khăn ngắn hạn, nhưng thiếu những khả năng suy tư dài hạn và linh hoạt.

3. Khéo léo nhưng ít quan tâm đến sự hoàn thiện cuối cùng các thành phẩm của mình.
4. Vừa thực tế vừa có lý tưởng, nhưng lại không phát huy được xu hướng nào thành những nguyên lý.

5. Yêu thích kiến thức và hiểu biết nhanh, nhưng ít khi học sự việc từ đầu đến cuối, nên kiến thức không có hệ thống hay căn bản. Ngoài ra, người Việt không học vì lợi ích của kiến thức (lúc nhỏ học vì gia đình, lớn lên học vì sĩ diện hay vì những công việc tốt).

6. Cởi mở và hiếu khách nhưng sự hiếu khách của họ không kéo dài.

7. Tiết kiệm, nhưng nhiều khi hoang phí vì những mục tiêu vô nghĩa (vì sĩ diện hay muốn phô trương).

8. Có tinh thần đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau chủ yếu trong những tình huống khó khăn và nghèo đói, còn trong điều kiện tốt hơn, đặc tính này ít khi có.

9. Yêu hòa bình và có thể chịu đựng mọi thứ, nhưng thường không thẳng thắn vì những lý do lặt vặt, vì thế hy sinh những mục tiêu quan trọng vì lợi ích của những mục tiêu nhỏ.

10. Và sau cùng, thích tụ tập nhưng thiếu nối kết để tạo sức mạnh (một người có thể hoàn thành một nhiệm vụ xuất sắc; 3 người làm thì kém, 7 người làm thì hỏng việc).
Những phân tích trên đây cho chúng ta thấy người Mỹ đã hiểu rất rõ người Việt. Tại sao người Việt lại có những đặc tính như thế này?”.

Trả lời câu hỏi này, thật ra, từ trước, các nhà Nho dấn thân theo Tân học như các cụ Trần Trọng Kim, Phan Châu Trinh, Nguyễn Văn Vĩnh, Huỳnh Thúc Kháng, Phan Kế Bính v.v… đã chỉ ra rồi. Tại sao những yếu tố tích cực ngày càng thui chột, không thể phát huy; trong khi đó, cái xấu, sự hạn chế lại nẩy nở ngày một nhiều? Bàn gì thì bàn, nói gì thì nói. Vấn đề cốt lõi vẫn là con người ta đang sống trong sự vận hành của cơ chế chính trị như thế nào. Đó mới chính là căn cơ, giải quyết cốt lõi của mọi vấn đề.

Mấy hôm nay, không có gì mới. Vẫn cứ thế. Ngày của mỗi ngày cứ đều đặn trôi qua. Có gì mới trong lãnh vực văn hóa nghệ thuật chăng? Chỉ có thể nhắc đến bộ phim Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (tên tiếng Anh Yellow flowers on the green grass). Bộ phim này, đạo diễn Victor Vũ chuyển thể từ tác phẩm cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh, đoạt giải phim hay nhất tại Liên hoan phim quốc tế Phúc Châu (Trung Quốc). Mới đây nhất, tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, diễn ra từ ngày 1.12 đến ngày 5.12.2015 tại TP.HCM, bộ phim này lại giành được giải thưởng Bông sen Vàng. Kinh phí đầu tư 20 tỷ, thu về 80 tỷ. Vấn đề đặt ra, không phải giải thưởng và lợi nhuận mà chính là nó đã tạo ra sức hút mới cực kỳ đáng lưu tâm là kéo khán giả quay trở lại với phim Việt. Được vậy, đã quý. Điều quý hơn là do đạo diễn Victor Vũ lấy bối cảnh từ Phú Yên, sau khi công chiếu bộ phim Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh, lập tức, nơi đó thu hút hàng vạn lượt khách du lịch. Ý nghĩa cuối cùng của sự sáng tạo vẫn là tạo ra hiệu ứng chung, sự cộng hưởng từ phía công chúng.

Thời buổi này, những giá trị nhân văn đang mất dần đi. Thế giới trong trẻo, hồn nhiên của ngày thơ đã cảm nhận, đã nhìn thấy vẫn là nơi mà con người ta muốn tìm về. Để làm gì? Thanh lọc lại tâm hồn. Nếu không có tâm hồn trẻ thơ, làm sao thi sĩ Bàng Bá Lân (1912-1988) có thể viết được dăm ba câu thơ mộc mạc lại diệu vợi thế này:

Hoa đào còn đỏ

Hoa cúc có vàng?

Hoa Xuân có phô màu tuyết

Bàn thờ còn ngát trầm hương

Gió khuya heo hút phố phường

Có ai đi lễ trong sương lạnh lùng?

Những bàn tay mịn như nhung

Có vịn cành tơ hái lộc?

Những bàn tay già gầy guộc

Còn lay ống thẻ đầu năm?

Và ở miền quê yêu dấu

Đình chùa miếu mạo ra sao?

Hội hè nô nức xôn xao

Cây đu còn dải yếm đào đùa bay?

Những chiếc khăn vuông mỏ quạ

Còn ôm ấp má hây hây

Những cặp môi hồng tươi nở

Còn thơm, còn thắm trầu cay?

Có thể hiểu "lay ống thẻ" là xin xăm, bói xem một quẻ tốt xấu thế ào; "yếm": đồ mặc nhằm che ngực của phụ nữ; "khăn vuông mỏ quạ":  khăn của đàn bà chít như hình mỏ con quạ... Những người sống xa xứ, nếu đã từng cảm nhận những hình ảnh  trên, khi đọc ắt ứa nước mắt. Bùi ngùi. Cảm động. Với thế hệ của y, tất nhiên không thể nhìn thấy “cây đu, dải yếm đào, chiếc khăn vuông mỏ quạ” của Tết xứ Bắc nhưng làm sao không nhớ đến “trầu cay”? Ngày xưa, mẹ y và các dì có ăn trầu. Đêm qua, đọc lại một đoạn văn ngắn, tự dưng nhớ thương da diết ngày tháng xa xưa ấy, ngày mẹ còn khỏe mạnh, còn ăn trầu “cặp môi hồng tươi nở”. Văn chương đôi lúc cũng chẳng phải gánh vác cho lắm sứ mệnh to tát gì, chỉ cần qua đó, người đọc nhớ về một kỷ niệm êm đềm đã xa xăm. Vậy là đủ. Đêm qua, nằm đọc quyển Giảng văn lớp 7 in tại miền Nam năm 1972. Dừng lại với đoạn văn này của nhà văn Tô Nguyệt Đình (1920-1988):

“Bà phán mới ngồi xề lại chiếc ghế ngựa, mở ô lấy một lá trầu vàng, bệt vôi bỏ vào miệng nhai nhóc nhách. Bà lại lấy miếng câu tươi mà chị ở bổ sẵn, một cọng vỏ giấy rồi bỏ vào miệng nhai luôn. Nước bã trầu đỏ ối chảy ra hai bên mép, bà phán cầm ống nhổ bằng đồng bóng lộn nhổ vào một bã trầu, đoạn cầm lấy khăn trên vai xuống chùi miệng. Bá vớ lấy một cục thuốc bằng ngón tay cái để lên môi xỉa qua xỉa lại, mấy ngón tay cái của bà vảnh ra để lộ mấy chiếc cà rá nhận hột  xoàn chiếu sáng ngời trên các ngón giữa, áp út và út”.

Ông nhà văn tả khéo quá. Nếu không, làm sao y có thể nhớ về ngày hoa niên đã nhìn thấy mẹ ăn trầu? Giải thích luôn vào từ, chẳng hạn, "ghế ngựa": dùng hai tấm gỗ dày ghép lại, kê lên cái giá để ngồi hoặc nằm; "mở ô": cái hộp đựng trầu; "chị ở": người giúp việc, Osin;  "vỏ giấy": vỏ trầu đã thái, đập dẹp phơi khô; "cà rá": chiếc nhẫn đeo tay; "nhận": khảm" sầu vào chỗ thủng... Rồi lại nhớ câu thơ đã viết từ thời trai trẻ trên chiến trường K. Tự dưng buồn buồn.

tưởng tượng một ngày kia

trăng treo trên vòm trời Đà Nẵng rất khuya

mẹ khỏe mạnh giã gạo

hương cau thơm rụng đầy sân nhà ông ngoại

thuở ấy mẹ mới về với cha

mới nghĩ vậy thôi con sung sướng khóc òa

một niềm vui vĩnh cửu...

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 1.12.2015

nhat-k-ngay-1.12.2105-R(Ảnh: Internet)

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 29.11.2015

2bai_luan_vn_hoc_sinh_tran_dai_nghia

 

Tối hôm qua, ngày 28.11.2195, chính thức diễn ra lễ khai mạc “Tuần Văn hóa - Du lịch Nguyễn Du” kỷ niệm 250 năm ngày sinh (1765-2015) Danh nhân văn hóa thế giới, Đại thi hào Nguyễn Du tại Quảng trường trung tâm, UBND huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.

Đã có thông tin về Đường hoa Tết Nguyên đán Bính Thân 2016. Chủ đề: “TP.HCM - Hòa bình, thịnh vượng và phát triển”. Thực hiện trên tuyến đường Nguyễn Huệ, đoạn từ giao lộ Lê Lợi - Nguyễn Huệ đến cuối đường Nguyễn Huệ. Mở cửa từ ngày 5.2.2015 đến ngày 12-2-2016.

Tại phiên bế mạc kỳ họp thứ 10 của Quốc hội chiều ngày 27.11.2015, Quốc hội đã thông qua nghị quyết trong đó yêu cầu “tiếp tục giữ môn học lịch sử trong chương trình sách giáo khoa mới”. Vấn đề không phải là giữ môn Sử hay “tích hợp” vào môn Giáo dục công dân và An ninh quốc phòng, điều cốt lõi vẫn là cách biên soạn sách lịch sử dạy trong nhà trường như thế nào? Cần phân biệt rõ, học sử của một dân tộc hay sử của một đảng? Trên Báo Tuổi Trẻ, nhà văn Dạ Ngân thở dài: “Các em phải thuộc những thắng lợi luôn luôn là vẻ vang ấy và không chỉ có vậy, còn phải thuộc những liệt kê trong đó mà chúng tôi gọi là cách học sử đếm xác và đếm súng” (Báo TT ngày 17.11.2015).

Thành phố Tam Kỳ (Quảng Nam) vừa được tổ chức Định cư con người Liên Hiệp Quốc tại châu Á (UN Habitat châu Á) trao tặng giải thưởng “Phong cảnh thành phố châu Á năm 2015”. Người dân cả nước biết nhiều đến Tam Kỳ còn một phần do nơi này đã xây dựng tượng Bà mẹ Việt Nam anh hùng, diện tích 15.3 ha tại khu vực núi Cấm thuộc xã Tam Phú. Tổng mức đầu tư hơn 411 tỷ đồng.

Nhà báo Hà Thạch Hãn có bài thơ To nhất để làm gì? đã post trên Báo điện tử Tuoitre Online:

"To nhất để làm gì đất nước tôi ơi!

Ai đo đếm xi măng để làm điều vinh hạnh

Bao bà mẹ còn tảo tần trong đói lạnh

Tượng đài kia đổi được mấy mảnh đời

To nhất để làm gì đất nước tôi ơi!

Mẹ Thứ mất chắc không cần rực rỡ

Không cần xênh xang mấy tầng gạch vữa

Trên quê hương khó nhọc lâu rồi

To nhất để làm gì đất nước tôi ơi!

Mỗi bước ta đi quân thù dòm ngó

Biển ngoài kia vẫn chưa yên sóng gió

Thêm tàu to mới là chuyện thức thời

To đẹp để làm gì đất nước tôi ơi!

Đến khắc thơ cũng sai vần, chính tả

Chỉ lòng dân mới đúc thành tượng đá

Bốn trăm tỉ này bia miệng mãi không thôi..."

Báo Tuổi Trẻ đưa tin “Đắk Nông vận động kinh phí xây tượng đài 146 tỉ đồng”. Xây dựng tượng đài N’Trang Lơng và phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc (1912 - 1936). Tổng kinh phí hơn 146 tỉ đồng. Công trình này nằm trọn trong khuôn viên rộng gần 6ha trên đồi Đắk Nur (phường Nghĩa Đức, thị xã Gia Nghĩa): "Theo báo cáo thu ngân sách nhà nước tỉnh Đắk Nông đưa ra tại kỳ họp HĐND tỉnh giữa tháng 12.2014, trong năm 2014 tỉnh thu ngân sách đạt 1.354 tỉ đồng (kế hoạch là 1.400 tỉ đồng). Như vậy, kinh phí 146 tỉ đồng chi cho việc xây tượng đài N’Trang Lơng bằng 1/10 ngân sách của tỉnh thu được trong một năm. (TT số ra ngày 23.11.2015).

Bài báo này, có những ý kiến comment như sau: “Tôi chỉ mong sao có một ngày đọc được một mấu tin "Huyện A đang vận động và cố xin kinh phí để xây một bệnh viện mới tầm cỡ, có sức chứa 50.000 giường bệnh, với đầy đủ trang thiết bị hiện đại tương đương bệnh viện ở Singapore"; "Huyện miền núi B đang cố gắng vận động kinh phí xây cầu bắt qua con suối N và trải nhựa cho các tuyến đường từ các buôn làng xa xôi tới trường học, bên cạnh đó trong năm tới huyện sẽ cố gắng xây trường mới với nhiều lớp học khang trang xóa bỏ các lớp học tre nứa cũ". Nếu được vậy không chỉ dân ở Huyện A, huyện B mà bà con trong cả nước ai ai cũng phấn khởi. Nhưng ngày đó có lẽ...”; “Tôi thật không hiểu tại sao bây giờ người ta xem tiền ngoài ngân sách như là tiền từ trên trời rơi xuống, muốn xài sao cũng được! Tỉnh Đắc Nông còn nghèo lắm. Dân đang lầm than, khốn khổ lắm lãnh đạo ơi. Sao cứ thích xây tượng đài, Trung tâm Hành chính hoành tráng (hàng trăm - vạn tỷ đồng) thế?”…

Những ngày này, bãi biển Cửa Đại, (TP.Hội An) lại tiếp tục sạt lở với tốc độ kinh khiếp: chỉ trong một đêm đến sáng biển đã lấn sâu vào bờ 20m.

Cụm từ “gia đình trị”, “con vua thì lại làm vua” đã trở nên phổ biến trở lại.

Từ công trình 17 tầng ở số 8B Lê Trực có thể bao quát toàn bộ khu vực Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, tòa nhà Quốc hội, tòa nhà Văn phòng Quốc hội. Tổng chiều cao tòa nhà khoảng 60 m, trong khi đó Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ 21,6 m. Vụ việc này đã xử lý. Báo Văn Nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam (số 21.11.2105), nhà thơ trào phúng Tú Châm có bài thơ Cắt ngọn:

Nhà cứ việc xây… xây cao mãi

Xây rồi cắt ngọn… có làm sao?

Phép nước - Ô kìa, đùa dai nhỉ!

Cái cần phải cắt… cắt thì đau

Cắt ngọn làm sao bắt được sâu

Phải đào tận gốc mới bền lâu

Cái kim trong bọc… giờ to nhỉ

Hay mắt quan tham đã loạn màu?

So với trước đây, trên báo chí chính thống, thơ trào phúng đã “mạnh dạn” hơn nhiều lắm.

Ngày 28.11.2105, Công an tỉnh Bình Thuận công bố quyết định đình chỉ điều tra bị can đối với ông Huỳnh Văn Nén (53 tuổi, ngụ huyện Hàm Tân, tỉnh Bình Thuận). Bị xử chung thân vào ngày 31.8.2000, tính luôn thời gian tạm giam đến ngày được cho tại ngoại, ông Nén bị giam 17 năm 5 tháng 5 ngày. Với oan sai trầm trọng của ông Nén, báo chí đồng loạt sử dụng cụm từ “người tù thế kỷ”.

Thông tin chỉ có thế thôi ư? Tất nhiên là còn. Y không dủ thời gian, nhiệt tình, cần cù chu đáo và tài liệu như ông Đoàn Thêm để có thể thực hiện những tập sách cần thiết như Việc từng ngày. Nam chi tùng thư ấn hành tại Sài Gòn trước 1975. Chỉ ghi loáng thoáng đôi nét như một cách giết thời gian. Những thông tin này rồi sẽ tan loãng đi thôi. Một thời đại, con người ta đã sống, làm sao có thể quên? Rồi cũng quên đi thôi. Mai này,chỉ còn lại những tình cảm thiêng liêng, có giá trị bất biến, chẳng hạn tình mẹ con, tình chồng nghĩa vợ, tình yêu non sông đất nước…  Vì suy nghĩ thế nên chép lại bài tập làm văn của em nữ sinh Bùi Như Mai, lớp 11C A 3, Trường THPT Trần Đại Nghĩa:

“Những ngày gần đây, Sài Gòn cứ mưa tầm tã, mưa dầm dề, mưa như tiếng nỉ non, day dứt của đất trời mãi không thôi. Mưa mãi như thế, nên đường Sài Gòn dần biến thành sông. Giữa cảnh trời đất mù mịt ấy, chúng ta thấy được nhiều cảnh tượng ấm áp và cảm động đến lạ. Trong đó có hình ảnh một người mẹ, giữa cơn mưa âm ỉ, nước ngập quá bánh xe, ra sức lội nước và đẩy chiếc xe chết máy về phía trước, cố gắng giữ cho đứa con của mình được khô ráo. Hình ảnh ấy khiến cho bất cứ ai nhìn vào cũng thấy sự bao la của tình mẫu tử.

Tình mẫu tử là tình yêu người mẹ dành cho đứa con của mình, kể từ khi đứa con ấy chưa tượng hình đến lúc mẹ nhắm mắt xuôi tay. Tình cảm ấy là vô điều kiện, chẳng có người mẹ nào lúc chăm con lại nghĩ về việc sau này mình được báo hiếu như thế nào, chỉ cần con lớn lên khỏe mạnh là đủ. Khi còn trẻ các cô gái có thể đôi lúc yếu đuối, nũng nịu hay thậm chí choảnh chọe. Nhưng khi đã là mẹ thì tình mẫu tử sẽ cho các cô sức mạnh để cứng rắn, kiên cường vì con mà đứng ra nơi đầu sóng ngọn gió, bởi con là tất cả. Có thể nói, tình mẫu tử không phải thứ tình cảm giản đơn, mềm yếu mà là sức mạnh, là phép nhiệm màu của loài người.

Tình mẫu tử đến với những phụ nữ một cách tự nhiên. Giây phút họ biết rằng mình đang mang trong người một sinh linh bé nhỏ thì trong tim họ tự dưng sẽ nảy sinh cảm giác yêu thương và bảo vệ sinh linh ấy. Thứ tình cảm thiêng liêng ấy không hữu hình như cơm ăn áo mặc hằng ngày nhưng thiếu nó, ắt hẳn không đứa con nào có thể lớn lên toàn vẹn. Khi con còn bé thơ, chập chững tập đi tập nói, thì mẹ sẽ đứng ra chở che cho con, cản những sóng gió cuộc đời, tặng con một tuổi thơ yên bình, ấm áp. Rồi khi con lớn lên từng bước vào đời, mẹ vẫn luôn ở phía sau âm thầm dõi theo von và dẫu con có đi xa đến đâu, chỉ cần quay đầu lại, mẹ vẫn luôn ở đó vì mẹ là nhà, là yêu thương.

Tình mẫu tử còn đồng nghĩa với tình bao dung vô hạn. Dù con có phạm sai lầm điều gì đi nữa, dù cả thế giới có quay lưng với con thì mẹ vẫn sẵn sàng ôm con vào lòng, tha thứ cho con tất cả. Chúng ta có thể thấy hình ảnh những người mẹ tóc bạc phơ, tấm lưng còng xuống vẫn cần mẫn tay xách nách mang các thứ vào trại giam thăm những đứa con lầm lỡ.

Tình mẫu tử còn là sự hy sinh. Chúng ta có thể thấy những tấm gương vượt khó, những học sinh vùng nông thôn nghèo đỗ thủ khoa, á khoa các trường đại học, nhưng mấy ai thấy rằng phía sau đó là những người mẹ chân lấm tay bùn, bán mặt cho đất, bản lưng cho trời, chắt chiu từng đồng để nuôi con ăn học. Còn có bao nhiêu người phụ nữ ngoài kia, vốn có thể hưởng thụ một cuộc sống an nhàn, sung túc nhưng vẫn lao vào lam lũ kiếm tiền để cho con có một tương lai tốt đẹp hơn. Sự hy sinh của mẹ chẳng ai có thể diễn tả hết bằng lời, như một nhà thơ đã viết:

Ngôn ngữ trần gian khờ dại quá

Sao đong đầy hai tiếng: Mẹ ơi.

Tình mẫu tử không chỉ nuôi đứa trẻ lớn khôn và còn có giúp người phụ nữ trưởng thành hơn, dạy họ biết sống vị tha, vị kỷ, biết dẹp bỏ những yêu thích của mình để dành tất cả cho con, dạy họ sống điềm tĩnh, sống mạnh mẽ để làm gương, làm lá chắn cho suốt cuộc đời đứa con bé bỏng. Mẹ yêu con nhiều là thế, nhưng đâu phải lúc nào cũng hiểu lòng mẹ, cũng biết thương mẹ như thương con…

Trên đời còn nhiều người còn không tốt hơn thế nữa. Họ hỗn hào, họ vô ơn với bậc sinh thành. Chỉ cần một lời mẹ lớn tiếng cũng đủ khiến họ giận dỗi bỏ đi, làm người mẹ ở nhà lo lắng khôn nguôi. Nhưng bất hiếu với mẹ nhất là khi mẹ đã hy sinh tất cả, cố gắng mỗi ngày để lo cho ta mà ta lại chây lười, lại không chịu học hành, làm việc, chỉ biết ăn bám mẹ mà thôi. Những người như thế thật đáng trách biết bao. Còn có những người mặc kệ công sinh thành dưỡng dục của mẹ, chỉ vì gia cảnh nghèo khó mà trách mẹ không lo được cho mình.

“Con không chê cha mẹ khó, chó không chê chủ nghèo”, những người trách mẹ như thế, không hề xứng đáng với tình cảm đấng sinh thành dành cho họ. Bản thân tôi cũng có lúc giận dỗi mẹ. Nhưng khi khôn lớn hơn một chút, tôi đã hiểu mẹ đã hy sinh cho mình nhiều đến chừng nào. Vì thế, mỗi ngày tôi luôn cố gắng học tập, phụ giúp mẹ thật nhiều. Có thể tôi không cho được mẹ sung sướng nhưng tôi chắc chắn có thể cho mẹ hạnh phúc mỗi ngày. Có thể mẹ không cho được con điều tốt nhất trên thế giới nhưng mẹ sẽ cho con điều tốt nhất mà mẹ có. Tình mẹ vĩ đại như thế, cho nên tôi hy vọng rằng bất kỳ người nào cũng sẽ nhận được niềm vui, hạnh phúc và sự yêu thương tương xứng từ những đứa con của họ.

Và: “Ai còn mẹ xin đừng làm mẹ khóc. Đừng để buồn lên mắt mẹ, nghe không?”.

Chấm bài văn này 9 điểm, cô giáo Nguyễn Thị Lâm ghi trong lời phê: “Cô thực sự xúc động trước những câu chữ mà con viết. Cảm ơn con. Và hãy sống thật xứng đáng nhé”. Đọc bài tập làm văn này chân thành, cảm động còn hơn phải đọc/ nghe hàng triệu triệu lời phát ngôn huếnh hoáng, vô hồn, giả dối đã quá đỗi quen thuộc trên nhiều diễn đàn, hội nghị…

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 27.11.2015

 

d9d21968-7f7d-4e9e-92b7-ea46aa2666da1

 

“Cái đất nước mình, nó thế”. Cái tặc lưỡi, câu chép miệng kiểu cà rỡn, tếu táo, than phiền, trách móc của giáo sư Hoàng Ngọc Hiến có thể trở thành một thứ slogan còn tồn tại lâu dài. Mà nó chính xác. Có tính khái quát. Ai nghĩ sao, hiểu sao cũng được.

Đã xuất hiện hàng loạt cụm từ mới, chẳng hạn, “anh hùng bàn phím”, “tư duy nhiệm kỳ”, “tầm nhìn nhiệm kỳ”, “hoàng hôn nhiệm kỳ”, “chuyến tàu vét trước khi hạ cánh”, “đánh chuột đừng để vỡ bình, “di chuyển nhúc nhích, không gọi là ù tắc”, “từ chức là từ chối nhiệm vụ được giao”, “con lãnh đạo làm lãnh đạo là hạnh phúc của dân tộc”, “đường cong mềm mại”, “cong mềm mại chứ không phải cong hình ghi đông xe đạp”, “bán vé số đủ ăn”, “lỗi của vắc xin thì xử vắc xin”, “dân trí thấp, không thể tuỳ tiện trưng cầu ý dân”, “tôi coi đây là một trận đánh lớn”, “không phong tướng, anh em tâm tư”, “cần luật hóa cho phép chạy chức, chạy quyền”, “Quốc hội tức là dân, dân quyết sai thì dân chịu, chứ kỷ luật ai?”, “nếu chúng ta không giáo dục cho con cháu rưng rưng khi hát Quốc ca thì đất nước không thể giàu mạnh”. "cứ vi phạm mà kỷ luật hết thì lấy ai mà làm việc", “nếu sâu bọ lằng nhằng thế này không cách gì phát triển được”, "phải cách ly người nghèo ra khỏi người giàu", "bút sa... hoa hồng nở", "bịt mắt bắt tham nhũng", "chuyển trách nhiệm cho Bộ trưởng kế tiếp”, đường từ dạ dày đến nghĩa địa chưa bao giờ ngắn thế", "bộ máy nhà nước béo phì", "trên bảo dưới không nghe", "trên nói một đằng dưới triển khai một nẻo", "người ứng cử đại biểu Quốc hội phải khám tâm thần", "tứ đại ngu", v.v… và v.v...

Còn có thể liệt kê thêm nhiều nữa. Những cụm từ, những câu nói trứ danh này đều có tích có tuồng. Sau này, các nhà ngôn ngôn ngữ học, muốn giải thích tường tận ắt phải đi truy tìm lại hoàn cảnh ra đời của nó. Nó hoàn toàn Việt  Nam, không hề vây mượn gì từ điển tích, điển cố nước ngoài. Hầu hết các câu thành ngữ đều gắn liền với sự việc cụ thể nào đó, có điều về sau, không ai biết đến nguyên cớ ra đời của nó đó thôi. Chẳng hạn, “nhất quận công, nhì ị đồng”, “phép vua thua lệ làng”, “treo đầu dê, bán thịt chó”. “gương vỡ lại lành” v.v…

Riêng cái câu bông phèn “cái mặt nhìn thấy ghét”… Tưởng nói vui, tất nhiên chỉ cho vui, nói xong rồi bỏ, chẳng ai có thù oán ai đến độ giữ mãi trong lòng bởi cuộc đời còn quá nhiều chuyện phải lo toan. Ai cũng đau đáu cơm ăn áo mặc. Chỉ duy có ông quan chức đứng đầu tỉnh không nghĩ thế. Ấy mới sinh chuyện. Cả tuần nay, mạng xã hội liên tục có ý kiến cười cợt, dè bĩu, chê trách phép úng xử chung quanh một chuyện rất buồn cười.

Rằng, trên facebook nọ, cô giáo viên nọ “phát biểu cảm tưởng” về một người thuộc hàng “đày tớ của dân”: “nhìn cái mặt kênh kiệu, xa dân”. Người khác đồng tình bèn like. Đơn giản như đang giỡn, đang đùa cợt mà cũng có thể đang tức giận nên nó mới xuất hiện trên status. Nhưng rồi lại trở thành lớn chuyện khi có văn bản phạt mỗi người 5 triệu đồng với lý do “nói xấu” quan chức. Điều bất ngờ, kỳ quặt, không thể tưởng tượng nổi là có đến 16 cơ quan ở tỉnh nọ cùng vào cuộc để xử lý. Theo thông kê của báo Lao Động - cơ quan ngôn luật của Tổng Liên đoàn Viêt Nam, số ra ngày 23.11.2104: “Chê một câu, 16 cơ quan cùng vào cuộc”. Xin liệt kê như sau:

Cơ quan thứ nhất, Phòng Tham mưu Công an tỉnh (PV11); thứ 2, Đảng ủy khối Dân chính đảng; thứ 3, Phòng An ninh Chính trị nội bộ (PA83) Công an tỉnh; thứ 4, Sở Thông tin truyền thông tỉnh; thứ năm, Trường THPT tỉnh, nơi tác giả câu nói đó đang là giáo viên dạy tại trường; thứ sáu, UBND thành phố thuộc tỉnh nọ ra công văn về việc sử dụng mạng xã hội; thứ bảy, Phòng GDĐT thuộc cấp thành phố ra công về việc nghiêm cấm “like”, “share” trên facebook; thứ 8, Ủy ban kiểm tra Đảng ủy khối; thứ 9, Sở GD&ĐT; thứ 10, Sở Công thương; thứ 11, Đảng ủy khối doanh nghiệp; thứ 12, Công ty Điện lực  tỉnh; thứ 13, Văn phòng UBND tỉnh ra công văn giao Cổng thông tin điện tử tỉnh (cơ quan thứ 14) và Báo của tỉnh đảng bộ (cơ quan thứ 15) phải nhanh chóng đăng tải kết quả xử lý lên phương tiện thông tin đại chúng trong thời gian sớm nhất. Và cuối cùng, cơ quan thứ 16, là kho bạc nơi thu tiền những người bị phạt vì tội “nói xấu” quan chức cấp tỉnh. Ôi, cái thời gì lạ lùng quá. Người ta thèm tiếng khen hơn là nhìn nhận lại, tự hỏi vì sao bị chê. Mà nghe cúng chê, ắt phải huy động cả một máy chính quyền "xử trảm " cho bằng được.

Bài báo viết tiếp: “Trên đây là con số thống kê “sơ sơ” của chúng tôi, qua những văn bản đang cầm trong tay… Nhiều địa phương khác có tham gia hay không, chúng tôi chưa kiểm chứng được”. Thành ngữ tiếng Việt có câu “dùng dao mổ trâu cắt tiết gà”, hoàn toàn có thể áp dụng trong trường hợp này. Chưa hết, chiều ngày 24.11.2015, Thường vụ Tỉnh ủy tổ chức cuộc họp khẩn để giải quyết dứt điểm vụ chê chủ tịch tỉnh trên trên facebook. Phải dứt điểm trong ngày 25.11.2015. Đọc xong những thông tin này, chỉ có thể thở dài một tiếng. Một tiếng thở dài.

Hơi đồng đã sạch mồm ông lớn

Mặt sắt còn bia miệng thế gian

Cũng bởi thằng dân ngu quá lợn

Cho nên quân nó dễ làm quan

Thơ của Tản Đà. “Mặt sắt”, trước đó, Nguyễn Du đã có câu “trông lên mặt sắt đen sì”. Ngẫm mà buồn. Đã buồn, cho buồn luôn thể. Thử liệt kê thêm một vài chuyện khác, nhằm minh họa cho câu nói của ông Hoàng Ngọc Hiến? Ừ, cứ cho là thế. Thông tin này không hề bịa, báo Cảnh sát toàn cầu thuộc Bộ Công An, ngày 5.11.2015 có bài viết với tiêu đề: Tôn Ngộ Không bị nhốt ở Đà Nẵng (?!): "Trước đây tôi đọc thì tôi chưa nghĩ, chưa biết ngọn núi Ngũ Hành. Bây giờ xem phim "Tôn Ngộ Không" thì tôi hình dung cũng có thể trước đây - cách đây hơn 500 năm Tề Thiên Đại Thánh có khi bị đè ở trong ngọn núi Ngũ Hành ở Ngũ Hành Sơn". Đó là phát biểu của ông Võ Văn Thương, Bí thư Quận ủy Hải Châu - Đà Nẵng tại kỳ họp lần thứ 14 khoá 8 (2011-2016).

Buồn cười quá đi chứ? Vậy cười lên một tiếng cho vui. Bởi nghĩ cho cùng, cũng chỉ chuyện vặt. Không đáng có ý kiến. Cái này mới choáng hơn: Bộ GD-ĐT vừa ban hành quyết định cho phép Trường ĐH Kinh doanh và công nghệ Hà Nội được đào tạo ĐH chính quy với hai ngành y đa khoa và dược học. Văn bản này có hiệu lực thi hành từ ngày 19.11.2105. Đã nghe nhiều tiếng cười trên các mạng xã hội về quyết định táo bạo này. Bèn cười theo. Vừa định há mồm ra cười, sực nhớ đến những lời mắng của nhà văn hóa Nguyễn Văn Vĩnh: "An Nam ta có một thói lạ là thế nào cũng cười. Người ta khen cũng cười, người ta chê cũng cười. Hay cũng hì, mà dở cũng hì; quấy cũng hì. Nhăn răng hì một tiếng, mọi việc hết nghiêm trang”.

Thật ra, có những câu nói không thể bỏ qua, làm ngơ, tặc lưỡi: Thôi, “bỏ qua đi Tám”, cười khì một tiếng là xong mà phải tỏ thái độ. Thái độ đó chính là trách nhiệm công dân trước vận mệnh của dân tộc. Chứ không phải cúi đầu cắm mũi vào những chuyện “ruồi bu kiến đậu”, vớ vẩn, ấm a ấm ớ rồi cãi nhau ngậu xị như mổ bò. Cãi như chém chả. Mới đây thôi, ngày nọ, tháng kia, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc sang thăm hữu nghị nước ta và oang oang đọc thơ, khẳng định, "Tay trong tay mở ra tương lai tươi đẹp cho quan hệ Trung - Việt". Nhưng chỉ qua ngày hôm sau, câu nói trên chưa ráo bọt mép thì tại Đại học Quốc gia Singapore lại tuyên bố: "Các đảo ở Biển Đông là lãnh thổ Trung Quốc từ thời cổ đại" và Bắc Kinh sẽ phải bảo vệ cái gọi là “chủ quyền và lợi ích hàng hải của mình”. Đúng là trở mặt, lật lọng. Lá mặt lá trái vốn là bản chất của "thật thà như thể lái trâu", ông bà mình nói đố mà sai.

Hôm qua, ngày 26.11.2014, Báo Tuổi Trẻ đưa tin: “Tàu chiến Trung Quốc chĩa súng vào tàu tiếp tế Việt Nam: "Tàu chiến 995 của Trung Quốc mở bạt pháo 37 ly, điều khoảng 10 người mặc quân phục dàn đội hình chiến đấu và chĩa AK từ boong tàu 995 sang tàu Hải Đăng 05”. Trước sự việc nghiêm trọng này, Chuẩn đô đốc Lê Kế Lâm đã phát biểu một câu “để đời” rất đáng lưu ý: "Gặp nhau thì nói tốt, hết gặp lại cho làm bậy”. Câu nói này rất cần sự ủng hộ, đồng tình, chia sẻ của mọi người nhưng rồi dư luận chung như thế nào? Đọc lại bài thơ trào phúng của nhà thơ Cử Tạ, in trên báo Văn Nghệ TP.HCM số ra ngày 23.2.1979 "Tập Kiều chủ nghĩa bành trướng", lúc Trung  Quốc xâm lược các tỉnh biên giới phía Bắc:

Triều đình riêng một góc trời

Kẻ chê bất nghĩa, người cười vô lương

Ma dẫn lối, quỷ đưa đường

Một dây một buộc ai giằng cho ra?

Phải rằng, nắng lóa đèn lòa

Lần lần theo bóng trăng tà về Tây?

Bây giờ sự đã dường này

Tấc riêng như cất gánh đầy đổ đi

Sự đâu sóng gió bất kỳ

Thiệt đây mà có ích gì đến ai

Gớm cho những miệng dông dài

Nói rồi rồi lại ăn lời như không

Bốn bề bát ngát xa trông

Máu tham hễ thấy hơi đồng là mê

Nói ra trở mặt tức thì...

 

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC:Nhật ký 24.11.2105


kieu-250-nam-1-R

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 20.11.2015


cam-nhan-ve-chiec-la-cuoi-cung

(ảnh:Internet)

 

Ông Kim Thánh Thán, thế mà hay. Những suy nghĩ lẩn thẫn, vụn vặt, chẳng có “triết lý” gì ghê gớm, nhưng ngẫm đi ngẫm lại mói thấy sâu sắc biết chừng nào. Rằng, “Cơm nước xong vô sự, lục lộn hòm nát, thấy các văn tự mới cũ, có đến mấy trăm bức. Những người thiếu nợ đó, hoặc chết rồi, hoặc còn sống, tóm lại đều không sao trả nổi. Vắng người liền lấy lửa trộn lộn đốt sạch. Ngửng nhìn trời cao, vắng ngắt không mây. Há chẳng sướng sao!”. Đốt sạch những “của nợ” đó, cảm thấy nhẹ lòng. Giữ lại chẳng thể đòi được nợ, trong lòng cứ mãi canh cánh nỗi phiền muộn. Ấy là tâm thế của một người biết sống vui với đời. Tự mình, tìm cho mình cho niềm vui ngay trong tầm tay, chứ nào phải đâu xa.

Tuy nhiên, với những lá thư tình ngày cũ, không ai nỡ chọn cách “ứng xử” như thế chăng?

Có người bảo, với phụ nữ, sau khi đã về nhà chồng, thư tình ngày trước không khác gì giẻ lót nồi, như giấy nhóm bếp. Họ không cần phải nhớ đến những du dương mật ngọt của thời thề non hẹn biển nữa. Họ quên. Buột phải quên đi hình bóng người cũ thấp thoáng trong lá thư ngày cũ đặng toàn tâm, toàn ý cho cuộc sống mới. “Nếu biết rằng tôi đã có chồng/ Trời ơi người ấy có buồn không?”. Câu hỏi của T.T.Kh, chỉ thoáng qua trong chốc lát, sau đó, sẽ quên. Làm sao có thể cung sống với người này lại thả hồn về hình bóng của dĩ vãng mộng mị xa vời vợi?

Cứ mưa cho ấm chỗ nằm

Đem thơ nhóm bếp đỡ đần sớm mai

Thơ ấy? Chính là những lá thư tình của ngày hoa niên nắng còn xanh trên tà áo mới, môi còn thơm mà mỗi lời thốt ra còn reo vang như tiếng ngọc.

Bây giờ, đã xa.

Vào một chiều hiu hắt gió, y cũng bắt chước Kim Thánh Thán. Lục lọi lại ngăn tủ, trong bề bộn cũ những tờ giấy nát, vẫn còn đó những lá thư  tình. Bùi ngùi và đọc lại. Những dòng chữ viết nắn nót, cẩn thận đầy yêu thương, nhung nhớ tưởng chừng như người ngọc còn ngồi cận kề. Đọc những những lá thư ấy, tự dưng lại thương cho tuổi trẻ còn nuôi dưỡng nhiều mộng đẹp thơ ngây. Ngày ấy, tưởng rằng, “chỉ có cái chết mới chia lìa lứa đôi”. Tưởng là tưởng thế. Đến một ngày, cũng con đường đó, vòm cây đó, nắng mai đó nhưng hai người rẽ ngã khác nhau.

Y nhớ lại những lúc thắp ngọn nến thơm, trải trang giấy pơluya trên mặt bàn, cầm bút lá rông hoặc lá tre chấm mực tím viết lại những câu thơ như ngụ ý lòng mình? Ánh nến sáng lờ mờ, khói thơm nhẹ mới tạo ra sự huyền ảo của tình yêu học trò. Rồi chép những câu thơ tình tứ của Xuân Diệu: “Anh chỉ có một tình yêu thứ nhất/Anh cho em, kèm với một lá thư/ Em không lấy, và tình anh đã mất/ Tình đã cho không lấy lại bao giờ”?

Nhớ đến hình ảnh đó, y cảm thấy lòng rầu rầu như tơ chùng vào một chiều ngột gió. Hình ảnh đó, hiền lành, đáng yêu và trong trẻo biết chừng nào. Thư viết xong, thở phào sung sướng. Bỏ vào trong bao thư, tự làm lấy và sẽ gửi đến cho “nàng”. Ông Đoàn Chuẩn tinh tế quá đi thôi: “Đêm hôm nay ngồi dưới ánh trăng thu, viết tơ lòng gửi tới cho nhau rồi ngày mai nhắn mây đưa tờ thư, tới em đôi mắt sầu kèm theo bao ý thơ”.  “Nhắn mây” tức lá thư gửi được… gửi qua đường bưu điện! Nếu không thế, cậy nhờ người trung gian chuyển giúp lá thư tình. Dựa vào đâu, những lứa đôi yêu nhau lại nghĩ ra từ “chim xanh” rất đỗi thơ mộng và văn chương ấy? Cụ Đào Duy Anh giải thích: “Có truyện cổ tích nói rằng xưa vua Hán Vũ đế đương ngồi, có con chim xanh bay đến, Đông Phương Sóc nói: “Đấy là sứ giả của Tây Vương mẫu đến”. Sau người ta lấy chim xanh để tỷ dụ sứ giả, người đưa tin hay người làm mối”.

Đọc Tuấn, chàng trai nước Việt của Nguyễn Vỹ, thấy rằng từ đầu thế kỷ trước, khoảng chừng năm 1910, đã có “chim xanh” rồi. Này nhá, cô Ba Hợi thò tay trong yếm: “rút ra phong thư bằng giấy Tây, mà cô đã viết đêm qua, và đã gấp lại thật nhỏ. Cô đút thư trong bàn tay bé xíu của đứa em trai và nói thầm gì với nó. Cô bước đi thật nhanh, để em bé đứng lại sau, đưa thư cho cậu Bốn Thanh. Nó sợ sệt nói ấp úng: “Chị tui đưa cho chú cái này nè”. Chàng trai vui mừng và ngạc nhiên cầm giấy thì đứa bé đã chạy thật lẹ để theo kịp chị nó gần đến Cửa Bắc”. Thằng bé đó đích thị “chim xanh”.

Trước đó, lá thư đã trải qua một “quá trình" như thế nào?

“Tối hôm ấy, dọn dẹp bếp núc xong, cô ba Hợi lấy một tờ giấy Tây, bình mực tím và cây viết, cổ vừa đánh vần Quốc Ngữ, vừa viết thật kỹ". Nhận được thư, ắt viết thư trả lời. “Thanh ăn cơm tối xong, pha trà cho cha, rồi lấy sách Mạnh Tử ra đọc chương Lương Huệ Vương. Hết canh một, ông Xã ngủ, chàng mới xếp sách Mạnh Tử để trên đầu giường, và len lén lấy tờ “giấy Tây”, cán bút sắt và bình mực tím ra ngồi bàn. Dưới ngọn đèn dầu phọng, chàng vừa đánh vần vừa viết". Hình ảnh thân thiện, thận trọng này, vài thập kỷ sau cũng không thay đổi. Trong Hồn bướm mơ tiên của Khái Hưng, lúc từ chùa Giáng Long quay về Hà Nội, Ngọc viết thư cho Lan: "Bức thư ấy, trước kia, đã ba bốn lần Ngọc viết rồi, nhưng mỗi lần viết xong, chàng lại xé nhỏ vứt đi, vì một là chàng sợ Lan không biết quốc ngữ, hai là chàng sợ bị cự tuyệt. Lần này thì chàng nhất định quả quyết. Liền mở hộp giấy viết thư màu tím lấy một tờ ngồi viết". Rồi đến thế hệ của y cũng không khác gì mấy.

Cảm xúc ngồi viết thư, chắc chắn khác với lúc gõ từng con chữ trên bàn phím. Qua một lá thư tình, có thể thấy được tâm thế con người thời ấy. Những câu chữ Hán trong lá thư của Bốn Thanh gửi cô Ba Hợi như “Quân tử chi học dã, dĩ vi kỳ thân, tiểu nhân chi học dã, dĩ vi cầm độc” (Người quân tử học là để làm cho thân mình, kẻ tiểu nhân học là để làm trâu ngựa) v.v...  nay đã hoàn toàn biến mất. Đố ai, dù đuốc soi đèn, ròng rã tìm trong hàng vạn, hàng triệu lá thư tình mà tìm thấy... Tuy nhiên, đọc lá thư ấy, muôn năm cũ, dù có cũ kỹ đến cỡ nào đi nữa, có lẽ cách xưng hô “cô, cậu” vẫn còn gợi lên cái sự cảm động vì cái tình quê mùa, chân chất. Thân mật mà không suồng sã. Xa cách mà gần gũi. Tình yêu ấy chân thành, trong trẻo lắm.

Bây giờ, không cần phải đốt đèn dầu phọng nắn nót viết thư tình rồi đến “chim xanh” nữa. Các phương tiện hiện đại phục vụ giao tiếp giữa người và người đã được “trang bị tận răng”, nó đã làm thay đổi ghê gớm nếp sinh hoạt cũ. Cần gì phải chong đèn thổn thức, rạo rực, mê đắm trên giấy hoa tiên nữa chứ? Chỉ cần một cú click send là mọi việc đã đâu vào đấy. Tỏ tình dễ dàng quá phải không? Tình đến dễ ắt đi cũng dễ? Không ngu ngốc nghĩ thế. Tâm trạng của những người đang yêu, quyết liệt yêu dù thời đại nào, màu da nào cũng không khác gì mấy. Có điều hình thức tỏ tình ngày hôm nay đã kém đi sự thơ mộng nhiều quá. Làm sao có thể tìm được cảm giác rụt rè, sung sướng, hồi hộp lật trang giấy, đọc ngấu nghiến từng chữ. Ừ, nét chữ nàng mảnh khảnh nhỉ? Chữ “l” lả lướt ghê, chư “o” mới tròn trịa làm sao…; rồi thình thoảng lại kề lá thư sát mũi, cảm tưởng như còn thấp thoáng đâu đó hương thơm ngọc lan mà người yêu đã ép trong lá thư. Đọc xong và giữ gìn một nơi trân trọng.

Những lá thư tình trong thế giới phẳng đã khác. Có thể qua email, tin nhắn, inbox v.v… tuy nhiên, làm sao có thể lưu trữ từ ngày này qua tháng nọ. Chỉ cần hoặc cúp điện, hoặc mất sóng, nghẽn mạch hoặc bị hacker… là bao điều phiền toái xẩy ra. Hơn nữa, cách diễn đạt dù đầy đủ thông tin cần thiết nhưng chắc chắn nó không đem lại hiệu quả gần gũi, thân thiết như lúc cầm đọc lá thư. Có những lúc đọc xong lá thư ấy, buồn não nùng, hay tin người yêu đã phụ tình hoặc đã vì “bên tình bên hiếu” mà cất bước lên xe hoa bèn đóng cửa phòng: “Anh quay về đây đốt tờ thư/ Quên đi niềm ân ái ngàn xưa/  Ái ân theo tháng năm tàn/Ái ân theo tháng năm vàng/ Tình người nghệ sĩ phai rồi”. Còn bây giờ, chỉ cần mỗi động tác delete là “nhanh, gọn, lẹ” hoàn toàn phù hợp với tâm thế cả con người trong đời sống công nghiệp. Nhưng rồi, lúc ấy, đố ai có thể được nhìn thấy từng dòng chữ đã “thoát xác”, đã hóa thành ngọn khói xanh bay lãng đãng trong không gian tê buốt nỗi lòng? Đố ai nhìn thấy dấu vết của cuộc tình còn đọng lại qua một nhúm tro tàn?

Chiều nay, ngồi một mình và đọc lại những lá thư tình ngày cũ. Hình bóng của một thời trai trẻ ngốc dại, si mê, trong sáng đã ùa về chật chội trong tâm trí. Chữ hiện ra trước mắt mà nhòe nhoẹt đi bởi lớp sóng thời gian đã xa mất rồi. “Mắt biếc năm xưa nay đâu?”. Y hỏi y và không có một câu trả lời. Đốt đi những lá thư ngày cũ ư? Y không dám. Sắp xếp lại, cất giữ  vào một trong chiếc thùng thiết, khóa chặt lại và ném chiếc chìa khóa xuống mịt mùng sóng vỗ. Này em, “Tình cho đi không lấy lại bao giờ”. Dù gì, đôi ta đã cho nhau và có nhau những tháng ngày đã hằn vết trong đau từ trong tiềm thức, phải không?

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 18.11.2015

 

thuykieu-phu-1-R

Tư liệu của L.M.Q

 

Ngày hôm qua, 17.11.2012 đã có thông tin chính thức về Lễ Kỷ niệm cấp quốc gia 250 năm ngày sinh của Đại thi hào Nguyễn Du - Danh nhân văn hóa thế giới (1765-2015).

Có mấy “gạch đầu dòng” cần lưu ý:

Ngày 25.10.2013, tại kỳ họp lần thứ 37 của Đại Hội đồng Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hieepk quốc (UNESCO) họp ở Paris đã chính thức ban hành Nghị quyết số 37C/15 vinh danh Đại thi hào Nguyễn Du cùng với 107 danh nhân toàn thế giới. Theo đó, hoạt động tôn vinh Đại thi hào Nguyễn Du được triển khai ở Việt Nam và tại các nước trong cộng đồng UNESCO (niên độ 2014-2015).

Ngày 15.8.2014, Văn phòng Ban chấp hành Trung ương Đảng đã có công văn số 8467-CV/VPTW nêu rõ: “Đồng ý chủ trương tổ chức Lễ kỷ niệm cấp quốc gia 250 năm Ngày sinh của Đại thi hào Nguyễn Du, Danh nhân văn hóa thế giới trong năm 2015. Tỉnh Hà Tĩnh chủ trì tổ chức Lễ kỷ niệm”.

Ngày 31.10.2014, UBND tỉnh Hà Tĩnh đã ban hành kế hoạch, cụ thể: Tuần Văn hóa, Du lịch Nguyễn Du bắt đầu từ ngày 28.11.2015 đến ngày 5.12.2015 tại quê hương Đại thi hào Nguyễn Du với các nội dung: Liên hoan nghệ thuật quần chúng các tỉnh với chủ đề “Tiếng thơ Tiên Điền”, Hội thi thuyết minh viên du lịch Hà Tĩnh, Chiếu phim về chủ đề Nguyễn Du và Truyện Kiều và trưng bày các ấn phẩm văn chương của Đại thi hào Nguyễn Du và Văn phái Hồng Sơn, hiện vật khảo cổ di tích Bãi Cọi, triển lãm ảnh về thành tựu kinh tế xã hội của tĩnh Hà Tĩnh và các hoạt động văn hóa nghệ thuật khác trên địa bàn toàn tỉnh.

Trong chuỗi sự kiện này, trước đó, đã có nhiều hội thảo khoa học về Nguyễn Du và Truyện Kiều đã được tổ chức.

Từ ngày 17.11.2105 đến 25.11.2015, tại TP.HCM, Tuần lễ triển lãm kỷ niệm Nguyễn Du được tổ chức tại Thư viện Khoa học tổng hợp.

Trời còn có bữa hôm nay
Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời

Hay thật. Những gì nghĩ trong đầu, chưa kịp viết ra, đã thấy câu Kiều rành rành trước mắt.

Trong những ngày này, nội dung phiên họp chất vấn đại biểu Quốc hội (QH) được nhiều người quan tâm. Nhiều người tâm đắc, bình luận tán thành, ủng hộ câu hỏi của đại biểu (ĐB) Trương Trọng Nghĩa: “Nếu nhận viện trợ ODA và vay giá rẻ của Trung Quốc thì liệu sau này kiện đòi lãnh thổ được không khi chưa kịp trả?”. Trên mạng cộng đồng facebook, có nhiều status dành cho ông Nghĩa nhiều thiện cảm, khen ngợi. Sáng nay, từ báo chí chính thống đến các trang mạng xã hội đều đưa tin về cách trả lời của Bộ trưởng Bộ VH-TT-DL. Báo Thanh Niên còn in tấm hình lớn với dòng chữ: “Nhiều đại biểu Quốc hội cười nghiêng ngả sau câu trả lời “gây sốc” của Bộ trưởng Hoàng Tuấn Anh”. Ông ta phát biểu thế nào khiến thiên hạ “dậy sóng”?

Theo tường thuật của Báo Thanh Niên:

“Trăn trở thực trạng ngành du lịch, ĐB Phạm Thị Hải (Đồng Nai) đặt câu hỏi: “Chúng ta không so với Thái Lan được rồi nhưng so sánh với Lào, Campuchia, đến bao giờ du lịch VN được như họ?”. Bộ trưởng VH-TT-DL Hoàng Tuấn Anh nói: “VN quá giàu tiềm năng, nhiều danh lam thắng cảnh phong phú đa dạng nhưng quả thực, việc thu hút khách còn hạn chế”. “Tôi nhớ phiên chất vấn tại kỳ họp trước Chủ tịch QH có hỏi bao giờ du lịch VN bằng Thái Lan, Malaysia, Singapore. Tôi bỏ ngỏ, tôi để lại cho nhiệm kỳ tiếp theo trả lời việc này, tôi không dám trả lời”, Bộ trưởng thành thật. Liệt kê những tiềm năng, sản phẩm ngành du lịch... Bộ trưởng Hoàng Tuấn Anh xin nhận trách nhiệm, nhưng làm cả hội trường cười ồ: “Cái trách nhiệm này của chúng tôi sẽ truyền lại cho bộ trưởng kế tiếp. Vì thời gian không còn nữa thì làm sao bây giờ”. Chủ tịch QH Nguyễn Sinh Hùng nhận xét: “Đồng chí Bộ trưởng cho QH đi du lịch rất là mệt”.

Theo bình luận của Báo Tuổi Trẻ cũng phát hành sáng nay: “Còn nhớ, vào khoảng giữa nhiệm kỳ này, ông Tuấn Anh đã từng trả lời chất vấn đại biểu Quốc hội về những vấn đề tồn tại, bức xúc trong ngành du lịch và trách nhiệm của một “tư lệnh ngành”. Vị bộ trưởng này đã trả lời rất vòng vo, dài dòng khiến Quốc hội nhiều lần cười rộ lên. Đến cuối phiên chất vấn, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng phải bức xúc: “Tôi thấy từ sáng đến giờ Bộ trưởng bay ra bay vào nhiều quá” (trước đó ông Tuấn Anh khoe được bay đến nơi này nơi kia thăm thú các dự án du lịch)”!

Rõ ràng, không phải lần thứ nhất mà ông Bộ trưởng này có khả năng “gây cười”.

Câu phát biểu “xin truyền lại cho đời sau” khiến nhiều người nhớ đến câu thành ngữ: “kẻ ăn ốc, người đổ vỏ”, “kẻ ăn rươi, người chịu bão”, “quýt làm, cam chịu”. Câu phát biểu: “Chứ thời gian hết rồi còn biết làm gì bây giờ”, đã bộc lộ cái sự lưu luyến, tiếc nuối của một người sắp rời ghế, hết quyền lực chứ không phải nỗi trăn trở, đau đáu trách nhiệm của một người  “đứng mũi chịu sào”.

Phụ tình án đã rõ ràng
Dơ tuồng, nghỉ mới kiếm đường tháo lui

Hay thật. Những gì nghĩ trong đầu, chưa kịp viết ra, đã thấy câu Kiều rành rành trước mắt.

Trời đã chiều. Ngày vẫn ngày. Chẳng gì mới. Không gì cũ. Lang thang trên mạng một chút và đọc được thông tin này. Đáng suy ngẫm. Rằng, có cụ già nọ ở Thái Nguyên đã nghỉ hưu, sau nhiều ngày ngẫm về nhân tình thế thái, bèn viết ra chừng vài chục câu “châm ngôn”. Xin trích lại bởi chắc có nhiều người đồng tình:

“Dạy con trẻ vạn lời hay, không bằng nửa ngày làm gương, làm mẫu.

Cha nỡ coi khinh, mẹ dám coi thường, bước chân ra đường phi trộm thì cướp.

Cha mẹ ngồi đấy không hỏi, không han, bước vào cơ quan cúi chào thủ trưởng.

Con trai chào trăm câu không bằng nàng dâu một lời thăm hỏi.

Khôn đừng cãi người già, chớ có dại mà chửi nhau với trẻ.

Gọi cha: ông khốt, gọi mẹ: bà bô. Ăn nói xô bồ thành người vô đạo.

Coi khinh bên ngoại, chớ mong có rể hiền.

Ăn ở mất cả họ hàng, chớ mơ có nàng dâu thảo.

Rể quý bố vợ vì có nhà mặt phố. Con trai thương bố vì chức vì quyền.

Ngồi bên bia rượu hàng giờ, dễ hơn đợi chờ nửa giây đèn đỏ.

Ngồi cùng thiên hạ, trăm việc khoe hay. Mẹ ốm bảy ngày không lời thăm hỏi.

Đi có bạn đường chân không biết mỏi, còn có mẹ cha sao không hỏi khi cần.

Khoẻ mạnh mẹ ở với con, đau ốm gầy còm tùy nghi di tản.

Khấn Phật, cầu Trời, lễ bái khắp nơi, nhưng quên ngày giỗ Tổ.

Giỗ cha coi nhẹ, nuôi mẹ thì không. Cả vợ lẫn chồng đi làm từ thiện.

Một miếng ngọt bùi khi còn cha mẹ, một miếng bánh đa hơn mười ba mâm báo hiếu.

Cha mẹ còn thơm thảo bát canh rau. Đừng để mai sau xây mồ to, mả đẹp.

Bảy mươi còn phải học bảy mốt. Mới nhảy vài bước chớ vội khoe tài.

Tiếp thị vào nhà bẻm mép, cẩn thận cảnh giác, đôi dép không còn.

Cầu thủ thế giới tên gọi chi chi, thoáng nhìn tivi đọc như cháo chảy, ông nội ngồi đấy thử hỏi tên gì”.

Trải qua một cuộc bể dâu,

Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.

Hay thật. Những gì nghĩ trong đầu, chưa kịp viết ra, đã thấy câu Kiều rành rành trước mắt.

Ngày mai, 19.11.2015 tròn 28 năm ngày Việt Nam chính thức kết nối với mạng internet. Một vài số liệu cần ghi nhận: “Không gian internet đã phát triển mạnh và là một điểm sáng của VN trong gần 2 thập niên qua. VN có khoảng 41 triệu người dùng internet, chiếm khoảng 41% dân số. VN cũng có khoảng 26 triệu người tiếp cận các mạng xã hội trên thiết bị di động với thời gian 2 giờ trung bình mỗi ngày. Tốc độ tăng trưởng người dùng mạng xã hội ở VN thuộc vào hàng cao nhất trong khu vực. Các trang tìm kiếm và mạng xã hội lớn như YouTube, Facebook, Twitter, Viber đều được tự do hoạt động ở VN. Internet được mở rộng tới mọi đối tượng người dân, đặc biệt ở vùng núi, nông thôn, biên giới, hải đảo” (Báo Thanh Niên ngày 18.11.2015).

Cửa trời rộng mở đường mây,
Hoa chào ngõ hạnh hương bay dặm phần.

Hay thật. Những gì nghĩ trong đầu, chưa kịp viết ra, đã thấy câu Kiều  rành rành trước mắt.

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 17.11.2015

tungleminhquoc_sinh_nhat_80-1

Nhà thơ Lê Minh Quốc làm MC trong sinh nhật 80 của nhà thơ Thanh Tùng (nguồn: Trần Hoàng Nhân - Báo Thể thoa & Văn hóa ngày 17.11.2015)

 

Chộp lấy những con đường Hải Phòng
Dốc ngược chúng lên và nốc
Lấy mình làm cốc
Nốc những mối tình chưa xong
Rượu cất bằng nước mắt
Ông ngồi gắp cuộc đời
Nhắm toàn mồ hôi
Cuộc đời ném ông ra đường như giẻ rách
Chính ra ông phải giết người
Nhưng ông ngồi khóc
Khóc rất buồn cười
Nước mắt rơi toàn chữ
Dao thi ca đâm phụ nữ
Thơ làm trận bão tàn hung
Một trái tim thú dữ
Vật chết thơ đi hỡi thi sĩ Thanh Tùng
Ông vừa đi vừa hốt hoảng
Nhồm nhoàm nhai những đám mây Hải Phòng
Đêm đói quá nằm mơ ăn hải cảng
Và Hải Phòng ông đã uống xong…

Bài thơ này hay. Ấn tượng. Nhà thơ Trần Mạnh Hảo viết  ngẫu hứng ngay trong đêm mừng sinh nhật 80 tuổi của nhà thơ Thanh Tùng. Như năm trước, lần này nhận lời làm MC cho chương trình, y đề nghị khách tham dự viết bài thơ ngẫu hứng vào sổ tay. Cuốn sổ này, Lan Hương- con gái của Thanh Tùng đang giữ. Giữ lại một kỷ niệm thơ khó quên về thân phụ. Quan niệm “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” hoàn toàn sai lè lè. Con gái thương bố, lo cho bố không thua gì con trai, thậm chí còn chu đáo hơn là khác. Tổ chức sinh nhật cho bố, hạnh phúc nhất thuộc về người con. Một khi làm điều gì đó cho đấng sinh thành vui, há chẳng phải là một cách trả hiếu và cũng là hạnh phúc mình đó sao? Năm ngoái, cô con gái in tập thơ Thời hoa đỏ như món quà sinh nhật và cũng là cuộc tri ngộ cùng các thi hữu. Đến tham dự rất vui, hào hứng, và nhất là cảm động về tình cha con. Nói đến Thanh Tùng, khó thể quên bài thơ Thời hoa đỏ (Đình Bảng phổ nhạc):

Hoa như mưa rơi rơi
Cánh mỏng manh tan tác đỏ tươi
Như máu ứa một thời trai trẻ

Ai lại không nhớ về ngày tháng đó? Ôi, cái ngày vạm vỡ dại khờ. Điên cuồng ngốc nghếch. Trong trắng thiên thần. Mỗi một ngày chứa chan lộc biếc. Tình thơ nhung lụa. Mãi mãi thế chăng? Không bao giờ. Con người ta lớn lên. Khôn ngoan hơn. Kinh nghiệm hơn. Nhưng thật ra cũng là môt cách tình táo hơn. Đáng tiếc nhất lúc tuổi trẻ lại tỏ ra tỉnh táo quá. Đọc lại câu thơ của Thanh Tùng, lại nhận ra có bóng dáng của chính mình ngay trong từ con chữ:

Anh đâu buồn mà chỉ tiếc
Em không đi hết những ngày đắm say

Chỉ tiếc, đừng nên trách. Sự lựa chọn nào cũng có lý của nó. Trong đêm sinh nhật 80, anh đọc bài thơ mới nhất “Mùa thu ở Quảng Yên”:

Trời rót xuống bao nhiêu say
Em rót vào bao nhiêu nhớ
Những chào mời xiết một vòng ôm
Làm sao mà chứa nổi
Chân trời treo đầy tiếng sóng
Vẽ những đường hồi hộp của biển khơi
Cây vẽ lên tôi ảo giác
Tôi sẽ thành tan nát
Nếu không kịp trốn vào đâu!
Bông lau tím lật qua chiều đông tái
Cho tôi quên cả lối đi về
Em sôi nổi đến làm tôi ngần ngại
Có bao giờ tôi dám ước mơ đâu!

Bài thơ này, nhà thơ Nguyễn Thụy Kha đã phổ nhạc. Tiếng hát ngập căn phòng. “Thơ viết về mẹ của Lan Hương đấy”. Anh nheo mắt, nghiêng tai nói nhỏ, nghe rưng rưng. Hình bóng của người tình, người vợ một thời vẫn còn lãng đãng đâu đó trong trí nhớ. Vợ anh qua đời vào năm 1989 vì bệnh tim, để lại hai người con, một trai, một gái. Năm đó, Lan Hương được khoảng 15 tuổi, anh không kết hôn lần nữa. Hình ảnh người vợ như lửa giấu trong tro, có lúc, lại ngun ngút cháy và câu thơ lại viết. Lại một cảm xúc day dứt. Rười rượi buồn. Đôi khi, một niềm đau, một nỗi vui lại là nguồn cảm hứng vô tận cho thơ. Nhà thơ Thanh Tùng đề nghị con gái ngâm tặng mình một bài thơ chị sáng tác về mẹ:

... Mẹ mất rồi, con giấu mình với nỗi cô đơn
Mẹ yêu ơi, con vẫn biết con sinh ra từ cô đơn của cha, từ cô đơn của mẹ
Nên mỗi chiều về ngắm bóng cha con như nhìn thấy mẹ
Ánh mắt cha thầm nhắc cùng con câu thơ ngày cũ
Cả đời mẹ vẫn đi kiếm đi tìm
Nhưng chỉ thấy những điều tiếc nuối
Tiếc nuối ơi giờ mẹ ở đâu..."

Sống trên đời, ai lại không yêu mẹ? Chính tình yêu đó giúp mỗi chúng ta trở nên hướng thiện hơn. Và trong sinh nhật, Thanh Tùng lại nhắc về mẹ, một bóng hình xa khuất nhưng vĩnh viễn tồn tại trong tâm thức. Một ký ức không phai. Tình mẫu tử bền chặt muôn đời. “Muốn lăn vào lòng mẹ/ Như những ngày còn thơ / Tiếng mẹ run như sóng/ Tiếng mẹ mềm như tơ/ Mẹ cười hay mẹ khóc/ Chỉ thấy mắt ta mờ”…Câu thơ của Thanh Tùng - một chàng thi sĩ đã 80 xuân đã khiến nhiều người cảm động khôn nguôi.

Và có điều lạ, bao giờ anh cũng hồn nhiên, ngơ ngác giữa trần thế, tại căn cớ làm sao? Chỉ có thể tại… thơ đấy thôi. Anh sinh ra ở Nam Định. Lớn lên và sống tại Hải Phòng, thời trai trẻ anh là công nhân bốc vác. Những giọt mồ hôi nhọc nhằn, mặn chát áo cơm ấy, chính là nguồn cảm hứng của thơ và thơ đã tạo cho anh sự yêu mến trong lòng bạn đọc từ nhiều thập kỷ trước. Nói như Trần Mạnh Hảo: “Thanh Tùng từng ăn Hải Cảng”. Con người đó, “chính ra ông phải giết người” nhưng thơ đã đến. Mọi sự đã thay đổi. Bây giờ, sống tai Sài Gòn, anh lại mải mê, đắm đuối với thơ. Trong cuộc vui, Thanh Tùng cho biết đang bắt tay viết trường ca Đất phương Nam như một cách tạ ơn vùng đất đã cưu mang anh những năm tháng cuối đời.

À, bạn bè của y cũng ngộ. Lúc đã say, họ có thể, đúng dậy, vừa nốc rượu, vừa đọc liên tu bất tận những câu thơ chợt đến trong đầu. Thanh Tùng là một trong số đó, dù bây giờ, anh đã bước sang lứa tuổi: “Bông lau tím lật qua chiều đông tái”. Mà nhà thơ làm gì có tuổi, chỉ có cảm xúc và tình yêu mới neo họ ở lại với bến bờ của thơ, phải không anh Thanh Tùng?


L.M.Q

 

SINHNHAT-80-CUA-NHA-THO-THANH-TUNGTừ trái: Ất Hợi, Kỷ Hợi, Đinh Hợi trong sinh nhật 80 của nhà thơ Thanh Tùng (Ảnh: Đinh Thu Hiền)

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 15.11.2105

 

son-dau-1-R-hai-chi-em-1-R

Sơn dầu Lê Minh Quốc (2105)

 

Sáng nay, Chủ nhật lướt Facebook.

Mạng xã hội lớn nhất thế giới đã hỗ trợ người dùng cài đặt avatar in mờ màu quốc kỳ nước Pháp để tưởng nhớ các nạn nhân vụ khủng bố tại Paris. Một cách chia buồn với sự đau thương, mất mát của đồng loại. Màu cờ đó, ngày trước người Việt gọi là “cờ tam tài”, “cờ tam sắc”. Trong quyển Tuấn, chàng trai nước Việt của nhà văn Nguyễn Vỹ có đoạn, ông Charol, giáo sư Sử ký giải thích: "Lá cờ ba sắc của Pháp hồi khởi cuộc cách mạng 1789. Lúc bấy giờ nước Pháp còn là một nước quân chủ chuyên chế, lá cờ của nhà vua là màu trắng, dân chúng Paris nổi dậy đòi nhà vua phải chia sẻ quyền hành cho dân, và sau khi phá ngục Bastille, đòi vua phải triệu tập một hội nghị nhân dân. Chính trong hội nghị ấy, nhà lãnh tụ La Fayette đề nghị bỏ lá cờ trắng có hoa huệ (drapeau blanc fleur de lys) của vua, mà thay vào cờ của dân chúng thủ đô Paris, kèm hai bên màu trắng của vua. Lá cờ tam sắc được dân chúng hoan hô nhiệt liệt và từ đấy được coi là cờ cách mạng. Ðến khi tòa án nhân dân diệt Vua Louis XVI và Hoàng Hậu Marie Antoinette để thành lập chính phủ Cộng Hòa, lá cờ tam sắc vẫn được chính thức nhìn nhận là lá cờ của Cộng Hòa Pháp quốc, lá cờ của nhân dân Pháp".

Sự kiện bi thảm tại thủ đô Paris đã diễn ra sau vào tối 13.11.2105 (rạng sáng 14.11, giờ Việt Nam), ít nhất 128 người thiệt mạng và 180 người bị thương. Nhà nước Hồi giáo (IS) tuyên bố đứng sau chuỗi tấn công kinh hoàng nói trên. Báo Thanh Niên sáng nay, nhà báo Minh Trung căn cứ AFP, liệt kê “Các vụ khủng bố đẫm máu ở châu Âu”:

Ngày 2.8.1980: Hai thành viên của một nhóm khủng bố cho nổ bom trong phòng chờ của nhà ga Bologna ở Ý, khiến 85 người chết và 200 người bị thương.

Ngày 19.6.1987: Nhóm ly khai ETA đánh bom bãi đậu xe của một trung tâm mua sắm ở thành phố Barcelona của Tây Ban Nha, khiến 21 người chết và 45 người bị thương.

Ngày 15.8.1998: Nhóm ly khai của lực lượng du kích Quân đội Cộng hòa Ireland (IRA) tiến hành vụ đánh bom ở thị trấn Omagh thuộc Bắc Ireland (Vương quốc Anh), khiến 29 người chết và 220 người bị thương.

Ngày 11.3.2004: Các tay súng có liên hệ với al-Qaeda tiến hành hàng chục vụ đánh bom trên 4 xe lửa chạy về hướng Sân vận động Atocha ở thủ đô Madrid của Tây Ban Nha, khiến 191 người chết và khoảng 2.000 người bị thương.

Ngày 7.7.2005: Một số thành viên mạng lưới khủng bố al-Qaeda tiến hành 4 vụ đánh bom tự sát trên 3 tàu điện ngầm và 1 xe buýt 2 tầng ở thủ đô London của Anh, khiến 56 người chết và 700 người bị thương.

Ngày 22.7.2011: Thanh niên Na Uy có tư tưởng cực đoan Anders Behring Breivik tiến hành tấn công bằng bom bên ngoài một tòa nhà chính phủ ở thủ đô Oslo trước khi xả súng vào một trại thanh niên, làm tổng cộng 77 người chết.

Ngày 7.1.2015: Hai tên khủng bố mang súng trường tấn công văn phòng tạp chí Charlie Hebdo ở Paris, khiến 12 người chết và 11 người bị thương".

Sự cuồng tín chính là nguyên nhân dẫn đến tội ác khốc liệt, sa đọa bi thảm nhất của con người, dù rằng cuồng tín vào bất kỳ một giá trị nào, nhân danh bất kỳ sứ mệnh nào và vì bất kỳ mục tiêu nào. Lại sực nhớ lại đến vụ đắm tàu tàu Sewol vào sáng sáng 16.4.2.2014 tại Hàn Quốc. 304 người chết. Chiếc tàu này trên đường đi từ Incheon đến đảo Jeju bị lật úp giữa biển. 304 hành khách bỏ xác giữa trùng khơi. Đây là một trong những sự kiện kinh hoàng trong năm 2014. Lúc ấy, trên đường đi làm nhẫm trong óc mấy câu thơ vụt đến:

Chẳng một ai thịt sắt da đồng

Bốn phương nam bắc cũng tây đông

Lẽ thường muôn hướng chung một hướng

Giọt loãng nào không tựa máu hồng?

Cái chết của người xa lạ, còn thế, huống gì người cùng da vàng mũi tẹt. Trưa nay, ứa nước mắt về một tình chị em. Em Nguyễn Văn Uy, sinh năm 1943, chết ngày 8.1.1969. Chị Nguyễn Thị Tẩu viết về em lúc từ Sài Gòn ra Phan Thiết nhận xác em: “Khóc chán, kêu gào chán, các chị lôi tôi ra xe trở về. Dọc đường, tôi vẫn kêu gào như người điên, không ngại ngùng, không xấu hổ, không còn kể đất trời nào nữa. Chiếc cầu Mường Mán đây. Uy đã viết thư gửi về, kể cho tôi nghe về chiếc cầu này. Em tôi vẫn thích đứng nơi đây để nhìn trời, nhìn nước, nhìn hàng dừa ngả nghiêng soi bóng nước trong, nhìn đàn chim chiều chiều đang bay về tổ ấm. Chỗ nào em tôi vẫn hay đứng? Phía nào em tôi vẫn hay nhìn. Các chị ơi làm ơn cho tôi biết với. Để tôi sẽ in bàn chân lên chỗ em tôi vẫn đứng và ghen tức với khung trời đã thâu trọn những cái nhìn say đắm của em tôi. Tôi muốn tìm lại tất cả những gì dư ảnh của em tôi, dù lớn hoặc nhỏ; vì lúc này em tôi đã đi rồi, giống như dòng nước chảy dưới chân cầu không bao giờ trở lại” (Tạp chí Văn số 129 ngày 1.5.1969).

Đoạn văn bình dị, không hoa hòe hoa sói, đọc lên rưng rưng bởi thấm đẫm cái tình. Tình xót xa máu thịt, đã mất. Nguyễn Văn Uy, trong cuộc chiến vừa qua, cái tên ấy như hàng vạn cái tên khác. Một cái chết, như hàng vạn cái chết khác. Rồi lãng quên? Chẳng ai còn nhớ đến nữa? May thay, người chết trẻ còn để lại những cuốn sách Tượng đá sườn non, Bão khô, Ngựa tía, Quê nhà, Chiếc xương lá mục..., ký bút danh Y Uyên. Chị Tẩu viết: “Một cái gì đó dẻo dai, bền vững, sẽ chịu đựng nổi sự thử thách của thời gian, sự dễ quên tàn khốc của cuộc đời vô thủy vô chung này”. Cái đó là cái gì? Là những gì em đã viết? Là tình chị em cùng huyết thống? Đọc những trang viết xúc động này, tự dưng lại nhớ đến chị Lê Ngọc Sương - chị ruột của Bích Khê:

… Tôi mất em là mất cả một mùa hương

Cả ánh sáng và cả gì man mác

Tôi mất em, ôi! Cõi lòng tan nát

Tôi mất em! Trời hỡi, tôi mất em

Tình lên mi sầu dựng giữa màn đêm

Tôi muốn xé tử thần ra trăm mảnh

Tôi gào thét giữa đêm tàn trăng lạnh

Đòi hồn em và xác thịt em tôi…

... Nấm mồ được đặt trên miếng đất Hội quán ở gần Thu Xà và luôn bao năm lửa khói chỉ có một con quạ đứng im hơi. Em tôi đã chết. Nhưng bây giờ tôi vẫn không tin là em tôi đã chết (Tạp chí Văn số 64, 15.5.1966). Lại nhớ đến chị Lễ của Hàn Mặc Tử. Chơi giữa mùa trăng, không nên xếp vào thể loại tùy bút, gọi là thơ văn xuôi thì đúng hơn. Một áng thơ văn xuôi xuất sắc:

“Ánh sáng tràn trề, ánh sáng tràn lan, chị tôi và tôi đều ngả vạt áo ra bọc lấy, như bọc lấy đồ châu báu...

Tôi bỗng thấy chị tôi có vẻ thanh thoát quá, tinh khôi, tươi tốt và oai nghi như pho tượng Đức Bà Maria là bực tinh truyền chi thánh. Tôi muốn sốt sắng quỳ lạy mong ơn bào chữa. Nhưng trời ơi, sao đêm nay chị tôi đẹp đẽ đến thế này. Nước da của chị tôi đã trắng, mà vận áo quần bằng hàng trắng nữa, trông thanh sạch quá đi.

Tôi nắm tay chị tôi dặt lia lịa và hỏi một câu hỏi tức cười làm sao: “Có phải chị không hở chị?” Tôi run run khi tôi có cái ý nghĩ: Chị tôi là một nàng Ngọc nữ, một hồn ma, hay một yêu tinh. Nhưng tôi lại phì cười và vội reo lên: “A ha, chị Lễ ơi, chị là trăng, mà em đây cũng là trăng nữa!”.

Và lúc này, lại nhớ đến một tin nhắn, đã nhận vào lúc 0 giờ ngày 9.11.2012, từ Đà Nẵng, báo tin người chị đã về trời. Chị Lê Thị Ái. Một cái chết đã đến với một người. Nghĩ đến tận cùng, chết cũng là một sự giải thoát. Từ nhiều năm, chị đã phải chạy thận ở Bệnh viện Đa khoa Đà Nẵng. Một cuộc chạy đua với thần chết rất quyết liệt. Những người bệnh cùng thời với chị, đã hai mươi năm trước, tất thẩy đều bỏ cuộc. Và bây giờ đến phiên chị. Một nẻo về cuối cùng rồi ai cũng chạm đến. Như một lẽ tất nhiên. Không thể chối từ. Không thể thoái thác. Ai cũng về “cuối bến tình yêu”. Một hẹn hò đã dự báo từ khi con người cất tiếng oa oa chào đời. Từ nay, vĩnh viễn mất chị. Một phần máu thịt đã mất…

Lạ kỳ cho những giấc chiêm bao.

Ngày ấy, y quyết định không thông báo cho mẹ biết. Giữa khuya nghe tin dữ, bà cụ sẽ trằn trọc khó ngủ. Không ngờ, sáng hôm sau, y thức dậy sớm, mới 5 giờ sáng đã thấy mẹ ngồi tự lúc nào và buộc miệng hỏi ngay: “Ái chết rồi à?”. Kinh ngạc, làm sao bà cụ có thể biết? Làm sao có thể biết? Thì đây: “Đêm qua, không biết reng mà tau chẽng ngủ được. Cứ nhắm mét lơ mơ làn màng là nghe con Ái gụa: “Mẹ ơi! Mẹ về với con!”. Nghe tiếng gọi khẩn thiết ấy như xa như gần, như mơ như thật, mẹ y không thể ngủ yên và thao thức đến sáng. Quả nhiên, chị Ái đã chết đúng vào thời điểm mà mẹ chập chờn mộng mị…

Sự trùng hợp ngẫu nhiên chăng?

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 14.11.2015


tuong-mo-NGUYEN-DINH-VUONG

Chia sẻ liên kết này...

 
 

Trang 22 trong tổng số 58