Ngày hôm qua có gì?
Trước đó, nhận thông tin: “Vào lúc 8g sáng ngày 5.5.2015, tại trụ sở Liên hiệp các Hội VHNT TP.HCM (81 Trần Quốc Thảo, Q.3, TP.HCM) chính thức khai mạc Đại hội Khu vực TP.HCM nhằm chuẩn bị cho Đại hội đại biểu toàn quốc Hội Nhà văn Việt Nam khoá IX nhiệm kỳ 2015-2020 diễn ra vào tháng 7.2015. Đại hội Khu vực TP.HCM nghe tổng kết và góp ý về hoạt động của Hội và Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam nhiệm kỳ VIII, Điều lệ Hội sửa đổi, phương hướng nhiệm kỳ IX, bỏ phiếu đề cử 15 thành viên dự kiến Ban Chấp hành Hội khoá mới…Do Đại hội toàn quốc Hội Nhà văn Việt Nam khoá IX sắp tới chỉ có 50% đại biểu hội viên tham dự, nên Đại hội Khu vực TP.HCM cũng như các khu vực khác sẽ tiến hành bầu chọn đại biểu cho mình”.
Sau đây là vài con số cần ghi nhận: Có cả thẩy 154 nhà văn đang sinh hoạt tại chi hội TP.HCM, (chưa kể các nhà văn thuộc chi hội lực lượng vũ trang); cao niên nhất là nhà văn Xuân Thu, sinh năm 1921 tại Hải Phòng. Ông nổi tiếng với tập truyện ngắn Ông lão chăn bò trên núi Thắm, in năm 1957, dịch sang tiếng Pháp năm 1978. Sáng qua, chỉ có chừng 90 người tham dự, bầu lấy 76 người.
Sao lại bầu chọn bằng cách gạch tên nhau? Đồng nghiệp vốn tôn trọng chữ nghĩa lại hành xử tàn nhẫn đến thế ư? Nghĩ cho cùng chẳng ai có quyền gạch tên ai, dựa vào tiêu chí nào hay chỉ hoàn toàn cảm tính vu vơ? Không có sự giải thích nào nghe "lọt tai". Lúc gạch tên có ai nghĩ về cái tình của thân phận "con tằm nhả tơ" bọt bèo ngày ngày cắm mặt xuống từng trang viết đã chung nỗi niềm "đã mang lấy nghiệp vào thân" nhọc nhằn lắm, đơn độc lắm?Cứ theo văn bản đã công bố, hiện nay, Hội Nhà văn Việt Nam có 1.016 hội viên, với cách chọn 50% thì sẽ có 504 nhà văn dự Đại hội lần thứ IX. Lần đầu tiên nghe công bố tên của 26 nhà văn thuộc hội viên Hội Nhà văn Việt Nam tham gia Văn đoàn Độc lập. Những người này thuộc diện bị gạch tên đầu tiên trong danh sách bầu chọn đại biểu hội viên tham dự Đại hội, chứ không phải bị khai trừ ra khỏi Hội như ai đó cố tình hiểu nhầm. Mà có khai trừ cũng không được, vì căn cứ vào Điều lệ Hội Nhà văn Việt Nam, chương III, phần Hội viên, Điều 12 quy định nhiệm vụ:
“a) Tích cực xây dựng và phát triển văn học Việt Nam thông qua các hoạt động sáng tác, lý luận, phê bình và dịch thuật văn học.
b) Thi hành điều lệ và các nghị quyết của Hội, tham gia các hoạt động của Hội;
c) Phát triển, bồi dưỡng lực lượng sáng tác trẻ và giới thiệu hội viên mới”.
Do đó, trong dự thảo Báo cáo sửa đổi Điều lệ Hội Việt Nam, nay mới có câu thêm: “d) Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam không được tham gia các tổ chức bất hợp pháp”. Mà nghĩ cho cùng sự tư cách cần có ở đời, đã A thì không B. Và ngược lại. Vừa A lẫn vừa B, chẳng ai biết đâu mà lường. A hay B là quyền lựa chọn của mỗi người. Chẳng ai có thể khuyên nên A hay nên B. Nghĩ rằng, A ra A, B ra B cũng đáng ghi nhận như nhau - bởi đó là sự lựa chọn của mỗi người. Nếu sự lựa chọn ấy thật tâm, thật lòng tùy vào nhận thức, tùy góc nhìn của mỗi cá nhân. Mọi việc phải rạch ròi. Chứ đã A lại B, đã B lại A thì rách việc quá. Hai chọn một thôi, chứ mâm nào cũng xỏ đũa vào là sao? Mà A hoặc B cũng chẳng ý nghĩa gì cả, nếu cuối cùng có hoặc không những gì đã viết đặng phụng sự bạn đọc?
Còn nhớ trước đây, khi chuẩn bị ra Hà Nội dự Đại hội Nhà văn khóa XIII, Thành ủy TP.HCM, đại diện là ông Ba Đua có buổi gặp gỡ các nhà văn tại hồ Kỳ Hòa và sau đó, tài trợ kinh phí chuyến đi cho những ai đi dự Đại hội. Tất nhiên, vì nhiều lý do cũng có người không đi. Lúc ấy, đại hội toàn thể, ai là hội viên cũng đều có quyền tham dự, chẳng có bầu chọn gì cả. Nay có chuyện đưa ra danh sách và hội viên tự gạch tên nhau.
Vấn đề Đại hội nhà văn, với nhà văn thật ra chỉ là cái cớ thăm thú nhau, có một chuyến du hí, gặp gỡ đồng nghiệp hơn là bàn chuyện nghề nghiệp, quan niệm sáng tác, bởi đơn giản, viết là câu chuyện muôn thuở của một người. Một người lữ hành băng qua sa mạc, những tiếng vỗ tay, hò reo cổ vũ, nếu có càng hay, bằng không họ vẫn nhẫn nại một mình trên con đường đã chọn. Một mình, một bàn. Đèn khuya, một bóng. Chẳng ai có thể truyền lại kinh nghiệm viết cho ai. Cuộc gặp gỡ là hàn huyên, bia bọt, hỏi han nhau, chỉ thế thôi. Chẳng rõ đến lúc nào, chính những người trong cuộc mới đặt câu hỏi nghiêm túc: “Hội Nhà văn đã đứng ở đâu trong nhận thức của nhà văn?”. Đành rằng, đây là một tổ chức chính trị và nghề nghiệp nhưng hiện nay, yếu tố nào nổi trội hơn?
Nhân đây, chép lại bài báo Các nhà văn thích... đùa (!?), tường thuật lại Đại hội Nhà văn lần thứ VIII. Xem như tư liệu của một thời. Chẳng rõ, những vấn đề đặt ra trong bài viết này, sắp đến, Đại hội lần IX có thay đổi gì không? Y viết nguyên văn như sau:
"Đến cuối ngày 5.8.2010, ĐH Nhà văn lần thứ VIII đã chọn đựoc 18 nhà văn để đưa ra ứng cử vào BCH nhiệm kỳ mới: Trung Trung Đỉnh, Võ Thị Xuân Hà, Nguyễn Hoa, Nguyễn Trí Huân, Nguyễn Thị Thu Huệ, Văn Công Hùng, Đình Kính, Linh Nga Niết Đam, Đào Thắng, Lê Quang Trang, Đinh Quang Tốn, Nguyễn Quang Thiều, Hữu Thỉnh, Dưong Thuấn, Trần Đức Tiến, Vũ Hồng, Phan Trọng Thưởng, Khuất Quang Thụy. Sáng nay 6.8, các đại biểu sẽ bầu ra 15 ngưòi vào Ban chấp hành mới.
Có thể nói, Đại hội (ĐH) Hội Nhà văn VN là một trong những hội chuyên ngành được công chúng quan tâm nhất. Để có thể diễn ra từ ngày 4 đến 6.8.2010 tại Hà Nội, trước đó, Hội đã tiến hành 10/10 đại hội cấp cơ sở trong cả nước nhằm quán triệt các văn bản, Chỉ thị của Ban Bí thư, Ban chỉ đạo ĐH các hội văn học nghệ thuật Trung ương. Và ngay cả trước lúc tiến hành ĐH thì hầu hết Thảnh ủy các địa phương cũng đã tổ chức những cuộc gặp gỡ thân mật với nhà văn - như một sự chia sẻ, chúc mừng và gửi gắm ở các nhà văn khi tham dự ĐH của nhiệm kỳ 2010 - 2015.
Ở ĐH lần này, có 776 / 923 đại biểu trong cả nước tham dự, như thế có đến 187 nhà văn đã vắng mặt. Sáng ngày 5.8.2010, Ban chấp hành khoá VII đã thông qua các Quy chế ĐH toàn quốc, Quy chế bầu cử, Quy chế điều hành của chủ tịch đoàn... Qua các báo cáo này ta được biết, trong nhiệm kỳ vừa qua (2005 - 2010), Hội nhà văn VN đã được Nhà nước cấp 86 tỷ 625 triệu. Hội đã sử dụng chi cho nhiều hoạt động hữu ích, trong đó Hội đã chi “kinh phí tài trợ sáng tác”: 14 tỷ 712 triệu! Đáng lưu ý Hội đã “tài trợ thường xuyên để công bố tác phẩm cho 802 lược nhà văn với số tiền 4 tỷ 281 triệu”, nhưng đến nay còn có đến 40 nhà văn chưa thanh lý hợp đồng!
Với sự đầu tư ưu ái như thế, nhưng nhìn chung trong nhiệm kỳ 5 năm vừa qua các nhà văn VN chúng ta vẫn chưa có được những tác phẩm thật sự lay động tâm hồn của hàng triệu triệu độc giả. Ngoài ra, trong bản kiểm của BCH Hội nhà văn khóa trước cũng thừa nhận: “Việc theo dõi sáng tác của hội viên trong từng địa phưong còn chưa thật sát sao, chặt chẽ, dẫn đến việc Hội đồng tuyển chọn còn để sót nhiều tác phẩm trong việc xét duyệt chấm giải cũng như việc kết nạp hội viên... Công tác chấm giải văn học hàng năm của Hội nhìn thực hiện đúng quy chế, chọn đựơc nhiều tác phẩm hay, nhưng phần nào cũng chưa phản ánh đứng hình hình phát triển văn học...”.
Sau khi nhà thơ Hữu Thỉnh đưa ra danh sách đề cử vào đoàn chủ tịch: 19 nhà văn, đoàn thư ký: 6 nhà văn để tiến hành ĐH, ngay lập tức nhà thơ Bùi Minh Quốc đã “xin có ý kiến”. Không đợi micro chuyển đến, ông đã nhanh chân lên diễn đàn phát biểu với yêu cầu phải có thông tin về những ngưòi được đề cử để ĐH xem xét họ có xứng đáng hay không? Ý kiến này các đại biểu đã “bỏ qua” bằng cách biểu quyết đồng ý với danh sách vừa được đề cử.
Kế đến là phần phổ biến các thông tin về thể lệ bầu cử, đã có nhiều ý kiến khác nhau khá sôi nổi, hào húng. Nhưng đã có một tình huống xẩy ra ngoài dự kiến, gây bất ngờ của nhiều người. Có lẽ do thiếu kiềm chế, hoặc vì một lý do nào đó, nhà thơ Trần Mạnh Hảo đã đi lại trong hội trưòng “xin phát biểu” ý kiến. Trong lúc ngưòi đang điều khiển chưong trình là nhà văn Hữu Ước chưa kịp mời, bỗng nhà thơ Trần Mạnh Hảo đã nhanh chóng giành được micoro! Ông phát biểu gì thì không ai được rõ, vì... micro không có âm thanh. Quyết không cuộc, ông Hảo tiếp tục lao lên diễn đàn, nhưng lần này âm thanh cũng “tắt ngúm”!
Có một điều cũng khá bất ngờ nữa, là giữa lúc cần thảo luận, trao đổi về các vấn đề thuộc về quy chế, không ít nhà văn đã bàn về chuyện... sáng tác! Chẳng hạn, nhà thơ Dư Thị Hoàn đặt câu hỏi: “Vì sao báo Văn Nghệ - cơ quan ngôn luận của Hội ngày càng “xuống cấp và nghiệp dư hoá”! Nhà thơ Vy Thùy Linh lại đề nghị về chuyện phải kết nạp Hội cho các nhà văn trẻ! Có một điều dễ nhận ra nhất là thái độ của nhà văn khi không đồng tình một vấn đề gì thì họ lại dành cho đối tưọng nhiều... tràng vỗ tay. Nhà thơ Phan Vũ bức xúc: “Tôi đã từng dự ĐH nhà văn từ khoá I đến nay, nhưng chưa bao giờ tôi lại thấy các nhà văn ta có một biểu hiện kỳ cục như vậy. Bất kỳ ý kiến nào, dù hay hoặc dỡ, dù đồng tình hay không thì họ cũng cứ vỗ tay kéo dài một cách quá nồng nhiệt!”.
Thật vậy, trong phần đọc tham luận của các nhà văn thì “hiện tưọng” này đã lập đi lập lại nhiều lần. Điều này đã khiến không ít nhà văn cảm thấy nản hoặc “yếu bóng vía” đã xin rút lui, không đọc tham luận với lý do rất giống nhau là “đau cổ họng”! Mà điều đáng suy nghĩ là những vấn đề được đăt ra trong tham luận ít được các đại biểu quan tâm. Có lẽ do tham luận đề cập đến những vấn đề quá cũ, chẳng hạn thế nào là một tác phẩm hay? hoặc lại đề cập đến những vấn đề mà nhà văn ít rành rẽ như chuyện về nhân sự, bầu cử v.v....?
Nhà văn Trần Thanh Giao đọc tham luận “Để có một tác phẩm”, theo ông phải là tác phẩm đạt được Chân, Thiện, Mỹ; nhà văn Võ Khắc Nghiêm cảnh báo một số nhà văn thuờng biếm nhẽ Hội, nhưng lại... không xin ra khỏi hội; nhà văn Lê Bá Thự cũng nêu các vấn đề kết nạp hội viên mới và các giải thưỏng văn học của hội vẫn chưa được sự đồng tình cao trong dư luận; nhà thơ Nguyễn Việt Chiến đặt câu hỏi “Vì sao thơ ngày càng ít người đọc?”, bên cạnh đó các nhà văn Bích Ngân, Trần Hũu Lục, Phan Trọng Thưỏng, Nguyễn Gia Nùng, Phạm Đình Trọng, Lê Phương Liên, Thùy Dưong cũng đọc tham luận v.v... Không ít người trong số này đã được nhận khá nhiều... tràng pháo tay kéo dài! Vì lý do đó, vừa bước lên diễn đàn nhà văn Phong Lê đã “rào trước đón sau” rằng, nếu ai vỗ tay thì sẽ xuống ngay. Rồi cuối cùng cũng những tràng pháo tay vang lên! Thật khó lý giải điều này, các nhà văn không tôn trọng đồng nghiệp? hay đồng nghiệp đã nói những điều mà theo họ “biết rồi khổ lắm, nói mãi” chăng?" (nguồn: báo Phụ Nữ TP.HCM số ra ngày 6.8.2010)
Chiều nay, bỗng dưng trời đổ một mưa lớn.
Sực nhớ lại câu nói trứ danh của Kim Thánh Thán qua bản dịch Nhượng Tống: “Mùa hè qua tháng Bảy. mặt trởi đỏ ngang trời. Gió cũng không! Mây cũng không! Sân trước, sân sau, nắng chói như lò lửa. Không một con chim nào dám bay. Bồ hôi ra khắp mình, ngang dọc thành rãnh nước. Cơm để trước mặt không sao nuốt được. Trải chiếu muốn nằm dưới đất thì đất ướt như mỡ. Ruồi xanh lại xùm đến, leo lên cổ, đậu lên mũi, đuổi chẳng buồn đi. Đương lúc không biết làm thế nào được, bỗng dưng mây đen kéo đến kín, tiếng rầm rầm rộ rộ nghe như có trăm vạn, chiêng, trống… Mái tranh chảy như thác. Bồ hôi trên mình biến mất. Đất ráo như lau. Ruồi bay hết. Ăn cơm thấy ngon miệng. Há chẳng sướng sao?”
L.M.Q
Tư liệu L.M.Q
Sau này, có nhiều giá trị đang song hành cùng thế kỷ này, có thể người ta sẽ lãng quên; có những giá trị đang tồn tại, tuy nhiên tùy mỗi góc nhìn, tùy quan điểm chính trị, người ta lại có sự nhìn nhận khác nhau. Có chủ quan không, khi y nghĩ rằng, hôm nay và mai sau, dù Đông hay Tây, dù Thiên đàng hay Địa ngục, dù cơ chế chính trị nào chắc chắn bao giờ thiên hạ cũng dành cho Google nhiều thiện cảm nhất. Chính công cụ này, đã giúp nhân loại rất nhiều tiện ích. Từng nghe, sự phát minh ra chữ viết, chỉ riêng nó thôi, có thể khẳng định còn quan trọng hơn toàn bộ những trận đánh trên thế giới.
Vậy ra đời của Google có ý nghĩa thế nào?
Khi đặt câu hỏi như thế, phải nghĩ rằng, không gì có thể “bịt mắt” được ai khác. Những chứng cứ ấy, ngày sau sẽ đến lúc có người hệ thống, tổng kết nhằm giúp đời sau hiểu rõ hơn thời đại chúng ta đang sống.
Chiều 29.4, ra Sài Gòn ngắm phố đi bộ Nguyễn Huệ trong ngày đầu tiên chính thức mở cửa cho công chúng. Nghe nói có quy định, không dùng từ “phố đi bộ Nguyễn Huệ”, dùng cụm từ "quảng trường tượng đài Chủ tịch Hồ Chí Minh"; không dùng từ “nhạc nước”, dùng "phun nước có nhạc". Lúc ý đến, có nhạc truyền thống rất to, có vòi nước phùn phụt phun lên trời, nước một màu trắng xóa. Khác hẳn chừng mươi năm trước, lần đầu tiên vào Đầm Sen ngồi nghe nhạc nước, nước có nhiều sắc màu và rõ ràng dòng nước uốn éo, lên xuống cao thấp theo từng giai điệu. Chiều qua, không có cảm giác ấy. Tối qua, chứng kiến ở quảng trường này cả hàng ngàn người đến vui chơi, không thấy “phun nước có nhạc”.
Sáng nay, đi ngang qua, đường phố thông thoáng hơn. Đã thấy cờ đỏ sao vàng rợp trên phố. Chẳng rõ, có ai nhìn ra: hễ đến ngày lễ, bao giờ hãng taxi Mai Linh và Vinasun đều có treo lá cờ nhỏ ngay trên đầu xe? Chỉ có 2 hãng này thôi. Khiến, y có tình cảm nhiều hơn. Khi qua Mỹ, những ngày đi ngang qua các công sở, trụ sở tài chính, thương mại, khu kinh doanh sầm uất đều thấy rõ ràng ràng, thấy tận mắt những lá cờ Mỹ phật phật tung bay kiêu hãnh trong gió. Họ đang có ngày lễ gì chăng? Hỏi ra mới biết, không phải, bất kỳ ngày nào trong tuần họ cũng đều treo cờ như một niềm tự hào. Trong khi đó, các công sở của ta thế nào, hay chỉ có đến ngày lễ mới treo cờ?
Chiều qua, ngồi lai rai một chai rượu đỏ. Ngắm không gian phố xá Sài Gòn. Ngày 30.4 trong lòng mỗi người lại có nhiều ngổn ngang khác nhau. Vết thương của vĩ tuyến 17 vẫn chưa liền sẹo trong tâm thức mỗi người? Mỗi người nhìn nhận ở mỗi góc độ, khó có thể tranh luận đúng hoặc sai, tùy góc nhìn, tùy thế đứng chính trị của cá nhân. Câu thơ này của Xuân Diệu:
Đất nước trong tôi là một khối,
Giòng sông Bến Hải chảy qua tim.
Anh bạn thơ, từ Hà Nội bảo: “Có thể đặt tên ngày này là Tết Thống nhất?”. Có người bảo: “Nên gọi là Ngày Tưởng niệm?”. Hôm kia, gặp người bạn từ Hà Nội vào chơi, vừa buột miệng nói: “Ngày Giải phóng…”, anh đã vội xin lỗi vào bảo: “Tớ quên, phải gọi chung là Ngày Thống nhất”. Lại nghe nói, còn có nhiều cụm từ khác nữa, mà thôi, không nhắc lại và cũng không tranh luận. Rõ ràng, về tên gọi của ngày 30.4, Nhà nước đã có văn bản chính thức, nhưng rồi, trong lòng mỗi người lại có cách nhìn nhận khác nhau. Sự hiển nhiên này, về tên gọi, bao giờ người Việt Nam dù đang sinh sống ở chân trời góc biển nào cùng có được đồng thuận? Bao giờ? Khó có thể biết, tuy nhiên, đây vẫn còn là một đề tài, một tranh luận kéo dài, kéo dài đến bao giờ? Khó có thể biết. Cuộc chiến này đã kéo dài cả thảy bao nhiêu ngày, theo nhà báo Phạm Hồng Phước: “Lấy cột mốc từ ngày 1.11.1955 tới ngày 30.4.1975, Wikipedia tính toán rằng cuộc chiến tranh Việt Nam đã kéo dài 19 năm 5 tháng 4 tuần và 1 ngày” (Xem Đặc san CA.TP.HCM - Số đặc biệt kỷ niệm 40 năm ngày Giải phóng miền Nam thống nhất đất nước - tr.40). Tại sao chọn ngày này? Kiểm tra lại, Từ điển Wikipedia giải thích: "Chiến tranh Việt Nam được Mỹ coi là bắt đầu từ ngày 1/11/1955 khi Nhóm chuyên gia hỗ trợ quân sự Mỹ (U.S. Military Assistance Advisory Group - MAAG) cho Việt Nam được thành lập".
Trong năm tháng cuối đời, bộ óc bách khoa toàn thư Việt Nam Hoàng Xuân Hãn có viết lá thư gửi 2 nhân vật lỗi lạc Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp. Sau khi đưa thư nhờ Đại Sứ quán Việt Nam tại Paris chuyển giúp, trên đường về, cụ ngã trượt chân, vào viện ít hôm thì mất. Tiêu đề bức thư này, cụ ghi: “PARIS ngày mồng 2 tháng Giêng năm Bính Tý”. Trên trang cá nhân của nhà nghiên cứu Hán Nôm Ngô Đức Thọ cho biết: “Ngoài ra không dòng nào ghi ngày tháng Dương lịch! Thành ra tôi lại phải làm cái công việc khi sinh thời cụ vẫn làm: tra cứu niên lịch để ghi chú cho dòng niên đại ghi trên: Đó là ngày 20 tháng 2 năm 1996. (xem: Lê Thành Lân, Năm trăm năm lịch Việt Nam 1544-2043; tr.597)".
Trong bức thư quan trọng này, có đoạn cụ Hoàng Xuân Hãn viết: “Tôi đã có lúc biện-luận về điều khác biệt giữa sự thắng ngoại-xâm và sự giải-phóng đất nước. Nước ta chỉ có hai cuộc giải-phóng mà thôi: thời 1416-1427 với Lê Lợi cùng Nguyễn Trãi, và thời 1945-1975 với Bác Hồ cùng các Anh. Tự nhiên cả hai mặt phải nhờ gắn-bó giữa mưu-lược lãnh-đạo và kiên-cường nhân-dân. Khi ngoại-xâm thì nhân-dân ai cũng căm-tức và lo-sợ cho tương-lai; còn trong cuộc giải-phóng thì địch đã ở chung với nhân-dân lâu trong nước, rồi có thể dùng quyền-lợi để chia rẽ và giảm tinh-thần nhân-dân. Vì vậy, cái cần-thiết nhất trong cuộc giải-phóng là cái ĐỨC của những người lãnh-đạo, cái Đức để cho địch không tìm cách mua-chuộc mình và làm gương cho nhân-dân giữ lòng yêu nước”.
Đọc đoạn này, ta thấy rằng, theo quan điểm cụ Hãn cuộc chiến vừa qua là “sự giải-phóng đất nước”, tuy nhiên, mấu chốt ở chỗ cần phải giải quyết rốt ráo là người Việt máu đỏ da vàng, cùng bọc trăm trứng, cùng có mặt trong cả hai chiến tuyến đối nghịch. Oái oăm là chỗ đó. Cuộc kháng chiến của anh hùng Lê Lợi - Nguyễn Trãi lại khác, chính vì thế từ Dân, chính Nhân Dân thật sự “hồ hỡi phấn khởi’ như reo như hát một dạ một lòng:
Nhong nhong ngựa ông đã về
Cắt cỏ bồ đề cho ngựa ông ăn
Mà nghĩ cho cùng, dù tên gọi nào, lời tâm sự của cụ Hãn về “cái Đức của người lãnh đạo”, thời nào, thể chế chính trị nào cũng xem đó là bài học ghi lòng tạc dạ. Ai ai cũng tự ý thức nhưng rồi có làm được hay không mới là cốt lõi của vấn đề.
Trong môt rừng thông tin chính thống từ báo chí trong nước về ngày 30.4.2015, y chú ý đến phát biểu của Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng - Ủy viên Ban Chấp hành T.Ư Đảng, Phó trưởng ban Thường trực Ban Tuyên giáo T.Ư. Báo Thanh Niên số ra ngày 20.4.2015 có bài Bốn mươi năm nhìn lại - đổi mới và phát triển, phỏng vấn TS Vũ Ngọc Hoàng. Theo Hoàng: “Nói 40 năm hòa bình và thống nhất đất nước, nhưng thực chất chỉ có 30 năm xây dựng trong hòa bình. Còn 10 năm đầu thì chiến tranh biên giới tây nam, giúp dân tộc Campuchia anh em khỏi nạn diệt chủng và chiến tranh biên giới phía bắc để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ”.
Vậy chỉ với 30 năm qua, ta đã làm được những gì? Được gì, báo chí đã nói nhiều rồi. Vậy cái gì chưa được?
Theo ông Hoàng, “Năng suất lao động là vấn đề cốt lõi của công nghiệp hóa nhưng với ta hiện nay là quá thấp và tụt hậu bậc nhất Đông Á. Chỉ bằng 1/5 Malaysia và Thái Lan, 1/10 Hàn Quốc, 1/15. Singapore. Giá trị GDP hiện nay ta còn cách Thái Lan 17 năm, Indonesia 19 năm, Hàn Quốc 26 năm... Thu nhập bình quân đầu người rất thấp và đang rơi vào bẫy thu nhập trung bình. Theo tính toán của các nhà kinh tế, nếu phát triển như thế này thì ít nhất cũng phải 45 năm nữa chúng ta mới vượt qua mức thu nhập trung bình.Chúng ta chưa có sản phẩm công nghiệp gì đáng kể do chính mình làm ra để xuất khẩu, mà chủ yếu là làm thuê và cho thuê mặt bằng. Công nghệ nước ta bị lạc hậu 2 - 3 thế hệ so với trung bình của thế giới. Hiệu quả đầu tư rất thấp, mà muốn có ăn và trả nợ (chưa nói đến tích lũy), thì phải tính từ hiệu quả đầu tư; thất thoát, lãng phí, tham nhũng nhiều và khá nghiêm trọng; nhiều doanh nghiệp nhà nước thua lỗ lớn và kéo dài; nợ nần đã đến mức báo động. Trong 5 năm (2010 - 2014) số doanh nghiệp nội địa phá sản, đóng cửa, ngừng hoạt động đã lên mức gần 300.000 doanh nghiệp... Tới nay, còn 5 năm nữa, chúng ta không thể hoàn thành mục tiêu đã đề ra là năm 2020 cơ bản thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.
Nhà báo hỏi tiếp: “Rồi những những vấn đề chủ yếu về xã hội và an sinh?”.
Ông Hoàng phát biểu: “Tuy trình độ dân trí được nâng lên, an sinh xã hội tốt hơn, quyền con người được quan tâm hơn, nhưng mấy năm gần đây rất nhiều người đang quan tâm lớn đến vấn đề đạo đức xã hội suy đồi, tiêu cực và tội phạm gia tăng, “lợi ích nhóm” tiêu cực đang phát triển rất phức tạp, có biểu hiện kiểu như ở các nước trong thời kỳ “chủ nghĩa tư bản hoang dã” (tích lũy và tập trung tư bản bằng mọi thủ đoạn và chi phối mạnh quyền lực, một phần không nhỏ nguồn lực quốc gia tập trung vào tay các “nhóm lợi ích”). Một bộ phận nông dân mất đất là tư liệu sản xuất chủ yếu; công nhân bị bóc lột, quỵt lương và mất khả năng tham gia làm chủ; phân hóa giàu nghèo đang giãn ra…
Xã hội chủ nghĩa (XHCN) là xã hội lý tưởng, là cái gì tốt đẹp thật sự chứ không phải là cái có tên gọi đặt ra. Với cách hiểu ấy, tôi cho rằng trong xã hội ta, nhìn chung, thực tế tạo ra các yếu tố XHCN còn quá ít. (Liên Xô “dinh lũy và thành trì” của CNXH cùng khối XHCN Đông Âu sụp đổ là bài học đáng suy ngẫm về vấn đề danh nghĩa và thực chất). Các nước Bắc Âu còn XHCN hơn nước ta trên nhiều mặt. Chế độ XHCN ở VN phải chăng chủ yếu mới chỉ là tên gọi, là mong muốn, còn về thực chất thì còn quá ít và không loại trừ đang có mặt “chệch hướng” dần sang chủ nghĩa tư bản hoang dã độc quyền nhà nước… (loại hình rất lạc hậu, kìm hãm sự phát triển và khác xa tư bản hiện đại ngày nay có nhiều mặt tiến bộ đáng nghiên cứu)”.
Tư duy, cần nhìn lại để đi tới bao giờ cũng thiết thực. Vẫn biết rằng, sự ghi nhận các thành tựu, thành tích, thành quả, thành công lúc nào cũng cần thiết. Nhưng rồi, đã đến lúc, chắc chắn điều cần thiết hơn cả vẫn thái độ nhìn nhận thẳng thắn sự tụt hậu của mình. Có phải vậy không hỡi anh chàng nhà thơ lơ tơ mơ bước vào dòng đời bằng tâm thế của câu thơ Hồ Dzếnh:
Chân đi ắt hẳn không cần đất
Lạc giữa trần gian bước hững hờ?
Vừa hỏi thế, chưa kịp tự trả lời đã nghe ông bạn văn Nguyễn Đông Thức la toáng trên trang facebook cá nhân: “2g sáng ngày 30-4-2015 tại ga đến ở sân bay quốc tế TSN. Tôi như không tin ở mắt mình khi nhìn thấy cái vali của mình chạy ra từ băng chuyền mà... không còn ống khoá! Tôi là nạn nhân thứ... của trò ăn cắp vặt nổi tiếng ở sân bay này?
Đã quá mệt sau chuyến bay dài và luôn thấu hiểu cái gì mất tức nó không phải của mình, tôi cam chịu đẩy vali ra cổng hải quan để mong ra về cho sớm. Lòng băn khoăn không biết mình đã mất cái gì trong ba món gọi là đáng kể trong cái vali: 1. Cái laptop của bạn Ann Nguyen gởi cho cháu học trò nghèo mồ côi ở Phan Thiết 2. Chai cognac XO bạn Sơn Mộng Đảo tặng tôi đem về uống với bạn bè đi làm học bổng 3. 20 cái hộp quẹt Zippo cổ ông anh Nguyễn Đức Lập sưu tầm được và cho tôi để hy vọng đem về bán đấu giá gây quỹ học bổng.
Có thể là mất hết cả ba?
Khi vali đi qua máy soi, tôi bị người nhân viên gọi lại, kêu tôi đưa hộ chiếu. Sau đó ông gọi tôi vào cùng coi màn hình bên cạnh mà ông đã chụp lại: “-Trong vali của anh có 1 laptop và trong xách tay cũng có 1 cái. Anh nên... bồi dưỡng cho anh em làm việc cực khổ sáng đêm chút ít”. Trời đất! Trước khi tôi đi Mỹ, báo TT đã làm một loạt bài về tệ nạn vòi vĩnh ở cửa khẩu TSN, giờ chính tôi là nạn nhân?
Tôi lễ phép giải thích 1 cái là đồ cũ đem theo làm việc và 1 cái là đồ cho từ thiện, nếu cần tôi sẽ mở vali cho anh ta xem xét, anh ta vẫn lắc đầu không duyệt.Nhìn đồng hồ đã 3g sáng, dù có 2 đứa con có 2 cái thẻ nhà báo TT đang ngồi chờ ngoài kia, tôi chỉ biết thở dài rút 20 đô đưa anh ta coi như thí cô hồn ngày 30-4.
Về nhà. Việc đầu tiên tôi mở ngay cái vali bị mất khoá. 3 món đồ tương đối giá trị nhất vẫn còn nguyên! Có một tờ giấy nhỏ của hải quan Mỹ đặt trên cùng với 2 chữ ký, báo là họ xin lỗi về sự bất tiện phải khui vali khi không có mặt tôi, do soi chiếu thấy có vật dụng có thể gây mất an toàn cho chuyến bay (đó là cái laptop, thời buổi hiện đại có thể đặt chất nổ bên trong rồi kích hoạt gây nổ bằng một thiết bị điều khiển từ xa. Chuyện này tôi coi phim thấy hoài mà ngu không nhớ). Họ mong tôi thông cảm cho việc họ làm dù đó là nhiệm vụ được phép. (Hic, ở VN là tôi đã được gọi tên inh ỏi để quay về cửa an ninh làm việc).
Qua 2 cái máy soi chiếu, có 1 câu chuyện thật đáng suy gẫm...
(Cũng ơn trời khi các nhân viên đưa hành lý từ máy bay về ga đã không phát hiện vali tôi không có khoá).
Bà bắn ai bịa chuyện!”.
L.M.Q
Đêm qua, về đến sân bay. Từ Đà Nẵng lại vào Sài Gòn. Những công việc của mỗi ngày đã đến. Đường phố vắng hơn. Có lẽ do nhiều người về quê, đi nghỉ ngơi nơi xa nhân dịp này. Nghỉ đến 6 ngày chứ ít ỏi gì.
Sáng nay, ngày giỗ Tổ Hùng Vương. Ngày mồng 10.3 âm lịch hằng năm. Trước đây, do việc tổ chức còn ngẫu hứng, chưa quy củ nên ngày 25.7 năm Khải Định thứ nhất (1917), Bộ Lễ triều Nguyễn có gửi công văn “Các vị ở phủ viện đường đại nhân tỉnh Phú Thọ cùng nhau tuân thủ điều sau đây: “Xã Hy Cương, phủ Lâm Thao có miếu lăng phụng thờ Hùng Vương ở núi Hùng, trải các năm, cả nước đến tế, thường lấy kỳ mùa thu, chọn vào ngày tốt làm lễ, chưa có việc định rõ ngày, mà tục lệ của dân xã đó lấy ngày Mười Một tháng Ba, kết hợp với thờ thổ kỳ, làm lễ riêng… (Sự thể này dẫn tới chỗ) thường hứng bất kỳ, hội họp cũng lãng phí theo sở thích, còn lòng thành thì bị kém đi… (Vì thế) cẩn thận định lại rằng, từ nay về sau, lấy ngày mồng Mười tháng 3, lĩnh tiền chi vào việc công, phụng mệnh kính tế trước một ngày so với ngày hội tế của bản hạt, khiến nhân sĩ mọi miền đến đây có nơi chiêm bái…”.
Năm nay, Hội đồng xác lập kỷ lục VN đã trao chứng nhận kỷ lục “Bức tranh Vua Hùng lớn nhất được ghép từ các viên khối hình chữ nhật”. Sản phẩm này của Trung tâm Thương mại SC VivoCity, Q7 (TP.HCM) thực hiện, được lắp ghép từ 3.258 khối chữ nhật. Cư dân mạng xã hội nhận xét gương mặt vua Hùng trông na na... ông già trong bộ bài Tây. Nhận xét này không hẳn ác ý. Bên cạnh đó, Công ty Cổ phần AVINAA cung tiến chai rượu kỷ lục: cao 5,2m, đường kính 1,2m với dung tích hơn 4.000 lít được đặt tại sảnh chính lễ hội.
Những năm trước, chuyện cung tiến lễ vật có tính “kỷ lục” đã xẩy ra nhiều điều tiếng không hay. Tuy nhiên "nổi tiếng" nhất vẫn là cái bánh chưng, bánh giầy do Công ty Văn hóa Đầm Sen cung tiến, nặng cả tấn, báo TT (số ra ngày 17.4.2008) ghi nhận: “Sáng 16.4, chúng tôi có mặt để chứng kiến hàng chục người dân trong xã "mổ" chiếc bánh chưng. Bánh chưng đã vữa và lên men, có mùi khó chịu, còn bánh giầy bị mốc xanh, bên ngoài là một lớp mỏng bột, bên trong bánh hoàn toàn được làm bằng... mút xốp. Anh Hoàng Hữu Nghị - phó ban Công an xã Hy Cương - một tay cầm con dao dài 25cm thọc sâu vào trong ruột bánh và xẻ xung quanh, tay kia rút ra miếng xốp dày 20-25cm”. Mất vệ sinh quá.
Cái thói ham hố cái gì của mình cũng to nhất, cao nhất, lớn nhất hình thành trong tư duy người Việt tự bao giờ và do đâu? Do cái háo danh mà ra chăng?
Mấy ngày qua, về Đà Nẵng tham dự Hội sách Hải Châu tại Đà Nẵng. Lần đầu tiên có một đơn vị hành chánh cấp quận đứng ra tổ chức. Người "kết nối" là Nguyễn Văn Sanh - phó phòng văn hóa thông tin quận Hải Châu - bạn thời trung học, sinh hoạt chung trong Gia đình Thiếu Nhi. Thời lớp bảy, lớp tám ấy, Sanh làm thơ ký bút danh Cỏ Non. Bút hiệu ấy có "vận" vào người không? Ngay cả bây giờ đã trải qua bao thăng trầm đời sống, Sanh vẫn như đáng yêu như cỏ non, vẫn hồn nhiên, lành tính như trẻ thơ, luôn chìu bạn như thời đi học. Nhìn nụ cười ấy, gương mặt ấy, tính cách ấy là tin cậy.
Điều bất ngờ, ngoài dự kiến, công chúng yêu mê sách tham dự rất đông, số lượng sách bán chạy rôm rã khiến ai nấy đều hài lòng. Rõ ràng văn hóa đọc vẫn còn là một nhu cầu cần thiết của mọi người. Về lâu dài, từ thành công lần này, năm sau, quận Hải Châu lại tiếp tục duy trì hằng năm. Trong chuỗi hoạt động giao lưu cùng bạn đọc, nhà văn Nguyễn Nhật Ánh nói về ích lợi của việc đọc sách; Tiến sĩ Trần Đức Anh Sơn nói chuyện về đề tài Chủ quyền Việt Nam ở Hoàng Sa, Trường Sa qua tư liệu và sự thật lịch sử, y nói chuyện về Tính cách con người và văn hóa Xứ Quảng... Khó có thể trình bày chu đáo một đề tài rộng lớn, có tính cách chuyên sâu trong một khoảng thời gian chừng 90 phút. Trước hết, trong nhận thức của y, Quảng Nam và Đà Nẵng là một. Tại sao? Sẽ phân tích sau. Có thể gạch đầu dòng những gì y muốn trình bày ngẫu hứng về Xứ Quảng, chẳng hạn, vùng đất này là nơi:
- Mở đầu lịch sử cận đại Việt Nam với cuộc xâm lược của liên quân Pháp - Tây Ban Nha vào ngày 1.9.1858; nơi đầu tiên lính Mỹ đổ quân trong cuộc chiến tranh Việt Nam (1965);
- Nơi sớm nhất hình thành chữ Quốc ngữ;
- Người mở đầu Thơ mới Việt Nam: nhà văn hóa Phan Khôi với Tình già (1932); người phụ nữ đầu tiên viết tiểu thuyết in thành sách: nhà văn Bảo Hòa với Tây Phương mỹ nhân (1927);
- Chủ bút tờ báo sống thọ nhất Trung kỳ: chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng với Tiếng Dân; chính cụ Huỳnh Thúc Kháng là người trước nhất nhắc lại chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam trên báo Tiếng Dân.
- Người đầu tiên nghiên cứu có hệ thống về tuồng: GS Hoàng Châu Ký;
- Người trước nhất cổ xúy phong trào cải lương Nam bộ: nhà báo Lương Khắc Ninh;
- GS toán học Hoàng Tụy với Tối ưu toàn cục;
- Nơi đầu tiên khởi xướng mặc Âu phục, cắt tóc ngắn; lập Hội mặc đồ Tây bằng vải nội hóa.
-Nơi ra đời của Duy tân Hội (1904) với vai trò của “kiến trúc sư” tài ba lỗi lạc Tiểu La Nguyễn Thành.
Từ Duy tân Hội mới hình thành phong trào Đông Du; sau đó cải thành Việt Nam Quang phục Hội (1911). Từ Việt Nam Quang phục Hội mới có tổ chức Tâm Tâm xã, tổ chức này là những nhân tố đầu tiên hình thành Thanh Niên cách mạng đồng chí Hội (1925). Nói cách khác đây chính là hạt giống đầu tiên hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Nơi mở ra phong trào Duy tân với các nhà nho cấp tiến Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp… Từ đó, có sự thay đổi lớn lao trong nhận thức “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”, các nhà nho Việt Nam bắt đầu làm doanh nghiệp, mở trường học theo lối mới…
- Nơi nổ ra cuộc chống sưu thuế vĩ đại năm 1908 lan rộng đến nhiều tỉnh thành khác.
- Lần đầu tiên có nhà nho đòi chém đầu nhà vua: Phan Châu Trinh. Nói cách khác, do tiếp thu Tân thư, các nhà nho cấp tiến đã có một nhận thức mới: không dâng sớ cải cách lên nhà vua mà khi chế độ quân chủ đã lỗi thời thì phải lật đổ nó;
- Làm quân sư cho nhà vua: Trần Cao Vân, Thái Phiên trong cuộc khởi nghĩa 1916 phò vua Duy Tân;
- Lãnh sự đầu tiên trong quan hệ ngoại giao Pháp - Việt: đại sứ Nguyễn Thành Ý;
- Nơi duy nhất có danh xưng “Quảng Nam quốc”;
- Nơi có số lượng Bà mẹ Việt Nam Anh hùng nhiều nhất nước;
- Người Việt Nam duy nhất bị chém ngang lưng: Trần Quý Cáp;
v.v…
Buổi giao lưu còn sôi nổi với “đặc sản” trứ danh “Quảng Nam hay cãi”. Nguyên cớ cãi này do đâu mà có? Các anh Hồ Trung Tú, Mai Hữu Phước, Lê Nguyên Vỹ, Lê Quang Minh và nhiều bạn đọc khác đã có ý kiến sôi nổi. Tuy nhiên, theo y:
- Do vùng đất này có cảng biển nên giao thương với nhiều luồng văn hóa (đã có từ thời chúa Nguyễn), kể cả sau này;
- Học rộng, hiểu sâu.
- Tính cách nóng nẩy, trực tính của người Xứ Quảng.
Nó trở thành “đặc sản” vì chính người Quảng cũng cãi luôn cả những điều mà địa phương khác tung hô, ca ngợi, chẳng hạn, danh xưng Ngũ phụng tề phi, họ cho rằng không thực chất, không đáng tự hào vì các vị đỗ đạt ấy chẳng để lại một công nghiệp gì đáng kể cho đời sau; hoặc chiến thuật dân quân Xứ Quảng sử dụng trái mù u đã gây nhiều thiệt hại cho xâm lược Pháp, họ không tin xẩy ra chuyện đó vì xét thấy không hợp lý, hoặc nếu có, tại sau nhật ký viễn chinh của người Pháp không ghi nhận? v.v… Chính tính cách hay cãi đó đã góp phần tích cực làm dậy lên làn sóng thay đổi nhận thức của quốc dân nửa đầu thế kỷ XX qua vai trò của các nhà nho tiên phong đã tiếp thu Tân thư, không chấp nhận cái cũ kỹ, lỗi thời...
Những “gạch đầu dòng” này, chỉ lướt qua, không có thời gian phân tích sâu. Mà thật ra những suy nghĩ này, y đã phân tích kỹ trong chuyên luận Người Quảng Nam. Nhìn chung mấy ngày qua, đã có trạng thái tâm lý dễ chịu cùng bạn đọc Đả Nẵng và cũng là dịp cà kê với các bạn văn, anh em ở quê nhà. Vẫn những buổi chiều vào Hội An, lang thang đến một vài vùng quê Xứ Quảng như khách du lịch nhàn tản, thẩn thơ ngắm cảnh và thưởng thức những món ăn ngon. Lần này, ngủ nghỉ tại Naman Retreat, cách Đà Nẵng chừng 15 km.
Tối qua, về lại Sài Gòn. Sáng nay, xuống phố đã thấy nhộn nhịp các quày báo lề đường. Khó có thể tìm thấy ở những địa phương khác, kể cả Hà Nội. Đã thấy tràn ngập hình ảnh, bài vở về kỷ niệm 40 năm thống nhất đất nước. Dịp này, theo y, bài báo hay nhất và thẳng thắn nhất?
Ngày mai sẽ trở lại câu hỏi này, nếu còn cảm hứng.
L.M.Q
Thơ ích gì cho đời sống?
Trong những tình huống éo le, oái oăm này có thể nhờ cậy đến phép lạ của thơ không?
Này nhá: Ngày 14 g chiều 12.9.2013, Đại Sứ quán Hà Lan tại Hà Nội phát miễn phí 3.000 chiếc áo mưa. Chỉ dăm phút, sau vài lời phát biểu, lập tức đám đông trở nên hỗn loạn, hò hét, chen lấn vì ai cũng muốn giành phần nhiều nhất. Thậm chí có người giật luôn áo mưa từ tay vị đại diện người Hà Lan và các tình nguyện viên.
Ngày 24.10.2013, một nhà hàng Nhật trên phố Đoàn Trần Nghiệp (Hà Nội) thông báo cho vào cửa ăn miễn phí buffet món sushi trong ngày khai trương. Lập tức hàng nghìn người kéo đến, chen lấn, xô đẩy tràn ra giữa lòng đường tranh giành nhau gây tắc nghẽn cả con phố. Người giành ăn không được hậm hực, văng tục ầm ĩ. Mới đây thôi một nhà hàng tại Q.1 (TP.HCM) cũng tuyên bố cho nhận suất ăn miễn phí cũng tạo nên cảnh tượng ùn ùn như thời nạn đói năm 1945 quyết giành cho bằng được một cái gì bỏ vào mồm để sống.
Chưa hết, thời sự gần đây nhất vẫn là vụ náo loạn vào ngày 19.4.2015 tại Công viên nước Hồ Tây vì có chương trình miễn phí vé vào cửa. Nhiều phụ huynh bế trẻ con bất chấp nguy hiểm trèo qua rào sắt nhọn cao chừng 2 mét v.v… Báo chí đã đưa tin ầm ầm, không nhắc lại. Tuy nhiên, các vụ việc này, kể cả vụ chặt cây ở Hà Nội vừa qua đã gây động cả nước, đưa tin trước nhất vẫn từ Facebook. Một lần nữa, báo giấy truyền thống đã đi sau thông tin của cộng đồng mạng.
Thử hỏi, nếu lúc ấy có thi sĩ nào nào đứng ra véo von, du dương các vần thơ, có thể lập lại trật tự không?
Hôm trước phì cười với cái tin nho nhỏ in trên báo TN: “Nhiều người đầu tư vào hệ thống báo động hoặc các ổ khóa chắc chắn, thì chủ một ngôi nhà ở Hà Bắc (Trung Quốc) chỉ sử dụng một bài thơ và ngạc nhiên thay, chiêu chống trộm hết sức... tao nhã này lại có hiệu quả bất ngờ. Theo ChinaDaily, sau khi đột nhập vào nhà, thay vì vơ vét tài sản, tên trộm không lấy bất cứ thứ gì, thậm chí còn để lại 100 tệ (khoảng 348.000 đồng) cùng mảnh giấy xin lỗi. Hóa ra, kẻ đạo chích đã bị dòng chữ có nội dung “Hãy tự đứng trên đôi chân của mình ngay cả khi xế bóng”, treo trên tường làm thay đổi ý định”.
Thơ cũng có ích đấy chứ?
Cười chưa kịp khép miệng thì mếu với chuyện khác cũng liên quan đến thơ. Báo TN số 20.4.2015 cho biết, ngày 16.7.1993, ông Nguyễn Đình Phương, nguyên giáo viên Trường THCS Vân Diên (huyện Nam Đàn, Nghệ An) bắt giam 115 ngày chỉ vì làm một bài thơ. Bài thơ ra đời trong hoàn cảnh nào? Năm 1991, người dân hai xã Nam Tân và Nam Thượng (H.Nam Đàn) tranh chấp đất sản xuất. Hai năm sau, để giải quyết tranh chấp này, lãnh đạo huyện Nam Đàn cho đóng cột mốc phân chia ranh giới hai xã. Nhiều người không đồng tình gọi là "cột ngốc", trong đó có ông Phương. Và ông làm bài thơ “Cột mốc hay là cột ngốc?”, nguyên văn như sau:
Cột mốc cắm ở đường biên
Phân chia ranh giới, nối liền quốc gia
“Cột ngốc” của huyện nhà ta
Chia đôi Tân, Thượng như là khối u
“Cá rán dân biếu mèo mù”
Chỉ đạo kiểu ấy đáng “tù mọt gông”
Vì sao Tân - Thượng bất đồng?
Cần chi cột mốc nằm không giữa trời
Đau lòng Tân - Thượng mình ơi
Nhổ ngay “cột ngốc” vạn đời vui chung
Bài thơ này bị ghép tội “bộc lộ nội dung hô hào, cổ động, kích động người nghe; tác phẩm có ý châm biếm, đả kích, coi thường, cản trở lại tổ chức và cá nhân có chủ trương đóng cột mốc đường biên” như kết luận của cơ quan chức năng. Từ đó, từ ngày được thả tự do đến nay, ông gõ cửa nhiều nơi đòi bồi thường án oan sai nhưng vẫn chưa có tín hiệu sáng sủa nào.
Lâu nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về thành tựu văn học của “miền Bắc xã hội chủ nghĩa” từ 1954 - 1975. Tuy nhiên, chưa ai chỉ ra rằng, trong đó có một thể loại hoàn toàn không hề có một thành tựu nào, đó chính là dòng thơ trào phúng. Nó tụt hậu, đi sau dòng thơ trào phúng thời tiền chiến; nó đi sau dòng thơ này ở “vùng tạm chiếm” miền Nam. Đề tài thu hẹp, quanh quẩn, tủn mủn và nhìn chung chỉ lớt phớt một vào hiện tượng nhỏ nhặt, không đáng kể. Vậy cái cười của nó thế nào? Vì sao lại như thế? Chỉ cần một buổi sáng, thức dậy sớm nhẩn nha cùng ly cà phê là có thể lý giải; hoặc ít ra cũng phần tích được lý do tại bởi làm sao cái nguyên cớ gì?
Đêm qua, năm đọc lại tạp chí Văn Học (số 1.1973) chuyên đề “Thơ ca Việt Nam”. Hãy đọc lại một bài thơ của thơ trào phúng, thuộc thế hệ sau Tú Mỡ, Đồ Phồn... Họ là những cây bút trào phúng chủ lực, tiêu biểu nhất của thời đó. Một tác giả cho biết đây là bài thơ “đạt nhất” và nhấn mạnh: “Bài thơ đó nói về cái tục thờ đồng đô-la Mỹ. Tục này có thật và hiện còn lưu hành trong các gia đình của bọn tư bản Mỹ:
Trong phòng treo ảnh mẹ cha
Ấy là mỹ tục, ấy là tình sâu
Trải qua một cuộc bể dâu
Hóa ra… Mỹ tục làm đau ông bà
Huê Kỳ thần tượng đô-la
Hất phăng đôi ảnh mẹ cha gầm giường
Trong phòng chính vẻ cao sang
Đóng khung ngự một đồng vàng tòng teng”
Tác giả cho biết bài thơ này đã in trong tuyển tập Đêm tàn Bạch ốc do Sở Văn hóa Hà Nội xuất bản tháng 7.1966.
Mà thôi, không bàn chuyện này nữa. Có những trang viết ở lại với thời gian, cũng có những trang viết sẽ lãng quên khi chưa ráo mực. Chiều rồi. Đã làm xong mấy việc. Cũng bài vở thôi. Nghĩ qua chuyện khác cho vui, Chuyện gì? Chuyện rằng, đã khá lâu, có lần ngồi với người bạn, anh cho rằng, có những từ ghép đẳng lập thì Nam và Bắc chia nhau sử dụng, chằng hạn, xinh đẹp thì Bắc: xinh/ Nam: đẹp v.v… Suy nghĩ thêm một chút để thấy rằng, ngay trong tiếng nói đã thể hiện nước Việt một khối thống nhất. Dẫn chứng thêm bát/ chén; béo/ mập; ảnh/ hình; bơi/ lội; bút/ viết; chăn/ mền; dứa/ thơm; cùn/ lụt; lừa/ gạt; may/ hên; lọ/ chai; ngã/ té; nhanh/ lẹ; nhìn/ ngó; trông/ ngóng; tránh/ né; tiêm/ chích; thuê/ mướn…
Lại nữa, trong Nam gọi heo/ ngoài Bắc gọi lợn nhưng tại sao trong Nam gọi “bánh da lợn”/ ngoài Bắc lại kêu “toạt móng heo”? Tương tự, Nam: đờn/ Bắc: đàn nhưng ở Sài Gòn vẫn gọi “công viên Tao Đàn”, chứ không phải “công viên Tao Đờn”, Nam: hột/ Bắc: hạt nhưng cả hai miền đều gọi “đau họng hạt”, chứ không hề nói “đau họng hột”; Nam: chánh/ Bắc: chính nhưng cả hai miền đều sử dụng “chánh văn phòng”, “chánh tổng” v.v..; Những từ phiên âm tiếng Pháp, ngoài Bắc có khuynh hướng thêm dấu sắc, trong Nam lại là dấu nặng. Chẳng hạn, Martel: Mác-ten/ Mạc-ten; garde manger: Gác măng-jê/ Gạc măng-jê; garde boue: Gạc-đờ- bu/ Gác-đờ-bu v.v…
Cũng lý thú đấy chứ?
Vừa nhận được Tạp chí Thơ do Hội Nhà văn Việt Nam gửi tặng hội viên. Vẫn thích đọc loạt bài Thi thoại tản mạn của Hồng Diệu. Kỳ này, anh tìm ra câu thơ hay của nhà thơ Quang Huy: “Ngực thiếu nữ… thời gian tàn nhẫn lắm”. Hôm trước đi chơi với bạn thơ Nguyễn Trọng Tín, anh khen nức nỡ câu thơ này của La Quốc Tiến - viết về những bà mẹ kiếm sống bằng nghề đập đá trên núi An Giang. Nhìn các mẹ cầm búa, búa nặng xệ vai nhưng rồi cũng rướn hết sức vung búa đập vào đá tảng, đập cho đá vỡ ra nhỏ hơn nữa, đập miệt mài trong trưa nắng chang chang, tác giả viết: “Mẹ múa những đường cơm”. Nghe ứa nước mắt. Nhọc nhằn, đau đớn quá.
Sáng mai, về Đà Nẵng.
L.M.Q
Những ngày này, về văn hóa đọc có gì đáng chú ý?
Cần ghi nhận hai sự kiện: 1. “Triển lãm 150 năm báo chí quốc ngữ giai đoạn 1865-1954” tại Hà Nội; 2. Tọa đàm Phố sách Sài Gòn - TP.HCM, tại sao không? tại TP.HCM.
Nếu xét theo lịch sử, triển lãm 150 năm báo chí lần này là lần thứ tư. Lần thứ nhất, năm 1943 do nhà sách Nguyễn Khánh Đàm tổ chức tại Sài Gòn; lần thứ hai vào năm 1966 cũng tại Sài Gòn; lần thứ ba tổ chức tại Hà Nội năm 2010 do sachxua.net phối hợp cùng Thư Viện Hà Nội và Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây tổ chức. Riêng triển lãm lần thứ hai, y đã tận mắt xem tập sách phát hành trong thời gian đó, do anh Phan Kim Thịnh - chủ bút tạp chí Văn Học tại Sài Gòn cho mượn xem. Không rõ tập tài liệu quý này anh còn giữ không?
Lần triển lãm thứ tư này do Diễn đàn Sachxua.net, Thư viện Hà Nội và Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây... phối hợp tổ chức - diễn ra từ ngày 18.4.2015 đến 21.4.2015 tại Thư viện Hà Nội. Hơn 180 đầu báo các loại được trưng bày từ nhiều nguồn tư liệu, trong đó có sư đóng góp của nhiều nhà sưu tập như Ngyễn Phát Hà Giang (Hà Nội), Tạ Thu Phong (Hà Nội), Hoàng Minh (TP.HCM) và Trịnh Hùng Cường (Bắc Ninh)… Có hai vấn đề cần lưu ý: Tờ Gia Định báo phát hành ngày 15.4.1865, điều này không còn phải tranh luận nữa; lần đầu tiên công chúng tận mắt nhìn thấy An Hà báo - tờ báo chữ quốc ngữ địa phương đầu tiên, ra đời tại Cần Thơ do Trần Đắc Nghĩa làm giám đốc, Võ Văn Thơm, Nguyễn Tất Đoài làm chủ bút, Đỗ Văn Y làm quản lý.
Theo tài liệu Lịch sử báo chí Việt Nam của Tiến sĩ Huỳnh Văn Tòng (NXB Trí Đăng - 1973), An Hà báo, phát hành hằng ngày là bản quốc ngữ của tờ Le Courrier de l’Ouest - chủ yếu thông tin về nông nghiệp, thương mại do ông Gallois Monbrun sáng lập (tr.251). Tìm trên mạng hiện nay ở Pháp cũng có tờ Le Courrier de l’Ouest. Trùng hợp ngẫu nhiên chăng? Nhân đây cũng nói thêm, tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long, Cần Thơ là địa phương đầu tiên ra nhật báo. Đó là ngày 1.1.2001, theo giấy phép của Bộ Văn hóa Thông tin, là tờ báo thứ 8 của các tỉnh ra báo ngày trong cả nước, khổ 42x57cm, 6 trang, giá 1.200 đồng.
À, thì ra Cần Thơ cũng là một trong những nơi có “dấu ấn” quan trọng với sự phát triển báo chí nước nhà. Chi tiết này chắc ít ai lưu tâm.
Cuộc tọa đàm Phố sách Sài Gòn - TP.HCM, tại sao không? do Hội Xuất bản Việt Nam phía Nam và Sở Thông tin truyền thông phối hợp tổ chức - diễn ra vào chiều ngày 18.4.2015 tại TP.HCM tại đường Nguyễn Văn Bình - nơi đang diễn ra hội sách chào mừng Ngày sách Việt Nam. Có thể ghi nhận đây là động thái trước nhất nhằm tái lập đường sách từ sau năm 1975. Ai cũng biết trước năm 1975, tại Sài Gòn đã từng có đường sách Đặng Thị Nhu (góc đường Ký Con, Calmette, Q.1). Nhiều ý kiến cho đồng thuận chọn đường Nguyễn Văn Bình - bên hông Bưu điện TP.HCM là đường sách cố định.
Đây là một trong những con đường xưa nhất của Sài Gòn. Thời Pháp mới sang, họ đặt tên Hongkong, lúc xây Bưu điện. Ngày 24.2.1897 đổi tên Cardis. Ngày 19.10.1955, chính quyền Sài Gòn đổi tên Nguyễn Hậu. Nhân vật Nguyễn Hậu ít người biết, tuy nhiên, nếu đọc sách về đạo Chúa ở Việt Nam ắt biết ông sống thời vua Tự Đức, theo đạo Thiên Chúa. Ông là một trong những con chiên ngoan đạo được các vị linh mục người Pháp gửi sang học ở Penang (Mã Lai) và châu Âu. Ra xứ người, tận mắt thấy những điều mới lạ, tiến bộ của khoa học kỹ thuật, trở về nước viết nhiều bản điều trần dâng lên triều đình nhằm canh tân đất nước nhưng nhà vua bác bỏ. Sau đó, ông sang châu Âu học tập, nghiên cứu thêm nhưng bị mất tích ở Ấn Độ dương. Nhắc lại chi tiết này để thấy rằng, tư tưởng canh tân thời triều Nguyễn không chỉ có ở các nhà Nho cấp tiến, học sâu hiểu rộng như Phạm Phú Thứ, Đặng Huy Trứ, Nguyễn Lộ Trạch... mà còn phải kể đến các giáo dân có tâm, có tầm như Nguyễn Trường Tộ, Bùi Viện, Nguyễn Hậu... Ngày 7.4.2000, UBND TP.HCM đổi tên đường Nguyễn Hậu thành Nguyễn Văn Bình. Nếu con đường có linh hồn, nói nôm na "có chủ" hẳn không phải ngẫu nhiên trước và sau đều mang tên con chiên của Chúa.
Chà, phải trở lại chuyện đang bàn, không khéo lạc đề mất. Ừ, nhiều ý kiến đồng thuận chọn đường Nguyễn Văn Bình là đường sách cố định Tuy nhiên, cũng có ý kiến chưa đồng tình.
Ai chưa đồng tình?
Trước đây trong một nhậu lai rai, bàn về chuyện này, anh bạn Nguyễn Minh Nhựt - Giám đốc NXB Trẻ có chia sẻ một vài ý. Y hoàn toàn tán thành. Do đó, khi tham dự tọa đàm, y phát biểu đôi điều nhắc lại. Theo báo Thanh Niên sáng nay: “Nhà thơ Lê Minh Quốc thì ủng hộ đường sách, nhưng không đồng ý chọn đường Nguyễn Văn Bình vì cho rằng con đường nhỏ, ngắn không tải hết tất cả các nhà xuất bản hay nhà phát hành hiện có trên thị trường và lo lắng đến tính hiệu quả lâu dài của đường sách nếu làm văn hóa mà không tính được kinh tế cho các đơn vị tham gia. Anh mong muốn, thay vì mô hình như đường Nguyễn Văn Bình đang làm, đường sách tại TP.HCM sẽ được nhân rộng làm đồng bộ cho cả những con đường hiện đang tập trung nhiều nhà sách hiện nay tại TP.HCM”.
Báo điện tử Vnexpress cũng cho biết: “Dù vậy, bên những ý kiến chọn đường Nguyễn Văn Bình, cũng có các ý kiến phản biện lại mô hình đường sách cố định. Nhà thơ, nhà báo Lê Minh Quốc dẫn chứng, TP.HCM từng thực hiện chợ đêm Sài Gòn, từng có vài con đường ban đầu hình thành với đầy ắp ý tưởng về văn hóa, du lịch. Nhưng rốt cuộc, những dự án này dần "chết" đi. Theo ông Quốc: "Khi thực hiện không thể chỉ duy ý chí mà còn phải tính đến bài toán kinh tế cho người tham gia". Ông Quốc đưa ra phương án: đường sách không nên hoạt động tập trung cố định ở một chỗ mà nên luân phiên, thay đổi ở nhiều địa điểm với thời gian được thống nhất giữa các đơn vị kinh doanh sách trên khắp thành phố. Theo ông, việc tạo không gian mở, linh động giúp các đơn vị làm sách dễ tham gia hơn, không buộc họ phải tách ra khỏi địa điểm hoạt động có sẵn”.
Tương tự, trang điện tử News.zing.vn cũng tường thuật: "Nhà báo Lê Minh Quốc ủng hộ cho đường sách ra đời nhưng ông cho rằng không nên chọn đường Nguyễn Văn Bình vì đường này quá nhỏ, hẹp. “Bây giờ có rất nhiều nhà xuất bản, mỗi ngày biết bao quyển sách ra đời, nên con đường khó có thể tích trữ được một lượng sách lớn. Vì vậy, nếu bạn đi tham quan phố sách mà lại không thể tìm được quyển mình muốn thì cảm giác ra sao?”, nhà báo đặt câu hỏi. Ông cũng cho rằng, để đường sách tồn tại lâu dài thì cần phải giải quyết một bài toán khó là sự hài hòa giữa văn hóa và kinh tế".
Vấn đề này sẽ còn tranh luận chán chê. Chẳng sao cả. Chỉ biết rằng, đường Nguyễn Văn Bình dài khoảng 148 mét, lộ giới 20 mét là quá ngắn, không đủ sức để hình thành một đường sách đúng nghĩa của nó. Cứ theo đề án của một công ty truyền thông giới thiệu tại tọa đàm, mô hình thực hiện ở đó sẽ là nơi bày bán sách, triển lãm sách, giao lưu bạn đọc với tác giả viết sách, ký bản quyền sách, cà phê sách v.v…
Có một điều lạ, hiện nay Sài Gòn - TP.HCM đã mở rộng rất nhiều, nhiều con đường mới mở, nhiều khu đô thị mới dựng lên, tại sao không quy hoạch lấy một đường sách đúng tầm vóc của nó, mà cứ chăm bẳm vào một nơi chật chội như hộp diêm? Tất nhiên, địa điểm này nằm ở khu vực trung tâm, là nơi thu hút nhiều khách du lịch, lại sát cạnh các di tích văn hóa - lịch sử như Nhà thờ Đức Bà, Dinh Thống Nhất, Nhà văn hóa Thanh Niên, hồ Con Rùa… Thế nhưng nó chỉ là chiếc áo quá chật so với sự phát triển của ngành xuất bản Nhà nước lẫn tư nhân làm sách hiện nay. Tại sao không phóng một tầm mắt xa hơn mà phải là khu vực trung tâm với những sự bất cập về diện tích?
Ủng hộ nguyện vọng tại TP.HCM có một con đường sách cố định là rất chính đáng, cần hoan nghênh, cần biểu dương. Sau khi phát biểu, y nhấn mạnh cái ý này mà hầu như các báo không nhắc đến: Phải học kinh nghiệm của Hội An. Tết vừa rồi, y có cuộc trò chuyện với anh Nguyễn Sự - Bí thư thành ủy Hội An, anh cho rằng: “Làm văn hóa muốn thành công phải gắn liền với quyền lợi kinh tế của người dân. Dù nhân danh bất cứ thiện ý nào, mục tiêu to tát nào, nhưng nếu người dân không có quyền lợi về kinh tế thì khó có thể thành công”. Khi thể nghiệm Đêm rằm phố cổ, cứ mỗi rằm tắt đèn cả khu phố cổ, người dân phản ứng rất dữ. Đang buôn bán, làm ăn ngon lành, tự dưng cúp diện thì mua bán là mua bán làm sao? Trả lời câu hỏi này là gì? Là phải có chính sách thuế phù hợp cho người dân trong khu phố cổ. Nhờ vậy, dân đồng tình ủng hộ thử nghiệm và qua vài lần sau đó, Hội An đã thấy mô hình này là đúng và duy trì đến hiện nay.
Vậy thì, nếu vẫn quyết chọn đường Nguyễn Văn Bình làm Đường sách ắt bước đầu phải có chính sách hỗ trợ về thuế, tiền thuê mặt bằng cho các đơn vị làm sách tham gia. Bên cạnh đó, còn phải giải quyết một bài toán khó là nơi giữ xe v.v... Mà thôi, nếu nơi này có trở thành Đường sách cố định thì cũng tốt, có điều về lâu dài chắc chắn diện tích của nó không đủ sức dung nạp các đơn vị làm sách, dẫu là chỉ trưng bày các đầu sách mới phát hành.
Ta hãy chờ xem.
L.M.Q
Lê Minh Quốc trả lời phỏng vấn chươn g trình Chào ngày mới của Đài HTV nhân kỷ niệm 40 năm Khoa Văn học và Ngôn ngữ (12.4.2015)
“Mấy hôm nay có gì vui không Q?”. Vẫn tin nhắn quen thuộc của Đoàn Tuấn. Chẳng trả lời gì. Ngày nào chẳng thế. Đã thành nếp. Đang test lại chính mình: Nếu trong một ngày, không bước ra khỏi nhà, có thể viết được bao nhiêu ký tự? Viết vừa phải. Không gắng sức. Cảm thấy thỏa mái. Công việc đều đặn này kéo dài trong thời gian bao lâu? Khó có thể biết. Chẳng ai có thể toàn tâm toàn ý “ngày như mọi ngày”, đôi lúc, phải dừng lại nhằm “đối đế” với một vài quan hệ khác như họp hành, bia bọt bạn bè lâu ngày mới gặp, xã giao này nọ, ngoài công việc…
Những khoản thời gian này, khó ai có thể tránh né.
Làm sao có thể không về tham dự nhân kỷ niệm Khoa Văn học và Ngôn ngữ? Nhiều bạn học tâm sự chân tình: “Trở về trường, nhiều người hỏi em học khóa nào? Em ưỡn ngực tự hào và bảo, học chung lớp với nhà thơ Trương Nam Hương và Lê Minh Quốc. Chỉ cần giới thiệu như thế là khối người trố mắt hỏi thật không? Trời, sao không thật!”.
Nghe thấy vui vui.
Tình bạn thời đi học như rượu quý. Còn có thể ngồi chung, uống chung với cốc rượu hòa lẫn những câu chuyện thân tình. Đơn giản chỉ vì cả thảy cùng làm chung ngành nghề, chung nhận thức. Bạn thời bộ đội cũng thế chăng? Dù đã một thời sống chết mịt mù lửa đạn, chia sớt cho nhau từng nguồn ánh sáng của sự sống, cứ ngỡ rằng mãi mãi là tri kỷ, tâm đầu ý hợp. Không hẳn thế. Rời khỏi quân ngũ, mỗi người rẽ một nhánh khác trên vạn dặm đường dài. Lúc gặp lại, có ngoài kỷ niệm cũ, đa phần chẳng biết nói thêm những gì. “Sau này gửi hình ảnh cho bạn thì thế nào?”. “À, dễ quá, cứ gửi qua email hoặc facebook cho mình”. “Ủa, có phải địa chỉ nhà riêng không? Sao lại không thấy có số nhà, tên đường?”.
Những mẩu chuyện nho nhỏ, cứ tưởng như đùa mà lại thật, rất thật.
Thương bạn lắm, nhưng rồi biết thế nào?
“À, mấy hôm nay có gì mới không?”. “Trời, báo chí đưa tim ầm ầm, ông không đọc báo, không lướt web à?” “Báo thì biết rồi nhưng web là cái gì?”. Thương quá. Có những người bạn bộ đội sau khi rời quân ngũ, trở về lại quê nhà, vẫn “lạc quẻ” với nhịp sống.Vẫn sống như thời còn ở chiến trường. Có người bảo chắc chắn có “hội chứng chiến tranh” ở những người lính từng tham gia chiến trường K. Không rõ thế nào. Chẳng có một cuộc điều tra nào về tâm lý, xã hội học nên khó có một kết luận rõ ràng. Vấn đề này, Đoàn Tuấn suy ngẫm nhiều. Sau bút ký Những người không gặp lại nữa, đã in, hiện anh đang tiếp tục với Trung đoàn viễn chinh. Đã viết đến đâu rồi?
Từ năm 1977, thế hệ ra đi từ Quân khu 5, rồi có nhiều đợt bổ sung tân binh từ các vùng miền, nhưng rồi, viết trong thời gian đó, chỉ có tập thơ Đất bên ngoài Tổ quốc. Quá ít ỏi. May mà còn có, nếu không ai sẽ lại người ghi lại vết tích năm tháng đó? Ở Quân khu 7 có Phạm, Sỹ Sáu và một vài người khác nhưng thật ra cũng quá ít ỏi. Cuộc chiến này, hầu như chưa thể hiện nhiều trên các trang viết. Chỉ có thể đếm trên đầu ngón tay.
Cuộc chiến này, chưa kịp hình thành một lực lượng viết mới. Viết với tâm thế của người lính mang gương mặt học trò. Viết với những gì mà cuộc chiến trước đây chưa có. Viết từ chiến hào dưới ngọn đèn dầu khộp. Viết nhọc nhằn trên quê hương Chùa Tháp. Thế hệ y hối hả viết. Rồi sau đó, vì nhiều lý do nên cuộc chiến này ít nhắc ai nhắc đến nữa. Một khi nhà cầm quyền không muốn nhắc lại cuộc chiến đó, điều này cũng ảnh hưởng đến sự lan truyền của các tác phẩm đã viết trước đó.
Có lẽ, đến lúc này, tập thơ Đất bên ngoài Tổ quốc vẫn được… photo copy nhiều nhất. Hằng năm, các cuộc họp mặt anh em thuộc sư đoàn 307 từ các cấp tiểu đội, trung đội, đại đội, trung đoàn thì các chiến hữu lại photo chuyền tay nhau đọc. Nghĩ vậy, đã thấy vui. Bài thơ tình tặng một người, chỉ một người đọc, đã vui. Hà huống gì đồng đội cũ năm nào cũng đọc lại. Đọc để nhớ về ngày tháng đã hằn một vết sẹo từ trong ký ức.
Mấy hôm nay, đã xa lánh những cuộc họ hội hè, đoàn thể của cái hội nghề nghiệp văn chương. Vô bổ quá. Nhiều anh em đi họp về la toáng tên là bị lừa. Không nhắc lại nữa. Những quy chế, quy định từ đời tám hoánh, từ thập niên 1960 nay vẫn còn nhai lại, vẫn còn áp dụng một cách máy móc. Mà nghĩ cho cùng, cuối cùng, mỗi nhà văn cũng tự thân vận động, tự mình đóng cửa hì hục viết mỗi ngày, cái hội nọ, cái đoàn thể kia nó có giúp ích được gì đâu. Ấy thế, nó vẫn cứ tồn tại và Nhà nước hằng năm vẫn đều đặn rót kinh phí. Vô lý quá. Rồi có lẽ, đến một lúc nào đó, người ta cũng phải xóa bỏ đi thôi. Cái sự hữu danh vô thực tồn tại đã nhiều năm rồi. Ai cũng thấy, ai cũng biết nhưng chẳng ai nói hoặc cũng không buồn nói. Cứ thế "đến hẹn lại lên", lại đại hội, lại bầu bán nhân sự để rồi có giúp gì cho người sáng tác? Đôi lúc tự hỏi, người sáng tác đứng ở đâu trong vòng quay nghiệt ngã của đời sống nhiều xáo trộn?
Mỗi một ngày đi đứng trên mây
Bụi bặm không lem dưới gót giày
Tiếng hót viễn mơ du dương quá
Vẽ nhọ tân trang cái mặt mày
Y đang mắng y đấy thôi. Rồi cuối cùng, biết thế nào được, người cầm bút lại chọn cho mình một góc nhìn, một thế đứng vừa có thể giữ được mình không lem luốc, vừa có thể bày tỏ ý thức trách nhiệm với đất nước. Đôi khi nhớ đến những câu thơ đã đọc, tìm về những câu thơ như một sự thanh lọc tâm hồn:
Tôi yêu đất nước này lầm than
Mẹ đốt củi trên rừng cha làm cá ngoài biển
Ăn rau rìu rau éo rau trai
Nuôi lớn người từ ngày mở đất
Bốn ngàn năm nằm gai nếm mật
Một tấc lòng cũng trứng Âu Cơ
Một tiếng nói cũng đẩy hồn Thánh Gióng
Tiếng kêu vang vọng của anh bạn thi sĩ Trần Vàng Sao vẫn vọng lại, thỉnh thoảng đôi lần.
L.M.Q
Chẳng phải “ông này bà nọ”, võng lọng xênh xang, trăm công nghìn việc, ấy thế, một chuyến đi chơi xa vài ngày, sao lại khó khăn? Y tự làm khổ đấy thôi. Mỗi ngày công việc đều đặn, giờ này việc này, giờ nọ việc nọ, đã sít sao, đã đâu vào đó. Sắp về quê trên chuyến bay lúc 9 giờ sáng vào 23.4.2015 tham dự Hội sách Đà Nẵng, muốn thế, phải cày cho xong “lương khô” dự trữ vài số báo tới.
Sáng thứ 6, ngồi nói chuyện với một đồng nghiệp, anh bảo, cô vợ muốn anh nghỉ nghề làm báo. Đơn giản, hai con đã lớn, đã du học nước ngoài, thu nhập của vợ thừa khả năng nuôi chồng “sáng sỉn, chiều say, khuya lai rai đến sáng”. Nghỉ đi thôi. Thu nhập chẳng nhiều nhặn gì (so với vợ) nhưng luôn canh cánh trong lòng chuyện bài vở, phải nhanh nhậy nắm bắt thời sự, phải có bài hay thu hút bạn đọc, phải không sai sót gì về nghiệp vụ v.v…
Mỗi số báo ví như một “trận đánh”. Hết số báo này lại tới số báo khác. Lại bắt đầu lại những bước đầu tiên. Lại bài vở, lại chạy đua theo thời gian, lại viết. Có lúc anh cảm thấy mệt mỏi. Nếu xét về kinh tế, anh có thể nghỉ ngơi nhẹ đầu. Thế rồi “đã mang lấy nghiệp vào thân”. Làm sao có thể? Con đường dài thăm thẳm ấy, sau những lúc thở ngắn than dài lại tiếp tục bước đi hân hoan và hào hứng. Nếu quan niệm làm báo, viết báo nhằm kiếm tiền để bám theo nghề là một sự dại dột. Mà cũng không đủ sức đi trọn với nghề.
Còn viết báo, làm báo dù cẩn trọng thế nào đi nữa rồi cũng có lúc bị “thổi còi”. Đã có người thanh bại danh liệt vì nghề. Rồi vẫn còn thêm nữa. Chắc chắn thế.
Mấy hôm nay, đọc quyển Tầm nhìn thay đổi quốc gia (NXB Thế Giới) - hồi ký của Quốc vương Dubai: Mohammed bin Rashid Al Maktoum. Trong đó có một phép ứng xử đối với nhà báo: “Tôi đã từng chạy theo cha, bừng bừng tức giận khi nói với ông về việc một số tờ báo đăng những câu chuyện sai sự thật về Dubai và đề xuất rằng, ông nên cấm việc bán những tờ báo này ở tiểu quốc. Cha tôi trấn an và giải thích, sẽ là tốt hơn khi chấp nhận những tờ báo đó lưu hành trong thành phố của chúng ta. Bởi vì nếu những gì nó đăng là đúng, chúng ta xứng đáng bị chỉ trích, còn nếu không, sẽ chẳng ai tin chúng. Tôi đã bị thuyết phục bởi sự khôn ngoan của cha và xác định sẽ không bao giờ cấm bất kỳ một sự xuất bản nào trong mọi hoàn cảnh”.
Lại nữa, “Tôi thích thấy những chỉ trích mang tính xây dựng trên báo chí hơn là ngợi ca. Mọi người đều biết về các thành tích và chúng tôi thực sự không cần một lời nhắc lại nào cả, nhưng khám phá ra sai lầm sẽ dẫn các quan chức và những người ra quyết định có thể sửa sai và tránh mắc thêm sai lầm”.
Làm báo ở Việt Nam thế nào? Đừng ngốc dại đẩy mình phải tự trả lời những câu hỏi khó.
Trưa qua mãi 13 giờ mới có thể ngã lưng. Bởi phải viết cấp tập loạt bài dự trữ. Vừa mới thiu thiu chợp mắt đã nghe rèng réng reng vang dội như kèn đồng xông trận: “Anh ơi! Viết gấp cho em một bài về nhà thơ Trương Nam Hương in ngay số này”. “Bao nhiêu chữ?”. “Cũng như mọi lần anh ạ, chừng 2.500 chữ”. “Bao giờ có bài?”. “Do tòa soạn ngoài Hà Nội đang giục nên đúng 16 giờ chiều nay anh nhé”. Chà, gay go quá. Nhìn qua cái đồng hồ ngay bên gối, đã 14 giờ. Chẳng lẽ từ chối? Anh em đồng nghiệp thân tình, lúc ngặt cần gấp, lẽ nào chối phắt, sổ sàng như người dưng qua đường? Hơn nữa, đã quen thân với Hương từ lúc mới bước chân vào giảng đường đại học, từ năm 1983. Đã hơn 30 tình bạn, lẽ nào có dịp lại không viết? Không còn cách nào khác, phải viết. Vừa viết vừa sực nhớ loáng thoáng một câu đối:
Suốt buổi ba mươi, vay món nọ, trả món kia, long đong xoay ngược xoay xuôi, cắm cổ chạy tràn, cong đít vịt;
Sáng ngày mồng một, kẻ chúc con, người chúc của, phè phỡn rượu trưa chè sớm, rung đùi ngồi vuốt vểnh râu dê.
Không khác gì tâm thế của nhà báo. Lúc này, giờ này, cần bài này, không chậm trễ. Nếu trễ là bỏ. Ngày nọ, vào lúc cuối đời, nhà văn Sơn Nam nằm trên giường bệnh, đến thăm ông ở tư gia đường Đinh Tiên Hoàng. Hỏi ông về kinh nghiệm sống bằng nghề, chỉ sống bằng nghề cầm bút thì điều gì cần thiết nhất? Khác hẳn mọi lần, ông suy nghĩ rất lâu rồi bảo: “Đừng làm biếng”. Kinh nghiệm của một người viết hàng ngàn trang sách thuộc nhiều thể loại, chỉ có thế thôi ư? Ngẫm lại thấy đúng. Mà thật ra, nghề nào cũng thế cả. Tài năng của mỗi người nhiều hay ít, ông trời cho. Đã thế, lại làm biếng thì nên cơm cháo gì?
Sáng nay, phở một chút. Chung với vài người bạn. Sau đó, xuống cà phê Khanh Casa ngắm nắng Sài Gòn. Tất nhiên không thể không lướt qua vài tờ báo. Theo báo Tiền Phong sáng nay (nguyên văn): “Trong 3 năm qua có hơn 260 người chết trong quá trình tạm giam, tạm giữ. Cái đó Công an phải hoàn toàn chịu trách nhiệm… Mục tiêu của Quốc hội là không được để xảy ra oan sai, đi liền với đó là không bỏ lọt tội phạm”, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng nêu ý kiến khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội nghe và thảo luận về Báo cáo kết quả giám sát về tình hình oan sai, ngày 10/4”. Những con số ấy nói lên điều gì?
Hiện nay, đang diễn ra cuộc thi sáng tác ca khúc về Quốc hội Việt Nam do văn phòng Quốc hội phối hợp Hội Nhạc sĩ Việt Nam tổ chức phát động - hướng tới kỷ niệm 70 năm Ngày Tổng tuyển cử đầu tiên bầu Quốc hội Việt Nam (6.1.1946 - 6.1.2016). Không rõ sẽ có nhạc sĩ nào nêu bật được ý kiến “Mục tiêu của Quốc hội là không được để xảy ra oan sai, đi liền với đó là không bỏ lọt tội phạm”?
Nhà hát Trần Hữu Trang vừa khánh thành. Xây dựng lại từ nền của rạp Hưng Ðạo cũ (136 Trần Hưng Đạo, Q.1) với số vốn huy động 132 tỉ đồng. Báo chí rầm rộ ca ngợi “thánh đường mới” dành cho cải lương. Tuy nhiên ngay sau đó, các nghệ sĩ đã kêu trời như bộng. Tại sao? Chung quy cũng do thiết kế không phù hợp với đặc thù của một nhà hát. Chẳng hạn, sàn diễn bề ngang từ 12 mét bị thu gọn lại còn 10 mét, nếu tính thêm 2 m cho 2 cánh gà thì sàn diễn sử dụng thực tế chỉ còn 8 m bề ngang. Làm sao có thể diễn? v.v… Chuyện này không có gì lạ. Dăm năm trước đây, Thư viện Khoa học Xã hội lúc xây mới cũng rơi vào tình huống tương tự.
Gác bỏ những chuyện thời sự mỗi ngày. Mấy hôm nay vẫn đọc sách lai rai. Lại nghĩ, người Việt có khôn ngoan không? Tất nhiên là có. Đây là một “triết lý” khôn ngoan: “Cụ tiên chỉ làng Vũ Đại nhận ra rằng: đè nén con em đến nỗi nó không chịu được phải bỏ làng đi là dại. Mười thằng đã đi ra thì chín thằng trở về với cái vẻ hung đồ, cái tính ương ngạnh học được từ phương xa. Một người khôn ngoan chỉ bóp đến nửa chừng. Hãy ngấm ngầm đẩy người ta xuống sông, nhưng rồi lại dắt nó lên để nó đền ơn. Hãy đập bàn đập ghế đòi cho được năm đồng, nhưng được rồi thì lại vất trả lại năm hào "vì thương anh túng quá"! Và cũng phải tùy mặt nữa: những thằng có máu mặt, vợ đẹp, con đàn, chính là những thằng sợ quan và dễ bóp; trái lại, những thằng tứ cố vô thân, giết chúng nó thì dễ, nhưng được chỉ còn có xương; mà gây với chúng là mở một dịp tốt để cho các phe nghịch xoay lại mình”. Ôi, cái ông Nam Cao. Ông nhận xét tài tình thật. Có điều nhận xét về sự khôn ngoan ấy, ngày nay đã thay đổi rồi chăng?
Ngẫm đi ngẫm lại chỉ có trẻ thơ, thời nào cũng vậy. Hồn nhiên. Trong sáng. Thánh thiện. Thiên thần. Đọc và cười tủm tìm với bài thơ của “em Thư Lâm (5 tuổi) viết ngày 6.12.1958”, in trên chuyên mục Lan hàm tiếu của giai phẩm Văn hóa ngày nay số 9 phát hành mùa xuân năm 1959. Giai phẩm này do Nhất Linh chủ trương. Tòa soạn 42 Phạm Ngũ Lão (Sài Gòn). Thuần túy văn chương. Số đầu tiên ra ngày 17.6.1958, được 11 số, số cuối cùng phát hành 16.5.1959. Mỗi tập dày chừng 130 trang đến 150 trang. Khởi in "trường giang tiểu thuyết" của Nhất Linh: Xóm Cầu Mới. Các tranh bìa đều là tranh Nhất Linh vẽ hoa lan. Từ số 2, ngay trang đầu có in "logo" hoa lan nở kèm theo hai câu thơ của Bùi Khánh Đản:
Tụ kết tinh anh giữa gió sương
Muôn màu muôn vẻ thoảng muôn hương.
Lại có dòng chữ rất oách ngay dưới măng-sết ở trang trong: "Đăng những bài và truyện có giá trị bất cứ thời nào, nơi nào". Đây là nỗ lực cuối cùng của Nhất Linh trong lãnh vực báo chí, tuy nhiên ông đã không tạo được tiếng vang và sự thành công rực rỡ như thời sáng lập, chủ trương Phong hóa, Ngày nay. Đọc bộ này, vẫn còn thấy hay, hữu ích. Có thể tìm hiểu được nhiều thông tin về Tự lực văn đoàn. Y có trọn bộ Văn hóa ngày nay, do nhà sách Khai Trí đóng bộ, bìa cứng.
Nguyên văn bài thơ của “em Thư Lâm (5 tuổi)” như sau:
Đêm rằm trăng nguyên
Đêm thường trăng bể
Chén trà ngồi gần ông ngoại
Nước nóng thở khói thơm.
Rõ ràng, một tứ thơ ngộ nghĩnh, độc đáo. Nếu có thời gian sẽ bình cho vui. Tiếc quá. Đã chiều. Lại chuẩn bị vài việc cho ngày mai - Chủ nhật 12.4.2015, tham dự lễ kỷ niệm 40 năm Khoa Ngữ văn và Ngôn Ngữ (Trường ĐH Khoa học xã hội và nhân văn thuộc Đại học Quốc gia TP.HCM). Rồi lại đến Khanh Casa lần nữa. Đố ai biết tại sao? Có một người biết tỏng, chỉ có thể bạn thơ Trương Nam Hương.
L.M.Q
Tranh tĩnh vật màu nước của Adolf Hitler (nguồn:The Telegraph)
Công việc mỗi ngày cũng thế. Tự mình “kỷ luật” lấy mình. Cái gì cũng muốn cho xong, vì thế, không chần chừ, không “ầu ơ vì dầu” mà cố gắng từng ngày. Đã thể thở phào nhẹ nhàng. Đã đâu vào đó. Chờ đến ngày gặp lại cảm giác tươi nguyên như lần thứ nhất trong đời. Như ngày được cầm cuốn sách đầu tay: Tập thơ Trong cõi chiêm bao (NXB Trẻ) in năm 1989. Năm đó vừa tròn 30 tuổi. Đến nay có bao nhiêu cuốn sách đã in? Chẳng rõ nữa. Có cái còn lại. Có cái sẽ mất đi. Mất và còn cũng không khác gì nhau. Câu thơ này của Trần Đăng Khoa:
Cái còn thì vẫn còn nguyên
Cái tan dù tưởng vững bền cũng tan
Nghĩ ngợi gì cho lắm. Đã tằm thì nhả tơ. Đã họa sĩ thì vẽ. Đã sống thì yêu. Đã hoang mang trong mùa thu gió trút thì phải viết một cái gì chăng? Đã sống trong một ngày, một đời rồi cuối cùng nhìn lại, thấy gì trên mười đầu ngón tay? Chẳng thấy gì ngoài mây bay qua, rớt xuống từng phiến lá lọt kẽ tay. Hun hút. Mơ hồ. Không một âm thanh nào vọng lại. Biết thế. Vì biết nên mỗi một ngày lại gõ phím. Lại leo dốc đi qua thời gian. Không hân hoan mà cũng chẳng buồn rầu.
Sắp đến đây là Ngày sách Việt Nam. Lý do chọn ngày 21.4 hằng năm vì hai lý do: lấy mốc thời gian xuất bản và phát hành tác phẩm Đường Kách Mệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh; tháng 4 còn là thời gian diễn ra Ngày sách và bản quyền thế giới (23.4). Tại Sài Gòn, Ngày sách năm nay tổ chức tại một phần mặt bằng trước Bưu điện thành phố và tuyến đường Nguyễn Văn Bình (Q.1), từ ngày 18 đến 22.4.2015. Tại Đà Nẵng, Đường sách diễn ra dọc theo đường Bạch Đằng, từ ngày 23.4 đến 25. 2015. Cả hai chương trình này, y và bạn bè có buổi tặng chữ ký trên sách, giao lưu cùng bạn đọc.
Đời, thế mà vui.
Ghi lại mấy thông tin loáng thoáng. Theo nguồn tin báo TN, nếu không có gì thay đổi, ngày 14.4.2105 chiếc xe kéo tay của Hoàng thái hậu Từ Minh - mẹ vua Thành Thái sẽ được chuyển từ Pháp về đến Hà Nội. Theo kế hoạch, nếu thuận lợi thì ngày 16.4 chiếc xe về đến Hà Nội. Trung tâm bảo tồn cố đô Huế sẽ cho người ra nhận đưa về Huế để kịp khai mạc triển lãm chuyên đề về xe, kiệu triều Nguyễn tại cung Diên Thọ vào ngày 22.4.2015, trong dịp Festival Nghề truyền thống Huế.
Chuyện này cụ thể ra làm sao?
“Trước đó, ngày 13.6.2014 ở phiên đấu giá diễn ra tại Văn phòng Rouillac (Pháp), đại diện của Trung tâm bảo tồn di tích cố đô Huế đã đấu giá thành công chiếc xe kéo này với mức đấu giá 45.000 euro (cộng thêm phần lệ phí đấu giá thành 55.800 euro - khoảng 1,3 tỉ đồng). Sau phiên đấu giá, Bảo tàng Nghệ thuật châu Á Guimet (Paris) tuyên bố nhà nước Pháp đề nghị mua lại chiếc xe ấy (với giá trên) theo nguyên tắc “quyền ưu tiên mua” ở nước sở tại. Sau quá trình vận động ngoại giao, Bộ Văn hóa Pháp đã đồng ý không tranh mua cổ vật với Việt Nam đối với chiếc xe kéo của Hoàng thái hậu Từ Minh, mẹ vua Thành Thái. Như vậy, đây là cổ vật đầu tiên của VN đang lưu lạc ở nước ngoài được VN đấu giá thành công và đưa trở về nước” (TN số ra ngày 4.4.2015).
Chiếc xe kéo tay, nhìn lại ảnh chụp thời Pháp vẫn còn thấy nhiều. Hóa ra xe kéo tay dành cho mẹ vua cũng không khác gì xe dành cho thường dân.Có khác chăng chỉ về chất liệu trang trí.
Tương tự, do là Adolf Hitler nên bức tranh tĩnh vật màu nước - có chữ ký của tác giả, vẽ lúc khoảng 24 tuổi được đem ra bán đấu giá vào ngày 26.3.2015 tại nhà đấu giá Nate D Saunders (Los Angeles, Mỹ) mới có giá đó? Bao nhiêu? Giá khởi điểm là 30.000 USD, dù thuở ấy ông ta đã từng hai lần bị Viện Nghệ thuật Vienna từ chối khi muốn vào học ở đây.
Do là tranh của Leonardo da Vinci nên khi xem bức tranh Bữa tiệc Ly, người ta mới quan tâm lúc ấy trên bàn ăn có những gì? Sau nhiều năm tháng nhọc công nghiên cứu mới biết, đó chính là đậu hầm, thịt cừu, ô liu, thảo mộc đắng, chà là và rượu thơm - ẩm thực Palestine thời Chúa Jesus.
Lại nghĩ, Vân Đường phủ - số 11 (số cũ là 9/1) Nguyễn Thiện Thuật, P.14, Q.Bình Thạnh từ 20 năm nay đã khiến giới báo chí tốn biết bao bút mực. Sau khi “lên báo” có lẽ được bạn đọc quan tâm nhiều, bởi do là của nhà cụ Vương Hồng Sển.
Những gì liên quan đến người nổi tiếng, rõ ràng bao giờ cũng thu hút sự chú ý của công chúng.
Thử hỏi xe kéo tay du nhập vào Việt Nam thời điểm nào? Xin trả lời, sau khi Pháp đánh chiếm nước ta, các quan lại nhà Nguyễn mỗi lần di chuyển còn sử dụng ngựa, võng hay đi cáng. Sau quan Đốc lý Bonnal mua hai cái xe tay rất đẹp ở Nhật đem về, có biếu quan Tổng đốc Hà Nội một cái. Sau đó, năm 1884 có ông tham tá nhà Đoan người Pháp là Ulysse Leneveu về hưu trí nhưng chưa vội hồi hương, ông ta nghĩ phải buôn bán gì để thêm kiếm chút ít tiền rủng rẻng. Ông ta sang Hồng Kong mua 6 chiếc xe tay đem về, vừa bán vừa cho thuê. Quan trọng hơn là từ chiếc xe mẫu sẵn có, thợ người Việt bắt chước sáng chế theo. Tính đến ngày 24.3.1887, ông Ulysse Leneveu đã sở hữu hơn một trăm chiếc để cho thuê. Dần dà, người Việt cũng lao vào nghề này. Thông tin này trích từ tạp chí Tứ dân văn uyển thuộc Tòa Tư thư Phủ Thống sứ Bắc kỳ - chủ đề “Công nghệ mới Việt Nam” phát hành ngày 1.3.1938 tại Hà Nội.
Người có công đầu đưa chiếc xe tay vào văn học sử nước nhà, chính là nhà báo Tam Lang với thiên phóng sự trứ danh Tôi kéo xe. Tất nhiên không thể quên Nguyễn Công Hoan với truyên ngắn Ngựa người người ngựa. Cách dây dăm năm, Sân khấu kịch Hồng Vân đã chuyển thành kịch, diễn ở Trung tâm văn hóa Phú Nhuận. Người trước nhất đưa chiếc xe tay vào thơ chính là Tú Xương. Rõ ràng, ông là “nhà báo” thứ thiệt, tiếp cận thông tin nhanh nhạy:
Hàng phố khóc bằng câu đối đỏ
Ông chồng thương đến cái xe tay
Cái hơn người của Tú Xương ở chỗ, dù chất liệu từ hiện thực đời sống nhưng khi thời sự đi qua, thơ của ông vẫn “trụ” lại được với thời gian. Chiếc xe tay cũng đi vào thơ của thi sĩ Tản Đà:
Đời thế anh ơi, thế cũng khoe
Hết trò phu cáng lại phu xe
Văn minh chừng mấy ki-lô-mét
Tiến bộ như anh nghĩ chán phè
Mấy hôm nay, thường đi xuống trung tâm Sài Gòn. Nhận thấy còn đường đi ngang qua UBND TP.HCM đã hoàn thành.“Ghi nhận của VietNamNet, tuyến đường Lê Thánh Tôn (đoạn từ Đồng Khởi đến Pasteur) dài 220m, rộng 14m với tổng diện tích lát đá 3.080m2. Đây là con đường đầu tiên được lát đá, mỗi viên đá lát đường dày 8 cm, đá vỉa hè dày 6 cm, có độ bền sử dụng hàng trăm năm. Hiện tại, các phương tiện xe máy và ô tô đã được phép di chuyển trên tuyến đường này.Được biết, một phần tuyến đường Lê Thánh Tôn cùng với đường Nguyễn Huệ trở thành quảng trường TP và là phố đi bộ của TP trong tương lai gần.
Theo kế hoạch, công trình xây dựng quảng trường TP có tổng kinh phí gần 430 tỷ đồng sẽ hoàn thành trước tháng 4/2015 để kỷ niệm 40 năm ngày thống nhất đất nước.Dự án quảng trường đi bộ sẽ xây lại hệ thống các công trình hạ tầng kỹ thuật: cấp thoát nước, cấp điện, đài phun nước, cây xanh và mảng xanh, hệ thống chiếu sáng công cộng và chiếu sáng nghệ thuật”.
Vấn đề nan giải đang đặt ra là tìm chỗ đậu xe cho phố đi bộ.
L.M.Q
Hồi ký Lý Quang Diệu (1965-2000) - tư liệu L.M.Q
Chiều tứ Sáu cùng với Sanh lên nhà anh Ánh ở đường AB. Nhậu chơi, nhân thể bàn chuyện Đường sách lần đầu tiên tổ chức tại quận Hải Châu (Đà Nẵng). Đường sách tại TP.HCM là sáng kiến của Sở Thông tin - Truyền thông TP.HCM phối hợp với Công ty Fahasa, lần đầu tiên tổ chức vào dịp Tết 2011. Cụ thể, từ ngày 31.1 đến ngày 6.2 (từ 28 đến mùng 4 Tết âm lịch) tại đường Mạc Thị Bưởi - đoạn từ Đồng Khởi đến Nguyễn Huệ. Tương tự, Hội sách TP.HCM đã chức nhiều năm tại Công viên Lê Văn Tám. Năm nay, lần đầu tiên tại Cần Thơ tổ chức Hội sách, cũng chọn ngày 26.3 hằng năm như Hội sách tại TP.HCM. Đà Nẵng cũng vậy, vào dịp 30.4 năm nay, lần đầu tiên cũng tổ chức Hội sách, Đường sách.
Đây là những tín hiệu tốt nhằm tác động, lan truyền đến công chúng nhiều hơn nữa về văn hóa đọc. Cần ghi nhận.
Sáng hôm nay, đi ngang qua Tao Đàn lại thấy sinh hoạt Hướng đạo. Những gương mặt sáng láng, đáng yêu lắm. Nhìn các em chỉnh tề, chững chạc với các trò chơi, sinh hoạt cộng đồng mà nhớ thời còn trẻ. Cái thời hoa niên đã từng sinh hoạt trong các đoàn thể tương tự. Câu hát bật lên trong đầu: “Anh em ta về cùng nhau ta quây quần này / 1-2-3-4-5 / Anh em ta về cùng nhau ta sum họp này / 5-4-3-2-1 / Một đều chân bước nhé / Hai quay nhìn nhau đi / Ba cầm tay chắc nhé, không muốn ai chia lìa / Bốn nhớ rằng, chúng ta bốn bể anh em một nhà / Năm nhớ mãi tình người trong câu ca”. Những gì đã tiếp thu thời trẻ, lạ thay, chẳng hề mất đi. Nhìn các em Hướng đạo, rồi tự hỏi, chẳng rõ có phụ huynh nào đặt câu hỏi: “Vì sao hầu hết các em hiện nay đều cận thị?”. Quan sát thấy các tốp sinh hoạt nào cũng có vài em đeo kiếng cận. Lạ nhỉ?
Bây giờ và sau này, y vẫn giữ quan điểm: Ngoài tổ chức Hội, Đoàn của Nhà nước, cần duy trì và phát huy nhiều hơn nữa vài trò của các đoàn thể, trong đó có Hướng đạo, Gia đình Phật tử… Cần lắm, chính các tổ chức này sẽ là cánh tay đắc lực đáng tin cậy cùng nhà trường, gia đình rèn luyện, dạy dỗ các em kỹ năng sống, nhân cách sống.
Mấy hôm nay nghe nhiều về một thông tin ấm ớ: Quán bán thức ăn nhanh nọ tại Q.1 (TP.HCM) có chương trình phát thức ăn miễn phí - từ 20 giờ ngày 23.3 2015 đến 20 giờ ngày 24.3.2015. Quà tặng gồm có một phần bánh burger, khoai tây, nước ngọt, áo thun; ngoài ra khách còn có cơ hội được nhận những món đồ chơi như huy hiệu, mắt kính, râu giả… được ném xuống từ sân thượng cửa hàng (?!). Muốn nhận thức ăn miễn phí, người tham dự phải đi xe máy hoặc xe đạp xếp hàng đến nhận quày thức ăn tại cửa hàng. Chuyện gì xẩy ra? Cả hàng trăm người chen chúc, quyết dành cho được phần quà miễn phí. Về chuyện này, báo Người đưa tin của Hội Luật gia Việt Nam (số 28.3.2015) có bài Hàng ngàn người tranh giành suất ăn miễn phí: Tự nhiên mất hết nhân văn?! - một bạn đọc phát biểu đáng lưu ý: "Mình thấy toàn là thanh niên, đi xe xịn các kiểu xếp hàng hơn là người bán hàng rong, xe ôm, người cơ nhỡ. Họ chầu chực hàng giờ đồng hồ được mà khi đứng chờ đèn đỏ vài chục giây thì không đủ kiên nhẫn. Thật là xót xa cho xã hội bây giờ. Vì đâu nên nỗi?".
Trước đây, tại tư gia trên đường S.N.A, chàng ca sĩ ồn ào N.S cũng tung chiêu tặng gạo cho người nghèo, kết quả: cả đoạn đường tắt nghẽn,náo nhiệt, ầm ĩ như có đánh nhau. Lại nhớ chuyện cửa hàng sushi ở Hà Nội thông báo cho vào cửa tự do ăn buffet Nhật Bản miễn phí cũng xẩy ra tình trạng tương tự. Nhìn chung, trong những trường hợp oái oăm này, tính xấu người Việt lại có cơ hội phát huy tối đa. Từ xưa đến nay, người Việt không có thói quen xếp hàng mà hễ không mất tiền mà được mà được lợi, lợi chỉ bằng cái móng tay, lợi cỡ nào cũng nhào vô giành cho bằng được dù chưa đến nổi… chết đói.
Những cá nhân, doanh nghiệp muốn tiếp thị, quảng bá thương hiệu bằng các chiêu trò ấy là cách làm kém. Rất kém. Còn nhớ, mới đây có quán phở nọ thách ai ăn hết tô phở của họ thì được thưởng 1 triệu đồng. Tất nhiên, tô phở đó to tổ chảng, vài người ăn mới hết. Vậy mà cũng có người tò mò, háo hức đến ăn. Vừa được ăn vừa được tiền, tại sao không? Ừ, thì ăn. Ăn để rồi nôn thốc nôn tháo đến mật xanh mật vàng. Phải bỏ của chạy lấy người. Nhờ những trò oái ăm này, các quán đó được nhiều người biết đến. Nhưng sau đó thì sao? Quán vắng như chùa bà Đanh bởi điều cần làm lâu dài phải là chất lượng của sản phẩm, chứ không phải những trò giật gân, ấm ớ nhất thời.
Những ngày này, cái chết của cụ Lý Quang Diệu ngày 23.3.2015, báo chí Việt Nam đưa tin nhiều. Thích thông tin này: Trước đây vì an ninh, Singapore có luật các ngôi nhà xung quanh ngôi biệt thự của cụ Lý không được phép xây cao. Trước lúc mất, cụ Lý có di chúc xin đập ngôi nhà này, cho các nhà xung quanh được xây cao tầng và biến nó thành công viên cây xanh công cộng. Trên trang facebook cá nhân, nhà thơ Trần Mạnh Hảo có viết bài thơ Xin phá bỏ ngôi nhà tôi sau khi tôi chết:
Không được dùng nhà này làm nhà tưởng niệm tôi sau khi tôi mất
Hãy đập ngôi nhà tôi cho hàng xóm được cao tầng
Rồi trồng cỏ cây thành công viên xanh mát
Còn chút lòng này xin được hiến dâng
Không còn lời nào ca ngợi Lý tiên sinh được nữa
Cụ khiêm nhường giống hệt một thường dân
Cụ đã biến Singapore thành thiên đường dưới thế
Bằng tất cả thiên tài và một tấm lòng nhân…
Liên tưởng đến quan chức nước nhà, sau khi nghĩ hưu nhưng vẫn kiên cường "bám trụ tới cùng", quyết không trả lại nhà công vụ. Nghĩ gì? Đã có nhiều bài báo viết về cuộc đời và sự nghiệp của cụ Lý, in nhiều kỳ. Nhìn chung cũng là các tài liệu rút từ quyển Hồi ký Lý Quang Diệu (1965-2000), bản dịch của Phạm Viêm Phương - Huỳnh Văn Thanh (NXN Văn nghệ TP.HCM -2001). Những bài báo đó, hấu hết bàn về chuyện chính trị, xã hội chứ không nói gì nhiều về quan điểm của Lý Quang Diệu trong việc đào tạo nhân tài. Muốn có nhân tài phải từ giáo dục chăng? Đọc lại hồi ký của cụ Lý, tìm ra vài thông tin có thể nhiều người sẽ tranh cãi. Mà ngay cả thời điểm cụ phát biểu cũng đã “khuấy nên một làn sóng chỉ trích”. Chẳng hạn, theo quan điểm Lý Quang Diệu: “Đàn ông đã tốt nghiệp đại học mà chọn vợ ít học và ít hiểu biết thật là ngu xuẩn biết mấy, nếu họ muốn con cái của họ cũng giống như họ”. Ai cũng biết, nhân tài là tài sản quý báu nhất của một đất nước. Nước Việt ta, hàng trăm năm trước tiến sĩ Thân Nhân Trung (1419 - 1499) đã khẳng định: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn. Vì thế các bậc đế vương thánh minh không đời nào không coi việc giáo dục nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí quốc gia làm công việc cần thiết”.
Cụ Lý cũng nghĩ thế. Tuy nhiên, nhân tài ở đâu mà có?
Trước đây, nhiều phụ nữ giỏi ở đất nước Singapore không có người nối dõi bởi đàn ông ngang trình độ với họ không muốn cưới họ. Ngược lại, đàn ông châu Á, cho dù người Hoa, Ấn hay Malay cũng đều thích có bà vợ học vấn kém hơn mình: “Năm 1983, chỉ có 38% nam giới tốt nghiệp đại học là lập gia đình với phụ nữ tốt nghiệp đại học”. Cụ Lý viết tiếp: “Không thể cứ để hoài cái kiểu hôn nhân và cấu trúc sinh đẻ chênh lệch mà không nói, mà không cấm cản. Tôi quyết định gây sốc các bạn nam trẻ để họ vượt ra khỏi các định kiến ngu ngốc, lỗi thời, đầy tai hại”.
Cụ đã trích dẫn các nghiên cứu về những cặp vợ chồng có trình độ ngang hàng được thực hiện ở Minnesota vào thập niên 1980, và rút ra kết luận: “Gần 80% tư chất của một người là do tự nhiên, và khoảng 20% là do giáo dục mà nên". Nói cách khác, nhân tài 80% do di truyền từ cha mẹ và chỉ 20% do môi trường và giáo dục đóng góp. Nghe sốc chưa? Sốc quá đi chứ. Cụ viết thêm: “Năng lực của phần lớn trẻ em nằm ở mức giữa của cha mẹ, với một số có sự thông minh kém hơn hoặc cao hơn giữa hai người. Do đó, những người nam tốt nghiệp đại học mà lấy những phụ nữ học vấn kém hơn mình thì không tối đa hóa cơ hội có con bước vào đại học”.
Quan điểm này bị phản ứng dữ dội, thậm chí “Tôi bị tấn công bởi cả một dòng triều tin bình phẩm và thư từ gửi đến báo chí do trở thành một người tin vào thuyết tinh hoa trị - khi tin tưởng rằng sự thông minh là do kế thừa, chứ không phải do kết quả của giáo dục, thức ăn và huấn luyện”. Cuối cùng, qua các số liệu thống kê hằng năm từ nền tảng học vấn các bậc cha mẹ của 10% học sinh hàng đầu trong các cuộc thi toàn quốc: “Người Singapore giờ đây đều chấp nhận rằng các bậc cha mẹ có học vấn càng cao và tài giỏi, thì con cái của họ càng dễ đạt những trình độ tương tự”. Thật ra, cụ Lý không phải người theo quan điểm tinh hoa trị, phát biểu gây sốc của cụ nhằm thay đổi nhận thức ở nhiều người, nhất là nữ giới. Bằng chứng ở Singapore có chính sách ưu đãi phụ nữ học cao được có con thứ 3 thay vì chỉ “dừng lại ở 2” theo chương trình kế hoạch hóa gia đình; Chính phủ cho phép phụ nữ học vấn đại học mà có đứa con thứ 3 được ưu tiên chọn trường đại học tốt nhất cho cả 3 đứa con của họ, một mục tiêu mà các bậc cha mẹ nào cũng mong muốn v.v...
Vài thông tin lướt qua và có thể nói, “Thu hút và nuôi dưỡng nhân tài” là một trong những chương hay nhất của hồi ký Lý Quang Diệu. Phát biểu gây sốc đó, từ năm 1984 và đi kèm với nhiều chính sách ưu đãi giáo dục, trong đó nhấn mạnh đến vài trò của phụ nữ vẫn còn là bài học thiết thực cho nhiều quốc gia khác, trong đó có Việt Nam. Cũng có thể nhiều người cho rằng chỉ có trong thời… cổ tích! Điều quan trọng, Việt Nam ta cũng có thể làm được điều mà cụ Lý nhấn mạnh, đào tạo nhân tài chỉ có được một khi đất nước đó “giáo dục đã trở nên phổ cập”. Việt Nam thừa biết, biết từ khuya rồi cụ Lý ạ nhưng bắt đầu từ đâu, thực hiện như thế nào thì thưa cụ, vẫn còn đang trong vòng luẩn quẩn từ chương trình học, nội dung các môn học, thậm chí đến cách ra đề thi cũng mù mờ nốt.
Tập Hồi ký Lý Quang Diệu (1965-2000) dày 935 trang, co chữ nhỏ, ngồn ngộn thông tin. Càng đọc càng có dịp suy ngẫm lại nhiều điều, thậm chí thay đổi nhiều nhận thức trước đó.
Đã chủ nhật. Đã hết một buổi sáng. Chiều nay đi đâu?
L.M.Q
Sáng nay, ăn sáng với Nàng như mọi lần, tranh thủ đọc tờ Thể thao & Văn hóa. Kinh ngạc với một thông tin liên quan đến nền giáo dục nước nhà. Bài báo Đề thi hay và đề thi để "câu like", nhà báo Đông Kinh viết nguyên văn như sau:
“Ca sĩ Sơn Tùng M-TP lại được đưa vào đề thi ở cấp bậc phổ thông, nhưng không phải vào môn Văn hay năng khiếu, mà vào môn Hóa học.Cụ thể, trong đề thi khảo sát chất lượng dành cho học sinh lớp 10, trường THPT Hồng Bàng (Hải Phòng), các thầy cô không chỉ muốn kiểm tra các công thức hóa học của các em, mà còn muốn cung cấp thêm cả những kiến thức quý báu về phong cách biểu diễn vô cùng xì-tin của chàng ca sĩ bảnh trai này:"Do thói quen ngậm kẹo ngọt khi biểu diễn nên ca sĩ Sơn Tùng M-TP đã bị sâu răng. Em hãy chọn hóa chất để giúp Sơn Tùng chữa sâu răng".
Đương nhiên, đề thi lạ ấy lại làm dậy sóng cộng đồng mạng. Đọc đề thi này, người ta có thể bật cười vì sự hóm hỉnh. Hóa ra, các thầy cô giáo của chúng ta đâu phải lúc nào “mô phạm”, mà cũng rất có khiếu hài hước đấy chứ, và đặc biệt cũng rất chịu khó lướt web, vào “phây” (facebook), và có thể còn là tín đồ của các chương trình giải trí trẻ trung trên truyền hình.
Tuy nhiên…
Lại phải nói đến từ “tuy nhiên”, vì tôi không rõ lắm, việc đưa những thứ gọi là “kiến thức xã hội” này vào đề thi để làm gì? Nếu chỉ để cho các em có thể bật cười sảng khoái vì các câu hỏi thú vị thì có lẽ nên cho các em tham gia các liveshow giải trí có tính trắc nghiệm kiến thức trên truyền hình như Đuổi hình bắt chữ, Chiếc nón kỳ diệu…
Ta có thể hiểu, và chắc ca sĩ Sơn Tùng M-TP cũng rất hiểu rằng, đề thi này chỉ có tính hài hước mà thôi, chứ không cố ý “tung tin” anh bị… sâu răng. Nhưng rõ ràng hài hước về một điều không có thật, lại liên quan đến bệnh tật của người khác thì không phải lúc nào cũng… vui. Chưa kể, nếu xét về sự chuẩn mực của kiến thức, thì đề thi cũng không chuẩn. Vì các hóa chất có tính năng diệt khuẩn chỉ có thể phòng ngừa sâu răng, chứ không có tác dụng chữa trị. Xét về kiến thức y học như thế là… sai.
Những phân tích “lặt vặt” như trên chỉ để chứng minh rằng, hài hước cũng là cả một nghệ thuật và phải đặt đúng chỗ, nếu không sẽ chỉ là tầm phào, không có mục đích rõ ràng.
Người ta thường nhầm lẫn giữa một đề thi lạ với một đề thi hay. Không phải cứ đưa thật nhiều các kiến thức xã hội, thời sự, giải trí vào đề thi là đã… năng động, sáng tạo và giàu tính thực tiễn đâu.
Đối với học sinh, không phải cứ biết thật nhiều những thứ ngoài sách giáo khoa đã là giỏi, bởi có khi đó chỉ là những thứ vô bổ, tầm phào, càng biết nhiều càng khiến cho đầu óc xa rời việc học hành một cách nghiêm túc, chuẩn mực.
Một đề thi hay phải kích thích được sự sáng tạo của học sinh, hạn chế được tệ quay cóp, và thói học gạo, học vẹt…. Tôi xin chép lại thông tin trên mạng về cách ra đề thi của của Trường All Souls College, thuộc ĐH Oxford của Anh. Kỳ thi giành học bổng của trường này được đánh giá là kỳ thi khó nhất thế giới. Những người giành được học bổng được coi là đạt được danh hiệu học thuật cao nhất của nước Anh. Trường này ra đề thi với các câu hỏi như sau: Mua một chiếc túi 10.000 bảng có phải là thiếu đạo đức không?/ Tính đạo đức của một bữa tiệc chè chén có thay đổi không nếu những người tham gia nó mặc đồng phục của Đức Quốc Xã?/Là người nổi tiếng đồng nghĩa với sự mất mát về nhân phẩm?
Và người ta giải thích rằng: “Không có câu trả lời “đúng” cho những câu hỏi này. Thay vào đó, Oxford nói rằng họ “đánh giá suy nghĩ và hiểu biết mà ứng viên thể hiện vượt ra ngoài phạm vi của kỳ thi này, nhưng không kỳ vọng các ứng viên trả lời đúng một cách hoàn hảo về mọi thứ: sự linh động và khả năng phản ứng nhanh được đánh giá cao”.
Liệu ta có thể phân biệt, thế nào là một đề thi hay và thế nào là một đề thi lạ chỉ để “câu like”.
Đọc xong bài báo này, ngẫm nghĩ trong đầu, Nhật ký hôm nay không viết thêm một dòng nào nữa. Bởi mỗi một ngày có một chuyện phải suy ngẫm đã là quá nhiều. Chẳng lẽ, cứ ngẫm nghĩ mỗi ngày? Chả dại. Ngộ độc như chơi. Kể lại câu chuyện thời còn ở chiến trường K: Mỗi lần vào nhà dân, được dân mời “thờ nam chụa”, luôn cố tình vấn một điếu thật to. To bằng ngón chân cái. Bập bập vài hơi, nói dăm ba câu là tìm cách “biến” ngay. Bước chân xuống nhà sàn, dụi ngay điếu thuốc, bỏ vào túi quân. Rồi qua nhà khác, cũng thế. Nhờ láu cá ấy, mới có thuốc lá hút dần. Thời ấy, dù thiếu thốn đến cùng cực, va chạm với cái chết từng ngày nhưng vẫn nghĩ về ngày mai tốt đẹp hơn. Có như thế mới sống được.
Bây giờ cũng thế thôi.
Trong cái sự bùng nhùng, hỗn độn, tạp nhạp cuốn hút phận người, chẳng lẽ suốt ngày cứ nghĩ về nó? Phải suy ngẫm về những cớ sự chẳng ra làm sao, để rồi lại hằn học, bực bội về nó? Chả dại. Để sống, con người ta phải nghĩ khác. Nghĩ khác đến mức độ nào cũng là một loại thuốc an thần đấy thôi. Thuốc an thần dùng quá liều cũng gây ngộ độc. Thế nào là ngộ độc? Là lúc chàng hiệp sĩ trứ danh nhất của văn chương nhân loại Đông Ki Sốt không còn giao chiến với cối xây gió nữa. Trong mắt chàng không còn nhìn thấy người khổng lồ xấu xí, đã thế, biết đâu lại thấy đó là biểu tượng của cái Đẹp?
Đời sống cũng oái oăm, có những con người đã từng giúp mình. Mình quý họ và trong lòng luôn canh cánh có dịp sẽ bày tỏ lòng cám ơn ấy. Thế rồi, cũng không thể. Trưa nay nằm đọc tờ Văn Nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam (số 21.3.2015) mới hay tin nhà thơ Quang Huy đã mất. Trước kia, anh là giám đốc NXB Văn hóa Thông tin và cấp giấy phép in tập thơ Tôi vẽ mặt tôi. Tập thơ ra đời đã gây cho anh biết bao phiền toái. Hiện nay, y còn giữ Công văn số 05 do anh ký ngày 5.3.1994 - trả lời Công văn của Cục Xuất bản số 45/CXB ký ngày 8.3.1994. Nhờ vậy, mọi việc mới xuôi chèo mát mái. Thân tình với anh từ dạo đó.
Trước đó, năm 1991, anh còn bị một vụ cũng “tày đình” không kém, đó là ký giấy phép cho in tập Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam. Anh bị “đánh” vì trong đó có nhân vật Ngô Đình Diệm nhưng không đưa vào chi tiết mà sách sử đương thời thường viết “Diệm ký Luật 10.59, kéo lê máy chém khắp miền Nam chém đầu người kháng chiến”. Sót chi tiết này thì gay quá chứ gì? Thế mà cũng “cãi” bằng được. Cãi thế nào? Này đó y ra Hà Nội và đến Lò Đúc thăm anh, anh dẫn đi ăn thịt dê và cho biết, đại khái anh vin vào quy ước, phong cách viết / làm từ điển v.v… Nói tóm lại, anh “qua truông” mọi sự.
Trước cứ nghĩ nhà thơ Quang Huy người Nghệ An, nay đọc báo mới biết anh quê ở Cẩm Giàng (Hải Dương). Cẩm Giàng là cái nôi của anh em Tự Lực Văn Đoàn. Thâm Tâm Tống biệt hành cũng quê Hải Dương. Nghĩ về một vùng đất, tự dưng có cảm tình còn do một phần yêu mến những con người tài hoa đã sinh ra ở nơi ấy. Yêu mến vì đọc thơ văn, tác phẩm của họ chứ không hẳn do đã gặp mặt, đã qua lại thân tình. Còn nhớ lúc viết bộ sách Kể chuyện danh nhân Việt Nam, lần đầu tiên đến Nghệ An/ Hà Tĩnh trong lòng dạt dào biết bao xúc động. Ngay cả hàng cây bình thường bên đường cũng gợi lên điều hấp dẫn, bởi lẽ trong đầu cứ phân vân với câu hỏi vì sao thế kỷ XIX đến nửa đầu XX vùng đất này lại sinh ra nhiều con người kỳ tài đến thế? Lại nhớ lúc đến vùng đất “bàn chân Nam Định rất chiêm bao” (thơ Nguyễn Tất Nhiên), việc đầu tiên cần phải làm là đến thăm ngôi nhà mà Tú Xương đã từng trú ngụ v.v…
Nhà thơ Quang Huy mất vào đúng sáng mồng Một Tết năm nay (19.2.2015), thọ 79 tuổi. Chép lại bài thơ tiêu biểu nhất của anh như một nén nhang thắp muộn:
HƯ VÔ
Cái gì cũng có một thời
Bao nhiêu máu chảy trong lời vua ban
Cái gì rồi cũng tiêu tan
Bao nhiêu xương trắng nằm oan dưới mồ
Cái gì rồi cũng hư vô
Bao nhiêu tượng gỗ lên chùa ngồi chơi
Cái gì rồi cũng rụng rơi
Qủa trên Vườn Cấm, hoa nơi Địa Đàng
Chỉ còn mãi với thời gian
Tình yêu tự thuở hồng hoang dại khờ
Gắng ngồi viết cạn bài thơ
Bài thơ rồi có hư vô như mình?
Câu hỏi ấy, không riêng gì anh. Mỗi thân phận, mỗi phần kiếp trên hành trình đi về cõi Chết, đôi lúc, lại nghĩ đến. Và cứ thế, không cần có câu trả lời, cả thẩy chúng sinh đều đi, đi như những vạt mây trắng đang dần dần chìm khuất bể dâu không còn dấu vết. Tuy nhiên, cũng có những cánh chim vụt bay qua trần gian, chỉ một lần, nhưng ngàn năm sau dấu vết vẫn còn in bóng trên nền trời thăm thẳm...
L.M.Q
Trang 27 trong tổng số 58