LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 25.3.2015

 

KIMONO

Tạp chí Nipponia bản tiếng Việt - tư liệu LMQ

 

“Đang làm gì Q ơi”. Tin nhắn này, thỉnh thoảng lại nhận, của Đoàn Tuấn. Đôi lúc nhớ nhau, chỉ một tin nhắn vu vơ và cũng cần phải chờ nhận lại câu trả lời. Bạn thừa biết y, ngày nào lại chẳng thế. Ngày nào chẳng viết. Ngày nào chẳng tình ái vu vơ. Ngày như mọi ngày. Nhưng những ngày này đã khác rồi T ạ. Khác vì y còn kiêm thêm nghề chích thuốc nữa. Chuyện là, trong vòng mười ngày trở lại đây, mẹ của y bị tiểu đường, bác sĩ bảo, uống thuốc không còn tác dụng nữa. Phải chích. Ngày 2 lần. Sáng và chiều, trước lúc ăn chừng mười phút. Thế là y trở thành y tá bất đắc dĩ. Cây kim chích thuốc bằng nhựa, dài chừng một gang tay, đậm màu xanh nước biển, trong đó có chứa sẵn thuốc. Dung lượng thuốc mỗi lần chích bao nhiêu? Có ghi từng nấc từng 1 đến 10 phía cuối cây kim. Tự điều chỉnh. Và chích. Xong thay kim. Dễ dàng lắm.

Ngày xưa, mỗi lần mẹ sai bảo cái gì, dứt khoát phải vòi vĩnh, mè nheo: “Con làm xong, mẹ cho con” cái này cái kia, nếu không thì vùng vằng, giận dỗi. Bây giờ, nếu được thế, hạnh phúc biết bao nhiêu, phải không? Nhưng rồi ước mơ ấy xa vời vợi và đã trở thành cổ tích. Mỗi một ngày còn được chích thuốc cho mẹ đã là niềm hy vọng thầm kín và thiêng liêng. Chỉ sợ đến một lúc sẽ không còn diễm phúc đó nữa. “Mẹ già như chuối chín cây”. Câu ca dao vụt ngang qua trí nhớ. Rưng rưng. Cảm động.

Những ngày này, mỗi đêm vẫn giữ thói quen đọc cái gì đó. Đã đọc tạp chí Thơ số mới nhất. Trong đó, vẫn còn duy trì chuyên mục Thi thoại tản mạn của Hồng Diệu. Có nhiều chuyện cần trao đổi thêm. Có nhiều chuyện lý thú. Chẳng hạn về câu thơ “Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách” - Phan Huy Vịnh dịch “Tầm dương giang đầu dạ tống khách”, câu đầu bài Tì bà hành của Bạch Cư Dị. Lâu nay đã đọc nhưng chưa thấy ai phân tích thế này, đại khái, chữ thứ nhất “Bến” và chữ cuối “khách” đều vần trắc, các chữ còn lại đều thanh bằng.  “Người ta sẽ hình dung: Hai thanh trắc như độ cao của hai mũi thuyền, năm thanh bằng là phần còn lại (thấp hơn) của chiếc thuyền. Thật kỳ thú”. Vâng, rất kỳ thú. Ai là người trước nhất phát hiện, Hồng Diệu cho biết đã từng nghe Xuân Diệu và Chế Lan Viên nói thế. Trong cuộc sống, đôi khi có những cuộc trò chuyện, nếu biết lắng nghe, ghi chép lại hữu ích biết bao nhiêu.

Lần nọ, năm 2007 khi trò chuyện với các em học sinh lớp 10 trường Song ngữ Quốc tế  Horizon - Q.2, y nhấn mạnh đến câu thơ của Quang Dũng:

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

Nếu vẽ theo hình đồ thị, câu trên sẽ cho thấy một hình tam giác cao chót vót (thể hiện qua "ngàn thước lên cao”“xuống”). Câu kế tiếp toàn âm bằng đã mở ra một không gian mênh mông. “Thi trung hữu họa” đấy chứ? Đọc 2 câu thơ này đã có thể hình dung ra một không gian sông nước hữu tình ngay trước mắt. Há chẳng phải là điều kỳ thú của thơ đó sao?

Trong tập sách Kỷ niệm văn thi sĩ hiện đại (Xây Dựng XB năm 1962), nhà thơ Bàng Bá Lân có kể câu chuyện, năm 1952 khi dạy học ở Hà Nội, có cậu học trò lớp đệ Tứ cho biết rất thích câu thơ “Êm đềm sóng lụa trôi trên lúa”. Là tác giả nên ông hỏi thêm, vì sao thích? Cậu  học trò cho biết vì câu thơ đó, “tả gió mà không nói tới gió”. Ông không tin cậu học này có được nhận xét tinh tế và đúng đến thế. Cuối cùng, cậu thành thật cho biết đó là nhận xét của nhà văn Nguyễn Hiến Lê đã in trong tập Luyện văn.

Vừa rồi, kiểm tra lại thấy đúng. Ông Lê có nhận xét ấy. Mấy ai có thể là tri âm tri kỷ của nhà thơ, kể cả các nhà phê bình chuyên nghiệp? Nếu không có sự tinh tế, “mắt xanh” của Hoài Thanh, chưa chắc người đương thời thừa nhận sức sống oanh liệt, vẻ đẹp ngôn từ đã làm nên “Một thời đại trong thi ca” Việt Nam. Một chữ trong thơ cũng kỳ thú lạ lùng. Về câu thơ “Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách”, khi phân tích cái hay của nó, ông Nguyễn Hiến Lê bâng khuâng tự hỏi: “Tại sao vậy nhỉ? Phải chăng âm dương có một ma lực lạ lùng?”. Nói như thế bởi, ông cho rằng nếu thử đổi thành Bến Vàm Nao, hoặc Bến Ngã Năm, Bến Hà Nam, Bến Việt Trì thì "giá trị câu thơ mười phần đã mất tới sáu, bảy”. Từ suy nghĩ này, ông đi xa hơn một chút nữa: “Và biết đâu, một phần nhạc của đoạn “Cùng ngóng nhau” trong Chinh phụ ngâm chẳng do âm ương của hai tên Hàm Dương, Tiêu Tương láy đi láy lại:

Chốn Hàm Dương chàng còn ngảnh lại

Ngác Tiêu Tương thiếp hãy trông sang

Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương

Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng”

Lập luận của ông Lê không phải không có lý, ai tranh cãi thì mặc, nhưng rõ ràng, ông có khả năng thẩm thơ và hơn cả điều đó, là tấm lòng yêu thơ. Nhân đây nói luôn, câu Ngác Tiêu Tương thiếp hãy trông sang, có nhiều bản in hoặc trên mạng đều ghi “Bến (hoặc miền) Tiêu Tương thiếp hãy trông sang" là không đúng từ cổ tiếng Việt. Duy bản của Hoàng Xuân Hãn ghi “ngác” và giải thích: “một nhánh sông”. Tiến sĩ Nguyễn Bá Lân, cùng thời với tác giả Chinh Phụ ngâm có bài phú nổi tiếng Ngã ba hạc, mở đầu:

Vui thay Ngã ba Hạc! Lạ thay Ngã ba Hạc!

Dưới hợp một dòng, trên chia ba ngác

Ngóc ngách khôn đo rộng hẹp, dòng biếc lẫn dòng đào; lênh lang dễ biết sâu nông, nước đen pha nước bạc.

Bây giờ, có còn ai đọc thơ chậm rãi và suy nghĩ thấu đáo những điều tác giả đã viết? Chắc là không. Chẳng ai có thời gian. Thời gian vùn vụt trôi nhanh. Đọc thơ liệu có ích gì? Tự dưng liên tưởng rằng, muốn cảm hết cái hay của thơ, trước hết tâm hồn ấy phải tinh tế và sống chậm. Đúng không? Thơ Haiku, nghệ thuật bonsai của Nhật là một phong cách sống chậm đó chăng? Thử đọc bài thơ này của nữ sĩ Sugita Hisajo (1890 - 1946) viết năm 1928:

Từng mảnh xiêm y

Rời thân thể ngọc

Sợi hồng lưu luyến

Nguyên tác:

Hanagoromo

Nuguya matsuwaru

Himoiroiro

Phụ nữ Nhật mặc kimono gọi là Hanagoromo. Người Nhật gọi từng từ trong một bài thơ Haiku là kigo (quý ngữ); hoặc kidai (quý đề), có thể hiểu đã là sự chắt lọc đến mức cao nhất của từ. Đọc bài thơ này, có thể thấy được hình ảnh, sau khi ngắm hoa về, cô gái đang cởi bộ kimono. Bộ kimono nhiều lớp và nhiều dây buộc màu sắc khác nhau như vẫn còn luyến lưu tấm thân ngà ngọc của nàng. Bài thơ mở ra một cảm hứng mới cho sự tưởng tưởng của mỗi người khi tiếp nhận. Tác giả chia sẻ: "Khi cởi từng lớp áo, người con gái hơi bực mình vì sợi dây cứ vướng vào áo cô và cô đang mệt nhưng thú vị sau buổi ngắm hoa. Bài thơ của tôi để lộ một thoáng riêng tư qua hai khía cạnh của các sợi dây - cái đẹp của màu sắc và cái vướng mắc trong động tác” (tạp chí Nopponia, bản tiếng Việt, số 8, 15.4.1999). Để làm sống lại kimono trong nhịp sống sống hiện đại, người Nhật có tạp chí Kimono Hime, từ năm 2002. Để làm sống lại áo dài Việt Nam, tiến đến Ngày áo dài, chúng ta không có một tạp chí riêng biệt nào.

Người Nhật thích chơi bonsai, người Việt cũng thích chơi cây. Ngẫm lại cái thích ấy của người Việt xưa nay đã nhuốm màu phàm phu tục tử. Không tin à? Bây giờ đi dọc quốc lộ 1 vẫn còn thấy bày bán nhiều cây to đùng, có lẽ họ bứng từ non cao rừng thẳm đem về, giá bán tiền triệu. Chơi thế phỏng ích gì? Hay chỉ là sự khoe mẻ nhà cao cửa rộng? Đọc Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ, lại thấy cái thú của người chơi cây cảnh thuở ấy như nhiều kẻ có quyền thế cưỡng đoạt cây của người ta. Cây to quá thì đập luôn tường nhà, miễn sao đem về trồng tại tư gia mình là được. Cây càng to, càng cổ thụ mới là “đẳng cấp”. Ngược lại, người Nhật lại muốn thâu tóm cả ngàn năm thiên nhiên chỉ vỏn vẹn, gọn lỏn trong một cái chậu! Qua một bức tranh cổ còn sót lại, người Nhật phỏng đoán rằng thú chơi này đã có ở Nhật từ thế kỷ 14. Ban đầu là thú tiêu khiển của những nhà quý tộc, nhà sư, các võ sĩ samurai cao cấp rồi mới lan dần đến dân chúng.

Nếu xét tâm tính một dân tộc qua thể thơ tiêu biểu nhất của một dân tộc, y nhận xét rằng, với thể thơ Haiku, người Nhật cẩn trọng, chỉnh chu, chuẩn mực đến từng chi tiết. Người Trung Hoa thì sao? Họ có thể dàn trải mọi hỉ nộ ái ố trầm luân của một và nhiều số phận con người trong trường thiên tiểu thuyết dài dằng dặc như chính đất nước dài rộng mênh mông của họ; nhưng nếu cần, họ chỉ thâu gọn trong một bài tứ tuyệt ngắn củn có thể lọt thỏm giữa lòng bàn tay. Điều này cho thấy khó thể thấu hiểu tâm tính người Trung Hoa, nó biến hóa khôn lường, tùy trường hợp, miễn là “được việc” cho họ.

Còn người Việt? Chúng ta có lục bát. Đó là sáng chế của người Việt, dù sau này đã có những tranh luận cho rằng của người Chăm. Đúng sai thế nào chưa bàn đến. Điệu thể sáu, tám dễ gợi lên sự du dương tình cảm. Người Việt nặng về tình. “Một bó lý không bằng một chút tình”. Mà cái tình thể hiện vừa vừa phải phải thì được, đáng quý nhưng nếu thái quá lại hóa ra lẩm cẩm, ngớ ngẩn. Thì cứ xem lục bát thì rõ, ngắn gọn thì hay nhưng kéo dài ra lại không khéo hóa thành… vè.

Chiều rồi, đã đến lúc chích thuốc cho mẹ

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 23.3.2015

 

kieu-mo-tien-hien-o-Tay-Ninh

Mộ tiền hiền tộc Dương tại Trảng Bàng Tây Ninh. Do không hiểu biết nên đã làm sai lệch nguyên bản vốn có. Ảnh: Vương Công Đức

 

Sáng hôm kia. Thứ Bảy. Đã lâu lắm rồi mới có dịp đi chơi xa. Đã từng có nhiều lời mời, rủ rê nhưng lần nào cũng từ chối. Bởi ngại xáo trộn công việc đã thành nếp của mỗi ngày. Lần này thì không. Đi cùng anh em HTV về Trảng Bàng - Tây Ninh làm bộ phim tài liệu về quyển sách Trảng Bàng phương chí của anh bạn Vương Công Đức. Đã thân tình với Đức mà người viết kịch bản lại nhà văn Nguyễn Trọng Tín, vì thế, phải đi. Sáng sớm ra đường thấy nhẹ nhàng, thơ thới. Đường phố vắng. Xe chạy thong thả. Tranh thủ đọc vài tờ báo mới.

Điếng hồn với thông tin về phi vụ sẽ lần lượt giết 6.700 cây cổ thụ tạo nên hồn vía, vẻ đẹp Hà Nội. Kế hoạch này là gì? Là sự khủng bố, bức tử không gian sống của người Thủ đô. Nó đang tiến hành nhưng do phản ứng của dư luận nên đang dừng lại và… rút kinh nghiệm. Sực nhớ trước kia người ta cũng chặt đốn  hàng loạt cây thông vô tội ở Đà Lạt, lúc ấy trên tạp chí Langbian số 1 (1988) của Hội Văn học nghệ thuật Lâm Đồng thì phải, nhà thơ Thanh Thảo có viết: “Những cây thông ùa vào tỉnh ủy / Xin đừng đốn chúng tôi…”. Nhà thơ? Tiếng nói của họ dù mỏng manh, dù yếu ớt và dù không có vành đai bảo vệ nhưng đủ sức lay động, thức tỉnh đám đông. Những ngày qua nào riêng gì các nhà thơ, hầu như ai ai cũng đều bàng hoàng, đau đớn trước hàng loạt cây xanh ngã gục tức tưởi.

Gấp lại tờ báo, quay sang con trai nhà thơ Văn Lê, hỏi thăm dạo này ông bạn già sức khỏe thế nào? Nào ngờ, anh vừa nhập viện vào ngày thứ Sáu vì bệnh tim. Chữ nghĩa nằm sẵn đâu đó trong trí nhớ -  tập san AT số vừa phát hành, nhà văn Đ.T.B có viết hai câu thơ ấn tượng - chợt vọng đến:

Con banh lông đang mộng mơ

Cá lao vụt phóng bất ngờ nhói tim

Trên đường đi, đón nhà văn Nguyễn Trọng Tín. Điều bất ngờ, trong khu đô thị mới, trước khoảng sân nhà cây anh có trồng rất nhiều cây, kể cả rau xanh. Một khoảng thiên nhiên rợp mát khiến dễ có cảm tình với gia chủ. Phía trước nhà có cây chuông vàng. Hoa vàng đẹp một cách trang nhã. Trồng dưới đất à? Không, trồng trong chậu nhỏ, ít đất nhưng nó vẫn có sức sống mạnh mẽ. Vợ anh “bật mí”, chăm sóc loại cây này, thỉnh thoảng phải tưới bằng nước cá. Nghĩa là nấu đầu cá, xương cá, vớt mỡ bỏ đi, để nguội rồi tưới. Những kinh nghiệm nho nhỏ ấy, chẳng phải ai cũng biết. Cũng như lúc về Tây Ninh, đi đến tận nơi xuất phát địa danh Trảng Bàng, tình cờ thấy cây bình bát. Người thân của Vương Công Đức bảo rằng, trái bình bát còn có công dụng, đại khái, ngày xưa, người ta tán nhuyễn trái này, pha với nước để làm thuốc trừ sâu cho lúa. Nghe cũng thấy lạ. Những chi tiết nho nhỏ này, lần đầu biết đến.

Ngày thứ Bảy. Đến Tây Ninh sực nghĩ rằng, nơi này không có biển nhưng tại sao lại có thể sáng chế ra loại muối ngon độc đáo đã trở thành thương hiệu? Đã nói đến cái bánh tráng, lập tức phải thừa nhận là đặc sản “độc quyền” của vùng Nam, Ngãi, Bình, Phú. Nhưng tại sao nơi này có thể cải tiến thành “bánh tráng phơi sương” không “đụng hàng”? Rồi nữa, ở Việt Nam có hai tôn giáo ra đời từ tâm linh, nhận thức của người Việt, đó là đạo Hòa Hảo ở An Giang và đạo Cao Đài ở Tây Ninh. Tại sao hai vùng đất này có sứ mạng đó? Nói cách khác đâu là yếu tố tâm linh của con người vùng đất đó, đâu là yếu tố địa lý v.v… Khi trao đổi, nhà văn Nguyễn Trọng Tín cho rằng ở Việt Nam ban đầu sự ra đời của một tôn giáo đã mang yếu tố chính trị, chẳng hạn, tập hợp quần chúng đánh đuổi ngoại xâm, cứu nước... Để tồn tại, họ khôn ngoan ẩn giấu lý tưởng chính nghĩa đó bằng màu sắc tôn giáo. Mà hoạt động chính trị, phải tập hợp quần chúng, có lực lượng vũ trang. Ở An Giang có Thất Sơn huyền bí, ở Tây Ninh có núi Bà Đen linh thiêng, hai nơi ấy có thể làm nơi ẩn náu của nghĩa quân rèn gươm, chứa lương thực, xây dựng đội ngũ…

Cách lý giải này đáng suy ngẫm thêm.

Ngày thứ Bảy. Đã đến mộ của những vị tiền hiền có công khai hoang vùng đất Tây Ninh. Đoàn làm phim đã thực hiện những cảnh quay tại mộ ông cụ Đặng Văn Trước (có tài liệu cho rằng Đặng Thế Trước) tại khu vực Bùng Binh, xã Hưng Thuận (Trảng Bàng), không rõ năm sinh của Ông, chỉ biết mất năm 1826. Bà con nơi này tôn kính gọi “Ông thần”, đọc "Trước" chệch thành “Trác” vì kỵ húy. Giỗ Ông vào ngày 11 rạng 12/10 âm lịch hằng năm. Ngôi mộ này đã được tỉnh Tây Ninh công nhận là di tích lịch sử văn hóa. Khi đến nơi, bỗng gặp hai người phụ nữ, phía sau có hai đứa nhỏ lon ton chạy theo. Họ tỏ ý không đồng ý cho quay phim, nếu không biết rõ mục đích.

Hỏi han một lúc mới biết, nơi này thời chiến tranh là vùng oanh tạc tự do. Vì kiếm cơm manh áo, họ đã quyết sống, bám trụ trồng trọt cho đến nay. Từ đời cha đến đời con, khi trồng cao su, lúc trồng bạch đàn v.v… họ đã gắn bó mật thiết. Dù không hề có “tờ giấy lận lưng”, không có sổ đỏ, sổ đen chứng nhận đất thuộc sở hữu nhưng rõ ràng máu, mồ hôi của họ đã cải tạo đất là có điều có thật. Chị vừa khóc vừa kể: “Lần nọ, tôi cuốc đất nhưng không biết lưỡi cuốc chim đụng vào quả M79. Ngay lúc đó tự nhiên ở đâu có con ong to tổ chảng bay đến cắn vào mặt, tôi hoảng hồn chạy thục mạng, vừa cách mấy chục bước chân thì nghe tiếng long trời lở đất. Trời đất quỷ thần ơi! Không có con ong đó báo trước, chắc tôi đã banh xác từ khuya rồi”. Nghe có lý, có thể hiểu nôm na loại đạn này khi thoát khỏi nòng, phải qua mấy vòng tua, vòng xoay gì đó, nó mới phát nổ. Họ thêm tin được “Ông thần” phù hộ và càng vun vén, nhang khói, giữ gìn mộ của Ông qua gần nửa thế kỷ.

Gần đây, gia tộc họ Đặng giành lại bởi đây là đất của ông bà họ, có lẽ do còn giữ bằng khoán đất từ thời nhà Nguyễn chăng? Thế nhưng, cuộc tranh chấp này vẫn chưa thể ngã ngũ. Lằng nhằng mãi. Bên nào cũng có lý lẽ riêng. Nhiều lần cán bộ xã, huyện đến giải quyết tranh chấp nhưng rồi cũng bó tay. Qua vụ việc này có thể thấy rằng, sự khiếu kiện đất đai thời gian qua, có lúc cả hàng trăm, hàng ngàn bà con nông dân ùn ùn kéo lên TP.HCM, trong đó, không loại trừ trường hợp tương tự.

Đã đến ngôi đình làng cổ ở Trảng Bàng, ghi nhận chi tiết này: Phía trước gian thờ tự, có đặt những cái bàn cao chừng 1,5 mét, mặt bàn vuông vức. Vương Công Đức giải thích, ngày cúng đình làng, bà con thuộc tôn giáo (như đạo Phật, Cao Đài…) đặt mâm cúng lên đó; còn có một bàn riêng của tộc lớn là tộc Dương - một trong những tộc người Việt đầu tiên đến khai hoang lập ấp. Còn nhớ, lúc vào nhà thờ tộc Dương, thấy có ghi câu đối phía tay trái: “Thể phách tồn thiên địa/ Tinh thần tại tử tôn”.

Đã đến viếng ngôi mộ cổ của một vài vị “tiền hiền khai khẩn, hậu hiền khai canh”, như mộ cụ Dương Tấn Phong, Dương Tấn Quá - những con người đã sống cách đây vài trăm năm trước, thuộc lớp “sinh vi tướng, tử vi thần”. Nhận xét chung: Phía trước và phía mộ đều có bia che chắn. Ngay sau bia phía trước, cách chừng 1 mét còn có vòm cửa, cao chừng 8 tấc rồi mới đến vị trí ngôi mộ. Muốn vào đến mộ, phải khom người, cúi mặt sát đất mới có thể bước vào. Rõ ràng, một dụng ý nhắc nhở con cháu phải có thái độ thành kính khi nhang khói cho tổ tiên, ông bà, các bậc tiền hiền…

Khi phát biểu với Đài HTV, y tâm đắc với cái ý, cần phải nghiên cứu thêm nhiều sử liệu về làng, xã nơi mình đã chôn nhau cắt rốn. Ai cũng có thể làm được, miễn là họ có cái tâm, có ý thức gìn giữ, tìm hiểu di sản của cha ông. Mà những tài liệu ấy cực kỳ cần thiết bởi chính sử không tài thánh gì có thể ghi chép, phản ánh lại đầy đủ. Chẳng hạn, đọc chính sử, ta biết về vụ Lê Văn Khôi - con nuôi Lê văn Duyệt nổi loạn đánh chiếm thành Gia Định. Sau khi bị quân triều đình bao vây, đánh tan nên Khôi phải kéo quân về Quang Hóa (Tây Ninh). Biết chỉ đến thế. Nhưng khi điền dã, viết sử về địa phương của mình, Đức đã phát hiện thêm rằng: “Chạy về Quang Hóa, tàn binh của Lê Văn Khôi nổi giận đốt Miễu Ông Cả Đặng Thế Trước, nhưng đốt mãi không cháy, bèn đem voi đến húc cho sập nhưng không được vì voi sợ hãi phải thụt lùi (?)”.

Chi tiết này cho thấy một nghi lễ ra trận của cha ông ta thời trước mà Đức giải thích đúng: “Chúng tôi cho rằng trước khi dấy loạn, những nghĩa binh đã đến Miếu Ông Cả để làm lễ ăn thề và cầu xin phù hộ để mưu việc lớn, vì khi đó Lê Văn Khôi có căn cứ Quang Hóa, nay việc không thành nên tàn quân Lê văn Khôi quay lại miếu mà trả thù cho hả cơn giận”. Đọc sử địa phương bao giờ cũng lý thú với các chi tiết đắc giá như thế. Mà địa phương nào, nơi nào lại không có những câu chuyện lưu truyền từ đời này qua đời nọ? Vấn đề đặt ra, ngày nay có còn ai quan tâm tìm tòi, ghi chép lại ký ức của nơi mình sinh ra? Hiếm hoi lắm. Đời sống ngày một thay đổi. Vật đổi sao dời là cái lẽ tất nhiên. Thế rồi, những di sản tinh thần, giá trị vật chất cụ thể của từng vùng miền có ai ghi chép lại cho đời sau? Đây cũng là một trong những lý do mà nhà văn Nguyễn Trọng Tín, đạo diễn Khắc Tuấn quyết định đề xuất làm bộ phim tài liệu về công việc của Vương Công Đức. Y đi theo, thật ra không phải do có phát biểu đôi câu mà chính là muốn tỏ thái độ ủng hộ việc làm của anh em bầu bạn.

Trong đời sống, đôi khi chỉ cần có tiếng nói ủng hộ một việc làm tốt, là đủ. Đôi khi, im lặng không nói gì, không bày tỏ thái độ gì, cũng là đủ.

Chuyến đi ngày thứ Bảy còn có nhiều chuyện lý thú về phương ngữ Nam bộ. Chẳng hạn, lâu nay từng nghe: “Đường vô xứ Huế quanh quanh / Non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ / Thương em anh cũng muốn vô / Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang / Phá Tam Giang ngày rày đã cạn / Truông nhà Hồ, Nội Tán cấm nghiêm”. Không ngờ, ở Nam bộ lại có một dị bản cực hay, theo anh Nguyễn Trọng Tín: “Phá Tam Giang ngày rày đã cạn / Truông nhà Hồ, ai dạn thì đi / Nghiêng tai nói nhỏ với dì / Đã thương đừng sợ, sợ thì đừng thương”. Hay và hài hước ở chỗ, chàng anh rể “nghiêng tai” nói với cô em vợ, chứ không phải với mèo mỡ nào cả. Đạo lý người Việt dễ dãi chấp nhận “mía ngon đánh cả cụm”, không cười cợt gì thì cái sự lèng èng "bắt cá hai tay" đó cũng có thể châm chước - nhất là nếu “dì nó” còn mơn mởn đào tơ; hoặc chồng đã vân du tiên cảnh… Hành động “nghiêng tai” nghe ra như đùa như thật. Được thì được, không thì thôi nhưng cũng cho thấy một tính cách rõ ràng,  không ỡm ờ, nước đôi của người Nam bộ. Rồi những câu chuyện về thơ, về thế sự, về bạn bè văn nghệ cùng nhà văn Nguyễn Trọng Tín có nhiều thông tin hay. Sẽ ghi lại sau.

Chắc chắn rằng, từ trong sâu thẳm tình cảm, tự dưng ta lại có cảm tình sâu sắc hơn nữa với những vùng đất xa lạ dù chưa đến hoặc chỉ mới đến đôi lần. Tình cảm ấy có được là do tính cách, hình ảnh cụ thể của những con người vùng đất đó mà ta đã gặp, đã trò chuyện, đã chia sẻ những suy tư chân thật không giấu giếm nhau và nhất là không đổi lưỡi trong một ngữ cảnh khác.

Hôm qua, Chủ nhật. Ăn trưa ở nhà hàng bên sông Sài Gòn. Và rượu đỏ.

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 18.3.2015

3-JPG-5579-1426519247

 

Những ngày này, trên các mạng xã hội hầu hết đều có ý kiến về kinh phí xây tượng Bà mẹ Việt Nam Anh hùng. Công trình này được xây dựng trên khuôn viên rộng 15 ha với tổng mức đầu tư hơn 411 tỷ đồng, tọa lạc tại khu vực núi Cấm (xã Tam Phú, TP Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam). Một số tiền “quá hớp”. Trong khi đó, phải nói thật rằng đời sống bà con  mình ở nông thôn, vùng núi Quảng Nam còn nghèo lắm. Đã thế, khi khắc thơ lên tượng còn khắc sai be bét chính tả, lẫn lộn giữa ca từ và thơ. Anh bạn Trung Việt - đồng nghiệp cùng cơ quan báo PN viết thật như đùa: “Tượng đài văn hóa chứ không phải công trình... thủy điện, tuyệt đối không để sai sót. Sai rồi, có sửa không? Có ý kiến rằng sửa khó vì đã khắc trên đá. Nhưng khó cũng phải sửa. Có người trào lộng: thôi mà, hiểu ý là được, “hỏi” - “ngã” như nhau, thì đó, mì Quảng viết thành mì Quãng quá trời, nhưng cũng là mì thôi…”.

Cười mà đau.

Dám quả quyết rằng, tư duy khôn ngoan, sự khéo léo người Việt không nằm ở chỗ thể hiện quy mô của tượng đài. Có sang Kapuchia, nhìn tượng đài của đất nước Angkor chắc chắn sẽ có cảm nhận ấy. Mà chẳng rõ từ đâu, người Việt ngày càng có xu hướng hợm hĩnh làm cái gì, xây cái gì cũng phải to, phải cao, phải lớn, phải hoành tráng cho bằng được? Thậm chí lúc đã vùi nông ba tấc đất cũng muốn lăng, mộ phải xây to nhất trong khu nghĩa địa. Hiện nay đã dự án xây dựng tháp Truyền hình Việt Nam, theo Báo điện tử nước CHXHCNVN: “có tầm cỡ quốc tế và thuộc vào loại cao nhất trên thế giới” (15:03, 02/03/2015) - sẽ được xây dựng trên khu đất diện tích hơn 14 ha tại khu trung tâm đô thị Tây Hồ Tây.

Vừa đọc bài thơ Ta ghi cho riêng ta một “kỷ lục ngậm ngùi” của nhà báo Lê Đức Dục - in trên báo TT số chủ nhật 15.3.2015:

Công nhân vẫn than rằng lương không đủ sống

Nông dân vẫn ôm cày đi sau con trâu

Trẻ rẻo cao thiếu trường thiếu áo

Lính khơi xa vẫn bé nhỏ con tàu...


Mà sao sân bay “đầu tư nhiều tiền nhất”...

Và tượng đài “to nhất Asean”...

Rồi “tháp truyền hình cao nhất thế giới”...

Từ bao giờ, hội chứng “nhất thế gian”?


Rồi đến bao giờ dân nước mình không còn lo nghèo đói?

Bệnh nhân nước mình không chen xếp kiểu cá mòi?

Em nhỏ đến trường không đu dây qua suối?

Ra ngõ bình an không còn lo đường sá bẫy mạng người?


Liệu đằng sau những công trình dự án

Có hay không những phết phẩy “hoa hồng”?

Dân cơ cực toát mồ hôi đóng thuế

Đời cháu chắt mình liệu có giả nợ xong?


Ôi đất nước trùng trùng “guinness”

Bao nhiêu người nghe kỷ lục thấy lòng vui?

Đời lam lũ sấp mặt cùng cơm áo

Ta ghi cho riêng ta một “kỷ lục ngậm ngùi”...

Vụ nữ sinh bị đánh hội đồng một nữ sinh lớp 7 tại Trường THCS Lý Tự Trọng (tỉnh Trà Vinh) gây chấn động vẫn còn râm ran trong dư luận. Sáng nay báo chí đưa tin thầy hiệu trưởng Phan Thanh Nguyện sau vụ này đã xin từ chức. Bài học đau đớn cho ngành giáo dục của đồng nghiệp Minh Nhật - in báo PN sáng này gợi nhiều suy nghĩ: “Trong lúc nữ sinh bị các bạn đánh đập dã man thì nhiều HS khác trơ mắt đứng nhìn mà không tìm cách can ngăn, hoặc gọi người lớn can ngăn. Suốt hai tháng sau đó, cũng không HS nào “méc” với thầy cô và nhà trường, cho đến khi sự việc được đưa lên mạng gây chấn động xã hội. Hiện tượng này chỉ có thể lý giải: hoặc các em quá vô cảm trước nỗi bất hạnh của bạn, hoặc các em không còn tin vào thầy cô của mình nữa, kể cả những người có vẻ gần gũi với các em như GVCN và tổng phụ trách”.

Như đã nói trong Nhật ký 12.3.2015, một trong những vấn đề cần chỉnh sửa gấp vẫn phải là thay đổi giáo trình của bộ môn Công dân - Giáo dục. Lâu nay các em được học thế nào? Bài báo của Minh Nhật còn có đoạn: “Một HS cho biết: “Từ đầu năm đến nay, chúng con chỉ có một tiết sinh hoạt Đội ở ngoài sân, học bước đều, thắt khăn quàng và nghe cô kể chuyện... ma; những tiết còn lại, tụi con ngồi trong lớp để học về ý nghĩa của chiếc khăn quàng, thắt nút dây, hoặc được cô cho dò bài tiết học tiếp theo, hoặc ngồi chơi ngay tại lớp”.

Tìm hiểu giáo án hoạt động ngoài giờ lên lớp tại một trường THCS khác, chúng tôi liệt kê được rất nhiều nội dung nặng về hình thức và không có ý nghĩa thiết thực như: tìm hiểu về truyền thống nhà trường, truyền thống Đoàn; tìm hiểu và hát những bài về Đoàn, Đội; tìm hiểu về những gương sáng đảng viên tại địa phương. Thậm chí, hoạt động còn hình thức đến mức cho HS đăng ký thi đua tu dưỡng học tập tốt, tiếp thu sự dạy dỗ của thầy cô…

Ở môn văn học - môn học làm người, thì nói như tiến sĩ Dương Thị Hồng Hiếu (ĐH Sư Phạm TP.HCM): “HS thường phải học những tác phẩm mà các em cho là chẳng có ý nghĩa gì với cuộc sống của mình. Các em chỉ cố gắng học để thi cho qua mà thôi”. Với những hoạt động khác như sinh hoạt dưới cờ, sinh hoạt chủ nhiệm hay nội dung môn giáo dục công dân, nhìn chung những nội dung mà người lớn đem đến cho các em thường hoặc sáo rỗng, hoặc quá hàn lâm, "đao to búa lớn" mà thiếu sự gần gũi với lứa tuổi các em”.

Lại thêm chuyện này, liên quan đến bài học về Thánh Gióng trong sách giáo khoa, không thể không nhắc đến. Chuyện rằng: Trong cuốn Hướng dẫn học Tiếng Việt lớp 5, tập 2A, tại bài 26C: “Nghe chuyện Phù Đổng Thiên Vương, tôi thường tưởng tượng đến một trang nam nhi, sức vóc khác người, nhưng tâm hồn còn thô sơ và giản dị như tâm hồn tất cả mọi người thời xưa. Tráng sĩ ấy gặp lúc Quốc gia lâm nguy đã xông pha ra trận, đem sức khỏe mà đánh tan giặc, nhưng bị thương nặng. Tuy thế người trai làng Phù Đổng vẫn còn ăn một bữa cơm rồi nhảy xuống Hồ Tây tắm, xong mới ôm vết thương lên ngựa đi tìm một rừng cây âm u nào, giấu kín nỗi đau của mình mà chết”.

Thiên hạ kinh ngạc khi được biết một cái kết khác về Thánh Gióng.

Đoạn văn này trích từ cuốn Sức sống của dân Việt Nam trong ca dao và cổ tích của nhà văn Nguyễn Đình Thi - in năm 1944. Đó là một cái kết tồi, rất tầm thường, hạ thấp giá trị cốt lõi truyền thống văn hóa Việt. Tại sao Thánh Gióng sau khi đánh thắng giặc lại bay về trời? Chi tiết này quan trọng nhất trong câu chuyện Thánh Gióng. Nếu loại bỏ, nó chỉ còn là câu chuyện tuyên truyền có tính thời vụ, đừng hòng lưu truyền đến ngày nay và mãi mãi về sau. Ông cha ta đã ngụ ý bài học gì? Câu hỏi này cần phải được giải thích cho các em học sinh, chứ không phải cái kết dấm dớ trên.

Lâu nay, đã có nhiều người viết lại chuyện cổ tích. Tuy nhiên, không phãi ai cũng nhớ đến quan điểm đúng đắn của nhà nghiên cứu Nguyễn Đổng Chi. Theo tác giả Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam (5 tập): “Cần phải nói thêm truyện cổ tích thường giàu tính cộng đồng. Giả thử trong truyện có in dấu ấn cá nhân thì cá tính đó cũng phù hợp và không phương hại gì đến tính chất chung của tập thể. Có thế, nó mới được tập thể thừa nhận và lưu truyền” (SĐD, tr.69, Viện Văn Học XB 1993).

Ấy thế NXB Giáo Dục Việt Nam vẫn gân cổ lên cãi bằng cái công văn vào ngày 17.3.2014: “Đoạn văn của Nguyễn Đình Thi có thể gợi cho học sinh những suy nghĩ vượt ra ngoài khuôn khổ câu chuyện dân gian các em vẫn nghe, từ đó kích thích trí tưởng tượng và tiềm năng sáng tạo của các em - một trong những nội dung nằm trong mục tiêu giáo dục của môn Ngữ văn, kể từ cấp Tiểu học”. Đôi khi tranh cãi với đầu gối vẫn lý thú hơn. Đọc công văn này, rồi vụ nữ sinh lớp 7 bị đánh hội đồng mà nhớ đến văn hảo Lỗ Tấn. Kết thúc Nhật ký người điên viết vào tháng 4.1918, ông viết những dòng cuối cùng ròng ròng chảy máu đớn đau tột cùng: “Hãy cứu lấy trẻ em”.

Đủ chưa?

Chưa, cần phải nói thêm rằng: “Hãy cứu lấy người lớn”.

 

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 13.3.2015

phong-lm-viec-cua-Qu-c

Phòng làm việc của LMQ

 

Thứ Sáu ngày 13 là ngày gì? Mỗi người có một ngày riêng tư, nếu không kể lể chắc chẳng ai biết. Mà biết để làm gì? Dậy sớm, đọc báo và viết tặng cho mình bài thơ. Những câu thơ nhẹ nhàng đến trong những lần trên đường đi làm. Nhớ đôi ba câu. Rồi quên. Rồi nhớ. Rồi sáng nay, bài thơ đã xong.

Viết xong bài thơ và xóa đi nhiều số điện thoại thường xuyên gọi và lâu nay không hề gọi. Xóa một số điện thoại là loại bỏ đi một hình bóng cũ đã từng có trong trí nhớ. Nghĩ về tình bạn. Trên đời này, tình bạn nào chân thành và vĩ đại nhất? Đêm qua nằm đọc lại Chiến quốc sách - bản dịch của Nguyễn Hiến Lê - Giản Chi, nghĩ rằng, tình bạn Kinh Kha và Cao Tiệm Li - mới đáng nhớ làm sao. Lúc Kinh Kha sang tới bờ sông Dịch, Cao Tiệm Li - tay bán thịt chó, chơi đàn trúc rất tuyệt đã gẩy đàn họa theo tiếng ca bùi ngùi nhỏ lệ của bạn lúc chia tay:

Gió vi vút chừ sông Dịch lạnh tê

Tráng sĩ một đi chừ không về

“Điệu ca khảng khái bi tráng, ai nấy đều trợn mắt, tóc dựng đứng, đâm lên mão”. Cảnh chia tay người đi kẻ ở bao giờ cũng buồn. Sực nhớ danh tướng Trần Khát Chân ra trận, lúc từ biệt thượng hoàng Trần Thuận Tông, Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Khát Chân vâng mệnh, khảng khái nhỏ nước mắt lạy tạ ra đi. Thượng hoàng cũng khóc, lấy mắt tiễn đưa”. Cái tình ấy sâu đậm làm sao. Tri kỷ làm sao.

Sang Tần, việc giết Tần Thủy Hoàng không thành, Kinh Kha bị chém chết. Về sau, Cao Tiệm Li gẩy đàn trúc vào yết kiến vua Tần, lấy cây đàn đập Tần Thủy Hoàng để báo thù nhưng không trúng, bị giết.

Nếu xét theo nghĩa, tình bạn là phải thể hiện sự xả thân cho nhau, vì bạn, có thể chết; nghe ai nói xấu về bạn, dù chưa biết hư thực ra sao nhưng trước mặt thiên hạ vẫn bảo vệ danh dự cho bạn thì trên đời này mấy ai có được tình bạn đó? Còn nhớ ngày đầu giải phóng, khi khai lý lịch bao giờ cũng có câu hỏi: “Bạn thân nhất là ai?” bắt buộc phải trả lời. Tình bạn đúng nghĩa thời nào cũng thuộc loại quý hiếm. Khó có thể có. Tình người, thời nào cũng có.

Đến Huế, mới biết nơi này có một hoạt động rất tình người. Đáng hoan nghênh, cần cỗ vũ, cần tuyên tuyền: “Ngày xuân viếng mộ thi nhân”. Nói có sách mách có chứng, theo báo TN số ra ngày 12.3.2015: “Họa sĩ Đặng Mậu Tựu, nguyên Chủ tịch Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật tỉnh, cho biết việc tưởng nhớ và viếng mộ thi nhân vào ngày xuân ban đầu do một số ít anh em văn nghệ sĩ thường đến mộ viếng thăm những thi nhân là người thân hoặc bạn bè đầu xuân, sau đó hội thấy việc làm này hay, có ý nghĩa nhân văn nên đã đưa vào chương trình hoạt động thường niên vào dịp đầu xuân. Tuy nhiên theo họa sĩ Tựu thì đã qua 7 năm tổ chức nhưng hoạt động này chỉ là tấm lòng của anh em văn nghệ sĩ với bạn bè, các thi nhân và văn sĩ đã khuất chứ chưa thấy ngành du lịch quan tâm để tổ chức thành tuyến du lịch hấp dẫn. Còn nhà văn Hồ Đăng Thanh Ngọc, Phó chủ tịch Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật tỉnh, Tổng biên tập Tạp chí Sông Hương thì tiếc rẻ: “Ở Quy Nhơn, chỉ một ngôi mộ của nhà thơ Hàn Mặc Tử thôi người ta cũng tổ chức được các tour rầm rộ, mọi người khắp nơi tìm đến mộ của nhà thơ. Còn ở Huế thì có rất nhiều mộ phần của các văn nhân thi sĩ nổi tiếng, những tên tuổi lớn không chỉ đóng góp cho nền thi ca, văn học mà đóng góp cho nền văn hóa của dân tộc nhưng rất tiếc điều này chưa được khai thác du lịch”.

Đọc báo, những bài tương tự thế này khiến tâm hồn lắng đọng, tự dưng thấy vui. Ít ra, người lương thiện đã chết vẫn còn nhớ đến bởi lúc sống họ đã sống tốt, đã có những sáng tạo nghệ thuật cho đời. Chẳng gì có thể mất, chẳng gì có thể quên.Sáng này, cáu tiết, khó quên với một thông tin chẳng ra làm sao. Trong đầu loáng thoáng nhớ đến câu ca dao ấm áp, nghĩa tình từ xa xưa: “Quảng Nam ta có đèo Le / Bà con ta nói cứ đè mà leo”. Trước đây, có lần nghe nhà báo Cung Văn đọc câu đối liên quan đến đèo Le. Hóm hỉnh và cũng rất Hồ Xuân Hương:

Lên đèo Le, đá đừng leo

Xuống dốc Dựng, chưn đừng nới

Chưn” là phát âm từ “chân” theo thổ âm xứ Quảng. Đèo Le thuộc huyện Quế Sơn. Gà đèo Le là một đặc sản, một thương hiệu lừng danh năm châu bốn biển. Y đã nhiều lần lên đến nên biết ở đây, đời sống bà con mình còn nghèo lắm. Do đó, vừa rồi nhà nước mới có chính sách cung cấp 1.250 con gà giống hỗ trợ người nghèo theo chương trình Phát triển nông thôn mới. Nhờ vậy, người dân xã Quế An (huyện Quế Sơn) sẽ có đời sống sung túc hơn chăng? Sáng nay, báo PL TP.HCM có bài Quan xã “ăn” gà hỗ trợ của người nghèo, từ bí thư, chủ tịch xã đến các quan lèng xèng đã chia chác, ẳm trọn số gà trên của người nghèo.

Nghĩ mà chán.

Có thông tin nghĩ thấy chán,lại có thông tin rợn cả người.

Chiều  ngày 12.3.2015, Ban Tuyên giáo Trung ương tổ chức tại TP.HCM tổ chức hội nghị báo cáo viên các tỉnh, TP phía Nam, theo báo PL TP.HCM sáng nay, Trung tướng Trần Trọng Lượng - Phó Tổng Cục trưởng Tổng cục Cảnh sát phòng chống tội phạm (Bộ Công an) cho biết: “Trong năm 2014 toàn quốc xảy ra gần 60.000 vụ phạm pháp hình sự, tăng 1,48% so với năm 2013. Loại tội phạm tăng là lừa đảo và trộm cắp. Các vụ sử dụng chất nổ cài đặt trong quà tặng để giải quyết mâu thuẫn, thù tức cá nhân cũng có chiều hướng gia tăng. Các loại tội phạm giảm gồm: Giết người do nguyên nhân xã hội; giết người cướp tài sản; cướp tài sản; cướp giật tài sản; cưỡng đoạt tài sản; hiếp dâm; cố ý gây thương tích; chống người thi hành công vụ...”; và “Ông Lượng cũng dự báo năm 2015, tội phạm giết người do nguyên nhân xã hội sẽ diễn ra nghiêm trọng, các loại tội phạm liên quan đến sở hữu có chiều hướng gia tăng và công an đã có các phương án tấn công, trấn áp tội phạm, đẩy mạnh các giải pháp phòng ngừa”.

Y nhìn y và tự hỏi, những câu thơ du dương liệu có ích gì cho đời? Chẳng biết nữa. Hôm nay, thứ Sáu ngày 13, đọc loáng các bài báo nắm thông tin thời sự mỗi ngày. Và thơ. Thơ rằng:

Sóng vỗ mòn ghềnh đá

Đá nhẫn nại xanh rêu

Dẫu tình ca tắt thở

Vẫn vọng lời gấm thêu


Ngày nhũn nhão mưa chiều

Sá gì. Mai nắng sớm

Dẫu mầm chưa nhú lên

Sự hận thù đã đốn


Từng ngày, từng bận rộn

Đã cỏ buộc phải xanh

Đã mưa thì phải ấm

Đã thơ phải độc hành


Không bon chen phía trước

Chẳng thắc thỏm ngoái lui

Mười ngón tay gõ phím

Vun vén từng niềm vui


Từ nhùng nhằng nhũng nhẵng

Níu lấy sợi nắng mai

Dọn lòng mà đứng dậy

Dẫu chân lún nhọn gai


Sóng vỗ mòn ghềnh đá

Đá nhẫn nại xanh rêu

Tôi tin. Tin ngọn gió

Dựng lại thành lũy xiêu…

Thơ tình chăng? Không phải. Sực nghĩ tâm trạng mỗi người trong một ngày cũng tựa bức tranh nhiều màu sắc. Có trắng u ám cõi chiều. Có đen chói ngời nắng mai. Có xanh, hồng, tím, đỏ những buồn vui đến lúc này và đi vào lúc khác. Vì thế, khó có thể suốt một ngày chỉ một tâm trạng. Mà nó thay đổi nhiều chiều khác nhau.

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 12.3.2015

chieu-mong-2-t-t-2015

Chiều tối mồng 2 tết 2015 tại nhà em Lê Minh Tuấn ở Đà Nẵng. Từ trái: Lê Minh Quốc, Nguyễn Nhật Ánh & An May, Hoài Trinh - vợ con em Lê Minh Tuấn.

 

Ngày hôm qua, báo chí đồng loạt đưa tin một nữ sinh bị bạn bè cùng lớp đánh hội đồng. Sự việc tồi tệ này diễn ra vào chiều 9.3.2015 tại trường THCS Lý Tự Trọng, tỉnh Trà Vinh. Xem video clip mà choáng. Mà đau. Nếu các cô cậu học trò ấy biến thành hung thần, thể hiện bằng sự căm giận, bực bội thì còn dễ hiểu nhưng ở đây ghê rợn nhất là sự hả hê, sung sướng hiện rõ trên từng nét mặt thư sinh. Đã có nhiều bình luận. Ý kiến của bạn đọc Ngoc Huan trên TTO cũng là suy nghĩ của nhiều người: “Không những ngoài đường, bây giờ thói hung hãn cũng đang lên ngôi và ngự trị trong học đường. Một hồi chuông báo động cho nhân phẩm, đạo đức, sự vô cảm. Thật nguy hiểm! Nguyên nhân do đâu? Đó là câu hỏi chưa có câu trả lời xác đáng. Xã hội? Gia đình? Nhà trường? Tại người lớn? Tại con trẻ?...Không lẽ đến môi trường giáo dục cũng khủng hoảng niềm tin rồi sao?  Xã hội ngày mai sẽ đến đâu khi những sự việc đau lòng vẫn tiếp diễn mà không có biện pháp ngăn chặn?” (Vụ nữ sinh bị đánh: sốc, rùng mình, đau lòng).

Ai sẽ người trả lời?  Chính chúng ta đấy thôi. Trước đây, tháng 4.2010, Sở Giáo dục và Đào tạo có tổ chức Hội thảo chuyên đề “Phòng chống bạo lực trong học đường”. Trong phát biểu đề dẫn của ông Huỳnh Công Minh - GĐ Sở đã nhấn mạnh và “Đề nghị nghiêm cấm hoạt động game show bạo lực”. Nhiều tham luận cũng cho rằng trò chơi điện tử là một trong những nguyên nhân làm tăng bạo lực trong học đường. Nguyên nhân chắc chắn không chỉ có thế. Lâu nay, y vẫn quan niệm, muốn giải quyết một vấn đề không thể tách rời nó ra khỏi cấu trúc chung của một xã hội đang vận hành. Một con cá không thể sống mãi trong hồ, nó phải ra sông suối. Sông suối ô nhiễm, liệu nó có sống nổi không? Phòng chống bạo lực trog học trường không thể tách rời 3 thành tố: Nhà trường - Gia đình - Xã hội. Ai cũng biết nhưng rồi câu trả lời thế nào?

Trong khi đó, phía nhà trường đã dạy cho các em những gì về đạo đức công dân? Không rõ hiện nay nội dung giảng dạy vẫn y chang trạng của thập niên 2000 hay đã có sự thay đổi? Lật lại tài liệu lưu trữ nhớ rằng, vào tháng 12.2007, Sở Giáo dục và Đào tạo TP.HCM đã tổ chức Hội thảo khoa học "Nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức trong nhà trường phổ thông trung học TP.HCM". Nhiều thầy cô giáo đã lên tiếng về sự bất cập của các bài học trong chương trình Đạo đức - công dân. Ngoài các bài học về giá trị nhân văn có ý nghĩa bất biến như yêu Tổ quốc, nhớ ơn cha mẹ, kính trọng thầy cô giáo, đi học đúng giờ, cám ơn, xin lỗi v.v… lại là những bài “quá hớp”.

Chỉ liệt kê ngẫu hứng một cách chính xác, chẳng hạn, học sinh lớp 5: Em tìm hiểu về Liên hiệp quốc; lớp 6: Công ước Liên hiệp quốc về quyền trẻ em; lớp 7: Quyền tự do tín ngưỡng và tôn giáo; Bộ máy nhà nước cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn); lớp 8: Phòng, chống tệ nạn xã hội; Phòng, chống nhiễm HIV/AID; Quyền khiếu nại, tố cáo của công dân; lớp 9: Quyền và nghĩa vụ công dân trong hôn nhân; Quyền tự do kinh doanh và nghĩa vụ đóng thuế; Quyền tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội của công dân; lớp 10: Thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng; Thế giới vật chất tồn tại khách quan, Sự vận động và phát triển của thế giới vật chất v.v….; lớp 11: Công dân với sự phát triển kinh tế, Hàng hóa - Tiền tệ - Thị trường, Quy luật giá trị trong sản xuất và lưu thông hàng hóa…; lớp 12: Luật hình sự; Luật Lao động; Pháp luật về thuế; Luật Hôn nhân và gia đình…

Những bài này rõ ràng cần thiết, nhưng liệu ở lứa tuổi “ăn chưa no lo chưa tới” có phù hợp? Trong khi đó, các em cần được giáo dục những gì cụ thể, cần thiết và phù hợp với sự định hình nhân cách hơn là những “chuyên đề” to tát ấy. Mà thôi, câu chuyện này còn dài và cũng không phải lãnh vực am hiểu nên không dám lạm bàn gì thêm. Chỉ ghi lại để thấy đã có một thời gian dài môn Đạo đức - Công dân đã được cấu trúc lạ lùng đến thế. Một người lạc quan nhất khi nhìn về thực trạng giáo dục nước nhà cũng khó có thể có một cái nhìn lạc quan. Hầu như giữa sách vở và hiện thực đời sống đang có một khoảng cách chăng?

Những ngày Tết vừa rồi ở Hội An, lần đầu tiên nhìn thấy và biết đến “gậy selfie” (gậy tự sướng). Sự ra đời của nó có ảnh hưởng gì đến tính cách của các cô cậu học trò không? Chuyện này không nhỏ đâu. Không phải ngẫu nhiên ở một vài nước châu Âu cấm sử dụng “gậy selfie” khi vào bảo tàng. Tại sao? Sử dụng facebook nên và không nên thế nào? Có phải đây là bài học của bộ môn Đạo đức - Công dân không? Tuần trước, tại trường THPT nọ đã kỷ luật 2 em nữ sinh, nguyên nhân em A post tấm ảnh “tự sướng”, em B vào comment với lời lẽ trêu chọc. Thế là từ thế giới ảo cả hai choảng nhau một trận ra trò ngay tại sân trường. Cuộc sống đã có quá nhiều thay đổi, có tác động trực tiếp đến nhận thức, hành vi các em nhưng rồi, các bài học giáo dục trong nhà trường có theo kịp? Ai sẽ là người trao đổi với các em?

Tối qua, ngồi lai rai cùng vài bạn thơ. Ngồi ở quán bên lề đường Lê Quý Đôn. Câu chuyện lan man về chữ nghĩa. Đoàn Tuấn  kể lần nọ sang Nga, có gặp một nhà ngôn ngữ học nổi tiếng đã từng làm tự điển Nga - Việt nhưng ông ta thở dài: "Trong tiếng Việt, thú thật tôi không rõ lúc nào dùng từ "các", lúc nào dùng từ "những". Nó giống và khác nhau thế nào?". Tuấn cho biết  đã làm xong bộ phim về văn hóa Chăm. Nhờ những ngày đi thực tế ở Ninh Thuận, anh được nghe bà con địa phương giải thích địa danh “Cà Ná” có nghĩa “bên nay, bên kia”. Hôm qua, sực nghĩ tại sao về xưng hô và vị thứ trong Nam không gọi người con trưởng là “con cả”? Con trưởng trong Nam gọi thứ vị là “hai”, ngoài Bắc vẫn xử dụng “cả”. Quán cơm bà Cả Đọi nổi tiếng một thời, ta hiểu, bà con dâu trưởng v.v…

Trước kia, đã có lần nghe nói ở trong Nam có “hò sạo”. Ngạc nhiên quá, “sạo” hay “xạo”? Bèn cầu cứu anh bạn Nguyễn Hữu Hiệp ở An Giang, anh giải thích rằng: “Hò ở đây chỉ là một sự “đẩy đưa cho vừa lòng bạn”, chuyện đối đáp đúng hay sai, có lý hay không có lý không thành vấn đề. Cái chính là phải thể hiện sự thông minh, nhanh nhạy có duyên và tạo được sự hứng thú chung. Vì thế, khi nghe ca từ của một cuộc hò đối đáp, người ta không bao giờ dựa vào sự “thổ lộ tình cảm” mà “đánh giá” các cô thôn nữ đầy nghệ sĩ tính ấy. Và, hơn ai hết, những chàng trai thông minh kia khi đã “đáp” (bắt) được lời hò “bỏ” (buông) của người đẹp, anh ta không vội nghĩ rằng mình sẽ gặp duyên nợ, hoặc được... vợ. Hò Sạo mà!

Rõ ràng, hò sạo hay hò bắt quàng là điệu hò ngẫu hứng mà “xuất khẩu thành văn”. Đặc điểm của hò sạo là một sự cùng nhau “trò chuyện”, kẻ buông người bắt cho vui, lấy vui là chính, cốt cho rôm rả cuộc hò:

Hát mấy câu giải sầu chư vị,

Việc hát hò có ý cầu vui!

Thành ra hò sạo đích thực là hò “đối chơi cho vui dạ”, là “có ý cầu vui” mà thôi, đúng như chính những người trong cuộc đã nói rõ trong câu hò, hát của mình. Nói cách khác, lời lẽ của đôi trai gái đối đáp nhau trong cuộc hò cũng giống như đôi đào kép diễn tuồng trên sân khấu hát cải lương. Họ tỏ ra như vợ như chồng, yêu nhau đắm đuối, có khi ôm, hôn rất thắm thiết, nhưng khi đã vãn tuồng, chuyện hoàn toàn không phải như thế. Chính vì vậy nên hò sạo còn được gọi là hò môi mép (hay hò môi, hò mép). Đã là chuyện ngoài môi thì không lấy gì làm chắc như lời lẽ của ca từ, nhưng không có nghĩa là láo, dối. Nó gần như xạo nhưng không phải xạo! (vì xạo là xạo xự, rộn ràng, không đứng đắn, bậy bạ). Mà chính xác là Sạo, bởi vẫn theo Đại Nam quấc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của, Sạo là khua miệng, nói chuyện trò, học đi học lại cùng nhau, nói truyền ngôn, không có điều chắc chắn”.

Những câu chuyện linh tinh lang tang thế này, trong cuộc nhậu đã gợi mở nhiều suy nghĩ lý thú. Mà chỉ có thể diễn ra khi người ta ngồi cùng dăm ba người tâm đầu ý hợp, chứ đông người quá, mạnh ai nấy nói thì cuối cùng lúc quay về nhà trong cơn ngất ngưởng quắc cần câu chẳng rõ lúc ấy mình đã nói, đã nghe những gì.

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 4.3.2015

hop-mat-gia-dinh-RHọp mặt tân niên gia đình chiều ngày 1.3.2015 ở nhà hàng Việt Nam tại bãi biển Mỹ Khê (Đà Nẵng)

Trở về Sài Gòn vào chiều tối ngày 2.3.2015. Chấm dứt những ngày về quê ăn Tết. Bước xuống sân bay, một cảm giác bận rộn đã ùa đến. Thôi nhé những ngày nghỉ ngơi và ăn ngon, tình ái và thơ ca ở Alma Courtyard (Hội An); Ana Mandara - gần cửa biển Thuận An (Huế) và Fusion Maia resort (Đà Nẵng). Lại bắt đầu những ngày marathon. Lại làm quen, phải cố gắng trở lại nhịp làm việc quen thuộc mỗi ngày. Vì lẽ đó, hôm họp mặt tân niên anh em ruột tại nhà hàng bên biển Mỹ Khê, y phát biểu rằng, khi có con du học đừng nên cho nó về thăm nhà nhiều lần. Về không khó nhưng lúc sang lại mới là khó. Khó ở chỗ nó lại phải làm quen với nhịp sống đã có ở nước ngoài. Thời sinh viên của y cũng vậy thôi. Sau Tết từ Đà Nẵng, mỗi lúc phải vào Sài Gòn đi học là tự dưng có cảm giác ngao ngán tột cùng. Ngao ngán vì phải tập lại thói quen đã có. Có như thế mới thích ứng với đời sống mỗi ngày ở nơi xa.

Bây giờ cũng chẳng khác gì. Đã hơn mười ngày nghỉ Tết, nghĩ đến công việc thấy oải quá. Chưa rời khỏi sân bay, vừa khởi động điện thoại đã thấy ùa đến các tin nhắn. Không gì khác. Chỉ bài vở. Đã đến hẹn lại lên. Một ngày, lại viết. Cứ thế. Chữ nghĩa ở đâu trong đầu mà lúc nào cũng có thể viết, phải viết? Viết để kiếm sống. Viết rồi quên. Thời buổi này, thông tin thiên hình vạn trạng, đến nhanh,đi nhanh mà quên cũng nhanh. Mấy ngày Tết, mới ồn ào vụ cụ Vũ Khiêu viết câu đối tặng hoa hậu nọ, ngoảnh lại, thiên hạ đã quên béng, chằng còn ai buồn nhắc đến. Rồi vụ cô người mẫu nọ do say rượu, đi ngược chiều, bị công an thổi phạt nhưng lại dám mắng chửi bằng lời lẽ thô tục nhất. Vừa nghe bàn tán đó. Nay chẳng ai thèm nhớ.

Sự việc gì cũng thoáng qua nhanh. Đời sống nhanh và vội. Khó có cái gì đọng lại lâu trong mối quan tâm của mọi người.

Thế thì, cứ tưởng rằng, đã thân tình, đã khề khà tâm sự, đã có những cuộc say bất tận, mở lòng ra chơi không thèm, không cần cảnh giác thì con người ta sẽ hiểu nhau hơn, tin cậy nhau hơn? Không hề. Ủa, hóa ra đời sống tình cảm trong mối quan hệ của từng cá nhân ngày càng nhợt nhạt hơn trước chăng? Chẳng rõ. Cuối cùng đâu là nơi chốn mà con người ta quay về và lấy đó làm điểm tựa? Chỉ có thể trả lời là chính lòng mình. Chỉ có mình mới thấu hiểu, cảm thông và an ủi lấy mình thiện chí nhất mà cũng công bằng nhất.  Mấy hôm nay, vui với một email nguyên văn như sau:

“Bố của con là một người rất mến mộ những bài thơ của bác. Bố của con cũng có hoàn cảnh giống bác, là sinh viên đại học, sau đó đi bộ đội ở chiến trường Cam-pu-chia, sau đó về lại học đại học thủy sản Nha Trang, hiện đang sinh sống ở quê nhà.

Bố con rất muốn giao lưu kết bạn với bác Quốc.

Bố con đọc thơ bác thấy bác thích nước mắm zin. Nhà con có cơ sở làm nước mắm, ở tại Hoài Nhơn, Bình Định. Bố con có nhờ con gửi bác mấy chai nước mắm làm quà và bài thơ bố con sáng tác tặng bác. Con rất mong có thể chuyển tâm ý của bố con đến bác Quốc. Con rất mong chờ email hồi âm của bác”.

Trong cuộc sống, đôi lúc có những chuyện chẳng to tát, lớn lao gì nhưng tình cảm đơn sơ ấy, chân tình ấy quý báu biết dường nào. Cảm động nhất ở chỗ “Bố con đọc thơ bác thấy bác thích nước mắm zin”. Nước zin là nước mắm nhỉ, nước mắt cốt, nước mắm nguyên chất. Nước mắm nhĩ hay nhỉ? Gọi "nhỉ" đúng hơn cả vì nó nhỏ từng giọt một. Từng giọt thơm điếc mũi. Ăn như thế, mới thấm thía hết cái ngon của hương vị nước mắm. Phương ngữ Quảng Nam có câu “Nước mắm Nam Ô / Cá rô Xuân Thiều”. Đã lâu lắm rồi, cái thời còn cùng anh Đoàn Thạch Biền, Nguyễn Đông Thức giúp Công ty Sơn Ca làm mấy tập sách, có xuống chơi Vĩnh Long. Ngày đó, anh bạn nhà văn Hồ Tĩnh Tâm có đọc cho nghe câu ca dao Nam bộ:

Nước mắm ngon dòm sâu đáy hủ

Thả miếng đu đủ xuống tận đáy bình

Mù u nhuộm thấm bông huỳnh

Bao nhiêu gái đẹp không nhìn

Dạ anh chỉ để thương mình em thôi!

Ngày ấy, trí nhớ còn tốt quá. Nghe thoáng qua một lần là nhớ. Bây giờ đã khác. Có những chuyện cần nhớ nhưng lại quên. Ngược lại, có những điều muốn quên nhưng lại nhớ. Hôm nay, dù biết đã có quà tặng nước mắm ở cơ quan, nhưng rồi vẫn chưa lên lấy được. Bận quá. Những công việc đầu năm đang đến dần. Vẫn ở nhà tập trung làm cho xong mấy việc. Tối nay, còn phải dẫn chương trình thơ cho Ngày thơ Việt Nam.

Hôm qua, họp cả ngày. Tranh thủ đọc tập sách Thi cử, học vị, học hàm dưới các triều đại phong kiến Việt Nam (NXB Lao Động) của nhà nghiên cứu Đinh Văn Niêm. Đọc là học. Đọc do ham thích, còn do người tặng là bà quả phụ Trương Thị Phương Duyên, từ Hà Nội gửi tặng. Lật ở trang 61, thích thú với đoạn này: “Canh Thìn, niên hiệu Thánh Nguyên 1 (1400), mùa thu, tháng 8, Hồ Quý Ly mở khoa thi Thái học sinh. Đầu đề thi bài phú là “Linh kim (kiếm) tàng” (Kho chứa gươm thiêng, lấy điển Lưu Bang dùng gươm chém rắn khi mới nổi lên chống nhà Tần”. Các học trò xin giảng nghĩa đề thi. Quan trường hỏi: "Có lệ cũ như vậy không?" Duy có Bùi Ứng Đẩu trả lời rằng triều Tống có Tôn Hà Khoa đã hỏi nghĩa đề thi "Chi ngôn nhật xuất". Cho nên quan trường đã giảng nghĩa đề này”. Tra lại, Đại Việt sử ký toàn thư có ghi lại sự kiện và chi tiết như trên. Nay đọc và biết ý nghĩa: "Chi ngôn nhật xuất" (Chén rượu như câu nói mỗi lúc một khác) là câu trong sách Trang Tử: “Chi là chân của chén uống rượu, để không thì đứng, rót đầy thì nghiêng, tùy theo thức chứa trong chén mà thay đổi tư thế. Cũng ví như lời nói, tùy theo sự vật mà thay đổi”.

Phép ứng xử khôn ngoan ở đời đấy ư?

Ai có lưỡi ắt nói. Nói và biết nói rất khác xa nhau. Nhân vật Trương Nghi - nhà du thuyết trứ danh của nước Tàu nổi tiếng với mẩu chuyện: “Lúc hàn vi, thường hay hầu rượu tướng nước Sở, một hôm, tướng nước Sở mất ngọc bích, môn hạ ai nấy đều ngờ cho Trương Nghi, và đánh đập Nghi tàn nhẫn. Trương Nghi không phục tình. Lúc được tha trở về nhà, vợ thấy thế bảo rằng: “Than ôi! Giá chàng học hành biết du thuyết thì không đến nỗi nhục nhằn như thế này!”. Trương Nghi há mồm to, hỏi vợ rằng:” Nàng thử xem cái lưỡi của ta có còn không?”. Vợ cười, nói: “Lưỡi vẫn còn”. Trương Nghi bảo: “Thế thì được”. Sực nghĩ, câu thơ ứng khẩu của cụ Phan Châu Trinh lúc rời khỏi nhà tù ở Huế bị đem đày Côn Đảo: “Khẳng khái bi ca thiệt thượng tồn” (Hăng hái hò reo lưỡi vẫn còn) là lấy từ tinh thần của mẩu chuyện trên. Đọc sách có cái thú ở chỗ liên tưởng lan man. Tự mình hài lòng là được. Chẳng cần phải chia sẻ với ai khác.

Hôm bước xuống sân bay khuya ngày 2.3.2015, tự dưng lại liên tưởng đến những dòng Nhật ký 11.2.2014, lúc sau Tết, từ Đà Nẵng quay lại Sài Gòn: “Trở về Sài Gòn, sau Tết, tự nhiên thấm mệt. Không mệt sao được khi hàng trăm con người phải đứng trước sân bay chờ đón đón taxi. Tranh giành. Chầu chực. Tay xách nách mang. Buồn ngủ buồn nghê. Không đủ xe taxi đón khách?". Lúc ấy, y đã tìm ra câu trả lời. Bạn đọc DucVo đã comment như sau: “Tối mùng 3 tết, tôi dính một quả taxi như thế này, khách đông, xe thì đông, nhưng bọn trời con (bọn đi làm an ninh bảo vệ sân bay) điều động xe theo kiểu nhỏ giọt, chả có thứ tự gì cả, với cách điều động như một cái ao làng ở sân bay, cuối cùng chân lý thuộc về kẻ mạnh, ai giang hồ, chai mặt, vào cướp được chiếc nào thì lên xe đó (mặc dù đi phải trả tiền). Tôi phải chờ hơn 1.5 tiếng mới lên xe được, làm người có học và tử tế cũng khó quá... May là rui rủi xe đổ trước mặt mình mà không có ai cướp”.

Kỳ quái chửa? Hiện tượng trên vẫn còn lặp lại. Chẳng thấy thay đổi gì ráo!

Về đến nhà, đã khuya. Chỉ nghe tiếng mèo kêu meo meo. Không còn tiếng chó sủa nữa. Nó đã chết bất thình lình vào ngày trước Tết. Mở cửa bước vào nhà, mẹ vẫn chưa ngủ. Vẫn đợi cửa. Loay hoay một lúc đã nửa đêm. Tình cờ, bước qua nhà bếp thấy mẹ đang cắt một khoanh bánh tét của vợ chồng Tẹo gửi đem vào. Bà cụ ngồi ăn ngon lành. Hình ảnh ấy, cảm động quá chừng. Hai mẹ con vẫn không nói với nhau gì nhiều. Chỉ những câu bâng quơ, đại loại, ngày tết có ai đến nhà không, mẹ có nhớ con không?

Không rõ, hình ảnh yêu dấu, thiêng liêng này có còn lặp lại đến mùa tết của năm nào nữa? Chỉ nghĩ thế, đã không dám nghĩ gì thêm. Trời đã chiều. Làm sao để có thể quen với nhịp làm việc như những ngày trước Tết?

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 27.2.2015

phoca_thumb_l_le-minh-quoc-d6

Anh em Lê Minh Quốc cùng mẹ. Ảnh chụp khoảng thập niên 1960 tại Đà Nẵng


Đã vào công việc. Đã đi làm. Mùi Tết đã phai nhạt dần. Gió đã thổi những hoài niệm của khoảnh khắc giao thừa và ngày đầu năm xa dần. Vệt khói thơm của nhang trầm đã bay lên vòm trời tháng giêng. Tan loãng. Hầu như không còn dấu vết nào. Nắng đã thôi xanh. Gió thôi mượt. Lòng người đã thôi rạo rực. Hoa cúc đã bung xòe từng cánh. Rủ từng cánh. Đã hết Tết. Vẫn biết thế. Tự ý thức như thế. Nhưng rồi, những ngày này, y vẫn còn thả hồn theo nhịp sóng vỗ ngoài xa tít Thuận An.

Chiều qua, nghe từ bãi biển Thuận An vang vọng tiếng tụng kinh lẫn trong nhịp sóng. Nhìn ra phía biển thấy một đoàn nhà sư, chừng hai mươi người đi vòng quanh một ngôi mộ gió đắp trên bãi biển. Và nhịp nhàng cất lên những câu kinh cầu siêu. Không rõ, có phải đây là phong tục của ngư dân vùng biển cầu nguyện cho những linh hồn: “vào sông ra bể / Cánh buồm mây chạy xế gió đông / Gặp cơn giông tố giữa dòng / Đem thân vùi rấp vào lòng kình nghê”? Chiều qua, vội vào nội thành Huế nên không kịp hỏi.

Huế vẫn thế. Vẫn không khác gì những gì đã thấy từ những năm trước. Nếu các nơi khác hầu như chiếc xích lô đã không hiện diện trên đường phố, Huế vẫn còn. Đến Huế, thích nhất vẫn là những món ăn của vùng đất một thời đã là kinh đô nước Việt. Món ăn Huế hấp dẫn, ma mị, quyến rũ nghĩ cho cùng vẫn là ở nước chấm. Nói rộng ra, bí quyết ngon, thể hiện cái ngon bất tận của món ăn Việt cũng nằm gọn gàng, gọn ghẽ trong hai từ “nước chấm”. Cũng món ăn đó, cũng cách chế biến đó, nếu thay đổi “nước chấm” thì chẳng còn gì để nói nữa. Tựa như một người đẹp chỉ còn lại cái thân xác tầm thường, chứ sự tinh tế, tế nhị của linh hồn đã mất. Món ăn Huế ngon là ở đó. Ngon ở nước chấm. Ăn một lần sẽ nhớ như nhớ đến một mùi vị của da thịt nõn nà, phơi phới dâng hiến trong chiều xuân gió lành lạnh, men nồng nàn và gợi mở sự háo hức khám phá cho dù đã tận hưởng nhiều lần. Rất nhiều lần. Mà vẫn không ớn. Vẫn không bưa. Vẫn thèm thuồng đến tê cay đầu lưỡi của mỗi lần lại nhớ.

Chiều qua lên Kim Long ăn bún thịt nướng. Ngon ơi là ngon. Ngon ở nước chấm, rau xanh, ớt xanh và thoảng thoảng trong gió vẫn còn một chút nhang khói thanh diệu của ngày Tết còn sót lại trên vòm cau xanh mướt. Ông Vũ Bẳng đã viết Món ngon Hà Nội, Món lạ miền Nam, ước gì có ai đó sành ăn, biết ăn viết quyển sách lan man, đẩy đưa, ngẫu hứng khi thưởng thức món ăn Huế. Nghe nói rằng, chỉ riêng các hạt muối bình thường kia, dân dã kia người Huế thừa khả năng, thừa sức chế biến thành hàng chục món muối khác nhau. Mỗi món là một vị mặn. Có mặn của sóng biển. Có mặn của gừng cay muối mặn. Có mặn của mặn mà thanh sắc nặng trĩu âm trắc của người Huế...  Ghê gớm chưa? Lại nghe nói, chính ở Huế là nơi đầu tiên xuất hiện món mắm tôm chua. Tại sao? Dòng ngoại của vua Tự Đức gốc Gò Công, bà Từ Dũ sai người ở quê làm món ăn này cho đỡ nhớ nhà. Từ miền Nam xa lắc xa lơ đó, phải đi dài ngày, khi ra đến kinh đô thì mắm đã lên men chua. Và mắm tôm đó có một mùi vị đặc trưng, cực kỳ độc đáo còn truyền đến ngày nay.

Thật ra, bất kỳ vùng miền nào cũng có những món ăn ngon, với họ vẫn ngon nhất, không nơi nào có thể sánh kịp. Tình yêu quê hương cũng từ đó mà trở thành vết xước luôn khắc khoải trong tâm trí của mọi người. Vết xước ấy không bao giờ lành sẹo. Càng lớn tuổi, càng đi xa lại càng nhớ. Nhớ món ăn mà ngày xưa mẹ đã nấu. Tình cảm chân thật ấy, sống muôn đời vạn kiếp trong nỗi lòng mỗi một người. Chiều qua, vừa ăn bún thịt nướng,vừa nhẫm trong đầu những câu thơ vừa đến. Những câu thơ nối theo, đứt đoạn và hoàn thành sứ mệnh ghi lại một cảm xúc chân tình của lần này đến Huế. Đời sống cứ thế nhẹ nhàng trôi. Trôi nhẹ nhàng cũng một phần là do con người ta tách ra ngoài, đứng bên ngoài các sự kiện thời sự khốc liệt đang diễn ra mỗi ngày.

Nếu chiều qua đã đọc những thông tin này, sức mấy có thể vẩn vơ lơ tơ mơ theo thơ. Thông tin gì vậy? Theo báo TT, chỉ một mùa Tết vừa qua đã có tới hơn 6.200 vụ đánh lộn đánh lạo bươu đầu mẻ trán, cả trăm nhân mạng chết oan chết uổng, chết lãng xẹt; và: “Trong báo cáo tình hình trật tự an toàn giao thông (ATGT) trong dịp Tết Ất Mùi 2015 vừa gửi Văn phòng Chính phủ, Ủy ban ATGT quốc gia cho biết theo thống kê từ Cục Cảnh sát giao thông Bộ Công an, trong chín ngày nghỉ tết toàn quốc xảy ra 536 vụ tai nạn, làm chết 317 người, bị thương 509 người. So với cùng kỳ Tết Giáp Ngọ 2014 thì giảm 40 vụ (giảm 6,9%), tăng 35 người chết (tăng 12,4%), giảm 82 người bị thương (giảm 13,9%)” (báo TT ngày 25.2.2015).

Những con số này nói lên điều gì?

Các bộ óc thông minh nhất, tầm thường nhất cũng thừa biết rằng, lý do chính gây nên sự thương tâm đáng tiếc này vẫn chính từ việc uống rượu, bia "xả láng sáng về sớm"; là hệ thống giao thông, đường xá quá kém. Ai cũng thừa biết, nhưng rồi làm thế nào để thay đổi vẫn còn là bài toán không dễ dàng tìm ra cách giải. Mỗi một ngày, nếu cứ nghĩ đến những con số này, chuyện này thì liệu có thơ? Chắc là không. Ơ hay, vậy thơ đứng ở đâu trong đời sống hiện tại? Thơ chỉ là sự phản ánh tâm trạng của người viết với những sự riêng tư, riêng lẻ hay phản ánh mối quan tâm chung của cộng đồng? Câu hỏi xưa như trái đất, cũ rích, nghe đã nhàm tai, ấy thế, đôi khi tự nó lại trở thành câu tự vấn thời sự của người cầm bút. Có đúng vậy không? Mà thôi, hãy gạt những câu hỏi ấy ra ra ngoài trí óc.

Vừa nghĩ thế, Nàng hỏi: “Anh ơi, tại sao dòng sông Hương của Huế, người ta còn gọi Hương Giang; hoặc gọi sông Bạch ĐằngBạch Đằng Giang… Trong khi đó, chẳng ai gọi sông Hàn ở Đà Nẵng là Hàn Giang; sông Hồng ở Hà Nội đâu có ai gọi Hồng Giang; nào có ai gọi sông Bảo Định ở Tiền Giang là Bảo Định Giang; hoặc gọi sông Đà Rằng ở Phú Yên là Đà Rằng Giang? v.v…Tại sao?”.  Vậy phải giải thích ra làm sao? Ai có biết, xin giải thích giúp. Trong khi chờ đợi, y bèn vận dụng lấy hết mọi sự thông minh mà rằng: “Nàng ơi, tại sao không? Có Hàn Giang đấy chứ nhưng là… dịch giả Hàn Giang Nhạn; có Hồng Giang nhưng là… nhà văn Phạm Hồng Giang và tất nhiên cũng có cả nhà thơ Bảo Định Giang!”. Chưa nói hết câu đã nghe: “Dzô diên!”. Cool

Thôi thì, y bèn lấy lại duyên bằng cách…đọc thơ vậy. Còn gì có duyên hơn khi người đàn ông đó thỏ thẻ thầm thì thủ thỉ nhả ngọc phun châu với bài thơ vừa viết đêm qua. Thơ rằng:

 

HUẾ XANH

 

Huế dịu dàng dữ dội Hương Giang

Dòng sông theo hò hẹn cùng nàng

Tình ta lững thững quên ngày tháng

 

Giữ lại Huế mình cây xòe tán

Tôn nữ líu ríu búp non xanh

Lăng tẩm sẫm rêu chiều Hoàng thành

 

Quán cơm Âm Phủ đêm Vỹ Dạ

Nhạc Rook phố phường thương tiếng “dạ”

Xích lô chầm chậm đẩy trăng lên


Câu hò Huyền Trân loang gió thổi

Nhịp phách đường tơ ru khắc khoải

Tràng Tiền áo trắng nắng khuya quên


Đại Nội sen hồng mượt câu kinh

Ngày tháng tình ta vẫn chín xanh

Gọi Huế mà nghe thơm cả lưỡi…


L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 26.2.2015

phoca_thumb_l_le-minh-quoc-1x

Mẹ (áo đen) và dì Ba trước căn nhà cũ ở Triệu Nữ Vương (Đà Nẵng). Ảnh chụp thập niên 1960

 

Những ngày nghỉ Tết. Về quê ăn Tết. Ngày 24.2.2015 (mồng 6 Tết), sáng điểm tâm ở Alma Courtyard (Hội An); trưa đưa ông bà ở nhà Tẹo (Đà Nẵng) và chiều tối đã đến Ana Mandara gần cửa biển Thuận An (Huế).

Ở Hội An, đã viết nhiều thơ trong sổ tay. Câu thơ chợt đến như sóng vỗ. Như thoáng mây bay qua. Như bước chân lang thang không định hướng. Hội An vẫn thế. Người vẫn đông. Vẫn trò chơi ngày Tết. Vẫn những món ăn quen thuộc. Vẫn không gì khác. Vẫn là sự nghỉ ngơi. Thư giản. Mặc kệ thời gian. Mặc kệ ngày qua nhanh hay chậm. Chẳng thèm quan tâm. Ra cửa Đại nghe sóng vỗ. Trước kia, từ  bàn ăn phóng một tầm mắt mới thấy sóng, nay sóng vỗ dưới chân ngồi. Hỏi ra mới biết, sóng đã lấn vào bờ, đã cuốn bãi bờ và đi sâu vào đất liền hơn 100 mét. Hội An đang có chính sách, kế hoạch kè lại bờ, nếu không cảnh quan dọc biển sẽ thay đổi khốc liệt. Tối mồng 5 Tết ăn tối tại Palm Garden Resort  do chủ nhân là người bạn mời đến. Sáng mồng 6 Tết trò chuyện với anh Nguyễn Sự - Bí thư Hội An. Cũng câu chuyện lan man về vùng đất này. Trong nhiều chi tiết, có cái này thú vị, cần ghi lại.

Lâu nay, nói đến Hội An người ta nhắc đến nhiều món ăn ăn ngon. Ngon đến độ anh chồng trong ca dao phải thốt lên não nùng như lúc xuống xề câu vọng lại sắp hụt hơi:

Hội An trăm thứ đều ngon

Vừa vừa cái miệng kẻo chồng con hết nhờ

Nhưng thử đặt câu hỏi, món ăn nào mà khi chế biến lại tiêu biểu nhất cho tính cách con người Hội An? Chọn lấy cao lầu, cơm gà, bánh tráng đập dập, chè mè đen, chè bắp hay gì khác? Câu hỏi khó quá phải không? Sau một hồi suy nghĩ, anh Nguyễn Sự quả quyết phải chọn lấy món chè đậu ván! Đọc đúng theo âm Quảng Nam, phải là chè đậu doáng? Anh lý giải: “Ở Hội An, chè đậu ván pha đường phèn, một loại cao cấp nhất của đường; bên cạnh đó còn có thêm vị ngọt của đường bát đen, một loại đường quê mùa, rẻ tiền. Sự kết hợp này đã chế biến chè đậu ván có vị một vị ngọt độc đáo. Hơn nữa, khi nấu thì đậu vẫn còn nguyên hạt, không nát. Vậy đó, tính cách người Hội An cũng thế. Họ không phân biệt người sang kẻ hèn; thấy lạ không kinh ngạc, không vồ vập, xerm như tự nhiên, bình thường. Họ có thể giao tiếp với các chủng tộc khác khi đến Hội An, nhưng vẫn không đánh mất bản sắc của mình”. Có phải vì quá yêu vùng đất mình sinh ra và lớn lên, gắn bó cả cuộc đời nên anh Sự đã nghĩ thế? Điều này không cần tranh luận. Mà tranh luận làm gì trong ngày xuân đang phơi phới gió lên có thoang thoảng cả nhang trầm ngày Tết?

Sực nhớ câu văn của Nguyễn Tuân: “Hội An có từ bao giờ và tên cũ của Nó là gì? Là Hải Phố, là Phải Phố?... Hay là Hoài Phố? Tôi không phải là người tra khảo cố sự, nên tôi vẫn cho Hoài Phố là phải hơn. Một cái phố nằm bên sông Hoài... Chao ôi một thị xã Nhớ dựng lên sát một hải cảng Đợi (Cửa Đại), sao mà đất nước mình có những đại danh từ gợi cảm khá nhiều như vậy!”. Nhà văn lý giải về địa danh bao giờ cũng nặng tính chủ quan. Ấy vậy, lại thấy hợp lý hơn cả những công trình nghiên cứu khảo sát dày cả hàng ngàn trang. Nghĩ cho cùng, sẽ chẳng bao giờ có thể truy nguyên gốc, tìm hiểu chính xác vì sao có tên gọi ấy. Cứ cảm nhận theo suy nghĩ của riêng mình, cũng chẳng ai bắt bẽ gì. Tại sao gọi chợ Cồn, gọi quán chợ Đo Đo? Chợ khác gì quán chợ? Tại Sao trên đường ra Huế, đi ngang qua Phú Bài, lại thấy có tấm bảng ghi rõ ràng “làng Phù Bài”. Sao lại “Phú”, sao lại “Phù"? Lại thấy địa danh Hói Mít. Hỏi ra, mới biết, “hói” cũng tựa như khe, lạch nước… Đã từng nghĩ rằng, có ai đó, đi từ Nam chí Bắc, đi đọc Quốc lộ 1 và ghi lại hết các địa danh đã có, chắc chắn sẽ phát hiện ra nhiều điều lý thú mà các nhà nghiên cứu suốt đời cắm cúi với trang giấy cũng không thể có.

Như đã hẹn từ trước Tết, chiều tối mồng 2 Tết, Nguyễn Nhật Ánh cùng vài người bạn văn nghệ ghé nhà Tẹo lai rai mừng Xuân vui Tết. Trong câu chuyện có nhắc đến Nguyễn Tuân. Hầu như ai cũng thừa nhận rằng, ông nhà văn Vang bóng một thời có tài chạm trổ chữ. Tỉa tót từng chữ. Làm mới câu văn, làm mới tiếng Việt bằng cách đặt các từ cạnh nhau vừa tài hoa, vừa kỳ thú, vửa cầu kỳ, vừa oái oăm đến độ có thể tạo ra sự bất ngờ trong nhiều cách liên tưởng khác nhau. Có thể nói, Mai Thảo cũng là một trường hợp không khác Nguyễn Tuân. Cũng ý thức làm mới lại các từ đã cũ nhằm diễn tả một câu văn mới hơn, lung linh hơn mà thú thật, đôi lúc đọc, đuổi bắt suy nghĩ của tác giả cũng mệt. Đọc tùy bút Võ Phiến dễ chịu hơn. Câu chữ giản dị mà chứa đựng nhiều thông tin, nhiều nhận xét tinh tế.

Ngồi ở Cửa Đại một trưa của Tết, của năm mới và ngắm nhìn từng bọt sóng xanh qua ly pha lê trắng toát đã đỏ rượu vang màu mận chín. Gió lên. Gió đã lên. Một chút ngất ngây của men đã tràn qua lưỡi. Qua môi. Chợt nghĩ về phận người khi nghe tiếng sóng vỗ mãi. Vỗ mãi, bên tai. Từng đợt sóng nhẫn nại, quyết liệt với mỗi một khoảnh khắc, từng phút giây không mệt mỏi, không ngơi nghỉ, cứ liên tục, cứ dội vào bãi bờ âm vang một nỗi niềm mà liệu có ai thấu hiểu?

Sóng lấp thời gian - vùi dưới sóng

Ráo riết từng giây đến vạn đời

Ai hay khoảnh khắc trong vô tận

Một cánh chim bay níu lệch trời?

Thế đấy. Sóng biển, từ ngày này qua tháng nọ có đủ quyền lực xóa sạch mọi triều đại, mọi di tích, mọi kiến trúc mọi dấu vết trên trái đất này. Nhưng hỡi ôi, một cánh chim bay trên nền trời kia mong manh là thế, yếu ớt là thế nhưng vẫn có thể níu lệch cả bầu trời. Thì ra, sự hiện hữu của một khoảng khắc cũng không khác gì vô tận. Có nhà văn nào đó đã viết đại ý, nhớ đại khái rằng, một cánh bướm vỗ cánh ở nơi này có thể làm dậy sóng trùng dương nơi kia. Ngồi ở biển, viết được bài Tứ tuyệt trên, tự dưng  y “tự sướng” bởi đã tìm ra một cách diễn đạt về lẽ vô thường. Sực nhớ, Hội An, nơi này, đã có nhiều kỷ niệm của ngày tháng tâm hồn còn trong veo như giọt nước mưa. Rồi tất cả đã xa. Chỉ còn lại một hoài niệm nhẹ nhàng và có lẽ chẳng bao giờ mất đi. Sực  nhớ lúc ngồi ở nhà Tẹo, nghe anh Ánh đọc câu thơ của Phạm Phú Hải. Nghe một lần, là nhớ. Nghe một lần, là quên. Có những câu thơ như “trời cho”. Viết dễ dàng như giỡn chơi mà sẽ chẳng bao giờ có thể viết lại được lần thứ hai:

Giọt sương treo mái hiên đình

Nửa đêm thức giấc hỏi mình tan chưa?

Một câu thơ Thiền. Được viết bởi một người điên. Đã chết. Những đêm này, trong giấc ngủ vẫn còn nghe tiếng sóng vỗ. Không là sóng Cửa Đại. Sáng hôm qua, mới thức giấc, thả hồn theo sóng Thuận An, đang lắng nghe tiếng thông reo, chim hót, đang nhìn hoa nở, bỗng dưng Nàng bảo: “Anh đã đọc gì về cụ Vũ Khiêu chưa?”. Tất nhiên là chưa. Bèn mở Ipad và đọc. Con người ta thường khoái tranh luận. Thường cho rằng ý kiến của mình là đúng. Trời đất ôi! Trên các mạng xã hội ầm ầm các ý kiến lao nhao bình phẩm, phê phán cụ Vũ Khiêu qua tấm hình cụ ôm hôn cô hoa hậu nọ. Nhìn kỹ tấm ảnh. Thử hỏi có gì đáng đem ra chế giễu, cười cợt, miệt thị? Cụ Vũ Khiêu tặng cô hoa hậu câu đối như sau:

“Trí như bạch tuyết tâm như ngọc

Vân tương y thường họa tương dung”

Thích hoặc không; khen hoặc chê là bình thường nhưng quyết không thể chấp nhận thái độ phỉ báng, dè bĩu, khinh miệt người khác. Thông thường khi đọc cái noste nào đó có mùi “gây sự”, “gây cấn”, dù không rành câu chuyện đang xẩy ra, chưa tìm hiểu cụ thể đúng sai thế nào nhưng rồi nhiều người cũng lao nhao bày tỏ chính kiến thông qua các comment. Ai cũng cho mình cái quyền hùa vào mắng xa xả người khác. Nghĩ cho cùng đó cũng là tâm lý “bày đàn”. Vần đề đặt ra trong chuyện liên quan đến cụ Vũ Khiêu là nội dung câu đối ấy ra làm sao, chứ không phải cái hình cụ ôm hôn cô hoa hậu giữa thiên thanh bạch nhật. Đừng nhìn một góc chụp của tấm ảnh mà sổ toẹt nhân cách một con người. Ác lắm. Điểu cáng lắm. Không đàng hoàng. Cái trò chụp mũ này không mới. Chỉ là sự lặp lại ở người này qua người khác. Thế thôi. Không quan tâm.

À! Tập Nhật ký 2013, sẽ in vào tháng 4.2015. Anh Ánh không thích cái tựa đó, đề nghị đổi. Đã hỏi lại anh B, vì anh trực tiếp biên tập nhưng khổ nỗi, anh lại thích và nhận xét: “Viết nhật ký chỉ dành riêng cho mình đọc, không khó. Nhưng viết nhật ký cho nhiều người khác cùng đọc thì khó. Vì nếu chỉ viết về “cái tôi riêng tư” thì ai mà thèm đọc, nên còn phải viết về “cái chúng ta quan tâm” để bạn đọc chia sẻ. Lê Minh Quốc đã chọn cách viết khó, và đã đưa nhật ký của anh lên mạng xã hội để bạn đọc góp ý, trước khi in thành sách. Nhật ký của Lê Minh Quốc có thể xem như một dạng sổ tay ghi chép những sự kiện văn hóa xã hội đã xảy ra trong năm 2013 và cảm nghĩ của anh. Anh đã khôn khéo khi viết về “cái tôi riêng tư” bằng những bài thơ tự sự nên bạn đọc dễ cảm thông. Như câu thơ: "Trong tôi còn chút quê nhà/ Vẫn xin giữ lại dẫu là nhà quê". Một trong những “cái chúng ta quan tâm” là ngôn ngữ Việt. Vì “tiếng ta còn, nước ta còn”. Anh đã chịu khó tra cứu những từ cổ và từ mới, giúp bạn đọc hiểu rõ ngữ nghĩa để sử dụng chính xác. Chỉ một điều nhỏ đó thôi cũng đáng để chúng ta tìm đọc Ngày trong nếp ngày”. In bìa 4, bên cạnh đó còn có cả ý kiến của Đoàn Tuấn nữa. Nếu được, cũng in luôn Nhật ký 2014, trong năm này.

Còn ngủ ở Ana Mandara một, hai đêm nữa. Sau đó, về Đà Nẵng ngắm sóng Mỹ Khê. Và sẽ vào lại Sài Gòn. Chỉ nghĩ đến sự nhộn nhịp, tất bật, ồn ào mà đã oải chè đậu rồi. Tết ơi là Tết!

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 20.2.2015

 

tet_2915_le_minh_tuan

Vơ chồng em út  LÊ MINH TUẤN - Tết 2015

 

Sáng 30 Tết. Lúc 10g sáng đã có mặt ở sân bay. Theo thông báo, mọi hành khách phải có mặt làm thủ tục trước 3 tiếng đồng hồ. Tưởng sẽ gặp cảnh rồng rắn nối đuôi nhau, không hề, sân bay vắng, ít người. Làm thủ tục nhanh chóng. Phải làm gì cho đến giờ bay của chuyến VN 120 vào lúc 13 g45? Thì làm thơ. Y có thói quen đó và luôn áp dụng trong những trường hợp muốn viết cáigì đó ở chốn đông người. Lúc ấy, cắm cúi. Mê mải. Suy tư. Và bài thơ đã viết xong. Ban đầu dự định viết về chuyện người đàn ông cuối năm đi chợ Tết. Chẳng rõ cảm hứng lan man rồi vần nối vần, chữ đuổi chữ thế nào mà bài thơ lại rẽ sang một hướng khác. Bài thơ như sau:

đáng yêu là anh

anh thanh lịch, đẹp trai lại lịch lãm đàng hoàng

ngày đầu xuân đi chợ

đi chợ ừ đi chợ

nàng dặn gì thì nhất quyết phải mua

này lụa là đà điệu se sua

kìa mặn mòi những lời ăn tiếng nói

nọ mây trắng trời xanh cùng nắng mới

anh vốc đầy tay hào hứng chất chật nhà

vườn địa đàng ríu rít oanh ca

anh bếp núc cũng là anh nấu nướng

anh gieo vần chữ nghĩa du dương

câu thơ cười đùa

ngọn lửa cháy bập bùng tươi sáng quá

món ăn ngon diệu kỳ như phép lạ

vừa mới vươn vai da thịt đã rần rần

cảm hứng từ đầu lao vút xuống tận chân

anh hào hứng nhịp nhàng theo trang viết

dòng đầu tiên vuốt ve mắt biếc

nàng má hồng, môi đỏ một màu son

bươm bướm quay về khiêu vũ cánh hoa thơm

anh mơn trớn nâng niu từ A, B, C đến tận cùng Y, Z…

từng dòng chữ không hề chấm hết

không chấm câu cứ hối hả thong dong

cỏ xanh

                  mây trắng

                                      bến vắng

                                                       dòng sông

thảo nguyên

                        mênh mông

                                                   tình non

                                                                      phơi phới

dòng chữ trắng trở mình trang giấy mới

ngày nồng nàn

                              bếp lửa vẫn reo vang…

Có thể đặt tựa bài thơ giản dị: “Món ăn ngon”. Ai hiểu sao thì hiểu. Mỗi bài thơ, mỗi người có cảm nhận khác nhau. Chẳng hề gì. Sung sướng nhất là người sáng tạo hay người cảm nhận sáng tạo? Khác hẳn mọi ngày, sân bay chiều 30 Tết có khác. Người ta lặng lẽ hơn, ít nói cười ồn ào. Những gương mặt đăm chiêu và hầu như có thoáng nghĩ ngợi xa xăm gì đó. Nhìn chung, các gương mặt đều hiền lành. Tại sao? Có lẽ do khoảnh khắc ấy, ai ai cũng nhớ về sự đoàn tụ, sum họp nên mọi tị hiềm, sân si, hỉ, nộ, ái, ố đều gạt bỏ ra ngoài. Ca khúc “Ngày Tết quê em” của Từ Huy lại reo vang, nhẹ nhàng, hào hứng như gợi thêm nôn nóng cho mọi người. Tết ơi.

Mấy ngày cuối năm cơm nước, ngủ nghỉ thất thường. Lúc lên máy bay, y đọc nhảy cóc. Đọc qua loa. Đọc ngủ gà ngủ gật với tờ Heritage số tháng 1.2015. Đây là tờ báo chỉ phát hành trên máy bay, chứ không bày bán ngoài sạp. Số báo này, có mấy thông tin thú vị. Chỉ ghi lại đôi dòng này. Ghi để nhớ mà cũng là để học:Bàn thờ Tết: Tết Nguyên đán vốn được coi là thời khắc các thế hệ cháu con và tổ tiên được tụ họp. Nhà nhà dâng mâm cúng giúp thế giới người trần được giao tiếp với thế giới âm ti hữu hình. Bên cạnh các đồ cúng, mỗi bàn thờ của người Việt phải có hai đèn dầu hoặc hai ngọn nến tượng trưng cho mặt trời và mặt trăng. Chúng soi tỏ đường đi cho người đã khuất quay về dương gian và phù hộ cho người sống được khỏe mạnh, thành đạt. Ba nén hương là tượng trưng cho “Thiên, Địa, Nhân” giao hòa tuyệt đối. Lá trầu, cau và một bát nước xếp theo lối “đông bình, tây quả”: bát nước bên tay phải, trầu cau bên tay trái. Nước là ngọn nguồn của sự sống và trầu cau là quả của nghiệp sinh sôi mà thành. Ở giữa bàn thờ là mâm ngũ quả”. Sực nghĩ, văn hóa Việt linh động, thay đổi, biến hóa khôn cùng. Tùy mỗi vùng miền mà mâm ngũ quả có biến đổi khác nhau. Tựu trung, vẫn nhằm thể hiện khát vọng về một cuộc sống tốt đẹp hơn, vạn sự hanh thông, năm sau phát đạt, mua may bán đắc hơn năm trước.

Bước xuống sân bay lúc 15g. Trời lạnh 26 độ. Chừng mươi năm trước, có lần bước xuống sân bay, sộc vào mũi là một mùi biển mặn. Biển của Mỹ Khê. Biển của Thanh Bình. Biển của Tiên Sa, Non Nước. Biển của ngày tuổi nhỏ. Vì như thế, ngay lập tức có cảm giác trở thành một con cá đang bơi. Bơi dưới vòm trời Đà Nẵng. Chiều 30 Tết này, quái quỷ thật bởi thời tiết se lạnh, nền trời u ám, nắng nhạt và tự dưng cảm thấy tê tái một nỗi lòng hoài cổ của người đi xa được về quê ăn Tết. À, thì ra, cái bầu trời xám nắng kia, cơn gió hiu hiu lành lạnh nọ mới là nỗi ám ảnh không dứt từ lúc mới oe o e cho đến ngày đã ngoài “ngũ thập”. Đà Nẵng đó. Đà Nẵng của tuổi thơ. Tẹo đón tại sân bay và chở một vòng qua chợ hoa ngày Tết. Hoa nhiều. Hoa vàng cả con phố. Hoa thắm những cung đường. Hoa trong lòng của mỗi người, tưng bừng đua sắc.

Chiều cuối năm ngồi trước nhà cũ lai rai bia bọt cùng anh Tâm, Tẹo, Sanh, Nghĩa, Anh. Rồi lên nhà Sanh ăn Tất niên. Đêm quay về nhà, lại bia bọt chút đỉnh. Những tưởng sẽ đón giao thừa mọi năm, lúc 24 giờ, nhưng rồi cũng không thể. Xác thân của 365 ngày cũ đã đi hết từng giọt mệt mỏi, đi qua từng mạch máu, đi đến tận cùng và cảm thấy muốn rũ xuống như một tàu lá chuối. Mệt đến rã rời. Cảm tưởng thân xác đã bã, đã nhầu nhĩ đến mức như cây đã héo, đã không còn một chút sinh lực nào. Do đó, phải ngủ. Dù gắng gượng thêm một phút một giây cũng không thể cưỡng nổi cơn bão, cơn gió lốc của cái sự buồn ngủ đã ập xuống hai con mắt. Một giấc ngủ thật ngon lành. Ngủ để chờ và đợi mồng Một Tết.

Vâng, đúng như thế. Sáng mồng Một Tết lên mộ ba thắp nhang. Trưa về khoái khẩu với bê thui cầu Mống. Chiều lên nhà Bảo, bạn thời chiến trường K, tối lên nhà thờ ông bà ngoại thắp nhang. Một ngày đầu năm nhẹ nhàng đi qua. Trưa nay, mồng 2, lai lai ở nhà Nghĩa. Cũng như mọi lần, kỷ niệm năm tháng chiến trường lại nhắc về, nhớ đến. Chiều nay, nhà văn Nguyễn Nhật Ánh và vài bạn bè đến nhà Tẹo lai rai. Tối nay vào Hội An với Nàng. Muốn viết thêm đôi dòng. Mà thôi.

Ngày mồng 2 đã sắp hết rồi đó Q ơi

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 15.2.2015



qua-tang-cua-6-du

 

Người đi trên đống tro tàn

Thương cha nhớ mẹ hương vàng về đâu?

Những chiều cuối năm, đi ngoài phố, thoáng thấy khói vàng mã nhẹ nhàng lan tỏa trong nền không gian đô thị Sài Gòn, tự dưng lại nhớ. Nhớ ca từ của Phạm Duy. Hát thầm một mình. Vừa đủ nghe. Và tự dưng rưng rưng nước mắt. Câu chữ ấy, giai điệu ấy ma mị, huyền hoặc thế nào mà mỗi chữ nhịp nhàng sáu tám khi ngân vang trong lòng lại hóa thành từng giọt lệ? Sáng nay, rủ bạn thơ Trương Nam Hương đi cắt tóc. Anh cho biết cuối năm là lên dịp chùa cầu siêu cho mẹ. Hương có bài tứ tuyệt viết ngày mẹ mất. Đọc lên và nhói đau. Đọc thật chậm và lắng nghe tự lòng mình:

Đưa mẹ vào Tháp cốt

Quay về, con bần thần

Quên hóa vàng đôi guốc

Lên đó người lạnh chân

Tê buốt tâm hồn, từng chữ. Lạnh buốt mắt môi, từng câu. Bạn bè chơi với nhau chừng đã 30 năm, càng quý bạn qua những câu thơ bạn đã viết. Thơ về mẹ. Trong đời ai cũng viết. Lâu quá không gặp Đỗ Trung Quân, những ngày này lại nhớ câu chữ đằm thắm một nỗi niềm man mác lúc anh rải một ít hài cốt của mẹ xuống sông Sài Gòn:

Mẹ ta tro bụi trên sông

Xuôi bèo hoa nẻo hư không mẹ về

Nhiều hoa trắng rợn bốn bề

Trần gian thêm một kẻ về mồ côi

Từ đây chỗ mẹ ta ngồi

Mây như tóc trắng

Rối bời

Mây qua

Sau này, năm 1994, lần đầu tiên Hà Nội, anh lại rải một ít, tượng trưng xuống Hồ Gươm và nhủ thầm: “Mẹ ơi, con đưa mẹ về quê”. Trong đời, ai cũng từng gọi mẹ nhưng tiếng gọi lúc ấy đậm đặc tiếng lòng bơ vơ của sự lẻ loi, đơn độc nhất. May quá, y vẫn còn có mẹ. Niềm sung sướng nhất đời người, khi đến một độ tuổi nào đó càng thấm thía, nâng niu, quý trọng, gìn giữ chắt chiu trong lòng cụm từ “vẫn còn có mẹ”. Những ngày cuối năm, ngày rất ngắn. Những ngày ấy, ai ai cũng nghĩ về gia đình. Có lẽ ở ngoài quê, những ngày này, anh em y đã lên giẫy cỏ trên mộ của ba. Rồi sáng một mồng Một, anh em tề tựu nhang khói. Cuộc gặp gỡ của Âm và Dương, ngay tại mộ. Mà cũng có thể trước đó, "những người muôn năm cũ" đã về hội ngộ trong lễ cúng rước ông bà về sum vầy cùng con cháu. Nhang khói, nghĩ cho cùng đó là sự kết nối giữa Hiện tại và Quá khứ. Và tiếng kinh cầu cũng nằm trong ý nghĩa thiêng liêng đó.

Sống trong đời, đôi khi niềm vui đến thật tình cờ, không hò hẹn trước. Mới đây, anh Sáu Du - một nhà báo lẫy lừng đã về hưu tìm đến cơ quan y và tặng quà Tết. Không nhớ đã gặp anh lúc nào, chơi với nhau tự thuở nào nhưng rồi hễ cuối năm, anh lại đến thăm. Hỏi han đôi câu. Chỉ chừng dăm ba phút mà cảm động biết bao. Dạo này anh bị điếc, đôi lúc phải “bút đàm”. Anh bảo: “Thăm Q một chút, anh vào bệnh viện đây”. Hỏi kỹ, mấy tháng nay vợ anh bị tai biến phải nằm một chỗ, ngày ngày anh chăm sóc, túc trực cơm nước. Thoáng nghĩ đã thấy nhọc nhằn. Vậy mà, anh tâm tình nhẹ nhàng như không, như thể đã tình chồng nghĩa vợ thì phải thế, chấp nhận hạnh phúc đã và đang có. Chẳng rõ, vì lý do gì quà tặng của anh còn có cả quyển Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật. Dạo này anh dành nhiều thời gian nghiên cứu về Phật học. Có như thế, anh mới nhìn cuộc đời độ lượng và thong dong. Bây giờ, nhiều bạn bè văn nghệ của y, khi có tuổi hầu như nhiều người quay về với Tôn giáo. Bạn thơ Trần Ngọc Tuấn ở Đồng Nai cũng là một trường hợp. Nhờ thế, anh có được bài tứ tuyệt Không đề, đọc một lần bâng khuâng mãi:

Bạn mới tìm chưa thấy

Bạn cũ ngày thưa dần

May còn đôi cánh bướm

Cứ rập rờn trước sân

Quà tặng cuối năm thì nhiều, nhưng cần ghi lại trường hợp này.  Hôm nọ, nhà văn Bích Ngân tặng cho một ít sách và vài ký khô cá sặc. Cảm động ở chỗ, chị còn điện thoại dặn dò thân tình: “Q nhớ cho vào ngăn mát tủ lạnh. Khi ăn có thể chiên hoặc nướng, chỉ vừa chín tới là ngon”. Ngon còn ở cái tình nữa. Ngon ở lời dặn dò của bạn văn vào trưa ngày 27 Tết, lúc ngoài đường phố tấp nập ngựa xe nghe tiếng được tiếng mất mà lạ thay, trưa nắng gắt, ầm ầm âm thanh mà cứ ngỡ như đang ở miệt vườn An Giang, Cà Mau giữa mênh mông sóng nước nghe vọng lên trong trẻo câu hò:

Chèo vô núi Sập

Lựa con khô cá sặc, cho thiệt ngon

Lựa trái xoài cho thiệt giòn

Đem ra Long Xuyên lựa gạo cho thiệt trắng, thiệt thơm…

Em về dọn một bữa cơm

Để người quân tử

Hò ơ…

Để người quân tử ăn còn nhớ quê…

Vâng, tặng quà cho nhau là tặng cái tình. Hôm trước, mới đây thôi, trên đường đi làm về, tạt vào sạp bán sách báo. Chủ nhân là cô giáo, biết vì lâu nay hay ghé mua báo và hỏi han dăm câu xã giao nhưng chẳng rõ cô dạy trường nào. Ngay lúc ấy, có cặp vợ chồng trẻ đến tặng quà Tết, cô giáo nhất định không nhận: “Em mang về đi. Mấy hôm nay lu bu, bận rộn quá nên cô chưa sắm Tết. Chẳng lẽ cô nhận quà của em mà không tặng lại gì?”. Cô nhất quyết không nhận, đôi vợ chồng năn nỉ nhưng cô vẫn không xiêu lòng. Rồi nghe loáng thoáng, rõ ràng từng chữ: “Cô đừng ngại. Qua năm cô tặng... điểm cho cháu cũng được”. Thử hỏi cuối cùng cô giáo có nhận quà hay không? Nhận hay không nhận điều đó có thể xẩy ra, nhưng quan trọng nhất là một trong hai tình huống đó, cô giáo đã trả lời thế nào? Có thể, đây một truyện ngắn hay.

Truyện ngắn hay là hay ở cái kết thúc bất ngờ cuối cùng chăng? Nghĩ thoáng qua, truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp hay ở đối thoại sắc, bén đến lạnh người; ở Nguyễn Nhật Anh hay ở tình tiết dí dỏm, thông minh khiến người đọc thỉnh thoảng tủm tỉm cười một mình, cái cười ấy khó có thể kể lại nhưng biết rằng nó đậm đà, khó quên; ở Nguyễn Đông Thức hay do các tình huống bất ngờ và đôi lúc tàn nhẫn như sự việc vốn có; ở Đoàn Thạch Biền hay ở chỗ tính cách nhân vật lãng đãng thật thật mơ mơ, như thật như đùa, như “ông” và “em” tréo ngoe một cách dễ chịu nhưng không kém phần tinh nghịch, láu cá...

Nghĩ gì nữa?

Đi ngoài phố, cuối năm rồi. Đi chậm thôi. Có đi chậm, mới có thể nghĩ ngợi linh tinh lang tang đôi điều.

Lại nghĩ rằng “gừng càng già càng cay”, đó là trường hợp cụ Vương Hồng Sển. Chẳng rõ, có ai còn nhớ câu rao này ở Sài Gòn của khoảng thập niên 1930 không? Câu như sau: “Đầu đội kẹo, miệng rao chơn chạy, kêu bớ bộ hành, ai mua kẹo tôi bán cho”. Câu này rao như thế nào? Trong di cảo Dỡ mắm, cụ Sển viết: “Câu này của Năm Sa Đéc đố tôi, viết cuốn 50 năm mê hát, mà hát được câu này chăng, giao “đầu đội kẹo”, phải hát giọng hát khách, “miệng rao chơn chạy” phải bắt giọng bắt qua tẩu mã, “kêu bớ bộ hành”, phải hát giọng Tiên Bửu đưa đò, “ai mua kẹo, tôi bán cho” phải hát giọng Nam ai cho mùi mẫn, cất lên mấy chữ chót giọng Nam xuân và hát dựng, cho hiểu ngầm tương lai mạng vận còn hy vọng cất đầu lên chớ không khổ vầy hoài”.

Thú vị chưa? Học một đời cũng không hết chữ.

Chiều nay, ngồi với anh B và Cao Xuân Sơn một chút. Sẽ hỏi thăm Sơn về sức khỏe của bà cụ thế nào rồi. Vào  khoảng thời gian giáng sinh năm rồi, mẹ của anh bị té, gẫy xương, phải nằm một chỗ. Ở tuổi ngoài 80 xuân, làm sao có thể mổ sắp xếp lại xương cho thẳng thớm, ngay hàng thẳng lối? Mà bạn mình ơi, “vẫn còn có mẹ” để được chăm sóc mỗi ngày đã là hạnh phúc, niềm vui sướng nào sánh bằng? “Mỗi mùa xuân sang / Mẹ tôi già thêm một tuổi / Mỗi mùa xuân sang ngày tôi xa Mẹ càng gần / Rồi mùa xuân ấy, tóc trắng Mẹ bay / như gió, như mây bay qua đời con / như gió, như mây bay qua thời gian”. Nhạc Trần Long Ẩn. Nghe một mình trong một chiều đã 27 Tết tự dưng rưng rưng một nỗi niềm hun hút gió buốt tự lòng mình. Ngoài trời đã chiều một màu nắng chiều khô ráo phía trước sân vòm cau đang xanh mướt lá. Đang nghĩ gì trong lòng hả Q? Chẳng nghĩ gì nữa bởi đang nghe, đang lắng nghe một tiếng nấc tự trong nhịp đập khắc khoải của bóng chiều cuối năm lãng đãng những sợi khói vàng mã nhẹ tênh đang chậm rải đang tỏa dần vào hư không:

Người đi trên đống tro tàn

Thương cha nhớ mẹ hương vàng về đâu?

 

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

Trang 28 trong tổng số 58