LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 11.11.2015



honi-huong-1-R-1967

 

Vừa rồi trên Tuổi Trẻ Online (07/11/2015 21:47), bạn đọc Đ.T cho biết đã căn cứ từ Tạp chí Chọn Lọc in 1965 “Xin tạm nêu ra vài từ” về tiếng lóng. Nếu chu đáo hơn phải cho biết cụ thể số báo, năm tháng phát hành số báo đó. Những từ đó một thời thịnh hành tại Sài Gòn, nay hầu như “tiệt chủng”. Thiết nghĩ, việc làm này rất đáng hoan nghênh. Ít nhiều cho biết lời ăn tiếng nói của một thời. Tiếng lóng không tồn tại mãi mãi, nó sẽ mất theo năm tháng. Cùng một sự việc, sự vật nhưng mỗi thời có cách diễn đạt khác nhau. Theo định nghĩa của Từ điển tiếng Việt do Viện Ngôn ngữ biên soạn (NXB KHXH 1986), tiếng lóng: “Cách nói một ngôn ngữ riêng trong một tầng lớp hoặc một nhóm người nào đó, nhằm chỉ để cho trong nội bộ hiểu được với nhau mà thôi”.

Bài viết Người Sài Gòn giờ không thấy xài mấy tiếng lóng này nữa của bạn Đ.T, có đoạn như sau:

“Dầu cù là: bản thân dầu cù là không thể là tiếng lóng, nhưng ở đây có nghĩa là “Đảng Cần Lao”. Từ này xuất hiện cuối thập niên 1950, đầu 1960. Đó là khoảng thời gian cầm quyền ở miền Nam của chánh quyền Ngô Đình Diệm. Giới viên chức thường hỏi nhau: “Ê, ông có bôi dầu cù là không?”, là có ý hỏi: “Ông có chân trong đảng Cần Lao không?”. Có “bôi dầu cù là” thì thế nào cũng được nâng đỡ về mọi mặt vì Đảng đó do chính quyền Diệm -Nhu lập ra.

Tây hạ thành: mỉa mai những cái gì cổ lổ, cũ kỹ quá xá. Chẳng hạn như có người mặc cái áo cũ mèm, người ta bảo: “Cái áo đó có từ hồi Tây hạ thành”, tức là có từ cả trăm năm, từ khi người Pháp đánh thành Hà Nội. Không chỉ nói về những món đồ, từ này còn nói về khái niệm phi vật thể, kiểu như ông nào đọc diễn văn dùng nhiều từ cổ quá lủng củng và có khi biền ngẫu thì bị gọi là dùng ngôn ngữ “Tây hạ thành”. Từ này na ná như từ hiện nay cũng còn một số người xài: thời Bảo Đại ở truồng.

Con cháu nhà Hán: Trong cuốn “Hán Sở tranh hùng” có chuyện vua Hán Cao Tổ vốn họ Lưu, sau này phá tan được nhà Tần lên làm vua lập nên nhà Hán. Vì vua nhà Hán họ Lưu nên người ta dùng chữ “con cháu nhà Hán”  để chỉ những người có tánh “lưu... manh” khó chơi.

Phỗng: Khi đánh bài tổ tôm, khi ta đánh ra hai quân bài giống nhau, người khác đánh ra một quân giống hệt, ta có quyền “phỗng”. Đáng lẽ quân bài đó người ngồi mé trên ta có thể ăn để ghép vào cỗ bài của họ nhưng ta có đôi sẵn trong tay, ta có quyền kéo quân bài đó về phía mình, đó là ”phỗng”. Người ở mé trên mình bị nâng mất quân bài đáng lẽ mình được, tức là bị phỗng tay trên. Từ này người gốc Bắc nói nhiều hơn.

Khổng tử viết: Thập niên 1950, 1960 cả nước mới thoát ra khỏi chế độ phong kiến chỉ năm mười năm, nền nho học đã tàn lụi trước đó xa hơn chút nhưng vẫn còn kha khá những người theo nho học, nệ cổ. Có anh đạo đức dù không tới nơi nhưng lúc nào cũng làm ra vẻ nhà nho đạo mạo nghiêm cẩn. “Khổng tử viết” tức là “Đức Khổng tử có nói”, trong các sách Tứ thư, ngũ kinh, các danh sĩ Trung Hoa xưa mỗi khi muốn dạy ai thường lấy câu này ra để dựa cho chắc ăn. Thế là khi dân Sài Gòn ngán các anh hủ nho nói trên khi họ muốn lên lớp ai thì gọi là “Khổng tử viết”, muốn chỉ cho thấy rằng anh đọc sách nho học như con vẹt, chẳng thèm suy nghĩ gì.

Hia: Có nghĩa là cắt xén. Ai có tóc dài, râu dài thì bị nhắc phải ...hia bớt đi, phải cắt ngắn đi. Hia còn có nghĩa là ném, vứt, lại có nghĩa là khuân vác. Ví dụ như: “túm cổ, hia ra ngoài!”, hay “hia vài bao vô đây!”. Không ai biết tại sao có từ này, nhưng giới lính tráng miền Nam trước đây dùng nhiều.

Nghe lại những từ lóng này, có thể hình dung những ngữ cảnh cụ thể mà bây giờ những người trẻ không thể hình dung ra được”.

Đọc xong bài viết của Đ.T, thích lắm nên bèn tìm kiếm một vài tư liệu khác bổ sung thêm, chẳng hạn, căn cứ từ Tạp chí Hồi Hương số Xuân Đinh Mùi (1967) ấn hành tại Sài Gòn. Do tạp chí này in typo, phổ biến nội bộ nên có lẽ chẳng mấy ai còn lưu giữ, có sự cộng tác của càng cây bút nổi tiếng như Huỳnh Phan Anh, Quách Thoại, Thanh Tâm Tuyền, Nhã Ca,  Minh Đức Hoài Trinh, họa sĩ Thái Tuấn, Nguyễn Trung… Thập niên 1960 ấy, tác giả bài viết là TMQ ghi nhận “Tiếng lóng mới”. Ấy thế, nay đã cũ rồi, thậm chí cũng có từ đã “tiệt chủng”, có từ có ngắc ngoải như những từ mà Đ.T vừa nêu trên.

“Xin tạm nêu ra vài từ” bổ sung thêm về tiếng lóng:

Ác, ác ôn, ác liệt, ác địa: có nghĩa là hay, số dzách, đặc biệt khác đời, hách, le… “Tao vừa mới quen được một nàng đẹp ác”.

Bay bướm: Trạng từ hay tĩnh từ có nghĩa là hay ho, ngon lành, số dách, có tính cách tài hoa. “Hai tên kia nhảy nhót bay bướm một cây”.

Chưởng lực: Lấy trong các truyện kiếm hiệp Tàu có nghĩa là tài cán, khả năng. “Chưởng lực mày còn yếu quá, sức mấy mà cạnh tranh nổi với tớ”.

Một chưởng: Một cú, một đòn, một vố cũng lấy từ truyện kiếm hiệp. “Tớ vừa bị nàng cho một chưởng còn ê cả người”.

Đi một đường lả lướt: Làm một việc hết sức bay bướm. “Hôm qua mình cố đi một đường lả lướt với em, nhưng có một tên mất dạy nó đi đường lả lướt hơn”.

Lại có một sự: Thay vì nói có chuyện gì, việc gì. “Lại có một sự ăn nhậu tối nay”.

Láng: Tùm lum, lung tung, không có trật tự. “Bữa nay đi cắm trại tớ ăn láng hết”.

Quê một cục: Quê mùa, đần độn, cù lần. “Thằng ấy quê một cục”.

Tám, chín: Cái tên dùng để chỉ bất cứ ai, như cái tên Charlie của Mỹ. “Bỏ đi Tám/ Thôi mà, Tám/ Giỡn hoài, Chín”…

Teo: Đồng nghĩa với “lúa”, “Hắn hỏi mãi làm mình teo luôn”.

Như điên: Diễn tả sự tột bực, sự hăng say. “Sài Gòn dạo này các cô phóng xe như điên”.

Ông bạn dân chủ: Chỉ các ông bạn người Mỹ. “Các ông bạn dân chủ coi bộ hiểu mình hơn so với lúc trước”.

Quái xế, vồ xế, thổi nghẽo, mõi, thổi: Có nghĩa là ăn cắp xe. “Vừa mới để xe ở đây có năm phút mà mà ông tướng nào thổi mất rồi.

Nghèo mà ham: Không hội đủ diều kiện mà muốn cho cố. Chẳng hạn, thấy một thằng hết sức cù lần chạy theo một cô hết sức lả lướt, có thể nói: “Thằng ấy, nghèo mà ham”.

Còn lâu, còn khuya, tới Tết Ma-rốc, Tết Công-gô, Tây ăn trầu: Dùng để chỉ một sự việc khó bề xẩy ra. “Còn khuya cậu mới tán được cô đó/ Bao giờ anh lên chức? - Tết Ma-rốc”.

Chết lính: Dùng để chỉ một hành động có phương hại đến nhiều người, gây hậu quả không hay cho nhiều người. “Chị làm vậy chết lính rồi còn gì, trời!”.

Ngoài ra còn có thể kể thêm vài từ nay còn sử dụng như “chém, cứa” có nghĩa là tính quá mắc tiền: “Cái quán này chém ác”; “bịnh”: tương đương với dở, yếu, kém, bậy quá. “Có những tên không giúp hội bao nhiêu mà chỉ trích cái này, cái nọ, bịnh quá”; “chịu chơi”; “chơi chịu”; “gà chết, gà nuốt dây thun”; “mừng hết lớn”; “là cái chắc” v.v…

Tất nhiên,vẫn chưa đủ.

Tham khảo nhiều bạn bè, tạm thời liệt kê thêm: "sức mấy mà buồn”; "quá cỡ thợ mộc" (hết cỡ, vượt ra ngoài khuôn khổ), “mút mùa Lệ Thủy” (chỉ thời gian xa thăm thẳm), "xưa rồi Diễm" (chuyện đó cũ xì, cũ mốc rồi), "mát trời ông Địa" (chỉ trạng thái hài lòng, hả hê sung sướng), “hết xẩy” (chắc như bắp rang, không trật vào đâu nữa), “kênh xì bo" (nhìn đểu có ý gây sự), "luyện chưởng” (đọc truyện kiếm hiệp), “đi bốn vùng chiến thuật" (đi khắp nới khắp chốn, từ đồng bằng, hải đảo đến cao nguyên), “đi vùng 5" (đi về âm phủ); . "xi cà que” (người bị tật ở chân, hàng kém chất lượng), “nâng bi” (nịnh bợ),  “xôi cồ” (ngực to), “khô mực” (cà-vạt), “lặn” (đi trốn), “địa” (bị theo dõi), “con ghệ” (con gái), “cớm” (cảnh sát) “cớm chìm” (công an), Sơ-mi gỗ (quan tài), “vãng tuồng” (kết thúc). "tận cùng bằng số" (bắt chước theo cách báo tin kết  quả sổ số kiến thiết, qua đài phát thanh; có nghĩa mọi việc, việc đó đã xong xuôi, không còn có cơ hội làm lại)…

Còn gì nữa không ta? À, còn chứ! Chẳng hạn, “thanh minh thanh nga” (giải bày chuyện oan ức), "đổng" (đồng hồ), "lấy le" (phô trương, tỏ ra là người quan trọng), “lúa rồi” (toi rồi); 'làm tàng' là ỷ mình hơn người mặt nào đó thì coi thường người khác, “hầm bà lằng, búa xua, tá lả (lộn xộn), "xế" (xe), “xế điếc” (xe đạp), “xế độ” (xe máy lên đời), xế hộp (xe hơi), “bá chấy bò chét” (hết xẩy, tuyệt), chị em ta (gái mại dâm), “bề hội đồng” (hiếp dâm tập thể), “lết bánh” (xỉn quắc cần câu), “chơi líp ba ga” (chơi tới bến, “chơi xả láng sáng về sớm”), “chơi cho đáng mặt bầu cua cá cọp” (chơi đàng hoàng, chơi ra chơi, không ba que xỏ lá), “dân chơi Cầu Ba Cẳng” (dám làm mà không dám chịu)…

Chà, còn gì nữa không ta?

Chiều rồi, tiếng chuông chùa đối diện nhà đang ngân vang câu kinh tiếng kệ. Thôi thì, vừa lắng nghe vừa viết thêm đôi dòng nữa.

“Xệ” (quê quá xá là quê), “quê xệ/ quê một cục/ quê độ”, “mát dây diện” (hâm, khùng, tàn tàn, điên điên), “chó lửa” (súng lục), “leo cây” (chờ đợi theo lời hứa nhưng người đó xù luôn, không đến), “đô" (bự con), “35 dê” (chỉ  người có máu dê xồm), "cùi" (chuyện đó không thể xẩy ra/ “Cậu mà tán được hoa hậu X thì tớ cùi”, “mới cáo cạnh/ mới cáo xèng (mới 100%), “đổng” (đồng hồ đeo tay); "xí xọn/ xí xa xí xọn”, “xì trum” (ảnh hưởng từ truyện tranh Xì trum, động từ dùng đa nghĩa cho trong nhiều trường hợp/ “Em cho anh xì trum một cái nhá? - Khỉ, xì trum nè anh! Ở đó mà đòi hun với hít, còn lâu) v.v…

Trong văn chương, nhiều nhà văn cũng sử dụng tiếng lóng, điều này giúp cho nhà văn khắc họa rõ nét được tính cách nhân vật.

Tiêu biểu nhất có lẽ là tác phẩm Bỉ vỏ của nhà văn Nguyên Hồng. Ông viết vào năm 16 tuổi, lúc vừa mới được ra khỏi tù. Do có được một vốn sống phong phú và một kho ngôn ngữ dồi dào, nhà văn Nguyên Hồng đã thành công khi xây dựng những nhân vật dưới đáy xã hội. Thử một ví dụ: “Tối nay, các tay anh chị họp đủ mặt ở nhà Năm Sài Gòn. Người mặc quần lĩnh, áo nhiễu tây trắng cổ bẻ, chân xỏ xăng-đăn bốn quai, là Tư Lập Lơ, trùm chạy vỏ trong chợ sắt”. Tại sao phải là chạy vỏ mà không là chạy dọc? Vì hai cụm từ này để chỉ kẻ cắp kia mà! Hãy nghe nhà văn nói: “Chạy vỏ để chỉ chung những ăn cắp đường, ăn cắp chợ. Còn kẻ cắp trên tàu thủy, tàu hỏa hay ô tô là chạy dọc”. Thử trưởng tượng, chúng ta loại bỏ tiếng lóng của Năm Sài Gòn, đại loại như những câu thơ mà hắn đã than thở:

Anh đây công tử không vòm
Ngày mai kện rập, biết mòm vào đâu.

Hoặc:

Không vòm, không sộp, không te
Niễng mũn không có ai mê nỗi gì?

(vòm: nhà, kện rập: hết gạo, mòm (chính là mõm): ăn, niễng mũn: một chinh). Những tiếng lóng ấy thay thế bằng tiếng phổ trông thì rõ ràng tính cách Năm Sài Gòn bị mờ nhạt đi nhiều lắm.

Nghĩ rằng tiếng lóng, mỗi thời đại đều được thay đổi. Chẳng hạn, thời Bỉ vỏ trong xã hội có mật thám và đội xếp nên mới có tiếng lóng cớm chùng và cớm tẩy. Còn bây giờ thì giới giang hồ nói: “cớm mún quả tớm” nghĩa là “công an bắt quả tang”. Xin thử liệt kê một vài tiếng lóng thời vi tính: bẻ đê (giật đồng hồ), ăn đọp (ăn cắp súng), móc mắt (ăn cắp vặt), nàng áo đỏ (xe DD), công chúa ngủ (xe Dream), lò hấp (nơi tiêu thụ xe gian), thua nguội (bị bắt ngay sau khi gây án), gà móng đỏ (gái mại dâm) v.v… Rõ ràng ngôn ngữ này chỉ “lưu hành” trong một tầng lớp, một giới nào đó mà thôi.

Tuy nhiên, vẫn có những tiếng lóng “đàng hoàng” đi vào trong thơ - chủ yếu là thơ châm biếm, trào lộng. Thời buổi này, thường nghe nói đến “cò” - nhằm chỉ những người đứng ra làm trung gian của dịch vụ nào đó đặng hưởng huê hồng, chứ không phải là loại “chim có chân cao, cổ dài, mỏ nhọn…” như Từ điển tiếng Việt đã giải thích. Xin trích một bài thơ cò - dĩ nhiên nó ở tiếng lóng:

Con cò bay lả bay la
Bay từ bàn giấy bay ra vỉa hè
Thì thầm hù dọa rủ rê
Cửa trước “Khó lắm! Khó bề xong đâu”
Cò quen lối tắt, ngõ sau
Chịu chi bảo đảm làm mau lấy tiền
Đường dây uy tín ưu tiên
Cho cò chút cháo rồi yên tâm… chờ!
Vẽ vời rắc rối giấy tờ
Quấy bùn đục nước… cốc mò cò xơi
Bao giờ hết nạn cò mồi
Cửa sau, cửa ngách rối bời… khổ dân!
(Hoàng Duy, báo Thanh niên số 24-9-1997)

Hoặc cũng là bài thơ về con cò, nhưng ở đây đã thấy một loạt tiếng lóng khác xuất hiện:

Pháp luật tôi cũng xem thường
Có ô dù lớn, có xuồng bơi to
Ví dù có gió đắm đò
Thì xuồng cứu hộ vớt cho tôi nằm
Cò tôi đích thị cò quăm!
(Trúc Lâm - báo Lao Động số 3-11-1996)

Con cò ở đây không còn mang ý nghĩa của biểu tượng ẩn dụ trong ca dao. Gần đây chúng ta thường nghe đến từ “cơm bụi’ “giá bèo” - nhằm chỉ những quán cơm bình dân giá rẻ dành cho người lao động ở thành thị. Tiếng lóng ấy, có lẽ nhà thơ Nguyễn Duy là người đem vào thơ trước nhất:

Rủ nhau cơm bụi giá bèo
Yêu nhau theo mốt nhà nghèo… vô tư!

Nhà văn là người đi nhiều nơi, nhiều chốn, đi để quan sát và ghi chép lời ăn tiếng nói của nhân dân đặng làm phong phú vốn ngôn ngữ của mình. Nhà văn Tô Hoài là một trong những người rất chịu khó ghi chép những từ ngữ mà ông nhặt nhạnh được. Trong Sổ tay viết văn (NXB Tác phẩm mới -1997), ông ghi: “Nàng ấy ô-ten-lo quá! (cô ấy nước da đen quá!), Một tê (một triệu bạc) một vé, một vên, một vét (một vạn bạc), thằng Mẽo (đế quốc Mỹ).

Chiều rồi. Tạm dừng ở đây.

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 10.11.2015

 

bai-thio-than-cua-LTK--1R

BÀI THƠ THẦN - TƯƠNG TRUYỀN CỦA DANH TƯỚNG LÝ THƯỜNG KIỆT

 

Có lẽ, thói quen của nhiều người là mỗi ngày, thỉnh thoảng lại “leo” lên Facebook. Có lúc thoáng qua như chuồn chuồn đạp nước, có khi “ăn dầm nằm dề”. Rồi, đọc status của ai đó, cao hứng thì “nhảy vào” bình luận một đôi câu. Đọc, có thể nhận ra tính cách của con người đó. Sống thế nào, tư cách thế nào, có thể che giấu ở đâu chứ một khi đã thể hiện bằng dòng chữ viết thì khó lắm. Gần đây, dư luận phản đối dữ dội việc sách Giáo khoa Ngữ văn 7, tập 1 thay đổi bản dịch bài Thơ Thần của Lý Thường Kiệt.

Sự ra đời của bài thơ này tuyệt đẹp. Tháng Chạp năm 1076 đánh nhau với giặc Tống,  vị danh tướng đời nhà Lý "sợ quân minh có ngã lòng chăng, bèn đặt ra một chuyện nói rằng có Thần đọc cho bốn câu thơ"  (Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim). “Thế là Thần hiển linh đọc thơ, “phối hợp tác chiến” đúng vào thời điểm khi người mở cuộc phản công đánh quân xâm lược. Văn chương chưa hoàn toàn tách khỏi lĩnh vực huyền thoại, nhưng huyền thoại đẹp biết bao! Câu chuyện không thật mà vẫn nói rất nhiều sự thật. Thơ của người đã biến thành thơ của thần, mặc dầu người ở đây sinh thời vẫn nổi tiếng ghét mê tín dị đoan và về sau uy danh lừng lẫy chẳng kém gì thần” (Văn học Việt Nam trên những chặng đường chống phong kiến Trung Quốc xâm lược - Viện văn học - NXB KHXH 1981).

Với hoàn cảnh ra đời của bài nổi tiếng này, rõ ràng, Lý Thường Kiệt chứng tỏ là người rất am hiểu về binh thư. Ông đã biết kết hợp nhuần nhuyễn giữa nghệ thuật tấn công bằng quân sự và nghệ thuật binh vận bằng thơ ca, nghệ thuật động viên tinh thần chiến đấu của binh sĩ... Trong lịch sử hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, bài Thơ thần của Lý Thường Kiệt được xem là “Bản tuyên ngôn độc lập” lần thứ nhất của Tổ quốc ta:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.

Đã có nhiều bản dịch, chẳng hạn:

Đất nước Đại Nam, Nam đế ngự,
Sách trời định phận rõ non sông.
Cớ sao nghịch tặc sang xâm phạm?
Bây hãy chờ coi, chuốc bại vong.
(Ngô Linh Ngọc dịch)

Sông núi nước Nam, Nam đế chủ,
Cõi bờ định rõ tại thiên thu.
Cớ sao nghịch tặc dám xâm phạm?
Bay liệu, rồi đây chuốc bại hư.
(Bùi Văn Nguyên dịch)

Và đây là văn bản của Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam công bố trong tập Lịch sử Việt Nam (tập 1, NXB KHXH - 1971):

Sông núi nước Nam, vua Nam ở
Rành rành định phận ở sách trời.
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm,
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.

Trong công trình nghiên cứ mẫu mực, đầy đủ nhất về Lý Thường Kiệt, học giả Hoàng Xuân Hãn dịch:

Sông núi nước Nam, vua Nam, coi

Rành rành định phận ở sách Trời

Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm

Bay sẽ tan tành chết sạch toi

Nhiều thế hệ học sinh đã quen thuộc với bản dịch đã in trong tập Lịch sử Việt Nam vừa nêu trên. Gần đây, những nhà làm sách giáo khoa lại thay bằng bản dịch khác:

Sông núi nước Nam vua Nam ở
Vằng vặc sách trời chia xứ sở
Giặc dữ cớ sao phạm đến đây
Chúng mày nhất định phải tan vỡ
(Lê Thước - Nam Trân)

Trao đổi về một vấn đề học thuật là chuyện bình thường, tuy nhiên, người trao đổi, tranh luận phải có kiến văn, có tinh thần cầu thị và nhất là phải biết lễ phép. Lễ phép với tiền nhân. Lễ phép với người đang đối thoại. Quái lạ, có nhiều người vỗ ngực xưng tên, hùng hùng hổ hổ mắng sa sả tác giả bản dịch trên. Xin thưa, lũ hậu sinh chúng ta chữ nghĩa không đầy lá mít, không đầy nắp hến nếu so với trình độ Hán học của cụ Lê Thước - Nam Trân. Họ là những nhà Hán học cự phách. Vấn đề đặt ra bản dịch đó, có gì sai sót, chứ không phải đọc không thuận tai như đã từng quen thuộc bản dịch trước rổi quay ra phỉ báng hai nhà giáo đáng kính trên.

Một tác phẩm tiếng nước ngoài, có nhiều bản dịch là lẽ thường tình. Một khi công chúng đã công nhận, chấp nhận bản dịch đó thì chẳng việc gì phải thay đổi cả. Với các kiệt tác trứ danh như Bình Ngô đại cáo (Nguyễn Trãi) hoặc Hịch tướng sĩ (Trần Hưng Đạo) v.v… đến nay khó có thể có bản dịch nào vượt trội hơn, được yêu thích hơn bản dịch của Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ. Thế nhưng, người khác muốn dịch lại lần nữa cũng là lẽ thường tình, “bình thường như cân đường, hộp sữa”. Vấn đề là nhà làm sách Giáo khoa chọn bản nào cho học sinh?

Trong trường hợp thay đổi bản dịch bài Thơ Thần của Lý Thường Kiệt, sự bất cập đó thuộc về nhóm biên soạn. Thú thật, chẳng rõ nguyên cớ ra làm sao họ lại thay đổi bản dịch đã quen thuộc? Để làm gì? Hay “thừa giấy vẽ voi” chăng? Rồi cũng chẳng rõ ra làm sao Bộ GD-ĐT lại có sáng kiến đẻ ra môn “Công dân với Tổ quốc” nhằm gộp 3 môn "Sử - Đạo đức công dân - An ninh quốc phòng" vào với nhau. Điều này có nghĩa môn Sử không còn là môn học độc lập!  Đối mặt với dự thảo “Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể", Hội Khoa học lịch sử Việt Nam quyết định sẽ tổ chức Hội thảo khoa học quốc gia: “Môn sử phải là môn bắt buộc và môn độc lập trong chương trình giáo dục phổ thông” vào ngày 15.11.2015 tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam (ở Hà Nội). Cuối cùng, số phận của môn Sử sẽ được (hay bị) “xử” thế nào, ta hãy chờ xem.

Trở lại với sự tranh luận vừa qua. Ý kiến này đáng ghi nhận khi bàn về câu thứ 4: “Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”. Tác giả Đặng Ngọc Hùng - Trường Cao đẳng cộng đồng Bình Thuận cho biết: “Rõ ràng, câu thứ tư trong bản dịch “Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời!” không làm toát lên hết chiều sâu, tính minh triết của nguyên tác. "Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư" có nghĩa là “Chúng bay sẽ thấy [chúng bay] tự chuốc lấy thất bại”; ở đây bại kết hợp với hư là thất bại đến mức thảm hại, tan nát, không còn gì.

Câu thứ tư của nguyên tác, như đã nói, có ít nhất hai nghĩa:

Một, chúng bây tự chuốc lấy thất bại. Đây là nghĩa chính, sát với nguyên tác. Xâm lược là hành động đi ngược lại sách trời, trái với chân lý nên ắt phải tự chuốc lấy bại vong. Đặt vào ngữ cảnh bài thơ, thất bại ở đây là do trời phạt, vì dám làm trái sách trời. Thâm ý của cha ông ta là ở đây! Tôi xin nói thêm, cái thần của nguyên tác nằm ở chữ thủ (取). Chữ này thuộc bộ hựu (bên trái là chữ nhĩ 耳 - lỗ tai). Theo Từ điển từ nguyên tiếng Trung của Nguyễn Mạnh Linh (Nhà xuất bản Hồng Đức 2008), ngày xưa, khi quân đội đánh nhau, bên thắng trận thường chặt đầu hoặc cắt tai kẻ bại trận mang về làm bằng chứng lập công. Trong giáp cốt văn, chữ thủ giống hình một tay cầm cái tai đã bị cắt. Do đó thủ có nghĩa là lấy, bắt được, tìm lấy, chuốc lấy. Vậy “thủ bại hư” có nghĩa là chính tay (mình) làm cho (mình) thất bại. Hay biết chừng nào!

Hai, “Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời”, đây là nghĩa suy theo lô gíc. Chúng bây sang xâm lược nước Nam thì người Nam với truyền thống yêu nước nồng nàn từ bao đời, với bản năng tự vệ, sẽ đánh lại chúng bay để bảo vệ sơn hà xã tắc.

So sánh giữa hai nghĩa, nghĩa thứ nhất vừa sát với nguyên tác, vừa minh triết: chúng bay tự chuốc lấy bại vong (tự mình làm cho mình thất bại), thể hiện tầm thế chính nghĩa cao vời và tư tưởng quyết chiến nhưng chuộng hòa hiếu của cha ông ta. Ngẫm kỹ, cho đến ngày nay, để cho kẻ thù “thủ bại hư” vẫn là một ý hay, sâu sắc, thậm chí vẫn hiện hữu trong đường lối ngoại giao mà Việt Nam đang theo đuổi: nước nào đi ngược lại Công ước quốc tế, chính nghĩa, nhân tâm thì sẽ bị thế giới cô lập, lên án, thậm chí trừng trị. Có khi không đánh về vật chất mà kẻ thù vẫn bại, đó là tư tưởng độc đáo của Đại Việt” (nguồn: Báo Pháp Luật TP.HCM Online post Thứ Hai, ngày 9/11/2015 - 20:01).

Nhân đây xin gợi ý thêm, có lẽ các bản dịch trên chưa nêu rõ, làm nổi bật ý nghĩa chữ "đế" chăng? Thiển ý, đó mới là "nhãn tự" của bài Thơ Thần. Đọc những bài tranh luận của người am hiểu vấn đề và nhất là thể hiện văn ngôn điềm đạm, nhún mình, bao giờ cũng thấy thích. Dù người có kiến văn uyên bác, học lực uyên thâm nhưng cách viết hằn học, trịch thượng thì đọc cũng mệt. Đọc ý kiến của những người chẳng biết họ học hành thế nào, kiến thức ra sao nhưng chỉ rặt mạt sát, châm chích, gân cổ gào toáng lên, nói năng hùng hùng hổ hổ như thể “mục hạ vô nhân” thì còn gì chán ngán hơn? Lâu nay, đã có nhiều chuyên đề bàn luận, đúc kết về tính cách của người Việt, có lẽ thái độ tranh luận hiện nay cũng đang dần dần hình thành thêm một tính xấu đấy.

Tiếc rằng, trong thời điểm này, ít thấy ai nhắc lại tư tưởng quân sự của Lý Thường Kiệt: Ngày 27.10.1075, một đạo quân do phó tướng Tôn Đản chỉ huy đã vượt biên giới đánh thẳng lên Ung Châu (Nam Ninh - Trung Quốc). Còn đạo quân thứ hai do Lý Thường Kiệt chỉ huy đã bí mật, thần tốc vượt đường biển đánh chiếm Châu Khâm và Châu Liêm. Trong cuộc hành quân sang đất Tống, để dân Tống biết được việc làm chính nghĩa của ta, Lý Thường Kiệt đã cho phân phát bài văn: “Lộ bố”:

“Trời sinh ra dân chúng, vua có đức thì tin yêu. Đạo làm chủ dân cốt ở nuôi dân. Nay vua Tống ngu hèn, không theo khuôn phép thánh nhân, nghe cái kế tham tà của An Thạch, bày ra phép “thanh miêu”, “trợ dịch” khiến trăm họ hao kiệt, lầm than, để thỏa mãn cái mưu nuôi béo thân mình.

Số là muôn dân đều dựa vào trời, bỗng sa vào sự độc hại của thói tham lợi. Bề trên cố nhiên phải thương xót. Nhưng việc từ trước, thôi không nói làm gì.

Bản chức vâng mệnh quốc vương, chỉ đường Bắc tiến, muốn dẹp yên làn sóng yêu nghiệt, chỉ có cái ý phân biệt quốc thổ, chứ không phân biệt chủng dân. Phải quét sạch cái bẩn thỉu hôi tanh để ca thuở đẹp của ngày Nghiêu, để hưởng hội lành của tháng Thuấn.

Nay ta ra quân cốt cứu vớt muôn dân. Hịch văn truyền đến để mọi người đều nghe. Ai nấy hãy tự suy xét, chớ có mang lòng sợ hãi” (Theo bản dịch của Trần Văn Giáp - Tổng tập văn học Việt Nam, tập 1 - NXB KHXH -1997).

Trong tập sách trên có giải thích: "lộ bố": bài văn viết trên vải trương ra trước công chúng, trên đó nêu tội ác của địch, hoặc chính nghĩa của ta"; Vương An Thạch: Tể tướng thời vua Thần Tông nhà Tống; "thanh miêu": chính sách của triều đình bỏ tiền cho dân vay khi lúa còn non, sau thu lại, dân phải trả lãi; "trợ dịch": là chính sách cho dân nộp tiền để miễn sai dịch".

Hậu sinh khả úy. Chúng ta đang sống trong thời đại oanh liệt của khí phách Lý Thường Kiệt đấy chăng?

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 7.11.2015


6thu-but-hobieu-chanh
                                                      Thủ bút nhà văn Hồ Biểu Chánh. Tư liệu L.M.Q

Những ngày này, bỏ mặc giông tố ngoài phía bên ngoài cửa sổ. Lật Liêu trai chí dị, đọc lại truyện Thư si (mê sách) của Bồ Tùng Linh. Rờn rợn từng chân tóc với câu chữ như ma mị, ám ảnh. Có thật không cái chi tiết độc đáo này xẩy ra trong lúc đọc sách? Lúc ấy, Lang Ngọc Trụ hoảng hồn thấy người đẹp bước ra từ cổ thư: “Mỹ nhân ung dung bước xuống đất, rõ ràng là một giai nhân tuyệt thế. Lang lạy hỏi là thần gì, mỹ nhân cười nóì: “Thiếp họ Nhan tên Như Ngọc, chàng đã biết từ lâu rồi. Hằng ngày được chàng rủ mắt xanh, nếu thiếp không tới một phen e rằng ngàn năm sau không còn ai tin vào cổ nhân”. Rồi họ chăn gối suốt những canh tàn gió lộng. Đã đọc truyện ngắn này từ lúc hoa niên, nay đã già, đọc lại, vẫn giữ nguyên cảm giác lành lạnh sau gáy như thuở ấy.

Y cũng đã từng nhiều đêm ước mơ được như Lâm Ngọc Trụ.

Trên đời này, có những con người lạ lùng lắm. Những gì đã mê đắm, yêu thích từ buổi còn thò lò mũi xanh, đến lúc ngoài ngũ thập vẫn không gì thay đổi. Có những ngày lang thang các ngã đường bán sách cũ ở Sài Gòn, bao giờ y cũng nhìn thấy thắng bé con thơ dại trở về ngay trong mắt. Từ lúc mới học lớp bảy, lớp tám y đã có những buổi chiều đi dọc theo con đường Ông Ích Khiêm, ngay chợ Cồn (Đà Nẵng). Con đường này, người ta bán sách báo cũ, tràn ra cả một đoạn đường dài tấp nập, huyên náo người đi ngược kẻ đi xuôi. Mặc kệ, y vẫn đứng giữa nắng sớm, mưa chiều tìm lục lọi, tìm kiếm như một gã thư si. Hễ sách cũ, sách hay, thấy là lạ là mua, chẳng cần phải nghĩ ngợi gì thêm. Bây giờ cũng vậy. Nỗi niềm mê sách đã là một phần của máu thịt, trở thành ký ức của đời sống.

Sáng ngày 6.11.2105, trao đổi cùng các bạn trẻ yêu sách cũ qua chủ đề: “Nghề chơi cũng lắm công phu”. Một bạn đọc hỏi, đại khái, còn trẻ, chưa nhiều kinh nghiệm, lại không nhiều tiền thì nên “chơi sách” bằng cách nào? Nhà sưu tập Phạm Thế Cường - chủ nhiệm Câu lạc bộ Người yêu sách Nguyễn Huy Tưởng gợi ý nên tìm mua loại sách thuộc sở trường của mình. Tán thành ý kiến này, y bổ sung thêm, hễ cứ thích là mua, dù rằng, có thể quyển sách thuộc lãnh vực đó, mình chẳng hề biết tí tẹo nào. Cần gì, cứ xếp lên kệ sách, ắt có lúc sẽ cần đến. Bằng không, nếu biết có ai đó đang cần, đem tặng lại, há chẳng phải là lúc đem về một niềm vui đó sao?

Sách có linh hồn của nó. Ngồi giữa cái “thư viện” ngay trong nhà với  hàng ngàn quyển sách, y ngẫm lại và thấy đúng. Nếu có duyên, sách sẽ tìm đến mình trong những lúc ngẫu nhiên, không ngờ đến. Nếu không vì chữ “duyên” vi diệu của triết lý đạo Phật, làm sao tôi có thể sở hữu những quyển sách giáo khoa in bằng tiếng Việt cách đây hơn 100 năm? Làm sao có thể sưu tập được những quyển sách của hai miền Nam - Bắc ấn hành lúc cả nước kỷ niệm 200 năm sinh Nguyễn Du? Làm sao có thể đọc được bộ Đại Việt sử ký toàn thư bằng loại giấy bổi in năm 1945? Ôi, cái năm tàn khốc, bi thảm ấy, hơn 2 triệu đồng bào chết đói, tự dưng lòng chùng xuống khi thấy cả những cọng rơm khô, gày đét nằm lẫn trong những dòng chữ. Cầm sách đọc, dù ngoài trời nắng ấm, ngồi phòng máy lạnh, thoáng đãng mà lòng lạnh buốt.

Sách cũ không chỉ là sách. Nhìn trang sách, qua kỹ thuật in ấn còn thấy diện mạo xã hội của một thời. Y tin chắc rằng, ai cũng còn có những quyển sách in ấn thời bao cấp. Loại giấy đen xì, xếp chữ typo, chữ mờ, chữ đậm, đọc muốn trợn tròng con mắt. Nay, có những quyển đã tái bản, giấy trắng hơn, in đẹp hơn nhưng quyển sách cũ ấy vẫn không bỏ đi. Giữ lại chứ? Giữ lại một kỷ niệm êm đếm của ngày khốn khó. Giữ lại kỷ niệm của tháng ngày từ làng Đại học xa tít ngoài xa lộ Đại Hàn, lũ sinh viên bọn y đã cọc cạch đạp xe về chợ Thủ Đức, về Sài Gòn mua cho bằng được sach mới phát hành. Ngày đó, bước vào hiệu sách nản ghê gớm bởi trên quày sách có những hàng chữ “Sách mẫu, không bán”; “Sách bán theo giấy giới thiệu”... Vì thế, có những lúc thèm thuồng, nuốt nước bọt mà cổ họng đáng nghét, đứng ngây dại nhìn lấy cái bìa sách như muốn thâu gọn cả vào trong trí nhớ. Rồi tiu ngỉu, thất vọng bước ra về.

Sực nhớ, đã lâu lắm rồi, ở sân 81 Trần Quốc Thảo, Q.3, ngồi trò chuyện với nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Ông bảo: “Một ca khúc sở dĩ được nhiều người nhớ đến vì ca khúc đó có gắn với kỷ niệm một thời của họ”. Sách cũng thế. Trong cuộc giao lưu về sách tại NVH Thanh Niên, một bạn đọc phát hiểu: “Tôi đến với Ngày hội sách cũ 2015 vì muốn tìm lại những quyển sách đã đọc thời niên thiếu”. Một lý do rất đơn giản, nhưng ít nhiều nói lên tình cảm người đọc dành cho sách cũ.

À, có chuyện này nghe xong thấy vui, ghi lại kẻo quên. Hôm nọ gặp Nhật - người bạn vai em sinh năm 1977. Có lần em cho biết có nguyện vọng được một lần lai rai với nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Nguyên cớ thế này, Nhật kể: Trong thập niên 1980, Nhật mới học lớp Tư có thầy Hoàng từ Hố Nai về làng Phước Tân, quê em dạy học. Lúc ấy, các thầy cô chưa có nhà tập thể nên phải tạm trú trong nhà dân. “Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy”, ba mẹ Nhật mời thầy về ở chung nhà. Thời đó, các tiệm cho thuê truyện còn nhiều, thầy Hoàng - giáo viên dạy môn toán nhưng lại mê văn thơ nên cũng thường thuê truyện. Mỗi đêm, khoảng chừng bảy giờ tối, sau khi cơm nước xong, thầy cho gọi các cô cậu nhóc học trò tụ tập trước sân nhà và đọc truyện cho nghe. Mỗi đêm đọc chục trang, rồi đêm sau lại đọc tiếp. Tình thầy trò cảm động quá. Nhật nhớ lại, cuốn sách đầu tiên trong đời em được nghe thầy đọc là quyển Còn chút gì để nhớ. Từ dạo đó, Nhật đã mê Nguyễn Nhật Ánh, mê văn chương là vậy. Thì ra, sự giáo dục của người thầy qua những trang sác từ năm tháng ấu thơ hết sức quan trọng.

Không phải ngẫu nhiên, sách cũ ngày một “có giá” vì lúc đó người ta vui mừng như tìm lại được ký ức tuổi thơ. Nghe Nhật kể, trong lòng y cũng dạt dào một niềm vui và nhớ lại cái thuở học trò của mình, thời còn sinh hoạt cộng đồng: Khoảng năm 1973, từ Sài Gòn, nhà văn Nhật Tiến đã gửi tặng bạn đọc dài hạn báo Thiếu Nhi các tác phẩm của ông. Tờ báo này do Nhật Tiến làm chủ bút, ông Khai Trí Nguyễn Hùng Trương chủ nhiệm và bỏ tiền đầu tư. Anh em, bè bạn chuyền tay nhau đọc. Sau này, những Chim hót trong lồng, Thềm hoang… luôn gợi trong tâm trí y một tình cảm quý mến về nhà văn đi trước. Ôi, văn chương đôi khi lại lưu lại trong lòng con người ta những yêu dấu khó xóa nhòa.

Cái thú chơi sách cũ còn là lúc được nhìn tận mắt bút tích của nhà văn. Thời nới vào nghề báo, có lần được diện kiến nhà sưu tập tranh Lâm Toét, qua cà kê lai rai ông khuyên, đại ý, nghề báo là nghề được tiếp xúc với nhiều người nổi tiếng, chẳng hạn, lúc được gặp các nhà văn nên tận dụng cơ hội ấy xin chữ ký, thủ bút của họ ký ngay trên sách. Những tập sách đó có giá trị gấp nhiều lần sách bày bán thông thường. Ngẫm lại thấy đúng. Vừa rồi, tay bán sách cũ ở đường Trần Huy Liệu đã bán quyển Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân, in lần thứ nhất vào năm 1940 với giá 12 triệu đồng. Quyển sách được đẩy lên giá cao ngất đó, chỉ vì có dấu ấn Nguyễn Tuân thể hiện qua từng dòng bút tích. Quý là thế. Hiếm là thế. Xem sách cũ của nhà sưu tập Phạm Thế Cường, biết rằng trước năm 1945, nhà văn Nguyễn Công Hoan chỉ khi tặng sách cho bạn chỉ ký mỗi chữ “Hoan” nhưng từ sau năm hòa bình lập lại ở miền Bắc, ông ký rõ ràng đầy đủ họ tên. Chi tiết này lý thú quá, phải không? Tương tự, y quý lắm quyển Ông cử của Hồ Biểu Chánh, in năm 1940 vì ông có ghi thêm dòng chữ bằng màu mực tím: “Có vợ đó mới có chồng đó; có cha đó ắt có con đó” và ký tên thật Hồ Văn Trung.

Qua sưu tập sach cũ, còn thấy được nhân tình thế thái nữa. Anh bạn y là nhà văn nổi tiếng, ngày nọ anh rủ đến chơi nhà. Lúc có men say, anh trút lòng: “Q à, ông nghĩ thế nào trong trường hợp này?” Nói xong, anh đứng dậy ôm ra chừng mươi cuốn sách. Trời, đó là sách do anh đã tặng bạn bè nhưng chẳng rõ vì lý do gì lại chui tọt vào cửa hàng bán sách cũ?  Y bèn an ủi: “Thôi kệ, sách mình đã in ra tặng bạn, bạn không có duyên giữ lại ắt có người khác. Buồn làm chi”. Mà thôi, dưới gầm trời này, chẳng có ai sở hữu được cái gì vĩnh viễn đâu.

Mới đây thôi, thiên hạ nhốn nháo lên vì tủ sách của nhà thơ Huy Cận được rao bán. Cả hàng trăm quyển sách có chữ ký, thủ bút đã lọt vào các tay dân chơi sách cũ. Hễ ai có duyên thì giữ được, cũng như đồ cổ, hết hết nợ, hết duyên tức khắc sẽ qua tay người khác. Có lẽ gây “chấn động” nhất trong vài năm trở lại đây là tủ sách của giáo sư nọ được gia đình thanh lý với giá rẻ mạt. Chị bạn y - người bán sách cũ đã “trúng quả” đậm. Có ai ngờ, chính những bộ sách quý đó đã giúp cho chồng chị lúc túng bấn nhất đã có tiền trải qua mấy cơn phẫu thuật! Người này giữ, người khác hưởng, âu cũng là cái lẽ thường tình trong trời đất. Dù gì khi hưởng lộc, họ vẫn còn nhớ đến cái ơn của người đã sưu tập gìn giữ. Vậy là đủ.

Dù được xếp vào giới chơi sách cũ, nhưng thật ra không đúng, y chỉ là người mê sách. Vì mê sách nên có bao nhiêu tiền, ngay từ bé đến giờ, y cũng nhín tiêu xài để mua sách, dù bây giờ trong nhà đã không còn chỗ trữ nhưng vẫn cứ mua. Mua để được ngắm nhìn cho no nê con mắt. Thỏa mãn sự thèm thuồng của mùi thời gian thấp thoáng trong từng trang đã cũ, đã úa, đã nhọc nhằn phiêu dạt theo năm tháng. Và không chỉ thế, với y, sách cũ chỉ có giá trị một khi những tư tưởng, tinh hoa trong sách ấy được vận dụng cho cuộc sống hiện tại, được phổ biến rộng rãi đến nhiều bạn đọc. Giữ một quyển sách cũ đến hàng trăm năm, sách rất quý nhưng chỉ mỗi mình đọc, mỗi mình biết, liệu có ích gì?

Sống trên đời, ai cũng phải mê một cái thú gì đó. Mê sách là một cái thú. Mà cái thú này, thời buổi này, y biết có những người sở hữu nhiều sách quý, đồ sộ không thua gì các cụ Vương Hồng Sển, Đông Hồ, Nguyễn Văn Y, Bằng Giang… Nhưng liệu ai có tâm thế, mê sách, quý sách như chí sĩ yêu nước Nguyễn Thông? Trước khi mất, cụ có ghi lại trong Di chúc: “Sách vở là gia truyền quý nhất, không được đem gửi người khác. Sau khi ta trăm tuổi mỗi khi gặp ngày giỗ thì lấy sách ra bày ở hai bên trên bàn thờ thay cho mâm cúng cơm”. Ôi! Tấm người xưa dành cho sách khủng khiếp biết dừng nào?

Còn y, một hậu sinh mê sách, luôn xác tín: “Thư trung hữu mỹ nhan như ngọc”. Vì thế, nhiều lần đọc sách mà ước gì mình được như nhân vật Lang Ngọc Trụ của Bồ Tùng Linh tiên sinh. Được thế, âu cũng là cái duyên tri ngộ giữa sách và người từ thuở lọt lòng đã mê đắm với sách.

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 30.10.2015

2707253096_e945426703

(Ảnh: Internet)

 

“Những ngày này, các vụ án giết người rúng động xã hội đang xét xử”.

Buổi sáng, thức dậy sớm, thanh tịnh tâm hồn, nhìn đời bằng con mắt trong veo, lướt qua vài trang báo, đọc dòng chữ đó, đột nhiên ly cà phê đắng tê đầu lưỡi. Mà ngày nào cũng như ngày nào, lạ thay, cũng nhan nhản các thông tin đen tối, những phát biểu hắc ám, những trò ma mị của tầng lớp ăn trên ngồi trốc, làm sao có thể nhìn cuộc đời bằng con mắt lạc quan?

Và đám đông? Những con người lô nhô lóc nhóc chỉ là hạt bụi trôi theo dòng đời, trong đó có y, lại thế nào? Khó có thể có cái nhìn mọi vấn đề, chỉ gói gọn trong một vài vụ xử án hiện nay. Đã thấy gì? Đã cảm nhận những gì?

Thử hỏi, trong cuộc sống hiện tại, con người ta gần gũi, thân mật và có thể chia sẻ mọi điều chăng? Không hề. Cứ vác xác đi ra đường phố mỗi ngày, có lúc sẽ gặp lắm tình huống oái ăm. Kìa, có người vừa bị giật đồ, té ngã chỏng ngọng giữa đường, mặc kệ, dòng người thản nhiên đi qua, Không đoái hoài ngoái nhìn. Chẳng ai muốn ra tay nghĩa hiệp mà có thể họ cho “chuyện ruồi bu”. Biết đâu sẽ vướng vào phiền toái khác ngay sau đó. Mệt. Cứ né xa càng cho nhanh.

Thế nhưng, cùng một sự việc, nếu có sự tụ tập của đám đông, quả nhiên, có nhiều người lại bày tỏ thái độ khác. Người ta khen mình cũng ngoác mồm miệng ra khen; người ta chê mình cũng vỗ đùi đành đạch mà chê. Khen chê ấy, không phải độc lập suy nghĩ mà chỉ là sự bắt chước theo nhau.

Cả hai thái độ nói trên, nghĩ cho cùng chính là biểu hiện của sự vô cảm.

Thật chạnh lòng, khi chứng kiến một phiên tòa lưu động xử kẻ nghiện hút, ăn cắp tại khu phố nọ. Lúc kết thúc, bà mẹ của bị cáo thốt lên những lời chân thành xin lỗi bà con chòm xóm. Tâm tình ấy có được chấp nhận hay không? Phải được chứ. Thế mà, lập tức cả hàng trăm con người nhao nhao chế giễu bằng những lời lẽ cộc cằn, miệt thị. Vẫn biết, sự căm giận không sai, nhưng kẻ xấu phải nhận bản án tương xứng, há gì đám đông lại tiếp tục “ném đá” về phía bà mẹ? Sao nỡ gây thêm tổn thương lần nữa, khoét sâu vào nỗi bất hạnh của người mẹ có đứa con hư đốn?

Hẳn nhiều người người con nhớ vụ án kẻ giết người đã xử ở tòa án tỉnh nọ. Lúc Kiểm sát viên luận tội đề nghị áp dụng hình phạt tử hình, ngay lập tức phía gia đình bị cáo òa lên khóc lóc thảm thiết, đớn đau vì biết sắp vĩnh viễn mất đi một người thân. Ngược lại gia đình bị hại khua chiêng, gõ mõ, đánh trống ầm ĩ, đồng loạt vỗ tay hả hê lắm, sung sướng như vừa trúng số độc đắc, chỉ thiếu điều khui sâm-banh ăn mừng tại tòa. Gia đình bị hại từng đau đớn xé lòng vì đã mất người thân, nay phía thân nhân bị cáo cũng có nỗi buồn đau tương tự. Hả hê sao đành?

Còn gì bẽ bàng, thô lậu hơn trước những tiếng cười vô tư, khoái trá của đám đông lúc dự buổi xử án kẻ giết người vừa diễn ra tại Yên Bái? Có tội, ắt đến tội. Đó là công lý. Tuy nhiên, thỉnh thoảng đám đông lại nổ ra những trận cười bất tận, do bị cáo là người dân tộc Dao, không rành tiếng Việt, khi quan tòa hỏi một đằng, bị cáo trả lời một nẻo, chỉ thế. Bo chí tường thuật: “Nhiều đoạn bị cáo và người liên quan khai không đúng câu hỏi làm người dân phía dưới cười. Bị cáo thấy người dân phía dưới cười nên cũng cười theo”. Kẻ giết người không ghê tay, kẻ sát nhân không còn biết mùi tanh của máu, phút chốc trở nên tên hề đáng thương hại. Ai đã làm nên điều kinh tởm đó? Chính là sự vô cảm cảm của đám đông. Một đám đông không ý thức đang chứng kiến giây phút kinh hoàng đau đớn của người bị hại. Hóa ra cái ác, cái xấu không khiến người ta ghê gớm, kinh sợ mà chỉ dem lại sự cười cợt, nhộn nhạo?

Hành xử theo lối vô cảm ấy cũng không khác gì cái ác?

Có ai trong đám đông ấy nghĩ rằng, ngồi dưới hàng ghế theo dõi xử án thì người thân, bà con ruột thịt của nạn nhân đang đau đớn như thế nào? Làm sao gan ruột họ không quặn thắt, không đứt đoạn khi nghe thủ phạm kể lại quá trình phạm tội. Họ ứa nước mắt. Nuốt nước mắt vào lòng để khỏi bật ra tiêng khóc. Hỡi ôi, ngay lúc ấy lại rôm rã những tiếng cười. Tiếng cười ấy, vô cảm. Tiếng cười ấy, không có tình người. Trước nổi đau của người khác, “hiệu ứng” đám đông “lạc quẽ”, vô cảm ấy nói lên điều gì, nếu không phải là sự bất nhẫn của tâm lý bày đàn?

Vài năm trở lại đây, thú thật, y đã có thay đổi trong việc tiếp cận thông tin mỗi ngày. Né xa những gì đem lại sự hậm hực, bực bội, cáu tiết. Cuối cùng, chính mình phải gánh lấy nỗi nặng trĩu mây mù ấy. Chẳng việc gì phải thế. Chọn lấy cách uống thuốc an thần như trở về với một thế giới riêng tư là mở ra những sách và đọc. Đôi khi trang sách đã mủn, nát theo thời gian, chẳng ích lợi gì, nhưng rồi ít ra nó cũng đem lại niềm thư thái, sự an vui dẫu trong chốc lát.

Hôm nọ, nhạc sĩ Hà Quang Minh tặng cho quyển tạp bút Ăn nỗi nhớ (NXB Hội Nhà văn) của anh vừa in. Đọc một loáng là xong. Dừng lại với chi tiết này. Sở dĩ thế, vì anh có viết đôi nét về những con người không thuộc về đám đông. Đám đông xa lánh, không thèm chơi với họ: “Ở Hà Nội, thời thập niên 80, tôi còn nhớ mãi một từ mà tôi cho rằng đáng được liệt vào hàng “xuất sắc” là từ “leng keng” dành để ám chỉ những ai hâm hấp. Cái từ “leng keng” ấy  nó có tính tượng thanh khủng khiếp và sự trừu tượng của nó khiến người ta liên tưởng đến những đầu óc lúc nào cũng ngớ ngẩn ăn nói lung tung, suy nghĩ như thể trong đầu luôn có cái chuông tàu điện”. Từ ngữ, cách nói ấy không dừng lại, sau đó, nó được thay thế bằng “lái tàu điện”, “đếm lá”… Hà Quang Minh viết tiếp: “Hãy hình dung một người cứ ngơ ngẩn vừa đi vừa ngửa cổ đếm lá trên vòm cây thì bạn đủ hiểu cái sự “hâm hấp” ấy nó rõ ràng ra sao”. Kể ra cũng là một cách mà Minh ghi lại lời ăn tiếng nói của một thời. Những kẻ “hâm hấp” ấy, trong Nam lại gọi “mát” (mượn tiếng Pháp “masse”, chỉ bộ phận dẫn điện bị chạm, “có vấn đề”), "mát dây điện", “chạm điện”, “té giếng”, "chập cheng", “dở hơi”, “tửng”, “hâm”, "hấp",…Gần đây, giới teen lại "đẻ" ra từ "dở  hơi ăn cám lợn"!

Thời còn nhỏ, thỉnh thoảng được mẹ dẫn ra chợ Cồn. Xin nhắc lại, khoảng thập niên 1960 - 1970, ở chợ Cồn có cà phê Xứng cực kỳ nổi tiếng, bán ngay trong chợ. Bất cứ ai gọi, có người bưng ly cà phê nóng hổi đến tận nơi. Thuở ấy, chưa biết uống cà phên nên không rõ nó ngon như thế nào. Nổi tiếng thứ hai là một nhân vật điên điên khùng khùng, suốt ngày lang thang trong chợ. Anh ta ăn mặc chỉnh tề, áo bỏ trong quần, dù quần áo đã cũ rích, rách nát, bẩn thỉu. Đi chân không. Tay cầm quyển từ điển dày cộm, đi và đọc, thỉnh thoảng dừng lại, ngửa mặt nhìn lên trời và nói hàng loạt câu tiếng Pháp. Nghe bảo rằng, anh chàng này du học ở Pháp, học rất giỏi nhưng do “ngộ chữ” nên thành kẻ “dở người” (?!).

Đâu phải ở Đà Nẵng chợ Cồn mới có, ở đâu đâu cũng có mẩu người đáng thương ấy. Nhà thơ Xuân Diệu kể lại trong bài viết Sống với ca dao, dân ca miền Nam Trung bộ, ông nhắc một về nhân vật độc đáo không kém: “Ông “Tốc-xi-măng” ở Quy Nhơn dở khờ dở dại, thích mặc một cái áo ka ki màu vàng như áo người đưa thư hay áo của người giữ ghi xe lửa. Mặc quần tây, đi giày rách, cầm một cái ba-tong, đội một cái mũ như mũ các thầy ký hỏa xa đi trên tàu; ông “Tốc-xi-măng” thích tự làm những cái lon, những mề dây để đeo; trẻ còn cứ chạy theo ông tưởng là ông cai, đội thật”.

Nhà thơ Xuân Diệu sinh năm 1916, lớn lên và đi học ở Quy Nhơn. Từ đó, ta suy luận, khoảng thời gian Xuân Diệu đi học phổ thông, rồi tính cách nhân vật đươc miêu tả, rõ ràng ông “Tốc-xi-măng” là “cựu chiến binh”, bị đưa sang “mẫu quốc” làm “bia đỡ đạn” lúc Pháp đánh nhau với Đức năm 1918. Có thể suy luận thêm, “Tốc-xi-măng” không phải tên thật. “Tốc” tức “tốc kê” (toqué) nhằm chỉ người gàn gàn, hâm hâm. Lạ cho tiếng Việt, khi mượn tiếng nước ngoài nhằm chỉ một trạng thái tinh thần, nhưng có lúc (buồn tình chẳng hạn) lại gọi gọn chỉ mỗi từ “tốc”; hoặc nếu cao hứng lên gọi luôn “tốc tốc”.

Mẫu nhân vật này, chắc chắn nổi tiếng nhất vẫn là Trạch Văn Đoành. Một nhân vật khó quên của nhà văn Nam Cao: “Nghĩ đến cách mặc của hắn bao giờ người ta cũng nghĩ đến mùa đông. Bởi mùa đông mới thật có những người mặc chẳng vì ai, nhưng chỉ vì sự dễ chịu của mình. Đoành thuộc vào hạng ấy. Suốt một mùa, hắn chỉ mặc một cái ba-đơ-xuy sắc chó gio. Hắn mua hồi đi lính sang Tây. Có bảy mươi quan. Thế mà bền…Cái áo-đơ-xuy mất hết cúc rồi. Hắn đơm hai cái dải thật to được bắt giao nhau để thắt lại ở sau lưng. Chặt chẽ và gọn gàng không kém một cái đai”.

Tiếc là nhân vật dở hơi, dở ngợm dở người này ít xuất hiện trong văn học Việt Nam. Họ không xứng đáng hay nhà văn không có dịp quan sát? Mà thôi, những con người ấy, chẳng ai thèm quan tâm dẫu họ xuất hiện chình ình trong đám đông. Y lại thấy thương. Bởi họ chẳng hại ai, chẳng thèm hùa theo đám đông. Không “ăn theo nói leo”, thấy người khác “ăn khoai” mình cũng “vác mai đi đào”. Họ là họ, dù rằng, tội nghiệp lắm.

Trời đã chiều. Có email nào không?

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 22.10.2015

 

30_Dong_1985sTiền giấy 30 đồng phát hành năm 1985


Gió dựa thân tường, lưng gió phẳng;

Trăng nhìn cửa sổ, mắt trăng vuông.

Tâm thế ấy, thong dong tĩnh tạo lắm. Sức mấy, y  có thể đạt đến. Còn lâu. Biết quá mà, trong đầu y chỉ túc trực câu hỏi: Cần danh hay cần tiền?

Nói dối lòng mình làm gì chứ. Rằng thưa, y cần cả hai, nhưng nếu chỉ chọn một, dứt khoát y chọn tiền. Dạo này, trên cơ quan truyền thông rộ lên về chuyện “đạo thơ”. Cũng vì cái danh. Người này “thuổng” thơ của người nọ. Tranh cãi ì sèo. Đòi kéo nhau ra tòa. Thiên hạ có nhiều ý kiến khác nhau. Tưởng chừng như bầu trời sắp sập. Khiếp quá. Phải nói thật rằng, lâu nay, có còn mấy ai quan tâm đến thơ nữa đâu. Nhân xẩy ra vụ thưa kiện, nay, thơ bỗng dưng “có giá” hơn không? Chắc là không. Trong thế giới quái quỷ này, thơ đang đứng ở đâu trong lòng bạn đọc. Đã có những bài thơ nào tạo ra hiệu ứng xã hội trong đời sống này. Đã có những vần thơ nào đã khiến con người ta nhìn lại vai trò công dân, tự chọn lựa một thế đứng, cất lên tiếng nói của chính suy nghĩ tự đáy lòng trong sự xô bồ của nhiều giá trị hoặc bị đánh tráo, hoặc “mạ vàng” hoặc đã lỗi thời? Tìm đi. Đốt đuốc giữa ban ngày, tìm đi, có tìm thấy không?

Y không biết.

Có điều, biết chắc chắc rằng, tiền là điều có thật. Vì thế, những ngày ngay, quay lại đọc những quyển sách đã viết về tiền như  Ngân hàng Việt Nam quá trình phát triển và xây dựng (Ngân hàng Nhà nước Việt Nam biên soạn (NXB Chính trị Quốc gia - 1996), 100 năm tiền giấy Việt Nam của Tạ Chí Đông Hải, Đặng Văn Khoa (NXB Trẻ và Hội Tem TP.HCM - 1994),  Tư duy kinh tế Việt Nam chặng đường gian nan và ngoạn mục 1975 - 1989 của Đặng Phong (NXB Tri Thức -  2008). Đọc xong và ghi chép, âu cũng là một thói quen.

Năm 1975:

Sau ngày thống nhất đất nước, hệ thống ngân hàng của Sài Gòn cũ được tiếp quản. “Toàn bộ số tiền ta thu được là 150 tỷ đồng; trong đó, tiền các loại trong kho của Ngân hàng Quốc gia là 125 tỷ, quỹ lưu dụng 7,8 tỷ, tổng số tiền quỹ của các ngân hàng tư nhân thu được trên 19 tỷ”. Ngày 6.6.1975, Hội đồng Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam Việt Nam đã ra Nghị định 04/PCT- 75 thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam. Như vậy, ngay sau ngày thống nhất, có tuy cùng tên gọi nhưng Nam - Bắc có hai hệ thống ngân hàng.

- 6g sáng ngày 22.9: Thu đổi tiền Sài Gòn cũ, phát hành tiền ngân hàng Việt Nam theo tỷ lệ 1 đồng ngân hàng VN = 500 đồng tiền Sài Gòn cũ. Dù vậy, loại 50 đồng tiền Sài Gòn cũ vẫn còn được sử dụng. Chính vì mức quy định như trên nên dẫn đến tình trạng nhiều gia đình giàu có phải chuyển tiền của mình cho người khác đứng tên đổi giúp... Lưu ý: Đơn vị  tiền tệ của đồng tiền mới ở miền Nam giống như đơn vị tiền tệ ở miền Bắc (đồng, hào...). Như vậy về danh nghĩa, đơn vị tiền tệ giữa hai miền đã có sự gống nhau. Căn cứ theo Quyết định số 12/QĐ ngày 21.9 của Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam Việt Nam, mức đổi tiền quy định như sau:

- Không quá 100.000 đồng tiền của chế độ cũ đối với nhu cầu sinh hoạt; từ 200.000 đến 500.000 đồng và tối đa không quá 1.000.000 đồng đối với những hộ và cơ sở kinh doanh. Số tiền còn lại trong bảng kê khai được quy ra tiền mới, gửi vào quỹ tiết kiệm hoặc tài khoản tiền gửi tại ngân hàng.

Đợt đổi tiền này kết thúc vào ngày 30.9.1975. Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước VN, tổng số tiền Sài Gòn cũ đã thu về là 486 tỷ.

Năm 1976:

Ngân hàng Quốc gia tại miền Nam chỉ tồn tại ngắn ngủi đến tháng 7.1976. Sau kỳ họp Quốc hội của nước Việt Nam thống nhất (Quốc hội khóa VI), khai mạc ngày 24.6.1976, đã thông qua các Nghị quyết đổi tên nước thành Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, quy định Quốc kỳ, Quốc ca, Quốc huy; bầu các cơ quan và chức vụ lãnh đạo cao nhất nước... Theo đó, Ngân hàng Quốc gia ở miền Nam được hợp nhất vào Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thành một hệ thống ngân hàng thống nhất. Tuy nhiên vẫn sử dụng 2 loại tiền Nam - Bắc.

Năm 1978:

Ngày 25.4: Hội đồng Chính phủ ra Quyết định về việc thống nhất tiền tệ trong cả nước, phát hành tiền ngân hàng mới, thu đổi tiền ngân hàng cũ ở miền Bắc và miền Nam. Ngân hàng Nhà nước phát hành loại giấy bạc 1 đồng, 5 đồng, 10 đồng, 20 đồng, 50 đồng và tiền kim khí 1 hào, 2 hào, 5 hào. Đổi tiền lần này HĐ Chính phủ ra Quyết định số 88/CP quy định:

+ 1 đồng tiền ngân hàng mới = 1 đồng tiền ở ngân hàng miền Bắc.

+ 1 đồng tiền ngân hàng mới = 0,80 đồng tiền ở ngân hàng ở miền Nam.

+ Tiền ngân hàng cũ có mệnh giá từ 1 đồng trở lên không kê khai đổi trong thời hạn quy định sẽ không còn giá trị. Các loại tiền lẻ từ 0,5 đồng trở xuống được tiếp tục lưu hành theo giá trị ghi ở đồng tiền.

+ Việc kê khai được tiến hành trong vòng 6 tiếng đồng hồ, từ 6 giờ sáng đến 12 giờ trưa.

- Ngày 3.5: 38 tỉnh thành và thành phố trong cả nước đã đổi tiền theo đúng kế hoạch đã định. Kể từ 12 giờ ngày 6.5.1978, cả nước chỉ lưu hành một loại tiền thống nhất. Đợt đổi tiền này thu về 2.694,7 triệu đồng quy ra tiền mới. Lưu ý: Tờ giấy bạc CHXHCN Việt Nam ra đời. Đây là lần đầu tiên cả nước cùng đổi tiền mới. Đặc điểm của loại giấy tiền mới này là in hình Quốc huy, Quốc hiệu nước CHXHCN Việt Nam và hình Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đặc biệt, đổi tiền lần này, Ngân hàng Nhà nước có cho lưu hành loại giấy tiền 30 đồng.

Năm 1981:

- Ngày 22.1: Ngân hàng phát hành các loại giấy bạc 100 đồng, 30 đồng và 20 đồng.

Năm 1985:

- Ngày 13.9: Lệnh thu - đổi tiền. Trong 5 ngày (từ ngày 14.9 đến 19.9), toàn lãnh thổ Việt Nam tiến hành thu đổi tiền. Ngân hàng Nhà nước phát hành các loại  giấy bạc: 500 đồng, 100 đồng, 50 đồng, 30 đồng, 5 đồng, 2 đồng, 1 đồng. Quy định như sau:

+ 10 đồng mới = 10 đồng cũ.

+ Việc thu đổi chỉ thực hiện với các loại tiền có mệnh giá từ 20 đồng trở lên; các loại tiền từ 10 đồng trở xuống được phép tiếp tục lưu hành theo giá trị quy đổi ra tiền mới.

+ Mức tiền được đổi tối đa là 20.000 đồng tiền cũ, số còn lại được đổi ra tiền mới ghi vào biên lai và chuyển gửi ngân hàng.

Đợt này tiền cũ thu về 57.468 triệu đồng. Lưu ý: Ngân hàng Nhà nước phát hành thêm loại tiền giấy có mệnh giá 100.000 đồng, có hình Chủ tịch Hồ Chí Minh in nổi và in chìm, có dây bảo hiểm là tờ giấy bạc in theo công nghệ hiện đại nhất từ trước đến thời điểm đó.

Năm 2003:

- Ngày 17.12: Lần đầu tiên xuất hiện tại Việt Nam loại tiền giấy được sử dụng bằng chất liệu polymer. Tờ giấy bạc có mệnh giá cao nhất là 500.000 đồng.

Đọc những thông tin về tiền, bỗng dưng trong đầu lại nhớ mấy câu thơ trong bài Cậu bé và cô bé của Bi Maurice Careme, nhà thơ Hồng Thanh Quang đã dịch từ bản tiếng Nga:

-Nếu tớ được là con trai,

Cô bé có lần đã nói,

Từ lâu tớ đã bỏ đi

Sang châu Phi chơi cho khoái…

-Còn nếu tớ là con gái,

Cậu bé liền đáp lời ngay,

Thay cho chỉ mầu tớ sẽ

Xâu kim bằng tia nắng mai…

Rồi hai người dần khôn lớn,

Cùng nhau nên vợ nên chồng,

Với nhau sáng trưa chiều tối

Họ toàn nói chuyện tiền nong…

Nếu ai đó, có thời gian tìm đọc lại ca dao, tục ngữ, thành ngữ, thơ ca  hò vè chắc chắc sẽ ra quan niệm của người Việt về đồng tiền. Một khi đã có tiền, không cần phải đôn đáo đầu này đầu nọ kiếm tiền. Nằm khèo ở nhà đọc sách, có phải thú hơn không? Có những câu thật hay, chắc rằng, đọc qua một lần ắt nhớ nhưng rồi, tiếc là không rõ tác giả:

Gió dựa thân tường, lưng gió phẳng;

Trăng nhìn cửa sổ, mắt trăng vuông.

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 6.10.2015

 

vedangian-QN-phan-thi-My-Khanh

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 29.9.2015

 

trung-thu-nho-ban-TRAN-TAN-QUOC

 

Từ chữ “duyên” mọi sự gắn kết và mở ra một chân trời mới. “Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ’". Ngày kia, chừng mười năm trước, có người bạn gái tìm gặp và bảo: “Ba em vừa mất. Thuở sinh thời ông rất quý tập tài liệu này, thường đem ra ngâm ngợi, lấy làm tâm đắc. Em không ràng gì về thơ, nhờ anh giữ giúp, ít ra nơi chín suối ba em cũng vui vì nó đã không mất đi”. Tài liệu này, chắc chắn chỉ một mình y sở hữu. Không thể có bản thứ hai. Đó là hai quyển vở học trò, ngoài bìa có hình vẽ người nông dân đi cày, dưới in dòng chữ “Người cày có ruộng”. Kế tiếp là câu lục bát:

Cải Cách Điền Địa ai ơi

Người cày có ruộng xây đời ấm no

Lại có thêm câu: “Bộ Cải Cách Điền Địa và phát triển Nông - Ngư nghiệp thân tặng”. Tra từ điển mở wikipedia: Cải cách điền địa tại miền Nam bắt đầu từ thời Ngô Đình Diệm, sang thời Nguyễn Văn Thiệu mới ban hành Luật Người cày có ruộng, sắc lệnh số 003/60 ký ngày 26.3.1970.

Trong 2 quyển vở này có cắt dán hàng trăm bài thơ thất ngôn bát cú đã in trên báo Đuốc Nhà Nam. Nhật báo này, số 1 phát hành ngày 9.10.1958, số cuối cùng kết thúc ngày 3.9.1972, cả thẩy 1.119 số do nhà báo lừng danh Trần Tấn Quốc làm chủ nhiệm. Lật trang vở đầu tiên, cắt dán mẩu báo có nội dung: “Lúc thân sinh tôi chưa khuất, người bảo tôi chép bài thơ dưới đây để nhờ thi nhân trong nước họa lại… Trải qua mấy tờ báo do tôi chủ trương mà tôi vẫn chưa làm theo ý người. Nay bỗng nhớ đấng sinh thành đã trở về cát bụi 8 năm qua, tôi xin thực hiện ý muốn của người”. Bài thơ có tựa Mùa thu nhớ bạn, câu 6, ông Quốc quên vài chữ:

“Thu đáo trăng tròn chói sáng ê,

Đứng ngồi trông bạn vế đùi tê.

Dạo quanh bờ giếng trông bày ếch,

Đi quẩn vườn đào thấy bóng dê.

Vắng kẻ tri âm lời ú ớ,

… bản xàng xê.

Phải chi hội ngộ tình nhiều ít,

Thu mãn cô về sớm đến quê”.

Từ ngày 25.12.1969 đến ngày 5.11.1970, nhật báo Đuốc Nhà Nam liên tục in các bài thơ họa. Thơ nhiều đến độ, thỉnh thoảng đôi ba số lại thấy tòa báo nhắn tin “Cùng quý vị thi nhân: Thơ họa gửi đến nhà báo rất nhiều, có thể in cả năm. Vậy yêu cầu mỗi vị họa 1 hoặc nhiều lắm 2 bài thôi. Đành rằng chúng tôi có quyền chọn đăng song một người họa những 6 bài đều khá hết thì chúng tôi mới làm sao? Tưởng nên tập trung hồn thơ lai láng để cô đọng 1 bài xuất sắc là hơn”. Rõ ràng, thơ là thú vui tao nhã không thể thiếu của người Việt thuở trước.

Hôm nọ, đọc báo mới hay đồng nghiệp Trần Nhật Vy mới in tập sách Ba kỳ nhân của làng báo Việt Nam, viết về nhà báo Dương Tử Giang, Trần Tấn Quốc, bà Bút Trà; trước nữa nhà nghiên cứu Thiện Mộc Lan cũng viết tập sách Trần Tấn Quốc - 40 năm làm báo, nếu có thêm tài liệu mà y đang giữ ắt hữu ích cho họ nhiều lắm. Những tài liệu đang có, nếu không khai thác hết, cách tốt nhất nên đem cho những người thật sự đang cần. Từng nghĩ như vậy, nên cách đây khá lâu đã tặng nhà báo Hoàng Hải Vân tập tài liệu quý liên quan đến nhà tình báo Phạm Ngọc Thảo. Đó là loạt bài đăng trên nhật báo Hòa Bình ấn hành tại miền Nam do Trần Du làm chủ nhiệm, được cắt dán cẩn thận, viết về những ngày cuối cùng và cái chết của Phạm Ngọc Thảo.

Có những tài liệu, dù biết rằng quý nhưng không thuộc sở trường, không thuộc đối tượng nghiên cứu, vậy giữ làm gì?

Có những thứ mình bo bo giữ lại nhưng thật ra là mất, khi đem cho người khác, tưởng mất nhưng lại còn bởi người sử dụng biết cách gìn giữ, phát huy tác dụng cần thiết của nó.

Trở lại với hàng trăm bài thơ đã họa thơ song thân nhà báo Trần Tấn Quốc, lúc nào nhàn rỗi sẽ phân tích sâu hơn. Trước mắt, chép lại một, hai bài thơ của một nhân vật nổi tiếng không kém: Hồ Hữu Tường (1910-1980). Số báo ra ngày 30.12.1969, ông họa bài “Dân biểu thán”:

Lỡ làm dân biểu phải à ê,

Chẳng vậy, chỉ vì bởi chữ T.

Đáy giếng đành cam thân phận ếch,

Vườn hoa khôn tránh tiếng tăm dê.

Thương dân tức tưởi: lời ơ ớ,

Khóc nước bi  ca: giọng líu xê.

Gánh vác thì nhiều, ôi sức ít,

Một lần qua ải, chịu mình quê.

Số báo ra ngày 1.1.1970, ông có bài họa “Lý Toét ra thành”:

Ngôn ngữ quái gì ứ với ê?

Uống ăn cay đắng lại mùi tê.

Nhởn nhơ váy ngắm phơi đùi ếch,

Phất phới râu xồm cởn máu dê.

Nhạc tuýt xuống lên lời ớ ớ,

Vũ trường đảo lượn đít xàng xê.

Cao bồi nữ quái nhiều không ít,

Lý Toét âu đành chịu: “Tớ quê”.

Gớm cho các ông Tự Lực Văn Đoàn, nhân vật trào phúng đã từng xuất hiện trên Phong Hóa, Ngày Nay từ thập niên 1930 đến nay vẫn còn sừng sững ra đó. Xây dựng nhân vật điển hình, từ tranh châm biếm, hí họa, giỏi đến thế là cùng.

Những ngày này, Sài Gòn thường có mưa về buổi chiều. Bạn bè đã có những lời mời du hí nơi nọ nơi kia, tham quan danh lam thắng cảnh ở Nha Trang nhưng từ chối. Dường như ông Khổng Tử bảo rằng, khi song thân đã già, con cái chớ nên đi chơi xa, huống hồ gì mẹ y đang bệnh rề rề, bỏ đi chơi sao đặng? Chiều qua, nằm nhà đọc tập chí Thơ số 8.2015 do Hội Nhà văn Việt Nam gửi tặng hội viên. Chú ý đến bài viết của nhà nghiên cứu Lại Nguyên An về bài thơ Hoàng hoa của nhà thơ Bích Khê. Từ chi tiết, bài thơ khi đăng tuần báo Tiểu thuyết thứ Năm (số 30, ra ngày 11.5.1939) có dòng đề tặng: “Kính tặng Đ. Thị Điểm”, Lại Nguyên Ân đã suy luận và “giải mã” được một số từ mà người đương thời khó cảm nhận. Chẳng hạn, Phan Khôi dẫn một đoạn thơ ở bài “Hoàng hoa” rồi chất vấn: “Lam nhung” là gì? “Xanh nhung” là gì? “Chim yên” là gì? “Xương cây” là gì? Chẳng có nghĩa gì cả!”.

Có thật vậy không?

Nay, ông Lại Nguyên Ân lý giải: “Nhắc đến Đoàn Thị Điểm ở đây chắc chắn là nhắc đến bản nôm “Chinh Phụ Ngâm”. Vậy là những tên đất như Yên, Hàm Dương, Tiêu Tương, Dương…, những tên chim tên hoa như Oanh, Quyên, Uyên, Đào, Phù dung, Hoàng hoa… - đều là “trích xuất” từ “Chinh Phụ Ngâm”. Ngay cái từ gọi “Chàng” cũng vậy. Ở đây chỉ không xuất hiện từ tự xưng “thiếp” trong khúc ngâm chinh phụ kia, vì đã được thay bằng “ta”; và như để tương thích với thời đại, ngay “chàng” cũng được đặt vào một chuyển hóa với “tình lang”. Đặt trong sự tương ứng rõ rệt với thế giới của “Chinh Phụ Ngâm”, sẽ chẳng khó khăn gì để thấy rõ toàn bài “Hoàng hoa” như là một khúc trữ tình của người chinh phụ đang ngóng chồng vào một buổi chiều thu. Nỗ lực nhiều nhất của nhà thơ ở đây, có lẽ không phải là tạo những hàm nghĩa tiềm ẩn hay tân kỳ, mà chính là tạo ra một nhạc điệu”.

Hoàn toàn chính xác. Tri kỷ với người xưa, được thế, có mấy ai?

So bài thơ đã in trên Tiểu thuyết thứ Năm và khi đưa vào tập thơ Tinh huyết, Bích Khê đã bỏ đi một số câu, vì thế Hoàng hoa trở thành bài thơ tình cá nhân, hoàn toàn thoát ly không khí chính trị, thời sự theo ghi nhận của ông Ân: “Bài “Hoàng hoa” được công bố năm 1939, năm mà  những tin tức về cuộc thế chiến thứ hai đang khởi lên từ châu Âu đang gia tăng độ ám ảnh lên dư luận tại Việt Nam. Tức là, ở một phía nào đấy, bài thơ này động đến một trong những lo âu vẫn chưa thôi đeo bám trong hồn dân Việt, tính đến thời gian ấy. Và thời gian đã cho thấy ám ảnh kia là thực, như chúng ta đã biết”.

Có những bài thơ đã in báo, nhưng lúc tuyển lại, in thành tập, sự chỉnh sửa của chính tác giả có thể làm bài thơ đó hay hơn; hoặc ngược lại.

Trưa rồi. Nghĩ ngơi thôi. Lại cầm lấy 2 tập vở của người bạn gái đã tặng như nhờ giữ giúp, nhìn trang giấy vàng ố, tự dưng bùi ngùi. Lật trang bìa, thấy có in Bản cửu chương và vài câu lục bát, ghi lại để thấy tập vở học trò của một thời:

Cải Cách Điền địa thưa anh

Cấp ruộng, cấp đúng, phát nhanh người cày

Anh về thôn xóm chung tay

Thi hành chính sách hăng say góp phần

L.M.Q
(29.9.2015)

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 18.9.2015

daichinongcog-1-R

 

Những ngày qua, mưa tầm tả. Cơn mưa chiều ngày 15.9.2105 tại TP.HCM, báo chí ghi nhận “ngập lụt kinh hoàng”. Chiều hôm đó, y từ chung cư Gia Hòa trở về nhà. Phải vượt qua cầu Cát Lái, cầu Sài Gòn. Trắng xóa là mưa. Nước ngập. Về đến nhà mà ướt như chuột lội. Lội có nghĩa bơi lội, chuột sa xuống nước, ướt nhèm nhẹp là đúng rồi. Lại nghe “ướt như chuột lột” và cho rằng “lột” là biến âm của “lụt”, là nói trệt đi của “lội”.

Trời mưa tầm tả, nằm nhà, mở cửa sổ cho gió thông thoáng, vẫn thích lặp lại thói quen nằm đọc sách. Nhẩn nha từng trang. Có những quyển sách thoạt nhìn thấy đồ sộ ghê gớm, tiến sĩ này, thạc sĩ nọ, giáo sư kia nhưng nội dung chẳng có gì đáng đọc. Chẳng qua chỉ là sự sao chép lẫn nhau. Họ giỏi thì giỏi thật, cứ cho là thế, nhưng làm sao có những người giỏi đến mức hết biên soạn địa chí tỉnh này đến tỉnh nọ? Chỉ là một kiểu "đánh sô", kiếm chác đấy thôi. Công việc nhọc nhằn này, chỉ những ai chôn nhau cắt rốn nơi đó mới có thể làm được. Làm được, tất nhiên ngoài kiến thức, học vấn họ còn có tình yêu sâu đậm, tình yêu máu thịt với nơi đã sinh ra và lớn lên. Cả một đời sống chết, gắn liền với mảnh đất ấy, nhờ thế, họ mới có thể nhìn ra và cảm nhận được sự độc đáo của quê hương mình mà người nơi khác thoáng qua, chỉ cỡi ngựa xem hoa không thể nào có được sự đồng cảm.

Nói như thế, bởi mấy hôm nay đọc quyển Địa chí Nông Cống (NXB Khoa học Xã hội -1998) do Huyện ủy, UBND huyện này đứng tên, Hoàng Anh Tuấn - Lê Huy Trâm biên soạn. Cả hàng trăm người cùng tham gia cung cấp tài liệu; cố vấn khoa học, trong đó có nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Khánh. Những người trực tiếp thực hiện dù không nổi tiếng ghê gớm trên trường văn trận bút, nhưng những gì họ viết là viết từ sự ghi chép qua quan sát từ thực địa, từ các gia phả, thần phả, di tích, nhân chứng vật chứng tại địa phương, nhờ thế, cung cấp cho người đọc nhiều thông tin mới mẻ, lý thú.

Nói đến Nông Cống (Thanh Hóa), có thể quên đi nhiều bậc kỳ tài  nhưng không thể quên anh hùng Bà Triệu. Lâu nay vẫn nhớ đến câu “Lệnh ông không bằng cồng bà”  - nhằm ghi nhận vai trò to lớn, quyền quyết định tối hậu của người vợ trong gia đình, tưởng vai trò đó thuộc về chồng nhưng người chồng chỉ tép riu. Theo y, ban đầu ý nghĩa của câu “Lệnh ông không bằng cồng bà” không hề liên quan gì đến chuyện vợ chồng cả. Đó là chuyện của hai anh em ruột ở Quan Yên (nay thuộc xã Định Công, huyện Yên Định - Thanh Hóa). Anh là Triệu Quốc Đạt, em là Triệu Thị Trinh. Năm 248, hai anh em họ Triệu nổi lên đánh nhà Ngô.

Ru con con ngủ cho lành

Để mẹ gánh nước rửa bành ông voi

Muốn coi lên núi mà coi

Coi Bà Triệu tướng cưỡi voi đánh cồng

Núi đó là núi Nưa. Cồng là vật dụng chế tạo bằng hợp kim, giống như cái chiêng nhưng không có núm, dùng để phát hiệu lệnh. Còn nhớ có câu:  Tội lội xuống sông, đánh ba tiếng cồng, tội lại nổi lên; Chì khoe chì nặng hơn đồng, sao chì không đúc nên cồng, nên chiêng? v.v… Khi ra trận, Bà Triệu dùng cồng tập hợp nghĩa quân. Dù là em, nhưng cồng của Bà Triệu uy lực, uy quyền hơn lệnh của ông anh Triệu Quốc Trinh - hào trưởng, bằng chứng bài đồng dao còn lưu truyền:

Này cò, này cấu

Này đấu, này thưng

Lưng sào, canh ná

Này lá, này lao

Nghe cồng Bà rao

Nghe lệnh Ông gióng

Chong chóng chạy về

“Cồng” được nhắc đến trước “lệnh”. “Lệnh ông không bằng cồng bà” ra đời với ý nghĩa rõ ràng như thế, sau này, người ta hiểu chệch qua chuyện vợ chồng. Mà hiểu chệnh như thế cũng hợp lý thôi. Đàn ông nào dù lừng lừng lẫy lẫy là thế, nhưng nhiều trường hợp chỉ là một loại “râu quặp”. Trong gia đình, người vợ lặng lẽ phía sau, một cái bóng mờ nhạt nhưng mới là người có tiếng nói quyết định. Biết thế, hiểu thế, đi “cửa sau” gặp người vợ nhiều khi lại hiệu quả hơn gấp bội phần.

Ai cũng biết, trong máu thịt người Việt dù đang sinh sống ở chân trời góc biển nào đi nữa, khí chất nông dân vẫn còn trong huyết quản, thèm ăn cơm hơn bất kỳ các loại bột nào đã được chế biến từ lúa gạo. Cây lúa gắn liền với sự sống của mỗi người từ lúc mở mắt chào đời. Thế thử hỏi, ông cha mình có tục “hú vía lúa” không? Phải nói thật, nhờ đọc quyển Địa chí Nông Cống, lần đầu tiên mới biết đến tục này mà chưa sách nào nào đến. Sai khi lúa cấy xong, làng cử người đàn bà già có đức độ hú vía lúa:

Ông lọ bà lọ (lúa)

Ông tốt như mây

Bà sây (sai quả) như móc

Hạt chắc như hèo (quả mây, quả hèo to tròn)

Vừa cắt vừa kèo

Một mẫu trăm phương

Mười lăm gánh lẻ

Người già người trẻ

Sức khỏe làm ăn

Đầy đụn đầy chum

Vừa ăn vừa bán… ơ…ơ…

Văn bản quý giá này, thời buổi công nghiệp hóa mấy ai còn nhớ nữa. Từng đọc Phong tục Việt Nam của Phan Kế Bính, được xem như một trong những nghiên cứu mẫu mực, nếu muốn tìm hiểu về phong tục, tập quán của dân tộc Việt đã trải qua hàng ngàn năm thăng trầm nhưng không một kẻ thù nào có thể đồng hóa nổi. Đọc tập sách đó, ta biết đến tục khảo cây, giục nó mau ra quả: “thì chờ đến ngày đoan ngọ. một người trèo lên cây, một người cầm vồ khảo dưới gốc cây ba cái, hỏi đã chịu nẩy quả chưa, người trên cây nói chịu, sang năm tự khắc cây có quả”. Tuy nhiên, cụ Phan Kế Bính không đề cập đến tục khảo rể, là trường hợp có người lập gia đình đã lâu như chưa có con. Thông tin này lý thú quá, không riêng gì cụ Phan Kế Bính mà các sách khác hầu như cũng chưa nói đến.

Ở làng Giáp Mai (xã Tế Thắng): “Quan niệm rằng: đất có long mạch, long mạch thông suốt thì dân mới thịnh vượng. Người có khí huyết, huyết mạch lưu thông thì mới sinh con đẻ cái. Rể làng nếu chậm có sinh con thì phải khảo rể để mau có con. Tháng Giêng Âm lịch, làng vào đám. Rể làng chưa có con thì làng bắt ra khảo:

Lễ vật là mỗi chàng rể chưa có con biện một mâm xôi gà, chai rượu và một trăm đồng tiền. Các mâm lễ vật đặt lên thắp hương, ông Tiên chỉ khấn Thành hoàng về chứng giám và cúng tạ long mạch. Sau đó, bắt từng chàng rể chưa có con ra khảo. Cách khảo:

- Dùng một cái vồ bằng cây dứa dại (chặt một đoạn dứa, đẽo vỏ, đóng cán, vồ nhỏ);

- Dâng lễ vật khấn Thành hoàng và long mạch xong, từng chàng rể ra chịu khảo. Anh ta phải đến trước án thờ, vén quần đến gối, ngồi bệt xuống nền đình, đặt hai chân lên một đoạn khẳng tre có buộc dây ở giữa để kéo hai chân lên cao cách mặt nền đình độ 30 cm. (Đầu dây kia dài, lòn qua đòn tay mái đình để cầm kéo đoạn dây buộc khẳng tre nhấc đôi chân chàng rể lên khỏi mặt đình);

- Ông Tiên chỉ cầm vồ dứa, giơ thật cao đánh xuống… rất nhẹ, lấy phép, vào đầu gối chàng rể đủ 120 vồ;

- Trai gái làng đứng xem vừa cười đùa, xô đẩy nhau, chọc ghẹo nhau, vừa hát các câu động viên việc “chăn gối”: Đêm bảy ngày ba vào ra không kể này! Đêm bảy ngày ba làm chán trong nhà lại ra ngoài sân này!...” (SĐD tr.274 - 275).

Tất nhiên, tục khảo rể đã mất đi rồi. Cần ghi lại bởi đó là một phần ký ức của một dân tộc. Những ngày này vẫn nhì nhằng. Công việc không có gì mới. Vẫn quen thuộc của mỗi ngày. Được thế, đã là vui sống với mỗi ngày.

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 14.9.2015

anh-chi-em-le-minh-quoc-2Anh chị em Lê Minh Quốc (thứ tư, từ trái) chụp tại Đà Nẵng năm 1968

 

Vừa đi Hà Nội về. Không ngạc nhiên với câu nói của một người dân Hà Nội: “Giá như nhà mình là cái thuyền thì tôi đã chèo đi nơi khác rồi. Tôi cứ tưởng nước mình hết chiến tranh thì thôi loa công cộng”. Y bịa ra chăng? Không, câu này in chình ình trên báo Thể Thao & Văn hóa số ra ngày 11.9.2015. Tất nhiên, không chỉ có thế. Nhà biên kịch Đoàn Tuấn dẫn đi ăn phở Thìn tại phố Lò Đúc. Không ngờ thời buổi này, trước lúc bước vào trong quán tìm chỗ ngồi, khách phải xếp hàng ngay tại cửa… trả tiền trước (!?). Rồi chẳng hiểu ra làm sao tờ báo nọ, tổ chức cuộc thi cực kỳ hoành tráng, các giải thưởng lên đến vài chục triệu đồng nhưng lúc có kết quả họ không thèm cung cấp thông tin cho báo bạn, qua đó các đồng nghiệp giúp tuyên truyền, quảng bá sâu rộng hơn. “Có qua có lại”, hỗ trợ thông tin là điều thường thấy ở báo chí trong Nam. Ở ngoài Bắc lại khác, lãnh đạo tờ báo nọ nói thẳng thừng, không cần thiết nhờ cậy gì cả, điều quan trọng nhất, chứng tỏ “đẳng cấp” nhất là tìm mọi cách, tất nhiên phải chi tiền gấp nhiều lần miễn chương trình của mình được… truyền hình trực tiếp (!?).

Còn nhiều chuyện nữa. Mà thôi. Chẳng thiết kể lại làm gì. Mình chỉ là khách, đến chơi dăm hôm rồi về, chuyện người ta, kệ họ, can cớ gì mà ý kiến ý cò?

Có lẽ hấp dẫn nhất cho những chuyến đi chơi xa, vẫn là dịp được thưởng thức đặc sản nơi đó. Lần này, ra Hà Nội mấy anh bạn đồng nghiệp là nhà báo Đinh Trọng Tuấn, đạo diễn Trần Tuấn Hiệp, nhà biên kịch Đoàn Tuấn… đãi cho món cơm nắm ăn với muối vừng. “Có một làng chuyên nấu cơm nắm phục vụ cho cả Hà Nội. Bà cụ này thường xuyên bán ở sân 51 Trần Hưng Đạo, thuở còn sống, nhà thơ Huy Cận thích ăn lắm”. Tuấn bảo bảo thế. Địa chỉ 51 Trần Hưng Đạo không khác gì 81 Trần Quốc Thảo ở Sài Gòn, đó là nơi tập trung các cơ quan chuyên ngành thuộc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam. Văn nghệ sĩ vốn khó tính trái nết trong việc ăn uống, mà họ đã “chịu” cơm nắm của bà cụ này ắt phải ngon. Mà ngon thật. Nắm cơm nhẹ tênh, cắn vào một miếng, ngập chân răng đã thấy bùi bùi, từng hạt mới vừa quyện chặt lấy nhau đó, vội vàng rời ra. Ngồi trong một quán sang trọng, máy lạnh nhìn qua cửa kính thấy cõi nhân sinh nhốn nháo, bận rộn ngược xuôi trên hè phố lại nhớ loáng thoáng mấy câu thơ của Nguyễn Trọng Tạo:

Thời gian mòn cối giã vừng

Lòng tay mòn nhẵn qua từng nắm cơm

Vai mòn đòn gánh bóng trơn

Người rao cơm nắm bước mòn tuổi xanh

Hà Nội đã thay đổi nhiều. Vẫn còn đó cơm nắm:

Thơm về đồng đất phù sa

Thơm về đồi núi thơm qua luống cày

Thơm về mùa trĩu bông sây

Thơm về Tiên Tổ tháng ngày nắng mưa

Nghìn năm hay vạn năm xưa

Muối vừng cơm nắm lon dưa vại cà

Món quê thơm thảo mặn mà

Vẫn len lỏi chốn phồn hoa phố phường

Vừa rồi, đọc bài báo của đồng nghiệp Trần Hoàng Nhân, anh viết về lá é. Một quán giữa Sài Gòn, “chuyên trị” các món ăn có lá é. Nghe lạ tai quá. Nghe ngộ nghĩnh, thân mật, dân dã và quê mùa nên dễ có cảm tình: “Đặc biệt lá é trắng giã với muối hột thành món muối é, khởi thủy chỉ có ở Phú Yên, sau này một số tỉnh Tây nguyên cũng làm theo. Muối é dùng làm thức chấm tuyệt hảo, có thể thay thế các loại thức chấm khác. Muối é được dùng trong các bữa ăn gia đình ở Phú Yên phổ biến như mắm tôm Tây Ninh vậy”.

Không chỉ có lá é trắng, còn có lá é quế. Đọc lại quyển Việc làm nhà quê tại Phú Yên của ông bạn già Trần Huiền Ân, mới biết lá é quế dùng ăn phở, tuyệt ngon. Và không chỉ có thế: “Hột é tí xíu màu đen mượt, đem phơi khô, khi cần dùng cho vào nước ngâm, phần cơm mỏng chung quanh hột nở ra màu trắng đục, bên trong có một chấm đen, trộn với nước đường làm thức giải khát. Ở thôn quê khi có đám hát bội, bài chòi… người đi xem ghé lại các bàn hàng nước uống nước hột ư, hột é, mỗi ly có rắc thêm giọt dầu chuối cho thơm” (SĐD, tr. 369). Nhờ đọc đoạn văn ngắn này, giật mình sực nhớ thời thơ bé đã từng uống nước hột é. Chẳng nhớ rõ lúc đó, các cô cậu thò lò mũi xanh ở Quảng Nam có gọi là nước hột é là món “trứng ếch” như Trần Hoàng Nhân cho biết học trò Phú Yên thường gọi đùa?

À, thời tiểu học, ai lại không từng ép lá thuộc bài trong vở? Chắc chắn mấy ông nhà văn đã kể lại chi tiết này trong tác phẩm viết cho tuổi mới lớn. Bằng chứng năm 1970, nhà văn Nguyễn Thái Hải (tức Khôi Vũ) đã có cuốn truyện dài Chiếc lá thuộc bài. Chưa đọc thấy nhà văn nào kể lại chuyện thời ấy, mỗi lần đi học, thường mua lấy cái bánh tráng ngọt trước cổng trường. Cái bánh mỏng, dẻo ngọt, màu hơi xỉn vì do bột được hòa chung với đường bát, loại đường thô, rẻ tiền, mỗi lần ăn xé ra một ít, nhấm nhí cái ngọt tan dần dần trong lưỡi. Không dám ăn nhiều, sợ hết. Vì thế, cái bánh ấy được xé ra thật nhỏ và giấu trong các quyển sách giáo khoa, trong vở. Cũng là một cách để dành ăn dần. Sung sướng nhất, tưởng đã hết, nhưng một lần nào đó, tình cờ lật sách học bài lại nhìn thấy còn sót mẩu bánh tráng mỏng ngòn ngọt ấy, mừng lắm. Rồi có lúc hai đứa bạn chơi trò oẳn tù tì, ai thắng thì được lật trước quyển sách giáo khoa, lật hú họa, may mắn thì tìm được miếng bánh tráng nhỏ tẹo giấu trong đó. Cứ thế, cứ oẳn tù tì cho đến lúc hết tìm thấy gì thì thôi.

Vái ông Tơ một chầu bánh tráng

Vái bà Nguyệt một tán đường Dinh

Đôi ta gá nghĩa chung tình

Dù ăn cơm mắm, ngủ ngoài đình cũng ưng

"Đường Dinh" là đường gì? Có phải tên gọi như đường bát ở Quảng Nam mà ngày còn nhỏ, y từng mê tít đó không? Trong quyển Giang san Việt Nam - Đây: Non nước Phú Yên (NXB Tiền Giang -1966), nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Tư cho biết: “Tại vùng Tuy Hòa, các thôn Ngọc Lãng, Đông Phước trước kia cũng làm đường đen, đem đổ vào khuôn lớn làm bằng chiếc mâm, đem tới bán ở chợ Dinh, tức chợ Tuy Hòa ngày nay” (SĐD, tr. 172). Đôi uyên ương trong câu ca dao trên rõ ràng là nghèo kiết xác, nghèo rách mồng tơi, ai đời hôn nhân cưới hỏi là chuyện trọng đại nhưng chỉ vái ông Tơ, bà Nguyệt mỗi “bánh tráng”, “đường Dinh”! Tự dưng thương thương trong dạ, bùi ngùi trong lòng rồi cầu chúc cho họ mãi mãi ý hiệp tâm đầu. Chắc chắc là thế, bởi nghe họ quả quyết sau đó, dù thế nào đi nữa, “Dù ăn cơm mắm, ngủ ngoài đình cũng ưng”. Ôi, tình ái của đời người, sao mà thiêng liêng đến thế.

Trở lại với quyển sách của Trần Huiền Ân, đoạn vừa trích dẫn có nhắc đến “hột ư”. Hột gì vậy? Thì ra đó là hột ươi theo cách phát âm của người Phú Yên, tại Quảng Nam gọi hột lười ươi, chẳng mấy ai gọi hạt đười ươi. Có lẽ, nhớ nhung nhất, gợi cảm nhất, bâng khuâng nhất của nhiều người hoài niệm vẫn là “mỗi ly có rắc thêm giọt dầu chuối cho thơm”. Những gánh chè bán rong ở miền Trung, thuở trước, sau khi múc xong chén/ly chè, người bán không quên rắc thêm vài giọt dầu chuối. Vài giọt dầu có màu trắng đục loang dần ra, đượm vào vị ngọt của chè và tỏa mùi thơm dìu dịu.

Và bây giờ chẳng còn thấy ai bán “nước đá nhận”. Nhớ lại chưa? Có lẽ nhiều người lắc đầu, không thể nhớ ra loại thức uống đã từng khiến các cô câu học trò mê tít thò lò. “Nước đá nhận” là thế nào nhỉ? Chiều nay, trời mưa tầm tã. Ngồi đọc nhẩn nha quyển Tiếng rao đêm của chuyên gia ẩm thực Nguyễn Dzoãn Cẩm Vân. Trong đó, bà có kể lại: “Tuổi thơ của chúng tôi mà được cầm mà được cầm trong tay một ly đá nhận thì không gì thích thú bằng. Mà cũng lạ, đá bào nhuyễn, nhận thật chặt trong ly rồi xịt một ít xirô lên mặt đá, chỉ có thế thôi mà sao những đứa trẻ đứng quanh cái xe đạp háo hức đến thế. Những con mắt tròn xoe, những đôi chân bé bỏng khiễng lên một tí để có thể nhìn thấy từng động tác của người bán, và đôi khi còn rụt rè xin thêm chút xirô để mút cho đã. Mút chán rồi còn tiếc rẻ cho phần đá còn lại đã chẳng còn gì vào mồm và nhâm nhi cho đến hết, ăn xong chẳng hiểu là môi đỏ tự nhiên hay đã bị cái lạnh của đá mà bỗng xinh đến thế kia”.

Hóa ra không chỉ ở Sài Gòn thập niên 1960 mà ở miền Trung cũng vậy thôi, lũ "nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò” cũng khoái “nước đá nhận”. Bà Nguyễn Dzoãn Cẩm Vân nhớ chính xác còn ở chi tiết này: “Thường xe đá nhận được trang bị hai bên cái boọc-ba-ga (vốn là nơi để chở hàng hay chở người ngồi sau xe đạp) là hai cái thùng cũng bằng gỗ, trong đó, đựng vài ba chai sirô nhiều màu: xanh của bạc hà, đỏ tía của dâu, vàng của soda chanh, tím của lá cẩm”. Thật lạ, đôi khi một câu văn bình thường, không hoa hòe hoa sói, viết chân tình lại khiến người đọc thích thú, chỉ vì nó đã gợi nhớ lại một kỷ niệm, một tình cảm tuổi thơ mà mình đã lãng quên từ lâu. Đã lãng quên hình bóng của chính mình đã từng thấp thoáng và rõ nét trong  những câu thơ của Huy Cận:

Chân non dại ngập ngừng từng bước nhẹ

Tim run run trăm tình cảm rụt rè

Tuổi mười lăm gấp sách lại, đứng nghe

Lòng mới nở giữa tay đời ấm áp


L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 30.8.2105

mung-sinh-nhat-Ao-trang-1-BIS-R

Tập san Áo Trắng số đầu tiên - ấn hành năm 1990

 

Hôm qua, sinh nhật Tập san Áo Trắng tròn 25 tuổi.

Có thể ghi nhận đây là một trong những sự kiện của giới xuất bản, báo chí sau năm 1975. Lần đầu tiên, một ấn phẩm dành cho tuổi mới lớn, nuôi dưỡng tình yêu văn chương của các cây bút trẻ đã tồn tại đến bây giờ. Và cả sau này nữa chứ? Chắc chắn thế. Sân chơi này, chỉ có “đặc sản”: thơ, truyện ngắn, tùy bút… Sáng kiến thực hiện tờ Áo Trắng thuộc về anh Lê Hoàng, bấy giờ là Giám đốc NXB Trẻ; “linh hồn” của nó là nhà văn Đoàn Thạch Biền, người trực tiếp tuyển chọn, biên tập từng số báo. 25 năm nhiều thăng trầm, thay đổi và đến nay, Áo Trắng vẫn tinh khôi như thuở ban đầu. Không đi chệch hướng.

Từ những trang viết ở đây, đã có nhiều thế hệ cầm bút trưởng thành.

Sực nghĩ, bây giờ hầu như ít ai còn nhớ đến Vũ Đình Long với tư cách tác giả, người tiên phong với thể loại kịch ở Việt nam qua vở diễn Chén thuốc độc. “Vở kịch đã đi vào văn học sử và sân khấu Việt Nam với tư cách một sự mở đầu cho kịch nói dân tộc” (Tạp chí Xưa - Nay số 1.2000). Vở kịch này công diễn vào ngày 22.10.1921 tại Nhà hát lớn Hà Nội do Bắc Kỳ Công thương Đồng nghiệp Ái hữu tổ chức. Sau đó, Vũ Đình Long còn viết nhiều vở kịch khác nữa nhưng chẳng mấy ai nhớ. Thế nhưng, mãi bây giờ và sau này nữa, người ta không thể quên vai trò của ông trong lãnh vực xuất bản khi đứng ra tổ chức, thực hiện những tập san văn nghệ lừng danh một thời, thậm chí còn bao trùm cả thời “tiền chiến” như Tiểu Thuyết Thứ Bảy, Ích Hữu, Tao Đàn, Phổ Thông bán nguyệt san… Những tập san này đóng vai trò thúc đẩy sự tiến hóa của cả nền văn học hiện đại thế kỷ XX, bên cạnh Phong Hóa, Ngày Nay, Tiểu Thuyết Thứ Năm v.v…

Đêm hôm qua, ngồi trên sân thượng, bia bọt rót vèo vèo như thác nước đổ xuống từ trời cao. Say. Và nghĩ đến ông Vũ Đình Long rồi liên tưởng đến vai trò của nhà văn Đoàn Thạch Biền và nhà báo Lê Hoàng.

Trước đây, có lần nhà văn Đoàn Thạch Biền tâm sự đôi khi nhà văn như cầu thủ, một khi không ra sân bóng nữa thì hãy làm huấn luận viên, thậm chí cổ động viên cho cuộc chơi đẹp. Anh Biền đã thực hiện đúng như điều đã tâm niệm. Fair-play. Thế là vui quá rồi. Mãn nguyện. Trong bài thơ mừng sinh nhật lần thứ 25 của Áo Trắng, anh bộc bạch tâm tình:

Yêu người thật tim mình

Chẳng lo gì thua thiệt

Hạnh phúc vốn vô hình

Làm sao ta phân biệt

Vậy thôi. Cứ làm hết sức mình. Nhẹ nhàng. Thong dong. Mà đời người, sống trên đời, ai lại không mong muốn làm một việc gì đó cho cuộc đời tốt đẹp hơn? Dù làm được việc bé tẹo tèo teo như góp một hạt cát vào sa mạc; hoặc lớn lao như đội đá vá trời thì cũng đều trân trọng như nhau.

Sáng nay, ngồi đọc lại một, hai bài báo đã viết nhân sinh nhật Áo Trắng của nhiều năm trước. Lần sinh nhật tròn 1 tuổi, năm 1991, đã viết “Một ngọn nến hồng cho Áo Trắng”: Một buổi sáng. Vòm trời Sài Gòn mươn mướt như đôi mắt tiểu thư sắp khóc. Mưa rất nhẹ và nắng rất mỏng. Tình cờ gặp nhau trước cổng NXB Trẻ, anh Lê Hoàng bảo tôi: “Viết gì cho Áo Trắng chưa? Áo Trắng sắp thôi nôi. Một tuổi rồi”. Ba trăm sáu mươi lăm ngày đã trôi qua rồi sao? Bất chợt tôi lại nhớ đến câu thơ của Baudelaire:

Nhớ lại đi, thời gian là con bạc tham lam

Thắng mọi ván mà chẳng thèm gian giảo

Nhớ lại đi. Ôi chao! Kỷ niệm như tơ chùng. Trong tâm tưởng. Trong đời sống. Một lúc nào đó sợi tơ sẽ căng lên và rung những âm thanh và bật lên tiếng nói. Về một ngày đã qua. Ngày sinh nhật Áo Trắng. Lúc đó, NXB Trẻ còn nằm trên đường Thái Văn Lung (nay là đường Alexandre de Rhodes, Q.1). Bạn bè gặp nhau là sà vào quán nước dừa. Nói đủ thứ chuyện. Từ địa ngục đến thiên đường. Từ cây kim đến người ngoài vũ trụ. Những câu chuyện lếu láo đậm đặc màu sắc văn nghệ. Nhưng có một lần, nhà văn Đoàn Thạch Biền nói với tôi một cách nghiêm chỉnh: “NXB Trẻ sắp ra tờ Áo Trắng. Tuyển tập thơ văn dành cho tuổi học trò, cậu viết bài đi”.

Và tôi viết.

Truyện ngắn “Bắt trộm tại ký túc xá” in vào số 1 bên cạnh những sáng tác ưng ý nhất của bạn bè. Cũng tại quán nước dừa này, tôi dẫn Đoàn Vị Thượng đến gặp anh Lê Hoàng để đăng ký bản thảo viết cho Áo Trắng. Sự hào phóng ứng với tiền nhuận bút đã trở thành một động lực để Thượng viết truyện dài đầu tay “Chuyện tình áo trắng” cũng có nghĩa là mở cho tôi một hướng đi mới. Hướng đi sẽ không có sự phản trắc.

Sau khi ra được vài số thì NXB Trẻ chuyển về đường Lý Chính Thắng. Chỗ gặp gỡ của anh em bấy giờ là quán cà phê Chiều Tím. Tại đây, tôi đã gặp những cậu học trò “Áo trắng đơn sơ, mộng trắng trong” như bước ra từ thơ Huy Cận tìm đến Áo Trắng để gửi bài vở. Mới đó thôi. Vậy mà đã một năm. Bây giờ lật lại những tờ báo cũ tôi vẫn như còn thấy mới tinh khôi. Mới nhất, nhiều nhất vẫn là những sáng tác của lứa tuổi học trò chập chững lần đầu đến với văn chương. Họ đến từ nhiều nơi. Có lần nhận được lá thư độc giả từ Đông Hà (Quảng Trị), tôi thấy anh Hoàng Phủ Ngọc Phan cười rất hồn nhiên: “Rứa là Áo Trắng đã đến quê tôi”. Nụ cười ngây thơ chứ không khinh bạc như khi ký tên Hoàng Thiếu Phủ.

Trong những lần họp mặt bạn đọc Áo Trắng, tôi nhớ bao giờ Đoàn Thạch Biền cũng nói nửa đùa nửa thật: “Nhà xuất bản quy định đến dự là phải mặc áo trắng. Cấm mặc áo sọc dưa”… Nói đùa thôi. Đùa mà thật. Lứa tuổi học trò trắng như một tờ giấy mới để những người làm văn chương mộng mị viết những gì thật nhất của mình. Nơi đó không có sự sọc dưa. Và phản trắc.

Mới đó thôi. Đã một năm rồi.

Ông Cao Bá Quát đã từng kêu lên: “Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy”. Chứ huống hồ gì một năm. Nhưng một năm qua Áo Trắng vẫn giữ được màu áo trắng. Đó là điều đáng quý nhất để tự động viên nhau. Đi tới nắng ấm chói chang lực lưỡng của những người viết về lứa tuổi thơ mộng nhất một đời người. Đi tới và thắp lên một ngọn nến. Một lời chúc mừng. Bây giờ và mãi mãi”.

Bài viết của 24 năm về trước, đọc lại và cảm thấy thời gian đi qua nhanh thật. Đêm qua, sau phát biểu của nhà văn Đoàn Thạch Biền, y nhắc lại một hai kỷ niệm cũ. Đại khái, lần đầu tiên trao đổi về việc thực hiện tờ Áo Trắng số đầu tiện, vài ba anh em cùng ngồi trên những ghế bố của quán dừa xiêm trước cổng NXB Trẻ, nhà văn Tình nhỏ làm sao quên cao hứng đọc hai câu thơ lục bát:

Tôi về lắng cả buổi chiều

Nghe chim ăn trái rụng đều như kinh

Nhà thơ Bụi Phấn Đoàn Vị Thượng chăm chú lắng nghe, gật gù khen hay rồi khẽ khàng ngâm:

Tôi không buồn những buổi chiều

Vì tôi đã có rất nhiều ban mai

Đêm qua, sờ thấy râu ria đã mọc đầy cằm, tự dưng rưng rưng nhớ lại những “buổi chiều”, những “ban mai” trong sáng và vô tư lự ấy. Chỉ một cái nháy mắt, thời gian đã trượt dài khỏi tầm tay. Ơ hay, tuổi trẻ đã bỏ y ra đi từ lúc nào vậy? Đêm qua, không nghe ai nhắc đến một nhân vật có cái tên du dương, thơ mộng Tóc Mây mà đã có không ít tu mi nam tử gửi thư về Áo Trắng tán tỉnh, đã có bao nhiêu văn nhân tài tử đến tìm xem mặt, nhưng rồi ai nấy đều... thất vọng! Bởi lẽ đó là bút danh của nhà thơ Phạm Thanh Chương, lúc đó anh làm công tác trị sự với tinh thần cù mì củ mỉ, thận trọng, chu đáo như một ông giáo. Không chê vào đâu được. Đêm qua, đã lâu lắm, mới gặp lại anh. Tiếc vẫn còn thiếu nhiều, rất nhiều người đã từng gắn bó với Áo Trắng từ thập niên 1990.

Rời khỏi quán lúc đã khuya. Đã lai rai dạt dào đến thế nhưng bước ra phố vắng, chạm phải những cơn gió mát, tự dưng lại thấy tỉnh táo, khỏe khoắn và yêu đời lạ thường.

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

Trang 23 trong tổng số 58