LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 25.3.2018

10-hoithao-nguyen-binh_2667102RR

 

 

Sáng qua đến Hội Nhà văn TP.HCM tham dự Lễ kỷ niệm 100 năm sinh Nguyễn Bính. Dịp này, y suy ngẫm về “Cánh bướm - một ám ảnh hồn thơ Nguyễn Bính”. Dù chỉ bước đầu khảo sát, hy vọng cũng là một sự gợi ý mới mẻ khi cùng tìm về thơ Nguyễn Bính.  

Hầu như với thi sĩ, trong tiềm thức của họ từ muôn năm ngàn kiếp đã có một sự ám ảnh không nguôi về một biểu tượng/ hình ảnh nào đó. Có lẽ ngay cả họ cũng không thể giải thích. Mà họ cũng chẳng bao giờ tự hỏi vì sao lại có sự ám ảnh đó. Tự nó đã hình thành trong máu thịt; khi cảm hứng đến, thâm tâm lại nhớ đến. Với Nguyễn Bính, y quả quyết chính là cánh bướm. Người đọc ngạc nhiên một cách thú vị bởi ông đã có tìm lấy nhiều cách diễn đạt như đang đi giữa đôi bờ hư thực.

Về “sự tích” ra đời của cánh bướm/ con bướm, theo ông: “Em ạ, ngày xưa vua nước Bướm/ Kén văn tài mở Điệp lang khoa”. Cuộc thi này, “Con bướm vàng tuyền đậu Thám hoa”. Cũng như trong mọi chuyện cổ tích “có hậu” của nền văn học cổ điển Việt Nam, tân khoa thường được nhà vua gả công chúa, Nguyễn Bính cũng tuân thủ theo “mô-típ” này. Khi Lục Vân Tiên nhớ mẹ, khóc đến mù mắt, ai cứu cho chàng? “Nửa đêm nằm thấy ông Tiên/ Đem cho chén thuốc mắt liền sáng ra”. Còn đôi vợ chồng bướm lúc đi lạc “Sụt sùi ngồi khóc dưới hoa lê” thì sao? “Bỗng thấy bà Tiên hiển hiện ra” và bảo, đường về nước Bướm còn xa lắm, thôi thì: “Về tạm nhà ta, ngủ với ta”. Thế rồi, “Đêm ấy, chăn êm với gối êm/ Vợ chồng ăn bánh với bà Tiên/ Ăn xong thoát chốc liền thay lốt/ Chồng hóa làm anh, vợ hóa em”.

Nguyễn Bính tự nhận mình chính là con bướm.

Lúc đưa cánh bướm cụ thể vào thơ, Nguyễn Bính đã có cái nhìn rất mới, ngộ nghĩnh. Chẳng hạn, vào dịp cuối tháng ba: “Mặt hồ vừa đúc khối tiền sen/ Bươm bướm đông như đám rước đèn”. Một cách so sánh rõ ràng không “đụng hàng”, khiến người đọc đã cảm nhận được sự rộn ràng, tươi trẻ, nhộn nhịp. Tạm dừng lại một chút, tự hỏi: “Mặt hồ vừa đúc khối tiền sen”. Vậy “tiền sen” là gì? Có thể nhiều người sẽ ngắc ngứ đây, trong đó có y. Vì thế, lục lại từ sách vở tìm hiểu xem sao. Âu cũng là một cái thú đọc thơ. Lâu nay, vẫn nghĩ, thơ không cần giải thích. Chỉ cần cảm là đủ. Thí dụ như “Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà” (Nguyễn Xuân Sanh). Khó có thể giải thích. Chỉ có thể cảm về hình ảnh và nhạc điệu. Tuy nhiên, lại có những câu thơ rất thật. Thật vì chính nó đã từ một vật chất đi thẳng vào thơ. Cần tìm hiểu là vì lẽ đó.

Tiền đúc sen đã mấy phen

Lửa hương nghĩ đã vẹn tuyền lâu nay

Đây là hai trong 2.926 câu thơ trong truyện Nôm lục bát Ngọc Kiều Lê (NXB KHXH -1976) do Lý Văn Phức chuyển thể từ tiểu thuyết chương hồi cùng tên của Trung Quốc. Cụ Trần Văn Giáp giải thích: “Tiền đúc sen: Cây sen về mùa đông tàn lụi hết, tới đầu mùa hè, những lá non bắt đầu mọc, nổi trên mặt nước thành những hình tròn nho nhỏ, trông như đồng tiền, do đó, gọi tiền sen. Câu này ý nói đã qua mấy mùa sen nảy lá tức đã qua mấy mùa hè, đã mấy năm qua”.

Vậy, đã rõ nghĩa câu thơ Mặt hồ vừa đúc khối tiền sen. Hãy trở lại với tâm cảnh của Nguyễn Bính. Rồi lúc tình còn xanh, niềm thơ còn nõn: “Bên hoa thấy bướm không buồn đuổi/ Chỉ mải mê nhìn bướm ủ hoa”. Giữa bướm và người thân mật, gần gũi đến độ: “Chim ca buổi sớm, khuyên nàng học/ Bướm dạy nàng thêu, gió dạy đàn”. Ngay cả lúc “đôi trẻ” còn học Trường Huyện, “Đội đầu chung một lá sen tơ”, cánh bướm ấy đã là “nhân chứng”: “Lá sen vương vấn hương sen ngát/ Ấp ủ hai ta chút nhuỵ hờ/ Lũ bướm tưởng hoa cài mái tóc/ Theo về tận cửa mới tan mơ”.

Nếu năm tháng mãi êm đềm đến vậy, chẳng mấy chốc họ nên duyên vợ chồng chăng? Nào ngờ, “Nàng về mãi xứ bên kia/ Cam thôi màu đỏ, bướm chê hoa vàng”. Một khi tình đã mất, thâm tâm dội lại nỗi nhớ về cái thuở trong trẻo: “Qua giậu tầm xuân thấy bướm nhiều/ Bướm vàng, vàng quá, bướm yêu yêu/ Em sang bắt bướm vườn anh mãi/ Quên cả làng Ngang động trống chèo”. Ngược lại, lúc giang hồ vặt đến chơi “Xóm Ngự Viên ở cạnh đường Gia Hội, Huế, tức vườn Thượng uyển ngày xưa”, hình ảnh trước nhất Nguyễn Bính ghi nhận lại là: “Giậu đổ, dây leo, suồng sã quá/ Hoa tàn, con bướm cánh nghiêng nghiêng” - khiến ông nhớ về cái thuở đã từng có lúc: “Gót sen bước nhẹ lầu Tôn Nữ/ Ngựa bạch buông chùng áo Trạng nguyên”. Câu thơ mở ra một vàng son đã mất. “Hoa tàn, con bướm cánh nghiêng nghiêng” gợi lên một âm hưởng đến nao lòng.

Về cuộc đời Nguyễn Bính, có một điều không thể chối cãi là ông yêu nhiều, rất nhiều người. Và chính các nhan sắc ấy là nguồn cảm hứng để lại những bài thơ tình ghi dấu trong tâm thức sau nhiều thế hệ. Trong nguồn cảm hứng ấy, “Tôi chiêm bao rất nhẹ nhàng/ Có con bướm trắng thường sang bên này/ Bướm ơi, bướm hãy vào đây/ Cho tôi hỏi nhỏ câu này chút thôi/ Chả bao giờ thấy nàng cười/ Nàng hong tơ ướt ra ngoài mái hiên”. Chàng thi sĩ hỏi lấy con bướm trăng đang vẩn vơ, nhởn nhơ bay trước mắt chăng? Không, Nguyễn Bính hỏi lấy chính ông.

Con bướm ấy chỉ là cái cớ nhằm che giấu lấy lòng ông đang thổn thức. Trong thơ, có những câu hỏi buông ra với đối tượng khác, thật ra cũng là lúc chàng thi sĩ đang tự vấn, tự hỏi lòng mình. “Bướm ơi, bướm hãy vào đây/ Cho tôi hỏi nhỏ câu này chút thôi”. Lòng yếu đuối, hồn rụt rè, Nguyễn Bính phải vời đến cánh bướm, dù là lúc “chiêm bao rất nhẹ nhàng”. Để rồi khi bước ra với đời thực “Tầm tầm giời cứ đổ mưa” cho đến lúc “Hôm nay giời tạnh mưa rồi”, tâm thế ấy có gì khác? Nguyễn Bính chỉ thấy “Tơ không hong nữa, bướm lười không sang”. Con bướm ấy không sang nữa, biết hỏi ai?

Hỡi ôi, “Đêm qua nàng đã chết rồi/ Nghẹn ngào tôi khóc, quả tôi yêu nàng”. Đến đây tác giả đã chuyển mạch đột ngột: “Hồn trinh còn ở trần gian/ Nhập vào bướm trắng mà sang bên này”. Với câu kết này, bài thơ bật lên một nỗi niềm, một bất ngờ mà trước đó người đọc cứ ngỡ là cánh bướm thật, cụ thể. Hóa ra không phải. Người hàng xóm: “Cách nhau cái giậu mồng tơi xanh rờn”, “hồn trinh nữ” là hiện thân của cánh bướm trắng.

Sực nhớ, thuở nhỏ còn ngốc dại, có thể ai đó đã từng bắt bướm ép vào trang vở chăng? Với y, sau khi đọc truyện ngắn Bóng người trên sương mù của Nhất Linh, không bao giờ dám. Rằng, một người đàn ông nọ, làm nghề lái tàu lửa, dù vợ đang bệnh nặng nhưng vẫn phải nhận lệnh đưa quan Toàn quyền đi công cán. Không thể chần chừ. Không thể thoái thác. “Nhà tôi thấy tôi có vẻ lo nghĩ, hỏi nguyên cớ vì sao, tôi liền đem việc ấy kể lại cho nhà tôi nghe. Nhà tôi nghe xong, vẻ mặt tươi hẳn lên bảo tôi rằng: “Thế cậu đi chứ! Việc gì phải ngần ngừ! Tôi không việc gì đâu, đã thấy đỡ nhiều. Chiều mai về mua cái gì làm quà cho tôi đấy”. Tôi thấy nhà tôi cười nói vui vẻ, tôi vững tâm, thay quần áo ra ga. Đến ga đúng mười giờ”.

Chuyến tàu lăn bánh.

“Xe đi vào khe núi, hết cao lại xuống thấp như có vẻ nhọc nhằn. Tôi thò đầu ra cửa nhìn thẳng trước mặt, nhưng đêm ấy sương mù đầy trời, không nhìn rõ gì cả, chỉ một màu trắng xóa dưới ánh hai cái đèn ở đầu toa. Bỗng tôi thấy... rõ ràng, tôi thấy in trên sương mù một cái hình người đàn bà mặc áo rộng đứng dang tay. Tôi dụi mắt tưởng mình trông hoảng, nhưng không, hình người đàn bà vẫn đấy. Tôi gọi người “ét” lại cửa toa, bảo ông ta nhìn rồi hỏi:

- Bác có thấy gì không?

Vừa nói xong hình người vụt biến mất. Bác “ét” thò đầu ra và bảo tôi:

- Chỉ thấy sương mù! ông lại mê ngủ rồi.

Không rõ ràng tôi thấy có hình người đàn bà in trên sa mù nhưng vừa biến mất.

 Người “ét” cười ra vẻ không tin, lấy xẻng xúc than cho vào lò, còn tôi vẫn đứng nguyên chỗ cũ đăm đăm nhìn thẳng trước mặt. Được một lát, hình người đàn bà lại hiện ra, lần này rõ ràng hơn, hai tay ngăn thẳng như muốn ngăn đường không cho xe chạy lên nữa”; “Xe tiến đến đâu, cái hình người lại đến đấy, có lúc mờ, lúc rõ, lơ lửng giữa lưng trời. Rồi cái hình người ấy vẫy hai tay một cách thong thả, như có ý bảo chúng tôi đừng tiến lên nữa, có sự gì nguy hiểm”.

Cuối cùng, người đàn ông lái tàu quyết định cho dừng tàu một cách đột ngột. Mọi người xuống tàu quan sát. “Vừa đi được một quãng thì nghe trước mặt có tiếng nước chảy ầm ầm. Tôi định tâm mới nhớ ra rằng đó là cầu N.G.. Mấy đêm ấy mưa lũ, nước chắc chảy xiết, nên mới réo to như vậy. Đến bờ sông, giơ đèn lên soi, mấy người đều kinh hoảng: cái cầu N.G. bị nước nguồn chảy về xoáy gẫy làm đôi. Một tí nữa, nếu không hãm kịp thì cả một chuyến xe riêng chở quan Toàn Quyền đâm nhào xuống sông sâu, chắc không sống sót một ai; tưởng không có cái tai nạn nào ghê gớm hơn, thế mà chính vì tôi nên mới không có cái tai nạn ấy. Tôi đứng ngẩn người không hiểu sao cả”.

Vậy, lý giải thể nào về “cái hình người đàn bà mặc áo rộng đứng dang tay” mà bác tài đã thấy?

"Tôi đi trở lại và thoáng thấy cái gì bám ở cái đèn để đầu toa, nhìn kỹ thì ra một con bướm thật to, vướng vào đen, đương đập cánh để tìm đường thoát. Chính là con bướm trong cái hộp này đây. Trông thấy con bướm tôi thốt nghĩ ra ngay. Chính phải rồi, chính cái hình người đàn bà lúc nãy là cái bóng con bướm này in lên trên sương mù, đầu con bướm là đầu hình người mà hai cánh con bướm đập là hai cái tay người vẫy.

Tôi bắt con bướm rồi định thả cho nó bay đi, sau nghĩ con bướm đã giúp mình được việc, nên giữ lại làm kỷ niệm. Tôi nhìn vào đồng hồ trong toa, thấy kim chỉ đúng hai giờ đêm... Hôm sau tôi vừa về tới cổng nhà thì thằng nhỏ chạy ra báo tin nhà tôi mất, mất vào khoảng một giờ đêm qua”.

Thật lạ lùng, mẹ Y mất ở Đà Nẵng lúc 5 giờ sáng ngày 12.10.2017 ở Đà Nẵng, lạ lùng thay, tại Sài Gòn, sáng ngày hôm ấy ngay trên cánh cửa mở vào nhà y đã có cánh bướm ngài đậu ở đó tự bao giờ rồi.

Trở lại với Nguyễn Bính. Khi chọn cánh bướm làm biểu tượng của thơ, ông đã hóa thân vào đó. Và từ sự hóa thân này, ngay cả nhan sắc đi qua đời mình, ông cũng nhìn thấy họ cũng chính là cánh bướm trắng. Màu trắng ấy còn là sự ám ảnh không cùng một khi đã mất đi một bóng dáng cụ thể: “Đem đi một chiếc quan tài trắng/ Và những vòng hoa trắng rợn người/ Có một chiếc xe màu trắng đục/ Hai con ngựa trắng bước hàng đôi”. Màu trắng này xuất hiện cũng chỉ là một cách nhắc lại: “Tôi chỉ thèm yêu được một lần/ Có người đi giữa xứ mùa xuân/ Thấy con bướm trắng bay thơ thẩn/ Ý hẳn đi tìm Hương, cố nhân”.

Nhà văn Võ Hồng có tác phẩm Hương cố nhân thì phải. Trong đời, ai cung có cố nhân cho riêng mình. Được thế, may quá. Không rõ, lúc gặp lại cố nhân, cả hai sẽ trò chuyện với nhau những gì? Bài thơ Tình già của Phan Khôi, lúc gặp nhau sau “Hai mươi bốn xưa”, “Tình cờ đất khách gặp nhau”, họ đã nói những gì? Im lặng vẫn tốt hơn cả. Nói gì bây giờ? Chỉ thêm bẽ bàng. Chỉ thêm luyến tiếc. Biết là thế nhưng lúc liếc mắt tiễn nhau mới ghê gớm làm sao, còn hơn cả hàng ngàn câu hàn huyên tâm sự: “Liếc đưa nhau đi rồi/ Con mắt còn có đuôi”...

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 17.3.2018

IMG0486_0b21d


Những ngày nắng nóng.

30 năm sự kiện Gạc Ma, Trường Sa (14.3.1988 - 14.3.2018) đã được tuyên truyền đậm trên các phương tiện truyền thông. Thông tin mới nhất, theo báo chí, Gạc Ma là sự kiện dự kiến đưa vào sách giáo khoa môn lịch sử và địa lý. Một sự kiện lịch sử, 30 năm sau mới dự kiến, vâng, chỉ mới dự kiến đưa vào sách giáo khoa. Những đứa trẻ của thế hệ sau sẽ hiểu rõ một thông tin không gì có thể vùi lấp, lãng quên. Rồi, những gì đã học/ đọc từ thời bé sẽ gắn bó mãi theo năm tháng.

Sực nghĩ, ngay xửa ngày xưa chưa có nhiều loại hình giải trí, thư giãn lẫn học tập thì đọc sách vẫn tối ưu nhất. Đọc lại các cổ ngôn, thấy rằng người xưa tuyên truyền về “văn hóa đọc” như “chiến lược” lâu dài nhằm xây dựng cốt cách, nhân cách của một con người. Chẳng hạn, Gia huấn ca khẳng định như đinh đóng cột: “Đọc sách là chí nam nhi”. Ơ hay, chí nam nhi chẳng lẽ có thế? Đã thế, lại còn có câu này nữa, thú thật, y chưa thể giải thích tường tận: “Chữ rằng: “Loạn độc thư cao/ Khi nên cũng thế, khác nào người xưa”. Đời loạn đọc sách là cao hơn cả. Chẳng rõ do ai nói hoặc dẫn theo điển tích, điển cố gì? Nhưng xét ra thấy có hợp lý hay không? Rất khác với: “Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt/ Xếp bút nghiên theo việc đao cung/  Thành liền mong tiến bệ rồng/ Thước gươm đã quyết chẳng dong giặc trời “ (Chinh phụ ngâm).

Thử hỏi, trong sách có gì?

Ta hãy đọc tiếp: “Chẳng sợ kẻ lắm thầy nhiều tớ/ Thấy ta nghèo ra sự rẻ khinh/ Thư trung lắm kẻ hiển vinh/ Dập dìu hầu hạ, linh đình ngựa xe/ Chẳng sợ kẻ lắm tiền, nhiều lúa/ Nghĩ mình rằng có của thì hơn/ Thư trung kim ngọc vô vàn/ Đầy khè chung đỉnh, chứa chan bạc vàng/ Chẳng sợ lắm kẻ thê nhiều thiếp/ Đã hẳn rằng tốt đẹp hơn ai/ Thư trung có gái tuyệt vời/ Những người mặt ngọc là người vẻ vang/ Chẳng sợ kẻ tòa ngang dãy dọc/ Khinh nhau rằng hàn ốc thê lương/ Thư trung tuấn vũ điêu tường/ Lầu hồng gác phượng cột giường liền mây”.

Với những câu du dương lục bát du dương, nói tắt một lời, sở dĩ phải đọc sách, cứ theo thứ tự từng câu thơ là bởi trong sách có nhiều người hầu hạ, linh đình ngựa xe; có vàng ngọc, châu báu; gái đẹp; có nhà cao cửa rộng v.v… Ngạc nhiên quá, chẳng lẽ vì những thứ ấy mà đọc sách? Nếu đúng thế, ý nghĩa việc đọc sách đã trở nên tầm thường chăng? Chẳng phải đâu, phải hiểu rằng, nếu chăm chỉ đọc sách (cũng là học) thì sau này mới có cơ hội thi đậu, ra làm quan. “Mai ngày treo biển tên đề/ Khôi khoa lại được gặp kỳ thánh minh”.

Ra làm quan thì những thứ nêu trên đều trong tầm tay, thế thì mặc kệ thiên hạ, phận mình là hãy cứ lo “độc thư”. Xét ra, ý nghĩa của việc đọc sách cũng tầm thường nốt chăng? Tầm thường, bởi dám nghĩ rằng, trước hết phải lấy sự mở mang tri thức làm trọng, chứ nào phải chỉ nhằm phục vụ cho việc đạt đến mục đích cuối cùng như nội dung các câu thơ trên. Suy nghĩ này, có ai nói khác gì không? Cái vui của đọc sách còn là chỗ đó. Việc gì phải nhất nhất tin vào sách, lấy đó làm khuôn vàng thước ngọc, kể cả Gia huấn ca mà cần có cái nhìn khác về một vấn đề đã cũ. Sự trao đổi ấy, há chẳng phải là niềm hứng chí của những kẻ đồng hội cùng thuyền đó sao?

Lại sắp đến ngày khai mạc Hội sách TP.HCM lần thứ X. Trước đây, do không gõ vi tính, chỉ viết bằng máy đánh chữ, viết xong nộp tòa soạn; bài in xong, chẳng lưu giữ, vì thế y chẳng thế nhớ nổi Hội sách lần I diễn ra thế nào nữa. Ngày hôm kia, một vài anh em cùng viết báo ở vực văn hóa văn nghệ lai rai, có đồng nghiệp hỏi, đại khái, người làm sách với người buôn sách có gì giống và khác nhau? Y phát biểu rằng: “Người làm sách là những người sẵn sàng bỏ ra nhiều tâm huyết, tiền bạc, thời gian để sản xuất ra những cuốn sách mà họ tâm đắc, mà họ yêu thích và cho rằng có giá trị, Bất chấp những đầu sách đó kén độc giả. Người buôn sách là những người cứ thấy loại sách nào có lời thì làm, bất kể sách có nội dung không hay, có tác động xấu, tiêu cực tới đạo đức, hành vi hoặc lối sống”.

Đồng nghiệp Lệ Chi - Giám đốc Chibooks bổ sung: “Người làm sách là những người luôn sống với một lý tưởng riêng, có tham vọng tạo ra những giá trị tinh thần cho mình và một số người khác thông qua một số dòng sách mà họ cho rằng có giá trị, có ích lợi cho cộng đồng. Họ sẵn sàng dùng trọn thanh xuân, tiền bạc để đeo đuổi, thực hiện tâm huyết đó. Họ luôn sống đắm đuối với lý tưởng của họ. Họ có khả năng đánh thức, lay động tâm hồn của hàng ngàn, hàng triệu con người thông qua các sản phẩm của họ.  Với độc giả, người làm sách còn là người thủ lĩnh tinh thần, vừa là người cứu rỗi linh hồn, là kẻ tưới tắm suối nguồn tươi trẻ lên những tâm hồn đang khô cạn, là người truyền bá tri thức, là người tạo thêm hy vọng và niềm tin vào cuộc sống, là bạn đồng hành âm thầm mà tin cậy, luôn chìa tay ra giúp đỡ và định hướng cho cuộc đời bạn theo hướng tốt đẹp hơn.

Người làm sách là những người tạo hy vọng và buôn tương lai, bất chấp mọi rủi ro và những cái giá phải trả đắt đỏ. Họ mê mải đắm đuối lao vào làm sách như một sự đeo đuổi tín ngưỡng, tôn giáo sùng tín nhất. Với dư luận xã hội, người làm sách là một lũ ảo tưởng, mơ mộng viển vông, sống trên mây và thừa tiền mới đầu tư vào làm những đầu sách kén người đọc.

Người buôn sách luôn là những kẻ kinh doanh thực tế, nhìn nhận đúng giá trị vật chất hiện tại của từng đầu sách nhưng không thể nhìn thấy và cũng không thể tận hưởng được giá trị tinh thần từ chúng. Sự cân bằng và tỉnh táo quá mức của kẻ buôn sách có thể đem lại nhiều thắng lợi về tiền bạc nhưng khó có thể tạo ra những giá trị văn hoá đúng mực cùng những đầu sách hay, mang đậm cá tính và dấu ấn văn hoá cùng trình độ của người làm sách”.

Xét ra, ý kiến của Lệ Chi chí lý lắm. Xét ra, trong các cuộc ăn nhậu bù khú, đừng say quá, vẫn có thể trao đổi được nhiều vấn đề, dù nhỏ nhưng hữu ích gấp triệu lần những lời buôn dưa lê “đâm bị thóc chọc bị gậy” lằng nhằng chẳng đâu vào đâu. Mà này, có phải xưa nay, ở Việt Nam đã xuất hiện tầng lớp những người làm sách đúng theo nghĩa cao quý của nó? Vâng. Có thể kể đến tên tuổi của nhiều nhà xuất bản, nhiều cá nhân. Mà thôi. Một người gieo hạt, trồng cây chẳng bao giờ kể đến công lao của mình; miễn cây cao ấy, tạo ra trái ngọt, bóng mát cho người đương thời, thời sau tận hưởng/ hưởng thụ thì họ đã hài lòng, mãn nguyện.

Này, ở Việt Nam ai là người yêu sách vào hạng thượng thừa? Với y, ở thế kỷ XX, chỉ có thể chọn lấy người đứng đầu bảng là Trần Văn Giáp (1902-1973).

Từ năm 1957, được sự khuyến khích của người bạn thân Nguyễn Văn Xước - Giám đốc Thư viện Quốc gia, Trần Văn Giáp đã giành phần nhiều thời gian biên soạn cuốn sách Tìm hiểu kho sách Hán Nôm - nguồn tư liệu văn học, sử học Việt Nam (2 tập). Ông cho biết đã lấy những thiên thư mục của Lê Quý Đôn và Phan Huy Chú làm gốc, nhưng ông đã vượt lên trên các bậc tiền bối vì trong công trình Tìm hiểu kho sách Hán Nôm đã thu nhặt, giới thiệu cả thảy 429 tác phẩm. Số lượng này gấp đôi số sách mà Phan Huy Chú giới thiệu trong Văn tịch chí; gấp bốn lần số sách mà Lê Quý Đôn giới thiệu trong Nghệ văn chí. Về giá trị thông tin, ông cố gắng cung cấp bức tranh toàn cảnh về tình hình thư tịch của nước Nam từ đời Lý đến trước Cách mạng tháng Tám.

Trần Văn Giáp đã nói rõ về công việc của mình: “Nguồn văn học của Việt Nam, theo các sách còn sót lại, có đã từ lâu, ít ra tới hàng ngàn năm nay. Những tư liệu nói về sách vở cổ của một nước, một dân tộc thông thường gọi là thư tịch chí hay kinh tịch chí. Chính các kinh tịch chí là nguồn gốc tư liệu văn học hay còn gọi gọn là nguồn văn hiến của một dân tộc”. Chính vì quan niệm rạch ròi và có trách nhiệm đối với di sản văn hóa của dân tộc nên ông đã nỗ lực thực hiện với thành quả cao nhất. Bộ sách quý này tập 1 được phát hành năm 1970, và tập II được phát hành năm 1990 đã gây được tiếng vang lớn trong dư luận trong và ngoài nước.

Từ đây, Tìm hiểu kho sách Hán Nôm có thể nói là bộ thư mục độc đáo được thực hiện theo “Mô hình Trần Văn Giáp”, đã tổng kết nửa thế kỷ lao động không mệt mỏi của một học giả uyên bác, là công trình khoa học lớn nhất đời ông, là một bước phát triển mới trong lịch sử thư mục học (bibliographie) của Việt Nam. Từ đây, khi nói đến lãnh vực thư mục học thì sau hai bậc tiền bối đi trước là Lê Quý Đôn và Phan Huy Chú, chúng ta có thể xếp nhân vật tiếp theo là Trần Văn Giáp. Thế nhưng, do công việc của một cá nhân nên ông vẫn chưa phân loại, xử lý hết được toàn bộ kho sách khoảng 5.000 cuốn Hán - Nôm hiện còn lưu giữ. Công việc này vẫn còn chờ đợi công sức của những người tâm huyết khác. Ai sẽ là người tiếp tục nối theo chí hướng của Trần Văn Giáp để góp phần nghiên cứu, khai thác kho thư tịch tài liệu Hán Nôm đang đề ra một cách cấp thiết hiện nay?

Có những nhà khoa học với nhiều mà công trình để lại, càng lùi xa thời gian, không những không bị thời gian phủ mờ mà còn lấp lánh giá trị hiện hữu. Hội nghị quốc tế về Việt Nam học được tổ chức lần đầu tiên tại Hà Nội (7.1998), qua đó ta càng thấy việc làm đơn độc, bền bỉ, nhẫn nại của Trần Văn Giáp đối với kho sách Hán Nôm vẫn còn mang ý nghĩa thời sự.

Trần Văn Giáp mất ngày 25.11.1973 tại Hà Nội. Và trong căn phòng tá túc ở trường Bác Cổ Viễn Đông, người ta không tìm được tài sản gì của ông để lại, ngoại trừ những pho sách! Đó là thứ tài sản quý báu mà không phải ai cũng có được, dù giàu có nhất. 

Nhưng rồi, sách có là gì không? Đặt câu hỏi này, liệu có thừa? Vẫn biết mà vẫn hỏi ắt cớ cớ sự gì đây? Vâng, thông tin mới nhất khiến người yêu sách chấn động: “Giật mình tin tiêu hủy hơn 10 ngàn quyển sách ở Thư viện Uông Bí” (Báo Nông nghiệp Việt Nam ngày 15.3.2017). Theo bài báo này: “Tôi nghĩ rằng hàng vạn quyển sách như thế mà lại mang đi tiêu hủy thì vấn đề không đơn giản. Ở đây, ai cho phép tiêu hủy thì người đó phải chịu trách nhiệm đầu tiên”, ông Nguyễn Hữu Giới - Chủ tịch Hội Thư viện Việt Nam nói”.

Trở lại với sự kiện Gạc Ma, tự dưng nhớ đến Hoàng Sa. Đã có nhiều sách về Hoàng Sa-Truong Sa khẳng định hai quần đảo này thuộc chủ quyền Việt Nam. Với y, một trong những tài liệu về Hoàng Sa cần phải đọc vẫn là Kỷ yếu Hoàng Sa (NXB Thông tin và Truyền thông). Tập sách này do Ủy ban Nhân dân huyện Hoàng Sa thuộc UBND thành phố Đà Nẵng in năm 2012. Đặc biệt nhất còn là thủ bút của những người đã từng sống tại Hoàng Sa. Trước đây, khi đọc Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú (1782 - 1840), y thích thú với những dòng, những dòng chữ ghi nhận cách đây gần 200 năm như đang thả hồn xuôi về một vùng cổ tích với nhiều điều kỳ diệu, lạ lẫm:

“Ngoài biển phía đông bắc có đảo Hoàng Sa, nhiều núi lớn nhỏ, đến hơn 130 ngọn núi. Từ chỗ núi chính đi ra biển sang các đảo khác ước chừng hoặc một ngày; hoặc vài trống canh. Trên núi có suối nước ngọt. Trong đảo có bãi cát vàng, dài ước chừng 30 dặm, bằng phẳng rộng rải. Trong bãi có dòng nước trong suốt đến đáy. Sườn đảo có vô số vỏ yến sào; các thứ chim có đến hàng nghìn vạn con, thấy người vẫn cứ đỗ quanh, không bay tránh. Bên bãi cát, vật lạ rất nhiều, có thứ ốc có vằn gọi là ốc tai voi to như cái chiếu, trong bụng có hột châu to bằng ngón tay cái, nhưng sắc nó đục, không bằng ngọc châu ở trong con trai; vỏ nó đẽo làm bia được, lại có thể nung làm vôi để xây tường…”.

Tạm dừng ở đoạn văn này, tự hỏi, “có thứ ốc có vằn gọi là ốc tai voi to như cái chiếu”, liệu có thật không? Ngạc nhiên quá. Có thật đấy. Không những thế, trong Kỷ yếu Hoàng Sa, ông Trần Văn Sơn sinh năm 1947 tại phường Mỹ Khê, quận Sơn Trả (Đà Nẵng) đã kể lại ngày tháng đã sống, chiến đấu tại Hoàng Sa vào năm 1973: “Ấn tượng khó quên khi tôi ở Hoàng Sa trong một đêm trăng sáng, tôi cùng một vài anh em đi rình bắt rùa biển. Tôi nhớ có một con rùa to, rất to, hai người đứng trên lưng nó, nó vẫn bò đi được. Khi nó bò đến mép nước thì hai người mới nhảy xuống. Phải nói là chưa bao giờ, tôi được thấy con rùa to như vậy” (S.Đ.D tr.145).

Tình yêu quê hương, non sông đất nước, còn là những câu chuyện kể từ các nhân chứng nữa. Nếu sách, báo không ghi lại, làm sao đời sau có thể biết?


L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 14.3.2018



nguyen-an-ninh-1


“Đường ray đay nghiến ngất ngư/ Toa tàu nghiêng ngửa tựa như phút này/ Tôi thèm được nắm bàn tay/ Níu em thơ dại lại ngày sắp xa”. Những câu thơ này, y đã viết tại sân ga Hòa Hưng từ những ngày “chân ướt chân ráo” vào Sài Gòn lập nghiệp. Có lẽ sẽ chẳng bao giờ y có thể quên đi cảm giác náo nức, chen lấn, hồi hộp chờ đợi mua được chiếc vé tàu về quê. Trong trí nhớ, nơi ấy, lúc nào cũng nhộn nhịp người ra kẻ vào, hành lý đùm đề, thỉnh thoảng lại nghe từ loa phát thanh thông báo của nhà ga. Cảm giác ấy, thân thiện và gần gũi lắm.

Nhiều bài thơ hay nhất trong nền thơ Việt Nam hiện đại đã lấy cảm hứng từ sân ga. “Hai người bạn cũ tiễn chân nhau/ Kẻ ở sân toa kẻ dưới tàu/ Họ giục nhau về ba bốn bận/ Bóng nhòa trong bóng tối từ lâu”. Lúc ấy, kẻ ở người đi, lòng còn đang bịn rịn thì đã nghe còi tàu giục giã. Phải chia tay nhau thôi. Tàu chuyển bánh nghe rền vang từ đường ray một âm thanh nặng trĩu. “Sao nhà ga ấy sân ga ấy/ Chỉ để cho lòng dấu biệt ly?”. Câu thơ Nguyễn Bính viết từ năm 1937, vẫn còn nguyên vẹn trong tâm tưởng nhiều thế hệ. Nhất là câu này: “Buồn ở đâu hơn ở chốn này?”.

Có lẽ người trước nhất đưa tàu lửa vào thơ thất ngôn bát cú chính là nhà cách mạng Trần Cao Vân. Khi hoàng đế Duy Tân đồng lòng cùng tổ chức Việt Nam Quang phục hội làm cuộc khởi nghĩa, về ngày khởi sự, mọi người thống nhất chọn giờ ngọ, ngày ngọ, tháng ngọ, tức ngày mồng 2.5 năm Bính Thìn nhằm ngày 2.6.1916. Để giữ tuyết đối bí mật, Trần Cao Vân đã làm bài thơ Hỏa xa Huế - Hàn, có thể xem văn bản này là một “hiệu lệnh” của cuộc khởi nghĩa: “Một mối xa thư đã biết chưa?/ Bắc Nam hai ngả gặp nhau vừa/ Đường “ray” đã sẵn thang mây bước/ Ống khói càng cao ngọn gió đưa/  Sấm dậy tứ bề trăm máy chuyển/ Phút thâu muôn dặm nửa giờ trưa/ Trời sai ra dọn xong từ đấy/ Một mối xa thư đã biết chưa?”. “Ray” là mươn từ rail trong tiếng Pháp. Ray/rây hoặc rầy cũng là một. Ghi lại chi tiết này để thấy cảm hứng của thơ còn là chất liệu hiện thực từ đời sống.

Về đường “ray”, ca dao Nam bộ có câu cực hay, tài tình, dí dỏm: “Gá duyên không đặng hội này/ Em lên Chợ Lớn, nằm đường rầy cho xe lửa cán chơi”. Nghe cứ như nghịch như đùa. Thiệt tình. Chơi mà được à? Một cách nhỏng nhẻo đấy thôi. Chẳng khác gì: “Ba bốn nơi sang cả phụ mẫu em đành gả/ Em chắp tay khoan đã, chưa tới căn phần/ Phụ mẫu em nói: bất tuân giáo huấn/ Đem treo cây bần cho kiến nó bu”. Nghe cứ như giỡn chơi.

Căn nhà đang ở cạnh cổng xe lửa số 10, do đó, y nhớ tiếng còi tàu lắm. Có những đêm thức giấc bởi chuyến tàu đi ngang qua, từ ga Bình Triệu vào ga Hòa Hưng. Lúc ấy, lại nhớ đến ngày tháng đã từng ra ga đón mẹ từ quê vào lại Sài Gòn. Ngày tháng đó đã xa. Không thể tìm lại được nữa. Bùi ngùi nhớ. Rồi chẳng mấy chốc, y đã “bén rễ xanh cây” ở chốn này. “Có chí làm quan, có gan làm giàu”. Thì dân Sài Gòn có cái gan ấy. Không phải từ bây giờ, mà từ xa xưa đã có. Sở dĩ như thế vì đây là vùng đất hội nhập nhiều dòng chảy văn hóa, có cảng, tàu bè giao thương tấp nập... Đừng nghĩ nghề viết thư tình, đơn từ giao dịch bằng tiếng Anh, gửi ra nước ngoài qua đường bưu điện mới xuất hiện từ thập niên 60 thế kỷ XX - lúc người Mỹ sang Việt Nam tham chiến. Đọc Gia Định báo, đã thấy người Sài Gòn hành nghề này từ lúc Pháp mới sang, tức những tay thông ngôn có thể kiếm thêm chút đỉnh tiền cà phê cà pháo nhờ dịch vụ tự phát này.

Thay đổi quan niệm về việc kiếm ra tiền phải kể đến lúc các sĩ phu trong phong trào Duy Tân đã hô hào chấn hưng công thương, thức tỉnh hồn nước. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Xuân: “Đó là hiện tượng mới lạ nhất, mở đầu cho một cao trào kinh tế Việt Nam từ trước chưa hề có. Cùng với cao trào đó, theo tôi, đã có thể nói tới sự hình thành lớp doanh nhân Việt Nam và phôi thai tinh thần doanh nghiệp lần đầu tiên trong lịch sử”. Vâng, điều quan trọng nhất, căn bản nhất vẫn là “sự hình thành lớp doanh nhân Việt Nam”.

Trước đó, đã có những nhà nho rất có y thức về làm giàu nhưng đếm không đủ mười đầu ngón tay. Chỉ có thể kể đến danh tướng Trần Khánh Dư. Ta hãy nhớ lại chuyện nón Ma Lôi. Ma Lôi là tên làng ở Hồng Lộ (thuộc Hải Dương), người dân có tài khéo đan nón bằng trúc thanh bì nên lấy tên làng để gọi tên nón.

Theo quan niệm thời đó, thứ tự trong xã hội là “sĩ, nông, công, thương”, nghề buôn bán xếp sau cùng nhưng Trần Khánh Dư lại có một tư duy táo bạo mà không phải ai cũng đồng tình. Lúc sa cơ thất thế, từ một người danh vọng cao ngất ngưỡng trong triều, ông sẵn sàng chọn nghề bán than kiếm sống. Dù thiên hạ cho nghề hèn mọn, chỉ dành cho kẻ bần cùng nhưng ông vẫn không màng - miễn nghề ấy nuôi sống bản thân mình. Nghề lương thiện nào cũng cao quý miễn phù hợp với khả năng và sự lựa chọn của mình. Tư duy của ông không khác với thời đại này: Qua kinh doanh buôn bán, con người ta có thể làm giàu một cách chính đáng.

Khi giữ chức phó đô tướng quân trấn giữ Vân Đồn, ngoài việc biện pháp an dân Trần Khánh Dư còn thể hiện được tầm nhìn của người biết kinh doanh. Vùng đất Vân Đồn xưa nay, người dân vẫn sinh sống bằng nghề buôn bán trên biển. Khách buôn từ phương Bắc đến giao thương nhiều nên dân quân đều mặc quần áo, đồ dùng theo cách của họ. Khi duyệt quân ở các trang hộ, Trần Khánh Dư ra lệnh: “Quân trấn giữ Vân Đồn là để ngăn phòng giặc phương Bắc tràn sang. Quân ta không nên đội nón của người phương Bắc, vì sợ khi có sự vội vàng khó lòng phân biệt, vậy phải đội nón Ma Lôi, ai làm trái tất phải phạt”. Mệnh lệnh của ông hoàn toàn toàn hợp lý nhằm bảo vệ sự an toàn cho dân được sự đồng tình. Nhân đó, ông đã sai người nhà mua nón Ma Lôi chất đầy thuyền, đậu ở cửa sông rồi sai thuộc hạ lẻn đi mách cho dân ở trang hộ biết nơi có thuyền bán nón. Thiên hạ tranh nhau mua. Ban đầu giá chưa tới một tiền, sau bán giá cao hơn, mỗi cái nón trị giá bằng một tấm vải. Nhờ vậy, Trần Khánh Dư thu về được hàng ngàn tấm vải!

Với cương vị, chức vụ đang giữ, Trần Khánh Dư có thể thu vén làm giàu bất chính nhưng ông đã có cách lựa chọn khác. Sự lựa chọn này phù hợp với quy luật cung cầu trong kinh doanh. Do quan niệm “trọng nông khinh thương”, đánh giá cao việc làm ruộng và xem thường buôn bán, nay đã lỗi thời, thuở ấy, Trần Kháng Dư phải chịu bao tai tiếng. Không có gì ngạc nhiên, một người phương Bắc tặng bài thơ mừng ông, trong đó có câu: “Vân Đồn kê khuyển diệc giai kinh” (Gà, chó ở Vân Đồn cũng đều sợ). Câu thơ này nói khéo phục sợ uy danh Trần Khánh Dư nhưng kỳ thật mỉa mai ngấm ngầm.

Trần Khánh Dư mất năm 1399 - thế kỷ XIV nhưng mãi đến đầu thế kỷ XX, quan niệm về nghề buôn ở tầng lớp nhà nho - Kẻ sĩ vẫn chưa mấy thay đổi. Quá chậm. Thử nêu một thí dụ về… việc mở quán ăn, chẳng hạn. Tiêu biểu cho bản lĩnh chịu chơi này, trước hết cần kể đến thân phụ của nhà cách mạng Nguyễn An Ninh, đó là cụ Nguyễn An Khương mở hiệu bán cơm ngay tại trung tâm Sài Gòn. Công việc này quá mới mẽ, do đó trên Lục tỉnh tân văn số 8, ra ngày 2.1.1908 cụ đã phải trình bày việc làm của mình để được mọi người đồng cảm:

“Thuở nay, trong bạn đồng bào ta những tay có tiền hay cho nghề bán cơm là nghề hèn cho nên không một ai mở tiệm cạnh tranh với Hoa kiều... Vả lại có nhiều người ăn theo cách Tàu không quen hay chê lạt lẽo mà cũng phải ăn, song ăn không đặng cơm thì đã tốn tiền bánh hàng mà lại trong mình không đặng khỏe, ấy là điều mắt thấy tai nghe chớ không phải tôi dám đặt điều... Bởi vậy, tôi muốn quyết một lòng rửa hổ, không sợ mang danh chú bán cơm, ráng sức kinh doanh, lập ra một tiệm tiên lầu tại đường Kinh Lấp (Boulevard) số 49 gần chợ Sài Gòn lắm. Hiệu tiệm là Chiêu Nam Lầu (nghĩa là tiệm tiên lầu mà chiêu đãi người An Nam)... Tôi lại ước ao cho các đồng bang đừng có ngại về danh tiếng hoặc xuất vốn nhà, hoặc rủ hùn mà lập lấy năm bảy tiệm hùn như vậy, mượn người Thanh nấu ăn cho khéo, đặng mà tiếp đãi đồng bào, mình với mình buôn bán với nhau vui biết chừng nào, đẹp biết chừng nào. Chú bán cơm, Nguyễn An Khương đốn thủ”.

Lúc bấy giờ, “Cái tên nhà Nho không những là để chỉ người biết chữ, học đạo thánh hiền trong Nho giáo; lại là chỉ một giai cấp trong xã hội, tức là hạng thượng lưu trí thức trong nước… Về đường xã hội, về đường chính trị, về đường tri thức, tinh thần đều có một cái địa vị đặc biệt, đối với một chức vụ đặc biệt. Chức vụ này cao quý, có thể gọi là một thiên chức được, vì là chức vụ hướng đạo cho quốc dân, làm tiêu biểu cho cả nước” (Phạm Quỳnh - Tạp chí Nam Phong số 172, tháng 5.1932), thế mà có cụ Nguyễn An Khương tự nhận “chú bán cơm”, há chẳng phải ghê gớm lắm sao?

Rồi ngay cả các cô cậu trò thuở ấy, cũng đã nghĩ ra cách kiếm tiền ngon ơ. Xin dài dòng một chút: Tại Sài Gòn từ ngày 1.8.1901 trên tờ Nông cổ mín đàm, ông chủ nhiệm Canavaggio đã dịch Tam quốc chí. Sau đó, chỉ dăm năm, sau năm 1905 các ông Nguyễn Chánh Sắt, Phụng Hoàng Sang, Nguyễn An Khương, Nguyễn Công Danh... ồ ạt tung ra thị trường sách hàng loạt tác phẩm dịch Thủy hử, Đông Châu liệt quốc, Liêu trai chí dị... Trong khi đó, ở Bắc Kỳ mãi đến năm 1907, Phan Kế Bính mới bắt đầu in bản dịch Tam quốc chí. Đọc truyện Tàu là một cái thú của dân Sài Gòn thời bấy giờ.

Thế thì các cô cậu học trò đầu thế kỷ XX kiếm tiền bằng cách nào?

Rằng, khi bắt tay viết tiểu thuyết lịch sử Nguyễn An Ninh - dấu ấn để lại (NXB Văn Học- 1997), thỉnh thoảng y có thu tập tài liệu ở nhà con ruột ông Ninh - ông Nguyễn An Tịnh. Trong khối tài liệu đó, y có đọc một tập hồi ký viết tay, viết năm 1926 với nhiều chi tiết thật thú vị, có thể trả lời câu hỏi trên:

“Kế cận nhà trọ của tôi là nhà bà Ba Ổn. Tôi biết bà Ba có mua được nhiều bộ truyện Tàu do các bậc túc nho Huỳnh Khắc Thuận, Nguyễn An Khương, Trần Phong Sắc... dịch ra Quốc ngữ. Một bữa trưa thứ bảy, bà Ba ngồi ngoáy trầu trên bộ ván gỗ đặt bên hông nhà. Đứng bên góc ván, tôi đương dán mắt vào cuốn Tam quốc, say sưa xem Quan Văn Trường quá ngũ quan trảm lục tướng của Tào An Man. Bỗng tôi nghe văng vẳng : “Đọc lớn lên nghe thử coi, cháu !”

Muốn tỏ lòng tri ân bà, lại gặp dịp “trổ tài”, tôi tằng hắng lấy giọng rồi chậm rãi đọc to. Bà lẳng lặng nghe, thỉnh thoảng gật đầu cười chúm chím. Khi tôi ngừng đọc bà phát biểu ý kiến: “Cháu đọc hay quá! Chó chết thằng Nghĩa ở nhà đây, đọc ngập ngừng ngập ngững, khó nghe khó hiểu lắm”.

Chiều lại. Cơm nước xong, tôi đứng dưới gốc me trước nhà trọ, lơ đãng nhìn khách qua đường. Trò Nghĩa lăn xăn chạy lại nắm tay tôi rồi nói: “Bà nội tôi biểu anh qua nhà đọc truyện cho bà nghe, rồi bà biếu anh tiền ăn bánh”. Đọc truyện hợp với sở thích của mình mà lại được tiền ăn quà nữa, thật là sướng mê. Tôi bằng lòng ngay. Rồi từ đây, mỗi đêm tối tôi mỗi đọc truyện để được lãnh hai xu. Thỉnh thoảng có con cháu hoặc bạn bè đến viếng bà Ba và lóng tai nghe tôi đọc truyện một cách thích thú. Khi biết lai lịch của đứa bé mồ côi, thông minh, đỉnh ngộ, ngoan ngoãn dễ thương, họ có cảm tình với tôi ngay. Về nhà họ bàn tán và loan tin rằng: “Tại nhà thầy giáo Nhứt có một trò nhỏ học giỏi, đọc truyện Tàu nghe mùi mẫn”. Họ quảng cáo cho tôi mà tôi nào có dè!

Chẳng bao lâu từ Cửa Đồn, Chợ Cũ đến ngã tư Chợ Mới, Ninh Thạnh nhiều nguời biết tiếng tôi, và muốn nghe tôi đọc truyện để coi thử có đúng với tiếng đồn hay không? Trọn bảy tháng trời, tôi đọc các bộ truyện Tam quốc, Thuyết Đường, Tây du, Lục mẫu đơn, Phong thần... của bà Ba. Vừa nghỉ đọc truyện tại nhà bà Ba, thì tôi được dượng Hai Sửu “mướn” rồi kế tiếp đến nhà bà Hai Lộc, cô Ba Nhiều, bà Tư Tùng... Thật là đắc mối. Từ đó, mọi người tặng tôi cái biệt danh “thằng nhỏ học trò đọc truyện mướn”. Mà nào riêng gì tôi, các bạn học của tôi khi đọc truyện mướn để có hai xu ăn quà cũng được mọi người trìu mến gọi như thế”.

Chi tiết cho ta thấy rằng, vì sao các tiểu thuyết, truyện dài của nhà văn Sài Gòn lớp trước dù bản in không nhiều, nhưng tại sao vẫn lan rộng, phổ biến đến nhiều bạn đọc.

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 11.3.2018



3_mokrcuoc_thi_dau_tien_trong_vn_chuobntVN

Muôn năm tuổi trẻ. Hoan hô tuổi trẻ. Cái tuổi đẹp nhất của đời người. Nhìn sự vật, sự việc gì cũng thấy mới mẻ. Từng sợi máu căng ra. Hơi thở phập phồng. Quyết liệt. Say mê. Hào hứng. Và cứ thế, con người ta lại hăm hở lao tới. Bất chấp vực sâu. Mặc kệ đỉnh trời cao chót vót. Không bận tâm. Sự cuồng nhiệt ấy đã khiến tuổi trẻ đã làm được biết bao nhiêu kỳ tích. Thành công lẫn thất bại. Chẳng hề gì. Trước biển xanh, sóng dữ dội, nếu thích, sẵn sàng phiêu du. Không thèm chần chừ. Không thèm cân nhắc. Nhìn trước ngó sau. So đo tính toán. Sự hồn nhiên, vô tư ấy chính là một trong những phẩm chất của tuổi trẻ.

Mà này, một khi ca ngợi tuổi trẻ, ấy cũng là lúc con người ta đã già. Nói như thế, bởi trước tết, có bạn đọc, đã già, ở Hóc Môn tặng cho toàn bộ sưu tập về tờ Lao động chủ nhật. Ông nâng niu gìn giữ, từng ngày, từng số báo. Và nay, đã tặng lại cho y. Thì ra, cái gì của mình dù không tìm kiếm nhưng đến một lúc nào đó, tự nó sẽ đến. Nói thì nói thế, nhưng phải biết ơn người đã tặng. Khi cùng anh Ba Thợ Tiện lên tư gia của ông, nhận lấy vài chục ký báo ấy, lòng tự nhủ: “Sẽ đọc. Sẽ viết”. Nhưng rồi, từ đó đến nay thế nào? Vẫn nằm ở một vị trí trang trọng trong thư viện. Có lúc đi ngang qua, nhìn thấy, tự dưng lại nhớ về thời tuổi trẻ. Cái thời mới chân ướt cân ráo vào Sài Gòn, suốt ngày ngồi mài đũng quần ở Thư viện Khoa học Xã hội. Hễ thích gì thì mượn đọc. Ghi chép. Quên ngày tháng. Qua cơn đói. Nhờ thế, nay có thể hoàn thành bài viết Cuộc thi văn chương đầu tiên ở Việt Nam, chính là từ ghi chép thời ấy, nay bổ sung thêm. Nếu cũng tài liệu này, nay mới tiếp cận, liệu chừng y có thể đọc từng chữ, từng câu như lúc mới phơi phới chừng vừa ba mươi xuân xanh?

Mà này, đã viết những gì? Viết rằng:

Thuở báo chí hiện đại mới du nhập vào nước ta, việc tổ chức các cuộc thi văn chương là cực kỳ mới mẻ và cũng là lần đầu tiên giữa độc giả và người làm báo có sự giao lưu cùng một sở thích. Không ai khác, chính người Sài Gòn, nói cách khác chính nền báo chí Sài Gòn đã năng động tạo ra sự gắn kết ấy.

Trong tập sách Văn chương Sài Gòn 1881-1924 - Văn xuôi I (NXB Văn hóa Văn nghệ, 2017), nhà báo Trần Nhật Vy cho biết một chi tiết quan trọng: “Năm 1902, báo Nông cổ mín đàm ở Sài Gòn đã tổ chức cuộc thi thơ đầu tiên của lịch sử văn học VN với tên gọi Quảng văn thi cuộc (tr.10). Kiểm chứng lại từ tờ báo này, ta biết cuộc thi này chính thức diễn ra từ số báo 39 ra ngày 22.5.1902. Bổn báo có lời rao: Nay muốn mở cuộc thông đồng cho văn nhơn tài tử xa gần vui chơi với nhau cho dễ. Tuy xa cách mặc dầu, chớ cũng đồng thinh khí. Xưa nay ai nấy đều biết bài thơ Lão kỵ quy y là hay, không ai họa lại được cho bằng. Vậy nay đổi ngược lại ra đề như sau này mà làm thử coi có hay chăng: Thanh ny hồi tục. Xin chư dai nhơn tài tử có rảnh làm chơi, vận chi cũng được”.

Xin nhắc, Lão kỵ quy y (nay thường thấy ghi Kỹ nữ quy y, Lão kỹ quy y), là tác phẩm của Huỳnh Mẫn Đạt (1807 - 1883), người đã cùng Phan Văn Trị bút chiến với Tôn Thọ Tường đã tạo thành dấu ấn văn chương lừng danh của miền Nam đầu thế kỷ 20. Theo Tự điển văn học (bộ mới), Huỳnh Mẫn Đạt là người Gia Định nhưng cũng có tài liệu cho rằng ông quê Rạch Giá, dù gì thì Nông cổ mín đàm đã lấy thơ của thi sĩ người miền Nam. Bản tin trên còn cho biết, các từ đồng thinh (đồng thanh), dai nhơn (giai nhân) là cách viết/nói thuở ấy.

Không dừng lại đó, từ số 52 ra ngày 21.8.1902, cuộc thi được tổ chức lần 2 với “đề thi”: Tu đâu cho bằng tu nhà/Thờ cha kính mẹ mới là chân tu. Rõ ràng cuộc thi đã có tác động nhất định trong việc khơi dậy cảm hứng sáng tác cho các thi nhân miền Nam đầu thế kỷ 20. Theo khảo sát của nhà báo Trần Nhật Vy, từ cuộc thi này, đã có những tác giả “về sau trở thành những người có tên tuổi trong làng viết lách Việt” như các ông Trần Phong Sắc - nhà dịch thuật nổi tiếng đầu thế kỷ 20, Tống Hữu Định - người góp phần mở đường cho cải lương miền Nam, Đặng Lễ Nghi - người sáng tác nhiều truyện thơ…

Khi biên khảo Đất Sài Gòn và sinh hoạt của người Sài Gòn xưa (NXB Hội Nhà văn - 2017), nhà nghiên cứu Lê Nguyễn cho biết một thông tin cực kỳ quan trọng cũng từ Nông cổ mín đàm: “Năm 1906, tờ báo thực hiện một sáng kiến hiếm thấy là mở một kỳ thi viết truyện với tổng số tiền thưởng đến 150 đồng. Đáng tiếc là sáng kiến này khá mới mẻ nên chỉ có một người dự thi” (tr.170). Thử hỏi, 150 đồng là nhiều hay ít? Chỉ biết chắc chắn rằng, bấy giờ một bữa ăn tại nhà hàng Tây và cà phê mở tại đường Jaccaréo (nay là đường Tản Đà, Q.5) chỉ tốn 1,4 đồng.

Cuộc thi này, cụ thể ra làm sao? Khảo sát từ tờ báo trên, ta có thể biết được nhiều thông tin lý thú. Trên số 262 ra ngày 23.10.1906, ông chủ bút Gilbert Chiếu (tức chí sĩ, nhà văn Trần Chánh Chiếu 1868 - 1919) cho đăng lời rao Quốc âm thí cuộc, có đoạn: “Nay bổn quán xin ra đề “Tiền căng báo hậu”. Người Lang Sa gọi là Roman nghĩa là lấy trí riêng mình mà đặt ra một truyện tùy theo nhân vật phong tục trong xứ, dường như truyện có thiệt vậy. Diễn dẫn ra một cuốn chừng 50 tờ giấy lớn. Cách nạp đơn: kể từ ngày nay cho đến ngày 15.11.1906 vị nào chịu ra thì phải vào đơn cho Bổn quán chấp. Quá hạn thì không chấp đơn nữa. Vào đơn rồi phải công ra diễn dẫn, hạn đến tháng 2.1907 nạp vở. Cách nạp vở: phải phong cuốn sách của mình lại cho kỹ. Ngoài bì, trên đầu đề một câu chữ riêng của mình ngụ ý, kế đó đề: “Nhựt trình Nông cổ mín đàm, số 199 đường Bourdais - Sài Gòn”.

Đây là cuộc thi tiểu thuyết đầu tiên trong lịch sử nền văn học Quốc ngữ nước ta. Trên số báo 280 ra ngày 5.3.1907, cuộc thi kết thúc với kết quả được công bố như sau: “Nguyên khi mở hội thi thì có 3 vị vào đơn xin. Song đến hạn nạp thì có 1 vị nạp mà thôi là M.Pierre Eugene Nguyễn Khánh Nhương ở Thủ Đức, tỉnh Gia Định. Truyện của thầy này đặt tên là Lương Hoa truyện, lời nói vừa phải dễ nghe, không cao không thấp. Song việc tiền căng báo hậu còn sơ một thứ. Bổn quán nghĩ vì còn một vị nạp vở thì khó mà sánh tài lắm, cho nên Bổn quán định thưởng “khuyến công” cho M.N.K Nhương là 25 viên bạc (tức 25 đồng) và một năm nhật trình”.

Từ số báo này Lương Hoa truyện được đăng tải lên trên trang 8 của mỗi số báo. Nội dung có thể tóm tắt: Hai người bạn thân là Bổn và Huy hứa hẹn sẽ kết thông gia với nhau. Bổn có con gái là Hoa, Huy có con trai là Lương. Huy vì gia cảnh nên không đi học được, Huy giúp đỡ Bổn ăn học nên đỗ cử nhân. Khi Pháp đánh chiếm Nam kỳ, gia đình Huy bị cướp phá. Huy chết. Vợ con lưu lạc gặp nhiều tai ách gian truân. Rồi mẹ con lại gặp nhau, Lương đến nhà cậu nương tựa. Nhớ lời cha dặn, Lương tìm đến nhà ông Bổn để xin đính ước với Hoa, nhưng ông Bổn đã chết. Sau Lương thi đỗ được bổ làm thư ký ở Nam Vang (Phnom Penh), vẫn mang ý định tìm Hoa”.

So với trước, việc tìm kiếm tài liệu hiện nay dễ dàng hơn nhiều. Với tờ Nông cổ mín đàm, có thể ngồi ở nhà, mở máy lạnh, tìm đọc qua mạng internet. Nhanh chóng. Nhưng rồi cái gì cũng có hai mặt của nó. Vừa rồi, lên chơi nhà người bạn. Khách được gia chủ mời ngồi chung bàn, hai cháu nhóc - con gái chủ nhà ngồi bàn bên cạnh. Giây lát sau, thêm một khách khác dẫn theo bé nhóc đến; và bé được ngồi chung bàn với người lớn. Quan sát và thấy rằng, cả ba cháu gái tuổi lên năm, lên mười chẳng hề nói với nhau một lời nào, chỉ vừa ăn vừa cắm cúi vào chiếc điện thoại. Đâu rồi tiếng nói cười đùa nghịch của đứa trẻ khiến ba mẹ đôi lúc phải nhắc nhở: “Đùa nghịch vừa thôi, nói nhỏ lại để người lớn nói chuyện”. Viết đến câu này, tự dưng lại nhớ đến thuở hoa niên quá đi mất. Ai lớn lên trong đời, không từng nghe câu ấy từ ba, từ mẹ?

Sáng nay, cậu em trai út gọi điện thoại là sắp đến ngày dời mộ ba. Chuyển về nghĩa trang Hòa Sơn. Song thân lúc sống gần nhau thì mất đi cũng gần nhau. Con cái ai lại không mong muốn điều đó? Bất chợt, trong đầu đã nghe vọng lên nhịp đi của câu thơ lục bát:  “Lạy ba, xin dời mộ ba/ Ba về cạnh mẹ ngôi nhà tình chung/ Trời an lạc. Đất bao dung/ Xét phong thủy đã điệp trùng núi non/ Đã nghe nhịp sóng Thu Bồn/ Hòa cùng Non Nước sắt son Ninh Bình/ Từ bóng đã hiện hữu hình/ Hình và bóng mãi nặng tình ngàn sau/ Trải qua những cuộc bể dâu/ Cội nguồn còn đó nhớ nhau lại về…”. Ấy là ngày 26.4.2018.

À, ở Đà Nẵng - quê nhà của mẹ y có Ngũ Hành Sơn, người dân vẫn quen gọi Non Nước. Nào ngờ ở Ninh Bình - quê của ba cũng có danh lam thắng cảnh Non Nước. Một sự trùng hợp ngẫu nhiên. Xét về thơ ca ngợi phong cảnh non sông cẩm tú ở Đà Nẵng, chắc chắn Ngũ Hành Sơn vẫn là nơi các tài tử phong lưu đề thơ/ vịnh thơ nhiều nhất. Riêng về Non nước ở Ninh Bình, không thể không nhắc đến bài thơ vịnh của Trương Hán Siêu. Đại Việt sử ký toàn thư nhận xét về ông: “Là người chính trực, bài bác dị đoan, có tài văn chương và chính sự”; được Hưng Đạo Vương chọn làm “môn khách”, có thể lui tới doanh trướng của ngài.

Chính Trương Hán Siêu là người đặt tên Dục Thúy cho Non Nước - hiểu theo nghĩa “núi có hình con chim trả đang tắm gội”. Bài thơ này, chép theo bản dịch của Trung tâm Nghiên cứu Quốc học: “Sắc núi vẫn xanh tươi/ Sao người chậm về chơi/ Lòng sông bóng tháp đẹp/ Hang đá cảnh chùa vui / Cuộc thế từ nay biệt/ Thân nhàn biết trước sai/ Năm hồ trời đất rộng/ Câu cá muốn tìm vui”. Thơ góp phần tôn vinh vẻ đẹp của thắng cảnh. Ngược lại, thắng cảnh cũng tạo niềm cảm hứng cho thơ. Đọc Địa chí văn hóa dân gian Ninh Bình do Trương Đình Tưởng chủ biên (NXB Thế Giới - 2004) biết rằng, dưới chân núi Dục Thúy từ năm 1998, người dân Ninh Bình đã lập đền thờ Trương Hán Siêu.

Nhân đây, cũng cần ghi lại một giai thoại lịch sử. Rằng, năm 1282, nhằm đối phó với giặc, , triều Trần triệu tập các vương hầu quý tộc họp hội nghị ở bến Bình Than, ai nấy cũng thể hiện quyết tâm đánh giặc. Trần Quốc Tuấn dâng Hịch tướng sĩ lên vua Trần Nhân Tông. Tuy nhiên, ngài âu lo là làm thế nào có được cùng một lúc hàng trăm bản Hịch tướng sĩ chuyển đến các tướng sĩ đang trấn giữ ngoài các biên ải? Biết được điều này, Trương Hán Siêu đã có sáng kiến độc đáo là huy động, tập hợp các môn sinh viết chữ tốt.

Trên một khoảng sân rộng, đúng vào giờ ngọ, đứng trước hàng trăm môn sinh đang chỉnh tề chờ lệnh, ông dõng dạc: “Hỡi các ngươi, vận nước như chuông treo chỉ mành, mỗi chúng ta phải trăm người như một, phò vua cứu nước. Nay, ta truyền các ngươi chép Hịch tướng sĩ để ban bố khắp trong thiên hạ. Hỡi các ngươi! Chữ viết phải rõ, nét chữ phải đẹp. Phải toàn tâm toàn ý với lời vàng chữ ngọc để không phụ lòng Đại vương”.

Trương Hán Siêu vừa dứt lời, một tiếng trống hiệu hùng dũng vang lên. Lúc ấy, cả hàng trăm môn sinh bắt đầu miệt mài chép từng chữ, từng câu do ông đọc sang sảng. Khi nắng chiều ngã dài trên bến sông Bình Than, Hịch tướng sĩ cũng vừa viết xong. Hưng Đạo Vương rất lấy làm hài lòng. Nhờ sáng kiến này, các tướng sĩ ngoài biên ải đã kịp thời nhận được lời hiệu triệu phấn khích tinh thần chiến đấu, hừng hực khí thế “Sát Thát”. Khi Hịch tướng sĩ được phổ biến nhanh chóng, đồng loạt trong quân ngũ đã góp phần tạo nên sức mạnh chung.

Thoáng đó, vừa mới ăn Tết, đã thấy tết đi xa lắm rồi. Thời gian trôi qua nhanh quá đi mất. Chẳng mấy chốc nữa, y cũng sẽ sống như tâm thế trong câu thơ của Trương Hán Siêu: "Câu cá muốn tìm vui". Liệu có thanh nhàn được thế không?

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 3.3.2018

cungcathan_mhlk

Người dân cúng bái cá “thần” ở Nghệ An - ẢNH: K.HOAN


Dấu vết của một thời còn có thể khảo sát từ thông tin thời sự trên báo chí.

Sáng nay, báo Thanh Niên in bài Bất ổn khi cái gì cũng cúng. Trong đó có đoạn: “Việc người dân nghe chuyện thánh thần nào cũng tin, bạ đâu cũng cúng, là một biểu hiện không ổn về văn hóa. Sáng 16.2 (mồng 1 tết), một người dân địa phương đang đi trên đường thì phát hiện một cá chép khá to dưới mương dẫn nước ở xóm Hòa Thành, xã Hiến Sơn, huyện Đô Lương, Nghệ An. Người này sau đó gọi thêm mấy người cùng xóm mang kích điện ra để bắt cá nhưng không bắt được và bỏ cuộc. Sau đó, con cá không bơi đi, vẫn quẩn quanh ở đoạn mương này, thỉnh thoảng nổi lên rồi lặn xuống, khiến nhiều người đồn thổi cho rằng đây là “cá thần” và nhiều người hiếu kỳ kéo đến xem, bàn tán. Hôm sau, một số người còn lập bàn thờ ngay bên bờ mương, mang hương, hoa đến thắp, khấn “cá thần” để cầu may.

Xác định đây chỉ là con cá thông thường, ngày 21.2, ông Nguyễn Bá Dược, một người dân ở xã Hiến Sơn, được sự đồng ý của chính quyền xã, đã quyết định dùng chài vây bắt “cá thần”. Đó là một cá chép bình thường, nặng 3,2 kg và có dấu hiệu bị bệnh. Theo ông Dược, nguyên nhân khiến con cá này nổi lên rồi lặn xuống trong mấy ngày qua có thể do bị người dân dùng kích điện bắt trước đó làm nó bị thương. Nhiều người dân hiếu kỳ hay tin ông Dược bắt được “cá thần” đã kéo đến xem và tận tay sờ vào con cá. Ít giờ sau khi bị vớt lên, con cá này yếu dần rồi chết, ông Dược mang vứt đi, câu chuyện đồn thổi “cá thần” mới chấm dứt.

Từ ngày 24.2 (mồng 9 tết) tại xã Quảng Văn, TX.Ba Đồn, Quảng Bình rộ lên thông tin xuất hiện một con rắn tại mộ vô danh nằm ven đường vào xã; sau đó xuất hiện thêm một con nữa. Nhiều người địa phương và ở nơi khác đã đến xem rồi cầu khấn, sờ lên con rắn vì cho rằng đó là rắn “thần” linh thiêng.

Tối qua 2.3, ông Trần Văn Trọng, Chủ tịch UBND xã Quảng Văn (TX.Ba Đồn, Quảng Bình), cho biết số lượng người tập trung tại ngôi mộ vẫn rất đông và họ thức suốt đêm nên lực lượng chức năng được triển khai để duy trì an ninh trật tự. Trước đó, tối 1.3, lực lượng UBND xã tổ chức tháo bóng đèn điện, tháo dỡ rạp che trên ngôi mộ nhưng bất thành vì bị số đông người dân ngăn cản. Trên khu mộ có điện thắp sáng được câu nối từ hồ nuôi tôm, UBND xã tiến hành cúp điện 2 lần và cũng bị người dân phản đối dữ dội nên phải mở lên lại. Trong khi đó, theo nhiều nguồn tin, tình hình tại đây càng trở nên phức tạp khi có hiện tượng nhập “đồng”, người nhập là bà N.T.P (50 tuổi, người địa phương) khiến nhiều người càng tin.

Theo ông Trần Văn Trọng, nhiều người cũng dâng cúng tiền, tổng cộng đến ngày 1.3 có đến khoảng 200 triệu đồng tại mộ”.

Sự mê muội này không gì mới. Theo yêu cầu của báo Thanh Niên, chiều qua, y đã kịp thời bổ sung bài viết Người xưa chống mê tín. Đọc lại vài tư liệu. Ghi thêm đôi dòng.  

“Than ôi! Cái tục thờ bái ma quỷ, cả nước như điên, như cuồng”; “Thậm chí ngay cả muỗi, rắn, nhện, ốc, phân hổ, xương trâu, cũng đều cho rằng có thể gieo họa phúc cho người ta. Chính tập tục ngu muội đó đã làm cho người ta hoảng sợ, do vậy mà phải lập đền miếu để quanh năm thờ cúng”. Lời than phiền này còn thấy ghi rõ trong tập sách Sơn cư tạp thuật, có khả năng được tác giả (khuyết danh) viết vào cuối đời nhà Lê.

Qua đến đời nhà Nguyễn, sự tệ lậu trên vẫn không mấy cải thiện, bằng chứng trong tập Bà tâm huyền kính lục của Trần Tân Gia in năm 1897, có đoạn: “Gần đây, cũng có những chuyện xúi giục mê hoặc dân gian như thơ tiên, thuốc thần, nước suối, rắn trắng... Đó thực là những chuyện làm loạn đời, mê hoặc quỷ thần. Dám xin những người học thức hãy cảnh giác răn dè bọn đệ tử nông cạn, ngu dốt chớ có nghe theo mà rước họa vào thân...”.

Dưới triều Nguyễn việc chống mê tín dị đoan rất quyết liệt thông qua các chính sách, quy định rạch ròi, cụ thể. Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ ghi: “Nay cái tục tin theo quỷ thần, mê muội đã quá, hơi một tí cũng đi mời thầy vẽ bùa, đọc chú, nịnh hầu kẻ đồng cốt... Thậm chí có kẻ phụ đồng ấp bóng, bịa ra lời nói của thần, kiêng ăn cấm thuốc, kẻ đau ốm không cứu lại được. Lại có những thủ thuật làm người bằng giấy, làm ngựa bằng cỏ, ném gạch đá vào nhà, đốt cháy nhà cửa, cùng những bùa thuốc làm mê hoặc...”.

Xử phạt ra làm sao? Thời Gia Long: “Các người làm nghề phù thủy, làm đồng cốt, kẻ nào can phạm thì phạt xuy 100 roi, bắt đi giã gạo 6 tháng”; Thời Minh Mạng, phàm thầy cúng, đồng cốt, vẽ bùa chú, tà thuật, dị đoan “kẻ thủ phạm phải tội giam; kẻ tòng phạm phải phạt 100 trượng, lưu 3.000 dặm. Nếu là quân, dân đóng giả thần tượng, gỗ thanh la, đánh trống, đón thần mở hội, phải phạt 100 trượng, chỉ bắt tội kẻ đứng đầu thôi. Lý trưởng biết không tố cáo, phạt xuy 40 roi”. Năm 1843, thời Thiệu Trị, tại Hà Nội có tên Trần Văn Lập làm thầy phù thủy, phụ đồng chữa bệnh đã khiến người ngồi đồng là Hoàng Huy Triết nhảy nhót, ngã đập đầu vào tường tử vong. Tên Lập bị ghép vào tội “lầm lỡ làm chết người”, nộp tiền chôn cất người chết, “xử phạt 100 trượng rồi đem đày làm binh nơi biên giới xa”.

Cơn cớ tại làm sao, sự mê muội ấy vẫn tồn tại? Thật ra những thông tin trên, chỉ mới soi rọi từ phía người dân.

Nay, về phía quan chức thì sao? Chỉ cần gõ từ khóa “Quan chức đi lễ”, Google cho biết: “Khoảng 3.540.000 kết quả (0,27 giây); “Quan chức mê tín”: “Khoảng 2.000.000 kết quả (0,51 giây)”. Tại sao từ dân đến quan đều “cái gì cũng cúng”? Có nhiều câu trả lời. Trước mắt, ghi lại một thông tin thời sự của tháng ngày đang sống.

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 20.2.2018

 

kien-van


Đời sống ư? Đôi lúc thấy buồn và tẻ nhạt. Có lúc hân hoan rộn rã tiếng nói cười. Nhưng rồi, lúc tĩnh tâm, ngồi một mình nhìn xuống lòng mình thấy gì? Chẳng thấy gì hay chỉ có một sắc trắng, một âm thanh trống rỗng đã phủ kín từ cảm xúc đến thể xác? Đến một lúc nào đó, nhìn lại chặng đường dài đã đi qua, y hài lòng hay dửng dưng? Biết nói thế nào bởi lẽ năm tháng trôi qua, y đã giữ được gì trong mười ngón tay? Có gì hay chẳng có gì? Nào có thể cân dong đo đếm chính xác. Chỉ biết rằng, cố gắng mỗi ngày làm sao sống trọn vẹn ngày ấy.

Thế nào là sống?

Câu trả lời khó quá. Mỗi người một lựa chọn. Lựa chọn nào cũng được miễn là họ hài lòng. Chẳng ai có thể sống giùm cho ai cả. Đôi khi người ta không dám sống. Y chứ ai. Có đôi lúc quay về một cõi khác để tránh đi cái nhìn phải nhìn, cái nghe phải nghe của thời cuộc đang diễn ra mỗi ngày. Bịt tai nhắm mắt. Và lầm lũi đi trong một cõi khác. Cõi thư hương bộn bề sách vở. Mà sách vở có là gì, chẳng là gì so với nhịp sống đang diễn ra từng ngày, từng giờ với biết bao biến động, đổi thay…

Mà thôi, đôi khi đọc sách cũng là một cách chia sẻ nhiều điều muốn nói. Đêm qua, đọc lại Kiến văn tiểu lục (NXB Trẻ -2013) của Lê Quý Đôn. Nghiệm ra rằng, một khi đất nước loạn lạc, đổ đốn, “Vua chèo còn chẳng ra gì/ Quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề” thì ngay cả người trí thức cũng tha hóa, không giữ được tư cách: “Từ năm Đoan Khánh trở về sau, lời bàn luận sáng suốt bẵng đi, thói cầu cạnh mỗi ngày một thịnh; người có chức vị ít giữ được phong độ thanh liêm nhún nhường, trong triều đình không nghe có lời can gián, gặp có việc thì rụt rè cẩu thả, thấy lúc nguy thì bán nước để toàn thân; đâu có người là bậc danh nho, ai cũng đều yên tâm nhận sùng vinh phi nghĩa, rồi nào thơ ca trao đổi, khoe khoang tán tụng lẫn nhau; tập tục sĩ phu thối nát đến thế là cùng, tệ hại biến đổi lần này không thể nào nói cho xiết được” (tr. 27).

Đoan Khánh là niên đại Uy Mục đế. Sử sách ghi nhận, Lê Uy Mục (1505-1509) là “vua quỷ”. Năm 1509, Giản Tu công Lê Oanh từ Tây Đô kéo quân về đánh chiếm lại Đông Kinh và bức tử Uy Mục. Oanh sai người đặt xác Uy Mục vào miệng súng lớn, bắn cho tan xương cốt. Xong, Oanh tự lên ngôi, tức vua Lê Tương Dực rồi cũng lao vào đường tửu sắc trụy lạc. Tương Dực sai người thợ có tên là Vũ Như Tô làm cung điện 100 nóc, xây Cửu trùng đài hao tốn biết bao tiền của; lại bắt đóng những chiến thuyền để đàn bà khỏa thân chèo thuyền chơi trên Hồ Tây! Chỉ có dân đen sống trong cùng cực, phải gánh chịu bao thuế má nặng nề. Giặc giã trong nước nổi lên khắp nơi. Tiếng than khóc vọng đến trời xanh. Sử sách ghi nhận, Lê Tương Dực là “vua lợn”!

Thời bấy giờ, theo Lê Quý Đôn các bậc cao sĩ có khoảng trên dưới một trăm, thế nhưng ông chỉ liệt kê chỉ liệt kê được vài người có “cao phong khí tiết”. Chẳng hạn, Lý Tử Cấu, Nguyễn Thì Trung, Nguyễn Dữ, Nguyễn Hãng… Về khoa cử nước nhà, còn có thể biết thêm chi tiết mà xưa nay các nhà nghiên cứu ít lưu tâm đến: “Gặp lúc người nhà Minh sang xâm lấn nước ta đặt làm quận huyện, họ đặt các khoa “Sơn lâm ẩn dật, hoài tài bảo đức” (ý nói người ẩn dật nơi núi rừng, người tài ba, có đạo đức) để tìm kiếm nho sĩ đưa về Kim Lăng dùng làm quan ở châu huyện. Hỡi ôi “lúc ấy, người hơi có tiếng tăm một chút đều nhận mệnh lệnh” (tr.28), ngoại trừ Lý Tử Cấu, Vũ Mộng Nguyên, Nguyễn Mộng Tuân…

Mục đích của việc học là để làm gì? Các cô nàng, “Chẳng ham ruộng cả ao liền/ Chỉ ham cái bút cái nghiên anh đồ”, “Ngựa anh đi trước, võng nàng theo sau” - có như thế mới “Bõ công trang điểm má hồng răng đen”… Ngay cả sau này, còn có câu: “Phi cao đẳng bất thành phu phụ”... Học là điều tốt quá. Nhưng học để làm gì mới là điều đáng bàn. Nếu học để ra làm quan, thì phải thông qua khoa cử. Đọc Phan Khôi tác phẩm đăng báo 1937 do Lại Nguyên An sưu tầm, biên soạn (NXB Trí Thức -  2014) mới biết vua Đồng Khánh cũng cực siêu “thu phục nhân tâm” bằng khoa cử.

Rằng, sau vua Hàm Nghi bị bắt vào đêm 30.10.1888 rồi bị đày sang Algérie. Tình hình chính trị không chỉ Trung kỳ mà trong cả nước cực kỳ rối ren, làm sao để giới trí thức thôi tham gia kháng chiến, lãnh đạo cuộc kháng chiến? Cứ đem khoa cử ra mà nhử. Phan Khôi viết: “Khoa thi hương Mậu Tí, Đồng Khánh năm thứ ba, hai trường Thừa Thiên, Bình Định thi chung tại trường Thừa, gọi là “Thừa Bình hiệp thí” lấy đỗ đến 50 cử nhân, 150 tú tài, làm cho sĩ phu rất là mãn nguyện, dư luận rất là thỏa thiếp. Họ đua nhau ca tụng ông vua mới vẽ mày vẽ mặt cho họ mà quên bẵng ông vua cũ vừa bị đày đi. Họ cũng không còn nhớ mới vừa rồi cơn quốc biến mà vì đó họ đã khởi nghĩa Cần vương. Tôi nói thế, bởi tôi thấy trong đám họ có người năm trước ra đầu thú rồi năm sau thi đậu” (tr.173).

Biết các chi tiết này, càng nhận ra các nhà nho cấp tiến thuở ấy, cỡ các cụ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp…, dù đỗ đạt nhưng cũng vứt béng, đi làm cách mạng. Rõ ràng một nhận thức đi trước thời đại rất xa. Câu chuyện này còn dài. Chẳng lẽ lại lụi cụi mày mò tìm hiểu thêm? Hãy để dịp khác. Đọc ca dao, tục ngữ thú hơn. Chẳng hạn, “Em là con gái đồng trinh/ Em đi bán rượu qua dinh ông nghè”; hoặc “Ngựa ai buộc cửa ông cai/ Hoàn ai mà lại ở tai bà nghè” - hoàn là vòng, khoen, Đại Nam quấc âm tự vị (1895) giải thích. “Ngựa ai buộc ngõ ông nghè/ Gà ai gáy ở đầu hè ông Cai”.  Trong bài thơ Ngày xưa của Nguyễn Nhược Pháp có đoạn: “Trên lầu mấy thị nữ/ Cùng nhau rúc rích cười:/ “Thưa cô đừng thẹn nữa/ Quan nghè trông lên rồi”.

Nghè là gì?

Trong tác phẩm Lược khảo khoa cử Việt Nam, nhà nghiên cứu Trần Văn Giáp căn cứ vào tài liệu của nhà bác học Lê Quý Đôn: “Từ bản triều (thời Lê trung hưng), ai đỗ tiến sĩ lại càng được sang trọng lắm: nào được ban áo, ban mũ; vinh quy về làng, cờ mở trống giong, nào các quan đốc thúc dân làng  làm sẵn đài đệ cho ở; nào vào làm quan ở Hàn lâm viện ngay, nếu có đi các tỉnh cũng không bao giờ phải làm chức phó nhị v.v...”; và kết luận: “Nghè tức là dinh thự dân phải làm như miếu, đền v.v... chỉ có ông tiến sĩ là được nhà của dân làm cho mà các quan phải đi đốc thúc, thế cho nên gọi là ông nghè, nên phương ngôn hãy còn câu “Chưa đỗ ông nghè đã đe hàng tổng”.

Còn có cách giải thích nào khác?

Trong tác phẩm Bút nghiên, nhà văn Chu Thiên cho rằng: “Ở trong điện nhà vua, cái điện nào cũng có cái mái chạy dài ra hẳn quá sân, để khi mưa nắng che cho các đại thần cao cấp. các mái ấy gọi là nghè. các tiến sĩ vào đình thí phải đứng ở đấy, tức là tiến lên vua rồi, cho nên người ta mới gọi gộp là các ông nghè”. Việt Nam từ điển của Lê Văn Đức giải thích: “Nghè: điện của nhà vua. Tiếng gọi các quan làm việc trong điện nhà vua, thường là các ông đỗ tiến sĩ”.

Thế nhưng trên Kiến thức ngày nay số 255 (20.8.1997), căn cứ vào bài ca dao có câu: “Em đi bán rượu qua dinh ông nghè”, ông An Chi trả lời bạn đọc chuyên mục Chuyện Đông chuyện Tây: “Ông nghè đây chỉ ông quan chứ đâu phải là “quan làm việc trong điện nhà vua”, cũng chẳng phải là ông tiến sĩ, mà cũng chẳng nhất thiết là ông quan có học vị tiến sĩ. Nghè là từ Việt gốc Hán bắt nguồn từ một từ ghi bằng chữ mà âm Hán Việt chính thống hiện đại là “nha”, còn âm xưa chính là... “nghè”.

Vậy “nha” là gì? Ông An Chi giải thích: “Nha” có nghĩa là công đường, là nơi làm việc của quan lại. Ngoài ra trong Đường thư nó còn có nghĩa là chỗ làm việc của vua… Ngoài ra từ “nha” còn có biến thể văn tự, ngữ âm, ngữ nghĩa là “nhã” mà âm xưa cũng là nghè. Và có nghĩa là nhà khách nơi sang trọng, sảnh đường (nơi làm việc của quan lại), nhà trọ cho khách qua đường và cũng có nghĩa là cái hiên nhà nữa”.

Sau đó, ông kết luận: “Từ trên đây suy ra, danh từ “nghè” ban đầu được dùng để chỉ công đường (nơi quan lại làm việc) hoặc cung vua (nơi vua ở và ngự triều) rồi về sau mới có nghĩa phái sinh bằng hóa dụ để chỉ các quan làm việc nơi công đường hoặc cung vua. Ngày nay, “nghè” đã trở thành một từ cổ nên người ta không còn biết rõ nghĩa và công dụng của nó nữa. Vì vậy mà về nghĩa gốc của nó, có người giảng rằng đó là mái hiên trong cung vua, có người lại nói rằng đó chính là cung điện của nhà vua, còn về nghĩa phái sinh của nó thì có người giảng rằng đó là ông tiến sĩ, nhưng có người lại giảng rằng đó là ông quan làm việc trong cung điện nhà vua. Xét kỹ ra, như trên đã nói, thì nghĩa nào cũng có cả. Ngoài  ra trong tiếng Việt “nghè” còn có nghĩa là miếu thờ thần nữa nhưng vì nghĩa này không liên quan đến vấn đề đang xét nên chúng tôi không nêu ra”.

Tuy nhiên, trong tác phẩm Sự phát triển giáo dục và chế độ thi cử Việt Nam thời phong kiến (NXB Giáo Dục - 1998), ông Nguyễn Tiến Cường không đồng tình với lập luận của ông An Chi. Có thể tóm tắt: Thứ nhất, tự dạng của chữ nghè là chữ Nôm không liên quan gì đến chữ nha, chữ nhã. Thứ hai, nếu nói nghè có nghĩa là ông quan nói chung hoặc quan triều đình thì khi thay chữ quan bằng chữ nghè trong trong các từ: quan thượng thư, quan thị lang... để xem thế nào. “Nói quan thị, quan hoạn thì bình thường quá, nói nghè thị, nghè hoạn thì nó mới lố bịch làm sao!”. Thứ ba, nếu nói đó là nơi quan làm việc thì cũng không ổn. “Người ta nói dinh quan tuần phủ, công đường của quan huyện, quan bố... không ai nói nghè của quan tuần, quan bố, quan án thậm chí quan huyện”. Thứ tư về bài ca dao trên thì phải hiểu khác đi v.v...

Qua các tranh luận thú vị này, rõ ràng để hiểu thấu đáo một từ cổ tiếng Việt trong lãnh vực giáo dục quả không dễ dàng. Với từ ông nghè, ông Nguyễn Tiến Cường cho rằng, cách lý giải của cụ Trần Văn Giáp là xác thực, thuyết phục nhất. Nếu đúng, ta có thể hiểu nôm na nghè tức là dinh thự mà dân phải làm cho các ông thi đậu ông tiến sĩ; chỉ có tiến sĩ là được nhà của dân làm cho mà các quan phải đi đốc thúc, thế cho nên gọi là ông nghè.

Mà này, có thật khi đậu tiến sĩ, vị tân khoa trở về làng thì được quan sở tại đôn đốc, sai khiến dân làm nhà cho ở không?

Để tìm hiểu vấn đề này, không chứng cứ nào thuyết phục hơn bằng những ghi chép trong tác phẩm Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ (1768- 1839): “Lệ cũ ai đỗ khoa Đông các, khi vinh quy dân bản tổng phải đến phục dịch; làm nhà tư thất bằng gỗ lim, lợp ngói, độ ba gian, tất cả dân phu trong bản tổng, bản huyện phải đến ứng dịch. Khi Phạm Khiêm Ích đỗ khoa Đông các về vinh quy, ông thương hại người hàng tổng bần cùng, nên miễn cho, không bắt chịu cái phí tổn làm nhà nữa. Ai cũng lấy làm cảm ơn, sau tôn ông làm hậu thần, thường năm xuân thu cúng tế, mổ trâu vào đám, báo cái ơn đức ấy. Sau khi nhà Lê mất, hậu thần các làng thường bỏ không cúng tế nữa, duy có giỗ hậu Phạm công thì làng vẫn làm lợn thay trâu bò cúng tế, không dám bỏ. Xem thế mới biết cái ơn di ái ở người ta vẫn nhớ mãi không quên.

Triều Lê đãi học trò rất hậu, nào là trâm, hốt, hoa bào, du nhai, tử yến, lại phong cho cha mẹ, ấm cho con cháu, vinh quy áo gấm về làng, rất vinh dự. Hậu đãi như thế là đủ rồi. Còn đến như làm nhà tư thất, phục dịch việc gì cũng đổ vào đầu dân cả, thì dân hàng tổng chịu làm sao được. Vả lại, người học trò mới đỗ đại khoa, mà cả hàng tổng đến phục dịch, làm nhà cửa cho mình, lại phải mở yến tiệc khao mừng, đãi dân hàng tổng để đền công lao, thế tất phải xoay sở đi vay mượn cho xong việc. Thậm chí có kẻ chỉ dòm lấy con gái nhà giàu mà bỏ vợ tào khang; hoặc chịu tiếng luồn lỏi đi vay lãi mà ký liều vào văn khế. thói quen ấy tích tệ từ lâu, nên đã có tiếng “Ông nghè đeo nợ, bà nghè mua chồng”! Thế mà mong người ta ra làm quan giữ liêm khiết, không trái phép làm càn, thì làm sao được”.

Ngày xưa dù học giỏi thi đậu đã là thế; còn nếu bất tài vô tướng phải bỏ tiền mua chức chạy quyền thì khi ra làm quan làm sao "giữ liêm khiết, không trái phép làm càn"? Sự tệ hại ấy ắt còn gấp bội phần.

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 17.2.2018

BIA-TINH-TU-AM-DUONG3Rxuan


Những ngày Tết. Nhìn xuống bàn tay với những rãnh dọc ngang chằng chịt, hằn nếp, đã thấy thời gian đi qua. Đi qua lặng lẽ. Đi qua vội vã. Bền bĩ. Và cứ thế, đến một lúc nhìn lại, dù không nói ra nhưng trong tâm tưởng đã có tiếng nói dịu dàng: “Sắp lục thập rồi đó Q”. Thế à? Ngạc nhiên quá. Vậy mà bấy lâu vẫn cứ nghĩ là còn trẻ. Rất trẻ nữa là khác. “Đi cho biết đó biết đây/ Ở nhà với mẹ biết ngày nào khôn”. Ấy thế, hơn cả nửa đời người, y chỉ ở với mẹ. Mà một khi có mẹ, đứa trẻ con trong y vẫn không chịu rời bỏ đi, nó cứ ở lì với cái sự ỷ lại, chẳng chịu lớn vì cứ nghĩ, dù gì đã có mẹ. Mẹ lo tất. Thế thì đứa trẻ ấy làm sao trưởng thành?

Năm nay, y đã lớn. Đã phải tự lo lấy phần kiếp, số phận của mình, chứ không còn là nấp sau váy mẹ nữa. Phải lớn lên thôi. Không thể chần chừ mãi.

Hình bóng của tình đầu, tình sau, tình cuối vẫn là nỗi ám ảnh của “Hương gây mùi nhớ, trà khan gọng tình” nhưng rồi đến một lúc nào đó chỉ còn là kỷ niệm êm đềm, rất êm đềm của tháng ngày vàng son đã có. Bấy lâu nghĩ rằng, chuyện tình lứa đôi vẫn là dấu vết tươi đẹp nhất đời người. Cảm xúc ấy thăng hoa tạo ra tơ lụa giăng mắc mọi rung động để bật ra tiếng tơ đồng. Bật lên giai điệu ru đời. Ru tình Trải dài theo năm tháng. Có phải trải dài theo năm tháng? Không đâu. Đôi lúc chỉ là một khoảnh khắc. Mà khoảnh khắc ấy lại là dấu vết khó có thể xóa nhòa, delete khỏi ngăn trí nhớ. Nghĩ là nghĩ vậy. Nhớ thương da diết là vậy. Rồi đến một lúc đã trưởng thành, đã bước ra khỏi vòng tay mẹ, đứa trẻ ấy phải biết nghiến răng để quên đi. Quên để làm gì? Để bắt đầu tự lập, tự chỉnh đốn lại cái thần xác, tâm tình của chính nó.

Nếu không như thế, sức mấy nó có thể viết bằng tâm thế của một người đã chín chắn, chững chạc: “Mầm đời xanh biếc mỗi ngày/ Tôi đang sống với bào thai tượng hình/ Đường dài ấm nắng bình minh/ Ru đêm ơn nghĩa nặng tình phu thê”. Hai từ “phu thê” nghe lạ tai không? Ít ra với y. Bây giờ đã khác. Trong Gia huấn ca có câu: “Có âm dương có vợ chồng/ Làm người ai thoát khỏi vòng phu thê”. Vậy à? Sao bây giờ mới biết? Có chậm quá không? Không gì nhanh và chẳng gì chậm. Vấn đề đặt ra vẫn là “Mầm đời xanh biếc mỗi ngày”.

Điều này, từ ngày 28.X.2001, y đã ý thức: “cuộc đời anh nhân đôi/ đó là lần đầu tiên hái ngôi sao trên trời/ đặt tên Sự Sống/ những mệt mỏi chán chường hư vô trống rỗng/ bây giờ xa lạ với chính anh/ đó là lần đầu tiên chạm đến mùa xuân/ đặt tên Nhân Loại/ như người nông dân gắn bó với luống cày/ được thu hoạch mùa vàng vĩ đại/ anh biết từ nay anh tồn tại/ vĩnh viễn giữa trần gian/ giọt máu vẫn chảy/ vẫn chảy/ vẫn chảy/ dẫu sau khi anh đã mất đi rồi/ được nhân đôi cuộc đời/ sợ quái gì cái chết”. Thật ra, ai rồi cũng đi về một cõi khác. Nhưng họ vẫn tồn tại trong tâm trí của máu thịt của chính họ đã tạo ra. Máu thịt ấy là sự tiếp nối, là nhân đôi cuộc đời.

Chinh phụ ngâm xao xuyến lòng người, còn là lúc tiễn chồng ra trận hiện lên trước mắt vẫn cái cảnh bùi ngùi, cảm động: “Đường giong ruổi lưng đeo cung tiễn/ Buổi tiễn đưa lòng bận thê noa”. Nếu, “Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt/ Xếp bút nghiên theo việc đao cung” vẫn độc thân, chưa vợ con thì đâu não lòng đến thế, bất quá chỉ là “Lá còn xanh nhu bao anh còn trẻ/ Lá trên cành như anh trong đoàn quân/ Gió rung cây cành lá tưng bừng đùa vui/ Anh trai làng có đi chiến dịch mùa xuân”. Nhẹ nhàng, phơi phới, không gì vướng víu, bận bịu. Chàng trai ấy, làm sao có thể thốt ra câu chỉn chu, không chỉ lo chu toàn phận sự làm trai mà còn phải dặn dò, quán xuyến cả việc nhà: “Nàng về nuôi cái cùng con/ Anh đi trẫy hội nước non Cao Bằng”. Rồi còn do tiếng khóc của vợ lúc tiễn chồng: “Cái cò lặn lội bờ sông/ Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non”, buổi lên đường tòng quân, không hề có tiếng cười. Phải rồi, vợ xa chồng, chồng xa vợ ra nơi trận mạc đối đầu với hòn tên mũi đạn, sống chết chưa biết ngày sau ra sao thì nỗi buồn ấy rất nhân văn.

Bấy lâu nay, sức mấy y được sống trong tâm thế đó. Mọi việc cũng chỉ là: “Đêm khuya nguyệt tận từ lâu/ Chon von chót vót ngôi sao khóc òa/ Tôi đột nhiên thấy người ta/ Trong gương soi lại bước ra mỉm cười”. Chỉ hình và bóng của y đấy thôi. Thê thảm chưa? Cô độc chưa? Nay đã khác. Rất khác. “Môi hôn ghé xuống môi hôn/ Ôm lấy trái đất vuông tròn trong tay/ Mỗi ngày cúi xuống nghiêng tai/ Lắng nghe nhịp thở đất đai nẩy mầm…”. Ngày đã mới. Ai lại không mong chờ một ngày mới đầu tiên trong cõi người? Đoàn Tuấn bảo; “Thơ như khát vọng bao đời/ Như mùa xuân đến đất trời hoan ca”.
Mùa Xuân. Ngày Tết. Lặng lẽ với từng dòng Nhật ký. Đôi lúc lại nhớ về những chuyến vui Xuân đón Tết của những mùa vàng vẫn còn rực rỡ trong ký ức. Nhớ về Hội An. Nơi ấy, trước cửa nhà hầu hết đều có vẽ hình con mắt. Con mắt của thời gian. Tại sao lại vẽ con mắt? Gọi nôm na Thần cửa. Nhiều tài liệu đã giải thích rồi. Không nhắc lại. Chỉ cần Google là tìm ra ngay thôi.

Có phải đôi mắt ấy bắt nguồn từ cái tích này không? Cái tích gì vậy?

Đọc Vân đài loại ngữ của Lê Quý Đôn bản dịch, chú giải của Phạm Vũ và Lê Hiền (NXB Miền Nam - 1973), ở phần Phẩm vật loại, có đoạn: “Sách Loại tụ nói: “Cái khóa cửa, tất phải làm hình con cá, lấy nghĩa con cá không nhắm mắt, để giữ đêm”. Lại nói rằng: “Ở biển Đông, có loài cá, đuôi như đuôi chim cắt, hễ nó phun sóng thì trời mưa; cho nên đời Đường đến nay, hễ làm nhà thì đắp hình con cá  ở nóc nhà để trấn hỏa tai”. Từ cái khóa cửa hình con cá, về sau đã “cách diệu” thành hình con mắt ngay trước cửa nhà? Suy luận này, liệu có đúng không?

Thôi thì, cứ nghĩ thế, chứ biết hỏi ai bây giờ? Nghĩ như thế vì từ “nguyên mẫu” đã có, khi du nhập vào nước Nam thì nó đã “cải tiến” ít nhiều. Ví như ngày trước trong đám cưới từ làng này qua làng nọ luôn gặp cảnh giăng dây. Nhà văn hóa Phan Kế Bính có viết trong Việt Nam phong tục (MXB TP.HCM-1990): “Trong lúc đi đường thì những kẻ hèn hạ hoặc lấy sợi chỉ đỏ, hoặc mảnh vải, lụa đỏ giăng ngang giữa đưòng, đám cưới đi đến, phải nói tử tế mà cho chúng nó vài hào, thì chúng nó mới cởi dây cho đi. Chỗ thì chúng nó bày hương án, chờ đi đến, đốt một bánh pháo ăn mừng, chỗ ấy phải đãi họ một vài đồng mới xuôi. Nếu bủn xỉn mà không cho chúng nó tiền, thì chúng cắt chỉ cắt dây nói bậy nói bạ, chẳng xứng đáng cho việc vui mừng, vì vậy đám nào cũng phải cho” (tr.58).

Đọc Vân đài loại chí, càng xác tín rằng thói xấu bắt chẹn/ bắt chẹt này là do người nước Nam ta bắt chước theo Trung Quốc và có “cải tiến”. Lê Quý Đôn cho biết: “Sách Thông điểu chép: “Đời Đường Huyền tông, Đường Thiệu dâng sớ lên vua tâu: “Trong ngày sĩ thứ nghênh hôn, những kẻ hèn hạ quê mùa đem xe ra chận đường đòi cơm rượu. Tục ấy trở nên thịnh hành đến cả những bậc vương hầu. Chúng nhóm nhiều bè lũ ra đón đường giữ đám cưới lại, làm mất nhiều thời giờ mà đòi tiền của, đến nỗi tiền cho bọn ngăn đường nhiều hơn tiền cưới. Vậy xin cấm hẳn. Nhà vua chuẩn việc ấy”. Tục ấy gọi là tục đón ngõ, giăng dây bây giờ”. Rõ ràng từ chỗ “đem xe ra cận đường” đã trở thành “giăng dây” (SĐD, tr. 199-200).

Này, tra trong từ điển có từ “bắt cóc”, Đại từ điển tiếng Việt giải thích: “Bắt người đem đi một cách lén lút, bất ngờ, mau lẹ rồi đem giấu kín ở một nơi không cho ai biết, nhằm đòi tống tiền hoặc những mục đích khác”. Thử đặt câu hỏi, tại sao phải là cóc/ bắt cóc chứ không là con gì khác? Ắt phải có duyên cớ gì đây. Người xưa khi sử dụng từ nào là có lý do của nó, chứ không thể bốc đồng, ngẫu hứng, tùy hứng. Vậy duyên cớ ấy là do đâu? Câu trả lời ấy, nếu phải trả lời e khó quá đi mất.

Lâu rồi tình cờ đọc quyển Quảng tập viêm văn (in năm 1898) của Edmond Nordemann, NXB Hội nhà văn tái bản năm 2006, Nguyễn Bá Mão biên dịch và chú thích, có đoạn liên quan đến từ bắt cóc: “Tinh thần tương tế (giúp đỡ nhau) rất phát triển ở An Nam cũng như ở người Trung Hoa. Ở An Nam, không có xóm nào không có hội hưu dưỡng của tuổi già gọi là hội “kỳ lão”, hội lễ bái Khổng giáo gọi là “hội tư văn”, hội cựu học sinh của một trường gọi là “hội đồng môn” (chủ yếu là để cung dưỡng thầy dạy họ), hội bảo đảm tang lễ gọi là “hội hiếu”, hội cho vay lẫn nhau gọi là “họ” và hội âm nhạc gọi là “hội nhạc sinh”. Tất cả nhũng hội này đều hoạt động giống như các hội của người Pháp. Người An Nam không có hội kín. Ở Trung Hoa trái lại, các hội kín tương đối nhiều, hầu hết đeo đuổi việc lật đổ triều Mãn Thanh.

Tín dụng hầu như không có như chúng tôi đã nói ở trên. Bởi vậy sự phòng xa của người Trung Hoa và người An Nam thường là chôn xuống đất tất cả của để dành của họ. Những của để dành này thường được tiêu biểu bằng các khối kim loại quý nhỏ có dáng hình con cóc. Từ đó, có từ ngữ An Nam “bắt cóc” để nói sự bắt phải chuộc. Những bản đồ được vẽ ra và đánh dấu tỉ mỉ dùng để tìm lại những chỗ cất giấu” (tr. 287).

Thế nhưng “Bắt cóc bỏ dĩa/ Bắt cóc bỏ nong” thì ở đây rõ ràng là bắt lấy con cóc. Có lẽ, những ai đơn thân độc mã, một mình một ngựa ít khi có tính cách “chôn của để dành” như vừa nêu. Bởi vì rằng, họ chẳng phải lo toan gì sâu xa cả. Có đồng nào xào đồng đó. Làm gì có “của để dành”. Y cũng vậy thôi. Ngày Tết lại nhớ về thuở còn nhỏ, dịp đó, mẹ thường mua cho con heo đất nhằm để dành tiền lì xì ngày Tết. Xa xưa hơn nữa, con người ta tiền để dành trong ống tre. Chặt một khúc tre có hai “đầu mắt” tức ống tre đã bịt kín, khoét rãnh ngang để nhét tiền để dành vào trong đó, vì thế mới gọi “tiền bỏ ống”. Cái con heo đất đó, trẻ con Quảng Nam gọi là cái lùng binh/ bùng binh.

Ngày Tết, cái bẽ bàng nhất của y vẫn là quán xá đóng cửa. Tự tay nấu nướng thì đã chán. Ăn riết món ăn do chính tay mình nấu, khác gì cực hình. Biết làm thế nào? Thế thì chiều nay ăn cháo vậy. Ông Lê Quý Đôn có chép lại từ sách Giới am mạn bút, bài thơ như sau (dịch): “Nấu cơm ăn đâu bằng nấu cháo/ Cùng trẻ em thử thảo luận coi/ Một thưng dễ biến thành hai/ Ba bữa thành sau ngày dài đỡ sao/ Có khách chỉ thêm vào nước lửa/ Khỏi tốn tiền sắm sửa chi chi/ Cháo đâu kém vị ngon gì/ Cháo lạt nhưng khỏe vị tì hơn cơm” (SĐD, tr.472). Ca ngợi cháo đấy chăng? Chẳng phải đâu cũng là một cách tự bào chữa của con nhà nghèo đất thôi. Chứ không phải đã chán cao lương mỹ vị đến cổ, bèn đổi qua món cháo cho lạ miệng. Còn y nấu cháo chẳng qua không biết nấu món gì khác.

Chẳng rõ, hiện nay ở trong Nam còn giữ tục nấu nồi cháo ám hay không? Hãy nghe ông Vương Hồng Sển kể lại: “Ba ngày Tết trong này ăn dồn thịt kho thịt, lạp xưởng và vịt phơi khô, nhiều ngày quá nên lợm giọng vì thế qua ngày mồng bốn Tết có lệ “cúng tết”, tết nhà tết cửa. Ngày ấy, nấu bữa cơm cúng đất đai ông bà, lễ tất, đại để có tục lệ cắt giấy kim ngân ra hình vuông, hình hồ lô để dán vào cột cửa tủ bàn và dâng lên bàn thờ Tổ tiên “nồi cháo cá ám”. Cũng thì cháo cá nhưng nấu cháo kiểu cá luộc chần, thì vẫn cá luộc sơ và xắt khúc, không để nguyên con; còn trái lại “cháo cá ám” là nấu nồi cháo rất kỹ, cá để nguyên con không chặt khúc và khi nấu cháo vẫn không đậy nắp vung (nấu ám). Theo tôi đây là món thuốc vệ sanh trừ độc của ông bà lưu truyền lại, vì ba ngày Tết ăn mỡ đã nhiều, qua mồng bốn ăn tô cháo ám có rau ghém chát xắt nhỏ, chuối cây non và rau thơm, vừa nhẹ nhàng khoang khoái thêm ngon miệng, trở bữa, nghệ thuật là quyết trường sanh đó” (Tạp san Sử Địa số 5 - tháng 1.1967).

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 13.2.2018



in-bao-li-xi-hoa-van-tho

 

Trong những ngày này, như một kẻ vô công rỗi nghề, y vẫn cắm cúi cùng trang sách. Mặc kệ ngoài kia nắng vàng, gió rét nhè nhẹ, nhịp sống đang rạo rực từng giờ, từng ngày. Sao không mở toang cánh cửa, bước xuống phố, hòa nhịp vào dòng đời đang tất bật, vội vã kia hả Q? Đã qua rồi cái thời: “Trời giăng mây trắng/ Trẻ thơ nô đùa/ Níu vạt áo mẹ/ Gì cũng đòi mua/ Kìa hoa vạn thọ/ Củ kiệu cải chua/ Phong bì đỏ chói/ Thơm lời dạ thưa…”. Một khi đã mất mẹ, sẽ không bao giờ con người ta có được niềm sung sướng chân thành, hồn nhiên trong trẻo ấy nữa. Nghĩ mà buồn. Vì thế, cắm mắt vào trang sách là thế. Dù có thế, cũng sẽ tìm mua hai chậu hoa vạn thọ màu vàng nghệ,  thuở sinh thời mẹ y rất thích chưng vào dịp Tết.

Sáng nay, đọc nhẩn nha lại về lai lịch nghệ nước nhà. Rằng, từ những năm cuối thế kỷ XIX đã có một vài đoàn kịch Pháp sang nước Nam biểu diễn. Chắc chắn sự kiện này đã tạo được sự kích thích cho những nhà hoạt động nghệ thuật thời bấy giờ. Tại Sài Gòn, Nhà hát lớn đã khánh thành vào tháng 1.1900. Năm 1918, Ông đốc phủ Lê Quang Liêm và ký giả Đặng Thúc Liêng cho công diễn vở Hoàng tử Cảnh du Tây (Gia Long tẩu quốc), nhưng chưa phải là kịch nói và không được công chúng hoan nghênh. Mãi đến năm 1925, người đầu tiên viết kịch nói của Sài Gòn là Trung Tín đã viết các vở như Toa toa moa moa, Kẻ ăn mắm, người khát nước… trong đó có xen lẫn vài điệu hát cải lương, nhưng lại không công diễn trên sân khấu.

Trong khi đó, tại Hà Nội, năm 1911 Nhà hát TP Hà Nội mới xây dựng xong. Ngày 25.4.1920, tại đây đã diễn vở Người bệnh tưởng (Le malade imaginaire) của Molière do Nguyễn Văn Vĩnh dịch sang tiếng tiếng Việt. Báo chí đã ghi nhận sự kiện này và “mong rằng sân khấu Việt Nam sẽ diễn những vở hài kịch theo lối Thái Tây để bổ ích cho nhân tâm, phong tục nước nhà” (Thực Nghiệp dân báo số 7/1920). Sau đó công chúng được xem những vở kịch khác như Ai giết người của Tô Giang - phỏng theo truyện ngắn của Mân Châu in trên Nam Phong tạp chí số 28, rồi Già kén kẹn hom của Phạm Ngọc Khôi, rồi Mảnh gương đời, Bình địa ba đào của Trần Tuấn Khải v.v…

Sân khấu kịch nói Việt Nam đang đi những bước đầu tiên trên đường hình thành. Thế nhưng, phải đợi đến ngày 22.10.1921 người ta mới thật sự tin tưởng vào loại hình nghệ thuật này. Đó là ngày công diễn vở kịch Chén thuốc độc của Vũ Đình Long (tại Nhà hát Hà Nội) do Bắc Kỳ Công thương Đồng nghiệp Ái hữu tổ chức. Sự kiện này đã đánh dấu một cột mốc quan trọng cho sân khấu kịch nói.

Hầu hết các báo chí lúc bấy giờ như Thực Nghiệp, Hữu Thanh, Nam Phong hoặc L’avenir du Tonkin, France-Indochine v.v… đều có bài tường thuật, phê bình. Nhà thơ lừng danh Tản Đà nhận định: vở kịch đó “đáng có giá trị”. Ông Nguyễn Mạnh Bổng không tiếc lời ca ngợi: “Ngày hôm 22 Octobre 1921 này là một ngày kỷ niệm lớn trong văn học sử nước ta” và “ văn học sử nước ta sau này chép đến lối văn kịch có lẽ sẽ kể đầu từ bản kịch Chén thuốc độc của Vũ Đình Long”. Trong Nhà văn hiện đại, nhà phê bình văn học Vũ Ngọc Phan ghi nhận: “Vũ Đình Long là người đã có ý kiến soạn những vở kịch có thứ lớp theo lối Âu Tây trước nhất”, “là nhà soạn kịch lối mới trước nhất ở nước ta” và “vở kịch Chén thuốc độc là cái mốc đầu tiên trên con đường hài kịch Việt Nam lối mới”.

Xin ghi lại nguyên văn đánh giá của tác giả Phan Kế Hoành và Huỳnh Lý khi biên soạn Bước đầu tìm hiểu lịch sử kịch nói Việt Nam (NXB Văn Hóa - 1978): “Vở Chén thuốc độc ra đời đã có tiếng vang lớn. Đối với đương thời, Chén thuốc độc là một thành công báo hiệu sau những lần thử thách, lần mò. Kịch nói Việt Nam đến đây đã hình thành và chính thức gia nhập đại gia đình sân khấu Việt Nam”(trang 26). Mới đây, trong chuyên đề Lướt qua một thế kỷ, Hội khoa học lịch sử Việt Nam đã ghi nhận Chén thuốc độc là: “Vở kịch đã đi vào văn học sử và sân khấu Việt Nam với tư cách một sự mở đầu cho kịch nói dân tộc” (Tạp chí Xưa - Nay số 1.2000).

Nhân đây xin được nói qua đôi nét về Vũ Đình Long: ông sinh năm 1896 và mất ngày 14.8.1960 tại Hà Nội. Ngoài vở kịch Chén thuốc độc, ông còn viết Tây sương tân kịch, Tòa án lương tâm (1923)… Sau đó, từ năm 1925 ông chuyển hẳn sang hoạt động xuất bản, làm chủ nhà in nổi tiếng Tân Dân và chủ trương nhiều tờ báo như Tiểu Thuyết Thứ Bảy, Ích Hữu, Tao Đàn, Phổ thông bán nguyệt san; sau năm 1954, ông là ủy viên BCH Hội Nghệ sĩ sân khấu Việt Nam. Nhân kỷ niệm 100 năm của ông, GS Phong Lê đã trân trọng đánh giá công bằng: “Không thể không thấy Vũ Đình Long là người đã có công góp phần tổ chức nên đời sống văn học có mặt sôi động vào những năm 30, đã cho ra đời một khối lượng khổng lồ các tác phẩm gồm nhiều thể loại, với nhiều khuynh hướng sáng tác và các giá trị rất khác nhau”.

Dù chưa tìm được bản in vở kịch này lần đầu tiên, nhưng trong tủ sách của y hiện đang có một bản quay ronéo dành cho kịch sinh Trường Quốc gia âm nhạc và kịch nghệ Sài Gòn (1970). Ở trang trong có viết: “Hí kịch lối mới, ba hồi, chia làm 36 xen”. Thú chơi sách là vậy, khi mà người ta có được bản in tác phẩm nổi tiếng, dù chỉ là hình thức quay ronéo thời đó khá phổ biến tại miền Nam. Tài liệu này cho thấy khoa kịch nghệ miền Nam không xa lạ với vở kịch Chén thuốc độc của Vũ Đình Long.

Nhà văn Vũ Ngọc Phan tóm tắc nội dung như sau: “Cả ba hồi đều chung một cảnh, cảnh nhà thày thông Phu, một nhà “phú quý” bậc trung. Thày thông Phu là một thiếu niên huy hoắc tiền tài ở xóm cô đầu và chiếu bạc, mẹ thày và vợ thày say mê đồng bóng, em gái thày vì không người dậy bảo nên cũng hư hỏng mà chửa hoang, rút cục thầy nợ quá nhiều, nhà bị tịch biên và thầy định liều thân với chén thuốc độc. May có bạn thày là thày giáo Xuân can ngăn được; sau, nhờ có cái măng-đa sáu nghìn của em trai thày gửi ở Lào về, thày cứu vãn được tình thế, rồi cả nhà tu tỉnh, lại sống vui vẻ như xưa” (Nhà văn hiện đại, NXB Thăng Long tái bản 1960, tr.667).

Vở kịch này tạo ra tiếng cười, hài hước, vui nhộn là ở các cảnh đồng bóng, lên đồng mà Vũ Đình Long đem ra nhễu nhại, gây cười nhằm mục đích đả phá một khi hầu đồng đã trở thành nơi buôn thần bán thánh. Nhân vật chính là thày thông Phu. Vậy “thông” là gì? Trước hết, đọc lại bài thơ của Tú Xương: “Nào có ra gì cái chữ Nho/ Ông nghè, ông cống cũng nằm co/ Chi bằng đi học làm thầy phán/ Tối rượu sâm banh, sáng sữa bò”. Phán ở đây là chỉ những người làm việc trong công sở của Tây, gọi thông phán, cao hơn thông ngôn một trật. Vợ thầy thông Phu mê đồng bóng? Thế, đồng bóng là gì? Chà, trả lời câu hỏi này, gay go đây. Đã đồng bóng ắt có hầu đồng, ngồi đồng, thanh đồng, thanh tiên đồng tử, ông đồng bà cốt…

Rắc rối quá.

Vậy hãy hỏi “đồng” là gì?

Tục ngữ có câu “Thứ nhất ngồi đồng, thứ nhì chồng quan”. Làm vợ của quan được ăn sung mặc sướng, kẻ thưa người bẩm, cơm bưng nước rót, quyền lực lừng lững “Lệnh ông không bằng cồng bà”, kẻ hầu người hạ ắt sung sướng là phải rồi, dễ hiểu  rồi. Thế thì sao vẫn thua ngồi đồng? Đơn giản, một khi thoát khỏi cái xác phàm trần tục, được thánh thần nhập xác thì khi ấy “Nói có người nghe, đe có người sợ”. Há chẳng phải sướng sao? Dù rằng, chỉ là “quyền lực” chốc lát, nhưng ít ra đó chính là sự hãnh diện, nở mày nở mặt bởi trong đời thường với thân phận dân đen như họ, mấy ai có thể có được. Nói cách khác ngồi đồng cũng là một cách đi tìm ảo tưởng để được niềm an ủi, nhất là với người phụ nữ vì hằng ngày bợt mặt kiếm ăn, đã thế lại còn “Cha mẹ nói oan, quan nói hiếp, chồng có nghiệp nói thừa”, họ khó ngóc đầu khẳng định vai vế của mình. Khi hầu đồng lại khác, quan cũng xưng con, cũng vái, cũng quỳ, cũng lạy, chứ huống gì… chồng! “Có họa lấy vợ hầu đồng/ Khi thì làm chồng, lúc lại làm... con”, nghe ra hài hước, bông lơn nhưng lại trúng chóc.

Hầu đồng có tốn kém không? Ắt có. “Thánh một cân, trần một yến”. Một cân là 600 gr, một yến nặng bằng mười cân. Ấy là nói về sự xa hoa, lãng phí, đua nhau làm vàng mã, cúng kiếng, phát lộc... Không phải ngẫu nhiên, ông bà ta tổng kết: “Chết đường chết chợ không bằng lấy vợ ngồi đồng”. Lại có câu: “Ghen vợ ghen chồng không bằng ghen đồng ghen bóng”, hiểu thế nào? Trên trang mạng xã hội nọ, có người giải thích: “Ghen đồng ghen bóng là trò của mấy ghế đồng chưa rõ niêm luật, vai vế, thứ bậc của ông thánh mà sinh ra ghen ghét, đố kị nhau; hoặc ganh đua nhau về “con nhang đệ tử”. Mỗi người mỗi phép, thấy họ làm không giống mình thì ghen với họ, cho là họ làm sai, phải làm như mình mới đúng; rồi cho người này thấp căn hơn mình sao nó lại lam thế nọ thế kia? Vì vậy họ lao vào cãi nhau, xô xát, tranh luận rồi đổ thừa là do bóng ghen. Nhưng bản chất của đạo Mẫu ta đâu có như vậy? Trần có luật trần, âm có luật âm, có phép tắc, nền nếp rất quy củ, thứ bậc rõ ràng, công việc rất cụ thể thế nhưng các ghế của nhà ngài ai cũng tài, cũng giỏi, bảo thủ không chịu học hỏi thêm nên mới đi ghen tuông với nhau, chứ bóng giá nào ghen nhau?”. Ấy là câu nói về tính đố kỵ của người Việt trong việc cùng hầu đồng.

Trở lại với câu hỏi “đồng” là gì?

Từ điển Việt - Bồ - La (1651) của A de Rhodes giải thích: “Doũ, cái doũ (đồng, cái đồng): Gương, kiếng. Gương cùng một nghĩa/ Soi doũ: Nhìn vào gương để làm phù chú. Làm doũ làm cốt: Bà phù thủy nhìn vào gương để làm phù chú. Thầy doũ: Thầy phù thủy sử dụng gương, chiếu kính. Mời doũ: Mời những thầy phù thủy sử dụng gương, chiếu kính. Quỉ phụ doũ: Bà phù thủy đã được quỷ nhập”. Cách giải thích này chưa đúng về ý nghĩa của việc hầu đồng/ ngồi đồng nhưng cho ta biết rằng, thời trước người ta sử dụng đồng, đồng được đánh bóng sáng loáng để soi mặt vào lúc “làm phù chú”. Vâng, về gương, kiếng dùng để soi mặt thì mãi đầu thế kỷ XX mới du nhập vào Việt Nam. Trên báo Nông cổ mín đàm số 149 ra ngày 24 Juliet 1904 tại Sài Gòn, có in mẩu chuyện “Kiến soi” thuộc thể loại “chuyện tiếu đàm”. Ghi lại văn phong và lỗi chính tả để thấy được cách hành văn của hơn một trăm năm trước:

“Đời trước người ta mới bày cái mặt kiến, đề dùng mà soi mặt, ai có thì lấy làm quí, bán mắc tiền, thường chánh nơi thành thị có một hai người giàu có lớn mới sắm, còn nơi thôn giả thì chưa ai hề thấy cái mặt kiến bao giờ. Có một tên trai kia giàu có lớn, buôn bán xứ xa, thấy người ta có cái mặt kiến, anh ta chạy lại mà coi, dòm vô thì thấy rỏ ràng khuôn mặt của anh ta tạc hết hình kiến, lấy làm lạ và năn nỉ mua cho đặng cái kiến, mắc rẻ thì cũng chẳng nại, anh ta mua đặng cái kiến rồi quầy quẩy trở về giấu cái mặt kiến trong rương không cho ai coi.

Từ ngày anh ta có cái mặt kiến thì anh ta cứ ở trong buồn luôn luôn, săm soi hoài, coi rồi nói lầm thầm với hình bóng anh ta trong cái kiến như là đứa điên vậy, vợ va rình coi thì lấy làm lạ mà không rỏ ý chi, vã lại anh ta ham mê cái kiến đó, thì ý ăn ở với vợ lơ lẵng, nên vợ đổ ghen, càng nghi lắm.

Bữa kia anh ta có việc cần kíp chi đó phải đi, dặn vợ ở nhà đừng có lục đồ trong rương mình. Khi căn dặn vợ đôi ba lần ắt chất, anh ta ra đi, vợ anh ta ở nhà lấy làm mừng lén coi cho biết cái chi mà chồng mình mê sa đến đổi coi tưởng hơn mình, mới vô dở rương lục coi thấy cái kiến, chị ta dòm vô, thấy mặt chị ta trong cái kiến, liền phát ghen, quăn cái kiến chạy ra kêu bà mẹ chồng rồi khóc và nói rằng: “-Nè mẹ, ở nhà tôi nó hết thương tưởng đến tôi nữa rồi, bỡi vậy cho nên nó đi chuyến buôn đó nó mê sa theo đỉ điếm nên ở lâu, e sau sự sảng phải hết, bây giờ nó lại đem cái chơn dung con đỉ đó về, nên ngày đêm nó coi hoài.”.

Mẹ nó nghe nói cũng nỗi giận, hỏi đâu nà? Cái hình con đỉ đó đâu đưa cho tao coi thử, con nọ lại lấy cái gương ra cho mu mẹ coi, mụ nầy dòm vô rồi nói: “-Cái con đỉ già rồi mà còn nhí nhảnh”. Đoạn vừa giức tiếng, chú chàng lơn tơn về, thấy hai mẹ con đang săm soi cái mặt kiến, nổi giận, la rầy, kế vợ đổ ghen theo cằn nhằn, lại thêm mụ mẹ mắng chưởi om sòm, ảnh ta nổi xung giận đạp đồ đạt rồi nắm đầu vợ mà đánh, vợ la làng xóm om sòm, nói chồng mình mê sa theo đỉ mà còn về làm hung.

Vừa may có anh xã đi nhóm về đi ngang qua đó, nghe la làng xóm om sòm, biếu trùm vô bắt hết đem ra nhà việc tra hỏi, thấy con nọ bị lổ đầu chảy máu, mới hỏi: “-Vì cớ làm sao mà chồng thiếm đánh thiếm hung vậy?”. Chị ta khai rằng: “-Thưa cậu ,vợ chồng tôi ăn ở với nhau ba bốn năm nay rồi, tuy không con cái, chứ tình ưa ý hiệp, thương yêu nhau lắm, nay nó mê sa theo một con đỉ mà phải nát cửa hại nhà nên mới ra rầy rà như vậy”.

Chú xã nghe khai đầu đuôi tự sự, biểu con nọ đưa cái hình cho va coi thữ. Mới lấy cái kiến dòm vô rồi nói rằng: “-Không phải con đỉ, nó là thằng điếm ma, có bịt khăn-be đây nữa, hai mẹ con thiếm nói bậy nên sanh sự bất hòa, thôi tôi xử hòa cho hai đàng về đừng có rầy rà nữa, và phải chịu phạt hai quan tiền vạ về sự la làng”. Ba mẹ con lấy cái mặt kiến trở về giận chú xã xữ hiếp, lại biểu chịu phạt hai quan tiền vạ, khi về tới nhà, ba mẹ con cằn nhằn nhau, mụ mẹ biểu con dâu lấy cái kiến coi lại coi là con đỉ hay là thằng điếm. Con nọ lấy cái kiến dòm vô, thấy chị ta trong kiến liền kêu mẹ mà rằng: “-Nè mẹ thật rỏ ràng là con đỉ mà, sao chú xã lại nói là thằng điếm”.

Hai mẹ con giắc nhau tới huyện mà kiện chú xã.

Quan huyện tra hỏi ba đàng xong xuôi rồi, ngài mới biễu đưa cái hình cho ngài coi, ngày dòm vô và hỏi rằng: “-Vậy chớ lảo là người gì, ở đâu vậy?”. Cái hình trong kiến cũng nhóp nhép hỏi lại. Ngài giận nổi xung mà rằng: “Tôi hỏi lảo, lảo lại hỏi tôi, không phải chổ chơi mà diễu cợt được”. Ngài thấy cái hình trong kiến cũng đối đi đối lại; Ngài giận nổi xung đập bể cái kiến tang nát. Ngài không thấy cái bóng nữa, ngờ là biến mất nên nói rằng: “Trốn đi đâu? sao không ở mà diểu cợt nữa”. Ngài mới kêu 3 mẹ con và tên xã mà quở rằng: “Sao mấy người dám đem cái hình lão nào mà diễu cợt với ta, lẽ thì ta làm tội mấy người, song ta lấy lòng nhơn mà tha cho mấy người về, sao đừng kiếm chuyện mà diễu cợt nữa”.

Té ra cả 3 đều tin sự quấy mà sanh sự bất hòa, có một quan huyện cũng tin như thế, người đập bể kiến mà gỡ rối xong”.

Mẩu “chuyện tiếu đàm” này dù viết với mục đích hài hước, gây cười nhưng qua đó ít nhiều ta cũng thấy được cái kiếng soi mặt đối với người Việt Nam thuở ấy cũng chưa phổ biến lắm. Từ mẩu chuyện này, lại căn cứ vào Từ điển Việt - Bồ - La, rõ ràng, ngồi đồng là ngồi soi mặt vào kiếng/ kiếng (còn gọi là đồng). Nay, ngồi đồng đã khác, người ngồi đồng được phủ khăn màu đỏ như tượng trưng cho sinh lực của thần thánh, hơn nữa cũng là một cách tập trung tư tưởng… Và cũng đừng quên rằng, trong tiếng lóng “ngồi đồng” lại hàm nghĩa khác. Chẳng hạn, dù không có xu teng nhưng hai bạn vẫn hiên ngang bước vào quán, gọi món bảnh tỏn như ai; sau đó, một người đi kiếm tiền, một người ngồi lại chờ bạn đem tiền về “chuộc”, đích thị là “ngồi đồng”.

Thế thì, ngồi đồng, nếu giải thích theo các nhà ngiên cứu về đạo Mẫu thì đồng là gì?

Đọc tạp chí Văn hóa nghệ thuật số 195 (2000), trong bài viết Hầu đồng - một hình thức sinh hoạt sân khấu dân gian, Võ Hoàng Lan giải thích: “Đồng có nghĩa là trẻ con. Con người khi sinh ra thường bị cuộc sống nhân tạo chi phối, kìm hãm khả năng tiếp cận với sức ẩn tàng của thiên nhiên, vũ trụ. Và, chỉ trong khi lên đồng, bằng xuất thần, để trở về với tâm hồn trẻ thơ mang bản chất trong trắng hồn nhiên, người  ta mới tạm thời gác bỏ được những sự ràng buộc nhân tạo đó. Ngươi ta tin rằng, có như vậy mới đồng cảm được với thần linh, hòa hợp được với thiên nhiên, vũ trụ và mới hiểu biết được sự dạy bảo của đấng thiêng liêng. Đồng còn cùng: con người bằng xuất thần đẩy linh hồn ra khỏi xác thần để tìm lấy một linh hồn đồng điệu trong hệ tứ phủ vạn linh, để vị thần đó mượn xác thân con đồng mà tiếp cận với chúng sinh” (tr.85).

Y tán thành cách giải thích này. Âu cũng là một cách tìm về tiếng Việt qua từ “đồng”, nay đã hiểu thêm một chút nữa, dù ít nhưng vẫn lấy làm thích thú, chẳng khác gì đang chiều nhạt miệng bỗng đâu có tin nhắn: “Bia không?”.

Sài Gòn, những ngày này phố xá rộn ràng sắc màu. Một không gian của Tết. Một không khí của Tết. Đường phố vắng hơn mọi ngày. Người nhập cư kiếm sống đang lần lượt về quê ăn Tết. Với y, “về quê ăn Tết”, bốn từ ấy bao giờ cũng vọng một nỗi niềm thiêng liêng và háo hức. Về quê cũng là một cách nạp lại năng lượng, để sau Tết, rời quê, tiếp tục với cuộc mưu sinh nhiều ở đất khách quê người. Mà “đất khách quê người” thời buổi này có là ghê gớm như thuở xa xưa đâu, muốn về, nhảy một phát lên xe đò, xe lửa, máy bay, thậm chí xách chiếc cà tàng phóng về quê cũng đặng. Thế nhưng “về quê ăn Tết” lại có một ý nghĩa khác. Hoàn toàn khác. Không chỉ “về quê” còn là về với “cội nguồn”, ít ra là trong suy nghĩ của mỗi người lúc vui Xuân đón Tết.

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 11.2.2018

 

27751718_1638400479559229_4226908136318741670_n

 

Ngày đã Tết. Không vui. Không buồn. Dửng dưng. Trong lòng chộn rộn một điều gì đó. Không rõ nét. Chiều. Những câu thơ Đọc Kiều lại vọng ngang qua trí nhớ. Những năm gần đây, thỉnh thoảng lại tìm cảm hứng từ Truyện Kiều. Năm nay cũng thế. Đặt bút là viết. Từng dòng. Từng chữ của khoảng khắc tẻ nhạt nhất trong ngày. Cũng là một cách tự an ủi, xoa dịu lấy chính mình.

“Tưởng rằng nước chảy chân cầu/ Ngờ đâu dậy sóng bể dâu vẫn còn/ Thịt xương ngày nọ héo hon?/ Không đâu, còn đó xanh non chập chờn/ Hồn oan nức nở cô đơn/ Lạc xiêu cát bụi oán hờn hắt hiu/ Bao nhiêu năm hỡi em Kiều/ Lại nghe máu chảy tiêu điều quẩn quanh / Ầm ầm vọng tiếng ruồi xanh/ Ngợi ca xương máu có tanh miệng mồm/ Rầu rầu tiếng khóc chiều hôm/ Sương đêm lụn xuống rạ rơm phận người/ Tú Bà toe toét cười tươi/ Sở Khanh hớn hở hát lời nguyên xuân/ Bắt phong trần phải phong trần/ Nỗi niềm Sáu Tám sái vần đó chăng?/ Hỏi rằng, răng rứa là răng?/ Kiều thưa, vâng ạ, nhùng nhằng bấy lâu/ Tưởng rằng nước chảy chân cầu/ Ngờ đâu dậy sóng bể dâu vẫn còn/ Biết bao giờ mới vuông tròn / Hỡi trời, hỡi nước, hỡi non nước nhà/ Câu thơ Kiều khắc trên da/ Mười lăm năm ấy, hóa ra bây giờ?”.

Thơ viết về điều gì đã và đang ngổn ngang tâm hồn?

Lại những ngày nhẩn nha đọc sách. Mặc kệ những chộn rộn ngoài cửa sổ, ồn ào trên các trang mạng xã hội. Một khi đã chạm vào cánh cửa lục thập, ấy là lúc con người ta tự ý thức thời gian không còn nhiều nữa. Cố gắng làm cho hết những công việc đã và đang yêu thích. Chẳng mấy chốc, tụt qua bên kia dốc của đời người, mỏi gối chồn chân, liệu có nên cơm cháo gì nữa? Hóa ra, với y, cái thú tìm mua sách đã hình thành từ bé xíu đến nay vẫn không thay đổi. Vẫn chưa bưa. Vẫn chưa ngán. Vừa tìm mua quyển Tranh dân gian Việt Nam (NXB Văn hóa Văn nghệ -  2018) do Maurice Durand sưu tầm, nghiên cứu; Nguyễn Thị Hiệp, Olivier Tessier dịch và giới thiệu.

Trong lời giới thiệu cho biết: “Viện Viễn Đông Bác Cổ xuất bản lần đầu tiên vào năm 1960. Bộ sưu tập này bao gồm hơn 400 tác phẩm hội họa dân gian kèm theo nghiên cứu, phân tích, bình chú uyên bác, tỉ mỉ và toàn diện của tác giả. Đây là kết quả của nhiều năm nghiên cứu, sưu tầm trên các phố phường Hà Nội và các vùng lân cận thuộc đồng bằng Bắc Bộ. Cuốn sách đặc biệt thú vị khi văn hóa dân gian Việt Nam được nhìn qua lăng kính của một học giả ngoại quốc tài năng vốn là thành viên của Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp vào những năm giữa thế kỷ XX. Những quan sát, cảm nhận và bình giải của tác giả vào thời kỳ mà văn hóa truyền thống vẫn còn đậm nét ở Bắc Bộ đã góp phần không nhỏ trong việc bảo tồn bản sắc văn hóa truyền thống dân tộc”.

Cái sự sung sướng nhất của người mê sách vẫn là lúc đầu tiên cầm lấy quyển sách mới. Hồi hộp lật từng trang, giấy còn thơm mùi mực, lật từng trang, đọc loáng thoáng vừa nhanh vừa chậm, cứ thế cho đến hết quyển sách, tự nhủ: “Sẽ đọc kỹ hơn, vào dịp khác” rồi cẩn thận đặt trên kệ sách. Có quyển nằm ở đó thời gian ngắn, lại lấy xuống đọc; có quyển mãi mãi thời gian phủ bụi. Chẳng sao cả. Chắc chắn sẽ có lúc cầm lấy nó, lại có cảm giác tươi mới như lần thứ nhất.

Với quyển Tranh dân gian Việt Nam, thích thú với bức tranh dân gian vẽ nhảy đầm. Tại sao gọi “nhảy đầm”? Câu hỏi ấy, trả lời thế nào? Có những từ quen thuộc, vẫn sử dụng, nào có xa lạ gì nhưng bất ngờ nghe hỏi, muốn trả lời cũng không dễ. Tập sách này chú thích: “Khiêu vũ Pháp. Nhảy đầm “điệu nhảy của các bà đầm” hoặc “nhảy với đầm” (tr. 249). Suy luận rằng, do cùng mẫu từ “đ” nên từ “nhảy đầm”, người Việt mới “sáng chế” ra từ “nhảy đực” chăng? Hay từ “nhảy đực” dân gian đã dùng từ trước đó rồi mới gọi cái lối nhảy mới du nhập là “nhảy đầm”? Hay “đầm” là cách phiên âm của “danser” và được gọi “nhảy đầm”?

Từ nửa đầu thế kỷ XX, nhà thơ Á Nam Trần Tuấn Khải  có viết bài thơ Xem hội Tây: Nhảy đầm, ăn tiệc, ông Tây sướng/ Liếm chảo, leo đu, đứa trẻ mê”. Rõ ràng thời buổi ấy, đã có sự “tân cổ giao duyên” giữa văn hóa phương Tây với lối chơi truyền thống của người Việt. Trước đó, thời Nguyễn Khuyến chưa có, bằng chứng cũng viết về hội Tây nhưng cụ chỉ miêu tả: “Cậy sức cây đu nhiều chị nhún/ Tham tiền cột mỡ lắm anh leo”. Một khi đã có nhảy đầm ắt phải có đăng xinh (dancing) tức nhà hàng khiêu vũ, vũ trường. Dấu vết ấy, có thể tìm thấy qua thơ Tú Mỡ: “Cái hồ ấy, khi đã thành đất phẳng/ Tôi sẽ xin dựng một trường 'Cao đẳng đăng-xinh'/ Rước những ông du học tài tình/ Dạy những món văn minh nghệ thuật”. Đọc mấy câu thơ của Tú Mỡ lại nhớ đến Tú Xương. “Cái hồ ấy, khi đã thành đất phẳng”, tưởng chừng như vẫn còn vang vọng tiếng kêu não ruột: “Sông kia rày đã nên đồng’.

Thì ra, thời buổi nào cũ thế. Sự thay đổi trong đời sống xã hội dễ dàng nhìn ra nhất vẫn từ đất đai. Đừng nói đâu xa, cứ như mỗi lần về Đà Nẵng dù là nơi chôn nhau cắt rốn nhưng rồi, lắm lúc lạc đường bởi đường sá thênh thang ngang dọc vừa mới hình thành. “Sông kia rày đã nên đồng/ Chỗ làm nà cửa chỗ trồng ngô khoai”. Thời buổi này, ngô khoai đi chỗ khác chơi. Phí đất. Phải là chung cư, khách sạn, cao ốc, nhà cao tầng… 

Với xã hội miền Nam, lúc người Mỹ đổ quân sang đây, năm 1965, tất nhiên dancing cũng mọc lên. Có phải nó cũng bị nhìn nhận là nơi “Dạy những món văn minh nghệ thuật” như Tú Mỡ đã mai mỉa? Hay đã có cái nhìn thoàng hơn? Câu trả lời này ra làm sao? Khó lắm. Y không biết. Chỉ biết rằng, nhân chứng của thời cuộc là nhà văn Bình Nguyên Lộc có viết truyện ngắn Hạ bệ, in trong tập Ký thác (NXB Cửu Long tái bản năm 1968). Rằng, lúc Hùng vào chơi vũ trường: “Bỗng Hùng nín lặng. Cả bọn đều ngạc nhiên nhìn anh chàng lắm lời này. Vẻ mặt kinh hãi của anh ta khiến họ đoán thấy anh ta đang tái mặt trong bóng mờ. Họ nhìn theo hướng ngó của anh ta thì tầm mắt họ chạm phải một đôi giày không có gì đặc sắc, nhưng phủ trên giày ấy, một miếng ống quần màu hơi quen. Mắt họ leo ống quần, thấy nó to lần lần và ở phía trên nó to quá, cho họ biết rằng người mặc quần ấy là một ông bụng bự. Họ chợt hiểu và ngước nhìn lên thì thấy quả đó là ông Ích Thành”.

Ông Ích Thành là cha  của Hùng. Và cậu có suy nghĩ gì?

“Hùng thấy cha cậu già quá, già hơn ngày thường nhiều, giữa đám vũ nữ trẻ trung ấy, và cậu có cảm giác đang đọc một bài thất ngôn bát cú in xen vào một tập thơ tự do. Mà đó là một bài Đường luật rất xoàng. Đó không phải là một người cao niên vốn sành ăn chơi, cố vui vớt vát, mà là một ông cụ thật thà, tập tành son trẻ. Nhưng dầu thuộc hạng già nào, ông cụ cũng chẳng coi được, khi vào đây. Khi ông Ích Thành và vũ nữ trôi trở lại, Hùng thấy ông thở hổn hển mà quay, cậu tưởng chừng như nghe hơi thở ồ ồ của cha, một ông cha lỗi lạc mà trước kia cậu thấy làm cái gì cũng trôi chảy, dễ như chơi. Hồi nãy cậu ta hoảng sợ khi bị cha bắt chợt giữa chốn ăn chơi. Nhưng bây giờ, chẳng những cậu không còn sợ hãi nữa, mà còn có bụng khinh thường ông cụ là khác”.  

Sao lại khinh thường. Khiêu vũ cũng chỉ một lối chơi thư giản, như tập thể dục, chứ nào có… vi phạm thuần phong mỹ tục? Lạ nhỉ. Sau đó, lúc về nhà, chỉ còn hai cha con, chuyện gì đã xẩy ra? Ông Ích Thành chớng chế: “Độ này ba viết về các tiệm nhảy, nên ba hay la cà ở các nơi đó để thu thập tài liệu”. Nghe câu đó, Hùng bỗng chợt hiểu; cậu buồn cười quá, không cầm được, nên bật cười to lên. “Sao con lại cười?” - Ông Ích Thành ngạc nhiên hỏi. “Thưa ba, - Hùng đáp sau cơn cười - Ba không cần gì cố cắt nghĩa sự có mặt của ba trong Móng Trời đêm đó. Con đã lớn thì con phải hiểu biết rằng ai cũng có quyền sống riêng cả! Không, con không dám khinh ba đâu, con không đạo đức lắm đâu. Nhưng con thú thật với ba rằng con bớt kính phục ba hơn khi trước. Bớt kính phục nhưng thương hơn vì thấy ba trễ đò và yêu hơn vì thấy ba là bạn của con. Sao con lại bớt kính phục ba thì ba đã biết. Và ba không làm gì được để gây uy tín lại cả. Nếu ai xô ba xuống khỏi bệ, thì ba có thể leo trở lên và người thân của ba sẽ giúp ba trong công việc ấy! Nhưng khi mà chính ba tự hạ bệ, và con đã trót thấy thì không làm sao... “.

Nay, đọc lại, ngỡ ngàng nhận ra cái dancing này, thời đó, đã khác nay nhiều lắm. Rất nhiều. Cha con, cả gia đình tìm vui giải trí nơi ấy, nay là cái sự bình thường, chẳng có gì ghê gớm đến mức người cha đã bị “hạ bệ” trong suy nghĩ của đứa con. Thì ra, một lẽ hiễn nhiên ai cũng thừa biết, mỗi thời mỗi khác. Cái thú đọc sách cũ còn là chỗ đó nữa. Những tình tiết, những câu chữ có thể cho thấy sự khác biệt về quan niệm đạo đức của mỗi thời.

Nếu không hiểu rõ ý nghĩa của từng từ, từng chữ mà tác giả đã sử dụng, e rằng, có lúc ta cũng không hiểu nốt về giá trị của văn hóa đã từng tồn tại và phổ biến. Chỉ xin đơn cử rằng, lúc viết tập sách Mẹ đã đi chợ về, y có trích dẫn câu ca dao: “Đêm đêm thắp ngọn đèn trời/ Cầu cho cha mẹ sống đời với con”. Ơ hay, “đèn trời” là gì? Khó hiểu quá. Trong các loại đèn, làm gì có đèn trời? Đúng không nào? Để khỏi tranh cãi lôi thôi, xin liệt kê các loại đèn mà Đại từ điển tiếng Việt (1999) của Bộ GD và ĐT, Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam đã ghi nhận. Chọn lấy từ điển này, vì rằng, đây vẫn quyển sách ghi nhận nhiều nhất các vốn từ hiện nay, cho đến thời điểm này: Đèn, đèn ba cực, đèn bàn, đèn bán dẫn, đèn biển, đèn cảm ứng, đèn cây, đèn cầy (nến), đèn chạy quân (đèn cù), đèn chiếu, đèn chớp, đèn cồn, đèn cườm, đèn dầu, đèn đất (đèn khí đá), đèn điện, đèn điện tử, đèn đóm, đèn lồng, đèn măng sông, đèn nê ông (neon), đèn trứng vịt, đèn xếp, đèn xì…

Kìa, còn có cả “đèn trời” nữa đấy chứ? Thế mà y lại bảo rằng không.

Hãy xem từ điển giải thích thế nào? “Đèn giời/ đèn trời: Sự sáng suốt của người bề trên, ví như ông trời, có thể nhìn thấy thấu suốt mọi uẩn khúc, éo le của người đời: nhờ đèn trời soi xét”. Với cách giải thích này, rõ ràng là hiểu theo nghĩa bóng. Thật ra có đèn trời theo nghĩa đen, do không biết nên có dị bản với câu ca dao trên: “Đêm đêm thắp ngọn sao trời/ Cầu cho cha mẹ sống đời với con”. Ítt ra “ngọn sao trời” vẫn dễ hiểu hơn vì nó còn giúp người tiếp nhận liên tưởng đến ngôi sao mọc hằng đêm. Mới đây, nhờ đọc quyển Đặc khảo về tín ngưỡng gia thần (NXB Văn hóa Văn nghệ - 2013) của Huỳnh Ngọc Trảng, Nguyễn Đại Phúc, y mới biết ngọn ngành. Hai nhà nghiên cứu này căn cứ vào quyển  La vie intime d’un Annamite de Cochinchine et ses croyances vulgaires (1907) của Lê Văn Phát giải thích rõ ràng, có liên quan đến bàn thờ Thiên, tức bàn thờ đặt ngoài trời:

“Tập tục thờ Trời ở bàn Ông Thiên này được tiến hành hàng ngày, gia chủ thắp nhang vái trời, đất, bốn phương cầu cho gia đình được an lành và đặc biệt là cầu thọ cho cha mẹ. Tập tục đốt một ngọn đèn chong suốt đêm ở bàn thờ Thiên là nhằm cầu thọ. “Đêm đêm thắp ngọn đèn trời/ Cầu cho cha mẹ sống đời với con”. Lễ trọng nhất trong năm là lễ vía Trời vào ngày mồng 8 rạng ngày mồng 9 tháng Giêng hằng năm theo lệ “Mồng 9 vía Trời, mồng 19 vía Đất” có nguồn gốc từ người Hoa. Lễ gọi là vía Trời với nghi thức hành lễ gọi là “Thắp đèn trời”: Đốt một ngọn đèn sáp lớn tỏa sáng rực và đốt lò trầm hương. Cả hai cháy suốt đêm. Mục đích nhằm cầu an và cầu thọ cho cha mẹ. Đặc biệt trong lễ này, người ta trang hoàng nhà cửa tươm tất, dùng chén bát, đồ sứ sang trọng và mời dàn nhạc tấu mở tiệc đãi cha mẹ và bạn bè suốt  đêm” (tr. 160-161).

Thế nào là “đèn trời”? Đã hiểu rõ. Có điều đây cũng là cái Tết đầu tiên trong đời, y ăn Tết không còn chỗ dựa lớn lao, vững chải, tin tuỏng ở phía sau nữa: Mẹ đã mất.

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 21.1.2018

 

 

26991700_1172929096177094_4970082692218834590_n

Bạn Thành Luân Nguyễn tặng thư pháp bài tứ tuyệt Q ngẫu hứng lúc 8 g ngày 19.1.2017 hóa vàng tập sách MẸ ĐÃ ĐI CHỢ VỀ tại Nghĩa trang Hòa Sơn (Đà Nẵng): Mẹ đã đi chợ về/ Con hoá vàng trang viết/ Nhang khói vọng trời cao/ Mầm đời đang xanh biếc...

 

Vừa mới đi Đà Nẵng về. 100 ngày của mẹ. Sáng sớm, trời trở gió. Lạnh. Một cái rét nhẹ nhàng quen thuộc. Đường phố vẫn thế. Chỉ có tâm hồn đã khác. Mẹ đã về cõi khác. Anh em, bạn bè gặp mặt. Những ly rượu đã rót. Một tập sách đã hóa vàng tại nghĩa trang Hòa Sơn. Lúc ngồi tại sân bay Tân Sơn Nhất, viết loáng thoáng đôi dòng trong sổ tay. Những câu thơ vọng về từ khoảng trời xa lắc xa lơ nào đó. Vọng về từ đâu? Chẳng có thể biết. Chỉ đặt bút là viết. Chọn lấy thể ngũ ngôn. Nhịp thơ đi nhẹ nhàng. Mơ màng. Cứ thế mà đi. Từ nay, hãy cứ thế. Đi hết một vòng đời.

“Một trăm ngày của mẹ/ Gió thổi ngoài thời gian/ Một đời con xa mẹ/ Tưởng xa lại rất gần/ Huyền bí một hạt mầm/ Mẹ bao dung gửi lại/ Trời đất thêm một người/ Đã bây giờ đang thấy/ Này một dòng sông chảy/ Mát mái lại xuội chèo/ Con ẳm bồng hoa trái/ Nặng trĩu tiếng cười reo/ Căn nhà thôi  quạnh hiu/ Ấm tình đời bếp lửa/ Nâng chém cơm mỗi ngày/ Đã có đôi có đũa/ Vẫn như mẹ muôn thuở/ Là trẻ thơ nói cười/ Con khai sinh lần nữa/ Tiếp nối thêm cuộc đời/ Thêm tiếng nói niềm vui/ Con hóa vàng trang viết/ Mẹ đã đi chợ về/ Một mầm đời đang biếc”.

Câu cuối trong bài thơ này, ngụ ý một điều gì sẽ có và đã có?

Những gương mặt bạn bè thời chiến trường K đã có mặt cùng tập sách Mùa chính chiến ấy của Đoàn Tuấn. Lai rai tại nhà Trần Tuấn Bảo - chiến sĩ A10, C7, Trung đoàn 29. Thời gian nhanh như một nháy mắt, thoáng đó đã tròn 40 năm. Ngắn hay dài. Chẳng rõ. Vẫn cứ nghĩ như đang thời thanh xuân 18. Hèn chi, Trần Hoàng Nhân bảo: “Anh cứ mãi là chàng thanh niên nhiều tuổi”. Một nhận xét ngộ ngĩnh lúc cùng Dương Thanh Truyền, Nguyễn Văn Sanh, Võ Đình Chiến… cựu chiến binh lai rai tại nhà của Tẹo, em út. Lúc về nhà, cứ nghĩ sẽ uống lại nước chè của vùng quê xứ Quảng. Một thói quen mà mẹ từng uống hằng ngày. Nhưng rồi, vẫn là những giọt men. Niềm vui nỗi buồn dậy men. Có như thế, trong khoảnh khoắc ấy tâm trí con người ta phiêu linh hơn. Vâng, y phiêu linh đến độ “xuồng chìm tại bến”, không có cơ hội thưởng thức tô mì Quảng do cô em dâu nấu cực ngon. Y đã say mềm như cọng bún chỉ vì uống.

Này Q, có phải đôi khi chỉ qua thức uống, có thể nhìn ra tính cách của cư dân vùng miền. Nghĩ thế, có sai? Lúc mới chân ướt chân ráo vào Sài Gòn, hấp dẫn và ấn tượng nhất đối với y vẫn là ly trà đá. Trong khi đó, lúc ở chung nhà, mẹ y vẫn giữ nguyên cốt cách nếp uống chè/ trà từ ngoài Trung. Cốt cách ấy thế nào? Nói đúng hơn, đó là phong cách “Đã ăn no phải uống đậm”, hãy nghe nhà văn hóa  Nguyễn Văn Xuân giải thích: “Người ta không dùng ly tách mà là bát, lớn thật lớn. Đổ nước lạnh nửa bát, lấy cái kẹp tre kẹp nồi nước chè Tiên Phước sôi sùng sục ra, từ trên cao đổ xuống nước nổi bọt và bưng bát nước đen quánh lên, ngửa cổ đổ vào, uống hớp nào phát ra âm thanh ột ột hớp ấy. Đã nghiền” (Giai phẩm Hương vị quê nhà - Báo Sài Gòn tiếp thị ấn hành năm 2000, tr.76).

À, “đã ghiền” chứ không chỉ “đã khát”. Thế thì, trong cái sự uống ấy còn có cả một nghệ thuật của sự thưởng thức, thỏa mãn cơn nghiền loại lá cây có ủ/ướp cả phong vị đất trời xuân hạ thu đông, chứ nào phải “đói ăn khát uống”. Sực nhớ, từ năm 1999, y đã viết bài thơ Uống trà. Đọc lại, nghe chơi: “Bỏ bia bụng bớt béo/ Nâng ly trà khề khà/ Uống tà tà buổi sáng/ Nhai luôn cả xác trà/ Một ly thì cảm hứng/ Dạt dào như gió reo/ Hai ly mây gió thổi/ Đưa tôi lượn qua đèo/ Ba ly như mọc cánh/ Bay lên cõi trời xa/ Bốn ly thì cảm thấy/ Thiên thai dưới mái nhà/ Năm ly thôi uống nữa/ Thấy nhũng nhẵng mồ hôi/ Giọt giọt tuôn nóng hổi/ Hương trà thơm gấp đôi/ Uống từ khuya đến sáng/ Một ly rồi một ly/ Thấy hồi xuân mộng mị/ Như đứa trẻ dậy thì/ Bỏ bia bụng bớt béo/ Trân trọng tri ngộ trà/ Trống trơn nộ ái ố/ Bụng xẹp vào sát da...”. Cái sự ngỗ ngáo, tinh nghịch của một thời tuổi trẻ đã nhìn thấy dấu vết qua câu “Nhai luôn cả xác trà’. Rất phàm phu tục tử. Mà thôi, lúc trẻ, ai lại không có những lúc tâm trí phiêu bồng ngang ngược?

Với ly trà đá của người Sài Gòn, đơn thuần chỉ nhằm thỏa mãn cái nóng cháy hừng hực lửa đang bỏng trong cuống họng. Lưỡi cứng đờ. Nước bọt đặc quánh. Phải uống. Phải có một dòng mát lạnh, phảng phất một chút hương vị trà pha loãng, lổn nhổn đá cục, càng lạnh càng tốt. Có như thế mới đã đời khoái trá.

Thử nghĩ, từ khu làng đại học ở xa tít ngoài Thủ Đức, trưa nắng chang chang, hì hục cỡi con ngựa sắt cà tàng leo lên dốc cầu Sài Gòn, mồ hôi mồ kê túa ra cay cả mắt, ướt đằm áo, nếu lúc ấy có được ly trà đá thì sung sướng lắm đây. Qua chân cầu bên kia, dừng lại, cởi phanh áo ngực, ngửa cổ uống cạn ly trà đá mát lạnh, lại có gió từ sông thổi qua thì có cảm tưởng rằng, Lưu Nguyễn lạc lối Đào nguyên cũng khoái trá đến thế là cùng. Mà Sài Gòn không là chốn thiên thai. Lúc nào cũng ầm ầm ngựa xe, khói mịt mù, người chen ngang xuôi ngược như trẫy hội. Sự tất bật, lo toan, chạy đua cùng thời gian chính là tính cách năng động của cư dân nơi này. Con người ta từ nơi xa đến, ban đầu còn e ngại, rụt rè nhưng dần dần về sau cũng bắt nhịp theo. Trước hết, sự bắt nhịp đó thể hiện qua ly trà đá đặc trưng của người Sài Gòn.

Uống trà thì uống trà. Ở đậu chẳng uống trà? Thế thì có gì mà y phải la toáng lên thế? 

Ừ, một khi lá còn tươi, nếu nấu uống gọi uống chè/ chè xanh; nhưng lá đã sao khô ắt gọi trà. Hãy nghe nhà văn hóa Nguyễn Đổng Chi miêu tả về cách uống trà/ uống chè của vùng Nghệ Tĩnh - một vùng đất “chó ăn đá gà ăn sỏi” nhưng con dân hiếu học, nơi này đã sản sinh ra nhiều con người kỳ tài. Cần đọc để hiểu thêm vê một thú vui tao nhã của người Việt xưa. Cái sự uống ở đây đã đạt đến một mỹ cảm thuộc hàng “kinh điển”, không rõ nay có còn duy trì?

“Đặc biệt là chỗ nấu lần đầu rất đặc, rất chát, gọi là chè cốt hay nước chát. Người xứ Nghệ có câu nói cường điệu: “Khăm (cắm) đũa vào không bổ (ngã)” để chỉ đặc điểm món đồ uống của họ. Nói chung, ở đâu cũng vậy, nước chè thường dùng sau bửa ăn, như câu: “Cơm sốt, canh sốt, nước chè cốt mới nấu”, hay là vào lúc tiếp đãi bạn bè khách khứa, như câu: “Chè ngon, nước mát xin mời/ Nước non non nước nghĩa người chớ quên”. Nhưng ở xứ Nghệ không nhất thiết như vậy. Ở nông thôn người ta thường uống chè vào những buổi riêng biệt cách bữa ăn.

Chưa tiến lên thành trà đạo như ở Nhật Bản, nhưng ở đây có tục uống chè ngồi đàm đạo giữa những người hàng xóm láng giềng. Họ chẳng có quy định gì chặt chẽ, nhưng cũng có ước lệ nho nhỏ: những bạn bè nghiện chè xanh ở gần nhau, mỗi lần nhà ai nấu một nồi nước chè, thường múc ra nhiều bát (lớn hơn bát ăn cơm, độ ¼ lít gọi là bát đàn hay đọi nạy) đặt lên mâm nan, rồi chủ nhà (hoặc cho vợ con) đi “ới” lên một tiếng gọi những ông bạn dăm bảy người quanh nhà, tới dự cuộc. Họ ngồi chõng hoặc đòn (ghế thấp) chuyện trò, thường là chuyện làm ăn, chuyện thời sự trong làng ngoài xã. Có khi uống lúc rãnh rỗi hoặc đêm khuya họ thường khuyến khích một người trong bọn đọc truyện Nôm hay thoại chèo đã thuộc lòng, hoặc ngâm vè hoặc kể chuyện cũ mới mua vui. Trò chuyện chán chê, đợi nước nguội mới uống.

Mỗi nồi thường nấu một “rộp chè” cả cành lẫn lá. Người ta cho nấu cả cành như vậy, nước mới ngon. Mỗi người dự cuộc có thể làm được vài tuần nước cốt cho đến cạn. Đói bụng uống vào có thể say nhưng những bạn nghiền thì cho rằng có thế mới đã, thậm chí có người già còn uống nước chè thay cơm, có nghĩa là cơm chỉ cần ăn ít cũng được, miễn là được nước chè cốt hàng ngày… Sau khi cạn nồi nước chè cốt, chủ nhân lại đổ nước lã vào nấu lần thứ hai, thứ ba, họi là chè giạo, để cho những người trong nhà, nhất là trẻ em giải khát, hoặc uống ít nhiều sau bữa ăn” (Địa chí văn hóa dân gian Nghệ TĨnh, NXB Nghệ An- 1995, tr.440).

Rõ ràng, uống chè ở đây không chỉ phong cách “đã nghiền” như người xứ Quảng, còn là dịp bà con xóm giếng túm tụm cùng nhau, sau một ngày lao động mệt nhọc cùng cởi mở tâm tình, rôm rả chuyện trò. Tình làng nghĩa xóm, qua bát nước chè thêm cảm thông, hiểu nhau hơn mà cũng gắn bó hơn. Ngay cả người Huế cũng thế. Phải uống bát to, nước chè đậm đặc. “Uống như thế, theo họ “uống mới đã”. Nước chè đặc quánh”, còn nếu loãng họ “cằn nhằn than phiền là “đem ra chi thứ nước lạt nhách, như thứ “nước chè bà chúa” (Bùi Minh Đức - Dấu ấn văn hóa Huế - NXB Văn Học -2007, tr.120).

Thời bé, đọc Vang bóng một thời lấy làm khâm phục và kinh ngạc cho một sự thưởng thức Chén trà trong sớm. Nhân vật của nhà văn Nguyễn Tuân cho biết: “Cả ạ, thày cho nước pha trà không gì thơm ành bằng cái thư nước đọng trong lá sen. Mỗi lá chỉ có ít thôi. Phải gạn vét ở nhiều lá mới đủ uống một ấm. Hồi thày còn ít tuổi, mỗi lúc được quan Ðốc truyền cho đi thuyền thúng vớt những giọt thủy ngân ấy ở lá sen mặt đầm, thày cho là kỳ thú nhất trongđời một người học trò được thày học yêu như con”. Ấy là một trong những cách uống trà của người Hà Nội xưa. Dù cầu kỳ, nhưng rồi, dám nói rằng, vùng miền nào cũng chọn lấy nước trà/ chè đậm đặc.

Riêng người Sài Gòn lại khác. Khác xa một trời một vực. Suy luận rằng, cách uống trà của người Việt một khi đã vào đến vùng đất phương Nam, do nhiều lý đo, chẳng hạn về nếp sống, nhịp hoạt… nên đã thay đổi. Nước trà cần loãng. Không phải đậm đặc. Một sự thay đổi căn bản, từ chỗ uống trà/ chè để thưởng thức, ngâm vịnh, uống cho “đã nghiền” thì nay chỉ là “đã khát”. Vâng, chỉ thỏa mãn nhu cầu đó là đủ.

Có chủ quan không?

Đọc Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ ắt nhận ra ngay cách uống trà của người Đàng Ngoài, rất khác với ly trà đá của người Sài Gòn: “Khi dạy học rảnh, ta thường cùng với người đàn anh trong làng là Tô nho sinh dạo chơi chùa Vân, pha chè uống, hoặc trèo lên cái gò ba tầng ở phía tây xóm ấy, rồi múc nước suối pha chè uống chơi. Trông thấy những cảnh mây nổi hợp tan, chim đồng bay lượn, cùng là cỏ cây tươi tốt hay tàn tạ, hành khách lại qua, ta thường thường gửi tâm tình vào câu ngâm vịnh.”. Sống ở chốn phồn hoa đô hội Sài Gòn, mấy ai có thời gian uống trà/ chè mang phong vị khoáng đạt, phiêu dạt trữ tình ấy? Hơn nữa, Sài Gòn là vùng đất của khách tha phương tứ xứ, gặp nhau sơ giao, mời nhau ly trà rồi đường ai nấy đi thì khó có thể phong cách uống trà của tri âm, tri kỷ “hai người một bóng” như ông Phạm Đình Hổ vừa kể.

Sư thay đổi về uống trà qua cái sự loãng đã nói lên điều đó. Và qua đó nó còn thể hiện sự hòa đồng rộng rãi, dù ít hoặc nhiều cũng chấp nhận, không câu nệ. Bất quá, cũng như khi trong nhà có thêm khách đến, chỉ “thêm bát thêm đũa”, chứ có gì “trầm trọng” lắm đâu. Một cách giải quyết sự thích ứng, dung nạp nhanh chóng dễ dàng. Đó chính là tính cách của người Sài Gòn. Không phải ngẫu nhiên, từ thế kỷ XIX, nhà văn hóa Trịnh Hoài Đức nhận xét: “Ở Gia Định, khi khách đến nhà thời mời ăn trầu trước, thết nước chè rồi đến ăn cơm ăn bánh, cốt phải phong hậu. Không kể là người thân hay sơ, lạ hay quen, tông tích thế nào, đã đến tất phải tiếp nhận tiếp thết đãi. Cho nên người đi chơi không mang theo lương thực, mà người lậu sổ, người trốn tránh khá nhiều vì có chỗ nuôi khách” (Gia Định thành thông chí - Viện Sử học- NXB Giáo Dục -1999, tr.146).

Sở dĩ nhạc Bolero được nhiều người yêu thích, ngoài giai điệu còn là ca từ đã chia sẻ sự bao dung, cảm thông cho những người xa xứ đến đến đây, cùng thân phận: “Thương cho kiếp sống tha hương/ thân gầy gò gởi cho gió sương”. Vì nên, một ly trà đá san sẻ cho nhau là lẽ thường tình. Có lẽ chỉ ở Sài Gòn mới có những thùng trà đá miễn phí. Đặt ngay trước nhà. Ai thích cứ việc đừng lại. Uống rồi đi. Nhẹ nhàng. Tấm lòng đến với tấm lòng không nhiều lời, tùy khả năng mà san sớt cho nhau, và phổ biến nhất vẫn là ly trà đá để khách thân, sơ đều có dịp đã khát, hứng lấy cơn gió mát một cách khoan khoái, tự tại cũng như mình. Chẳng phải lăn tăn nghĩ ngợi gì nhiều. 

Đôi khi không phải nghĩ ngợi gì nhiều lại hay. Chiều qua, lúc bước xuống sân bay, tự dưng lại có cảm giác sợ đi xa. Bởi vì rằng, nhịp sống mỗi ngày đang quen thuộc, xa Sài Gòn vài ngày, lúc quay trở lại phải sắp xếp lại sự trật tự, ổn định quen thuộc ngay từ tâm trạng của chính mình. Cái sự hoang mang, rã rời ấy bàng bạc, ngây ngất, không định hướng và lại cảm thấy có gì đó chông chênh và hoang mang không rõ nét…

Sáng nay, chủ nhật. Thảnh thơi viết đôi dòng, Dừng lại với câu thơ: “Mẹ đã đi chợ về/ Một mầm đời đang biếc”.  Câu cuối trong bài thơ này, ngụ ý một điều gì sẽ có và đã có?

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

Trang 6 trong tổng số 58