LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 30.9.2013

 

sinh_vien_khoa_ngu_van

Sinh viên Khoa Ngữ văn niên khóa 1983-1987 viếng GS, Nhà giáo Nhân dân Hoàng Như Mai. Từ phải: Nhà thơ Trương Nam Hương, nhà báo Thu An (báo Tuổi Trẻ), Đặng Ngọc Lai (báo Pháp Luât TP.HCM), nhà thơ Lê Minh Quốc (báo PN), nhà báo Nguyễn Phong (Văn phòng huyện ủy Hóc Môn). Ảnh: nguồn: http://tuoitre.vn/Giao-duc/571589/nhung-the-he-hoc-tro-khoc-tien-biet-thay-hoang-nhu-mai.html#ad-image-0)

 

Xay lúa khỏi bồng em. Và ngược lại. Công việc mỗi ngày của y, không khác. Không thể một lúc hai việc. Đã viết báo, làm sao còn thời gian ghi Nhật ký? Từ Hà Nội, nhà biên kịch Đoàn Tuấn comment nhắc nhở. Những câu thơ Bút Tre thân mật:

Bạn mình viết khỏe quá ta

Hôm nay 29 sắp qua tháng rồi

Viết thêm ngày nữa Quốc ơi

Có bao nhiêu chuyện trên đời cần ghi

Vâng, bao nhiêu chuyện cần ghi lại. Để nhớ. Để đến lúc nào đó, ngồi lật từng trang, xem lại từng ngày tháng đã đi qua. Những tháng ngày vô vị? Những tháng ngày nhạt phèo? Ngày tháng nào cũng vậy, dù mang lấy ý nghĩa gì thì cũng đã đi qua. Để nhớ lại xem, y đi qua ngày thứ Bảy như thế nào? Sáng, vẫn phở. Trên đường về nhà, nghĩ lan man đến sự ồn ào quanh tập sách Vác ba lô lên và đi của Huyền Chip. Theo y, “Đâu chỉ Huyền Chip có lỗi”. Bởi tác giả lẫn lộn thể loại văn học đã đành nhưng điều cần nói nhất vẫn là những “người lớn” đứng phía sau. Y viết:

“Chuyện bị đẩy lên đỉnh điểm khi chiều ngày 27.9.2013, Cục Xuất bản (Bộ Thông tin và Truyền thông) đã có công văn gửi NXB Văn học và Quảng Văn Books (đơn vị liên kết XB) để nghị giải quyết và trả lời đơn thư của độc giả liên quan đến Xách ba lô lên và đi của Huyền Chip. Điều này bình thường, bởi Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã có những quy định cụ thể về “quyền lợi hậu mãi” của  người tiêu dùng. Sách cũng không nằm ngoài thông lệ này. Công chúng đang chờ NXB Văn Học sẽ trả lời ra sao.

Có lẽ, chưa tập sách nào ngay từ lúc ra mắt đã ồn ào như Vác ba lô lên và đi (2 tập - NXB Văn Học) của Huyền Chip. Do tò mò, hiếu kỳ và cũng muốn nghe câu trả lời về vấn đề thuộc loại “siêu tưởng” như vỏn vẹn chỉ có 700 USD người ta có thể chu du đến 25 nước? Xin vi sa từ nước này qua nước nọ có thể bằng cách “nằm vạ” để rồi người ta “thương tình” mà làm thủ tục? Ngay cả ông Vũ Khoan, nhà ngoại giao từng chu du nhiều nước cũng không thể hiểu nổi.

Đó là chưa kể hàng loạt các tình tiết khác nhau, chẳng hạn vào khách khách sạn ma ở Brunei: “Đột nhiên, tôi nghe tiếng nước chảy trong nhà tắm, ai đó mở vòi nước rồi lại đóng lại. Tôi chạy vào xem, thì thấy nước vẫn chảy, bồn cầu đang xả nước và cuộn giấy vệ sinh tự động thả giấy xuống” (!?); hoặc tác giả kể bị xe máy tông gãy chân nhưng sau ba tuần đã có thể… leo núi (?!) v.v… Nếu đọc kỹ, sẽ phát hiện ra khá nhiều chi tiết mơ hồ, khó tin cậy. Vì thế bạn đọc “ném đá” cũng dễ  hiểu. Do đó, khi ra mắt sách tại Hà Nội và TP.HCM, trước nhiều câu hỏi gắt quá, tác giả nói ngang: “Tôi không có trách nhiệm phải trả lời cho anh” (!?).

Tuy nhiên, cần có sự bình tĩnh để nhìn nhận sự việc này. Trước hết, một cô bé 21 tuổi đã dám thực hiện những chuyến đi xa, tự mình phải đối mặt bất trắc, tai ương… đã là một sự dũng cảm. Đừng quên, thời buổi này chỉ cần tra cứu goolge thì mức độ thông tin ấy xác thực đến đâu sẽ được kiểm chứng ngay. Do đó, trước thắc mắc của bạn đọc, không thể trả lời rằng: “Không ai đặt câu hỏi vì sao mà Robinson Crusoe sống ở trên đảo. Chưa một ai nói rằng ông ấy nói dối hay nói thật cả”. Một bên là nhân vật hư cấu, một bên là người thật thì sự đánh tráo khái niệm không thuyết phục. Đừng quên rằng, các tập bút ký du lịch chỉ có giá trị khi nói ghi lại những gì mắt thấy tai nghe, chứ không phải là sự tưởng tượng.

Trong trường hợp Huyền Chip, lỗi này, đừng trút hết lên đầu tác giả. Hãy nghĩ đến những “người lớn” đứng phía sau đã không phân tích, giải thích rõ ràng cho cô biết một thể loại ghi chép du lịch trước hết cần phải tính chân thật. Sự thật, dù đơn giản vẫn có vẻ đẹp, sức hấp dẫn của riêng nó chứ không cần hư cấu thêm. Nếu Xách ba lô lên và đi là tác phẩm văn học thì không sao, khổ nổi đây là thuộc loại “người thật việc thật” nên người đọc có quyền đòi hỏi tính chân thực, sự chính xác. Thay vì có động tác tích cực khuyên bảo, định hướng thì “người lớn” lại “bảo kê” bao biện, lấp liếm các sự nghi ngờ, thắc mắc cần thiết của bạn đọc. Việc đó, vô hình trung đã “châm dầu vào lửa” khiến sự việc càng tồi tệ hơn”.

Bài viết này đã in báo PN sáng nay. Để xem sự việc thế nào, NXB Văn Học sẽ  trả lời thắc mắc của bạn đọc trước ngày 5.10.2013. Dù sao, Huyền Chip vẫn là cây bút trẻ có tài. Văn viết lôi cuốn. Dễ đọc.

Sáng qua, bạn học cũ hẹn nhau cùng viếng thầy tại Nhà Tang lễ (25 Lê Quý Đôn, Q.3). Đại diện thế hệ sinh viên Khoa Ngữ văn niên khóa 1983 - 1987, bạn thơ Trương Nam Hương đã có bài tứ tuyệt Khóc thầy:

Nhớ giọng Thầy đọc thơ Thâm Tâm

Tống biệt hành rung sóng tri âm

Thời gian chợt hóa con sông nhớ

Con tiễn Thầy qua khói - sóng - trầm!


quoc_doc_tho_thay_HNM

Nhà thơ Lê Minh Quốc đọc thơ thầy Hoàng Như Mai tại nhà tang lễ. Ảnh: nguồn: http://tuoitre.vn/Giao-duc/571589/nhung-the-he-hoc-tro-khoc-tien-biet-thay-hoang-nhu-mai.html#ad-image-0)

 

Sáng qua, bạn học cũ hẹn nhau cùng viếng thầy tại Nhà Tang lễ (25 Lê Quý Đôn, Q.3). Đại diện thế hệ sinh viên Khoa Ngữ văn niên khóa 1983 - 1987, Hương đọc bài thơ này trước linh cữu thầy. Kế tiếp, y đã đọc bài thơ Sân khấu của thầy Mai:

Buông bức màn rồi… danh vọng hết

Người về lòng rũ sạch sầu thương

Người vào cởi áo lau son phấn

Trả cả vinh hoa lẫn đoạn trường

Phong cách của một nghệ sĩ không tách rời tâm thế của nhà sư phạm, chính điều này đã khắc họa nên chân dung độc đáo của nhà giáo Hoàng Như Mai. Lúc trong Nhà Tang lễ, ngồi cùng nhà nghiên cứu Huỳnh Như Phương và cùng đọc lại thơ của thầy Mai in trên báo TT mới phát hành. Sửng sốt khi bắt gặp một góc khác trong sâu thẳm tâm hồn của thầy. Những câu thơ dằn vặt thế sự. Đau đời. Tháng 4 năm 1980, lúc mất xe đạp, thầy liên tưởng:

Hành trình dân tộc còn xa lắm

Đường thế gian truân dãi nắng mưa

Cha đã chậm rồi, con lại chậm

Lang thang chân đất đến bao giờ...

Trong Thư không gửi, có những câu tự vấn của một bậc trí thức, một nhà giáo thuộc “thế hệ vàng” của nền giáo dục nước nhà:

Cái thực nhiều khi là cái mộng

Tầm thường là kẻ rất cao siêu

Kìa trông cái tốt đang hư hỏng

Cái xấu đang khoe vẻ mỹ miều

Bài thơ Tết Nhâm Tuất (1982) cũng có nhiều tâm sự:

Nghĩ mình xuân hết tự bao giờ

Hỏi có gì xuân khai bút thơ

Hòn ngọc Viễn Đông, chồng thất thểu

Hà thành hoa lệ, vợ bơ phờ

Cha là hàn sĩ, con còn khổ

Ông chỉ thường dân, cháu mất nhờ

Năm mới toan tìm phương kế mới

Nhớ ra tuổi đã sáu mươi tư

Đọc mấy bài thơ của thầy Hoàng Như Mai cứ ngẫm nghĩ mãi. Lật ra trang nhất, thấy có bài Những câu hỏi nhức nhối của người bạn là nhà giáo, nhà nghiên cứu Đoàn Lê Giang. Bài viết hay. Trầm tĩnh. Sâu sắc. Đã gợi lên những câu hỏi không dễ trả lời. Mà cũng có thể đã câu trả lời nhưng rồi chẳng ai buồn trả lời? Bài báo có đoạn:

“Môn văn của các thầy là niềm say mê, còn chúng ta là gánh nặng và phương tiện? Môn văn của các thầy là khám phá những tri thức mới mẻ, còn chúng ta thì nhai lại và học thuộc lòng văn mẫu? Môn văn của các thầy là học làm người và truyền cảm hứng cho người khác, còn chúng ta thì học để thi? Các thầy chấm thi là để tìm tài năng, tìm tấm lòng, còn chúng ta thì đếm ý theo một đáp án khuôn mẫu cốt lấy điểm cao mà không cần sáng tạo? Thế thì làm sao học trò chẳng chán môn văn và quay lưng lại với chúng ta?

Nhưng chẳng lẽ tôi đang tâm quy kết trách nhiệm đối với hàng chục, hàng trăm ngàn giáo viên hằng ngày vừa phải khản cổ dạy học trò, vừa mệt nhoài vì bệnh thành tích mà phải nhận đồng lương không đủ sống sao? Tất nhiên là không! Thế thì trách nhiệm ở đâu? Tôi cho rằng trách nhiệm ở nền giáo dục của chúng ta. Nền giáo dục của chúng ta đang vận hành với nhiều căn bệnh trầm kha: bệnh thành tích, bệnh giả dối, bệnh phản khoa học, bệnh lười thay đổi...Chúng ta đang trả giá cho một chính sách ngợi ca ngành giáo dục về ngôn từ còn bạc đãi về chính sách (giáo viên là “kỹ sư tâm hồn” nhưng thực chất thì “chuột chạy cùng sào mới vào sư phạm”). Chúng ta đang phát triển một nền giáo dục đại học giá rẻ mà không có chính sách ưu đãi thỏa đáng, khiến cho các trường phải chạy đôn chạy đáo “quảng canh” hạ thấp chất lượng. Về môn văn thì nó đã được vận hành, càng ngày càng xa mục đích của bản thân nó. Những thầy cô nào làm cho học trò yêu thích môn văn có khi lại bị tẩy chay vì dạy không theo văn mẫu!

Nghĩ đến các thầy, chúng ta càng băn khoăn: Nền giáo dục nào đã tạo ra các thầy? Không gian văn hóa nào đã truyền cảm hứng cho các thầy tận tâm với nghề và với học trò như thế?”.

Có những câu hỏi đau đáu nỗi niềm tưởng rằng sẽ vọng lại dư âm, nhưng rồi, không hề. Đời sống của ngày. Đời sống của người. Cứ thế, trôi đi. Dần dà, có những sự việc ban đầu nghĩ ngợi “trầm trọng”, đến lúc nào đó lại “nhẹ hều”. Bình thường. Không gì phải ầm ĩ. Phải lên tiếng. Thậm chí, dù nó đang tồn tại nhưng con người ta cũng quên lãng; hoặc chấp nhận bởi thấy rất đỗi bình thường. Sống chung với các Ác, riết rồi lại thấy bình thường, cứ tưởng nó cũng là cái Thiện. Nguy hiểm là chỗ đó.

Chừng mươi năm trước, có thời gian y gắn bó với khu vực Tân Kỳ Tân Quý. Tối thứ Bảy lại lên đó, lên tận đường Đoàn Giỏi mừng tân gia nhà bạn thơ Phan Hoàng. Tặng bạn bức tranh Nàng thơ, y vẽ từ năm 2007. Như tấm lòng chung vui với bạn. Hoàng học sau chừng bốn năm, cùng Khoa Ngữ văn. Đi lại con đường cũ. Tự nhiên buồn vui lẫn lộn. Đường xá vẫn thế. Không khác trước. Trước đây, nhà văn Nguyễn Nhật Ánh có mở chi nhánh quán Đo Đo tại đường Ấp Bắc; anh của y có mở quán bún bò Huế cũng tại khu vực này. Cuối cùng, cả hai không thành công. Một phần do thu nhập của người dân ngụ cư. Họ cần ăn no hơn ngon. Ngon mà mắc hơn vài ngàn đồng, vẫn không là sự lựa chọn. Khuya rời nhà Hoàng quay về, ghé vào quán phở sạch sẽ, có bảng hiệu đàng hoàng, gọi một tô phở đặc biệt. Ăn ngon. Lúc tính tiền mới ngã ngửa. Tưởng nghe nhầm. Chỉ 30 ngàn. Ngay cả giá cả của từng khu vực đã có sự cách biệt. Tại khu Q.3, trung tâm đã từ 60 ngàn đến 80 ngàn một tô. Nhìn đâu cũng thấy sự cách biệt. Cách biệt lớn nhất vẫn là sự giàu nghèo. Khoảng cách ấy đôi lúc nằm ngoài sự tưởng tượng của chúng ta.

Làm sao có thể tưởng tượng lương của vị giám đốc Công ty TNHH MTV Quản lý và phát triển nhà Hà Nội Nguyễn Đức Sơn chỉ 10 triệu/ tháng lại có thể chơi golf ở sân Tam Đảo? Chi phí tiền chơi golf như thế nào? Báo Đời sống & pháp luật - cơ quan Trung ương của Hội Luật gia Việt Nam - ngày 29.9.2013 cho biết: “Theo thông báo của Công ty Cổ phần đầu tư Tam Đảo, phí thẻ Hội viên với mức 25 năm đóng một lần 798 triệu và mức 48 năm là 1.544.000 đồng. Sau khi là hội viên, người chơi còn phải nộp phí bảo dưỡng thường niên mà hội viên phải nộp thêm 17,85 triệu. Đối với người chơi lẻ, mỗi lần chơi phải nộp 1, 4 triệu đồng/ ngày thường hoặc 3,5 triệu đồng ngày cuối tuần cho sân golf 18 lỗ, chưa kể chi phí các lại dịch vụ khác”. Chuyện này có đáng để bàn không? Chắc chẳng ai rỗi hơi nếu trên sân golf đó, vị Nguyễn Đức Sơn không cầm gậy quật vào đầu anh công nhân caddie (phục vụ tại sân golf) phải nhập viện vì lý do vớ vẩn. Rất vớ vẩn.

Tự nhiên lại nhớ đến truyện ngắn Răng con chó của nhà tư sản của nhà văn Nguyễn Công Hoan. Ông viết truyện ngắn này năm 1929. Đọc thời đi học nay vẫn còn nhớ. Đọc lại, vẫn hay. Đại khái, ngày nọ khách đến chơi nhà, tay tư sản khoe có con chó Lu giống Bleu d'Auvergne, mua những bốn trăm đồng. Một số tiền mà dân đen dẩu có nằm mơ cũng không thấy. Sau khi ca ngợi chó, chủ nhà đem thức ăn cho Lu, nó ngúng nguẩy không thèm ăn. Lúc ấy, thằng ăn mày thập thò ngoài cửa, thấy phần ăn của chó mà thèm. Thèm quá. “Nước dãi chảy ròng ròng, không nuốt kịp. Muốn vào ăn trộm một miếng, nhưng chỉ sợ con chó cắn cho một miếng thì chết! Hắn thấy con chó cứ đứng gần đĩa cơm mà không ăn, thì không hiểu ra làm sao. Hắn tưởng con chó chê cơm nhạt, không thèm ăn, thì hắn muốn đánh đổi số phận hắn cho con chó nhà giàu!”. Người và chó gầm gừ, hằm hè nhau. Thằng ăn mày vớ được cục đá đập ngay vào mõm chó, nó ngã vật ra, nằm sóng soài, ẳng rầm lên thảm thiết. “Ông chủ đương ăn cơm, nghe tiếng chó kêu, vội bỏ cả bát đũa, lẫn vợ, lẫn khách, ông cầm đèn hấp tấp chạy ra:

- Thôi chết rồi! Con Lu làm sao thế này! ối giời ơi! Nó gãy hai cái răng rồi! Khổ tôi quá!

Thế rồi thét người nhà váng lên, ông bế con Lu vào. Còn mình thì chạy ra cổng xem ai đánh chó. Bỗng ông trông thấy ở đằng xa, có cái bóng đen đen, chạy nhanh tít, ông bèn bấm đèn ôtô để chiếu theo, thì trông rõ người ăn mày ban nãy đương chạy.

- À, mày đánh gãy răng chó ông, ông chỉ kẹp cho mày chết tươi, rồi ông đền mạng. Bất quá ba chục bạc là cùng!

Nói đoạn, ông tắt đèn pha, phóng xe hết sức nhanh để đuổi theo...”.

Có những câu hỏi không dễ dàng trả lời. Mà cũng có thể đã câu trả lời nhưng rồi chẳng ai buồn trả lời?

Đời, thế mà vui.

 

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 27.9.2013

duong-lam

Làng cổ Đường Lâm (nguồn: Internet)

 

Trong văn học Việt Nam hiện đại, nếu chọn lấy một nhà văn “chơi” thể loại hoạt kê, trào phúng, châm biếm có cá tính, bền bĩ, sâu cay, đa thanh đa dạng nhất chỉ có thể Nguyễn Công Hoan. Sự lựa chọn này có thể nhiều nhà nghiên cứu sẽ la toáng lên, bởi ông không có tác phẩm hoạt kê riêng biệt như Số đỏ (Vũ Trọng Phụng), Khao (Đồ Phồn), Dòng nước ngược (Tú Mỡ)… Không sao cả. Dám quả quyết rằng, toàn bộ truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan đều có tính chất trào lộng. Đọc, cười chua chát. Cười rơi nước mắt. Hàng trăm kiểu cười ẩn giấu sau các tình tiết mà ông xây dựng từ hiện thực mắt thấy tai nghe. Đố có nhà văn nào cùng thời (hoặc hiện nay) có thể nhìn đâu cũng phát hiện ra sự trái khoáy để cười như Nguyễn Công Hoan.

Sáng nay, đọc lại Tinh thần thể dục của Nguyễn Công Hoan.

Chuyện rằng, ngày nọ lính huyện mang trát quan về làng, thông báo cho dân làng biết “ngày 19 Mars này, tức 29 tháng Giêng An Nam tại sân vận động huyện có cuộc đá bóng thi, nhiều chiến tướng đá rất hay, mọi nhẽ”. Vì thế, dân làng phải đi xem. “Ai có mặt tại sân vận động cũng phải ăn mặc tử tế, đi đứng nghiêm chỉnh, và phải vỗ tay luôn luôn, vì hôm ấy có nhiều quan khách”.

Sướng quá. Vui  quá. Thích quá. Ấy vậy, dân đen lại trốn chui trốn nhủi. Quái quỷ chưa? Họ khóc lóc như cha chết, van xin, lạy lục cúc bái như bị bát bỏ tù. “Ngay từ sáng tờ mờ hôm 29, ở sân đình làng Ngũ Vọng, đã có tiếng ông lý quát tháo om sòm:

- Thiếu những mười tám thằng kia à? Tuần đâu, đến tận nhà chúng nó, lôi cổ chúng nó ra đây. Chứ đã hẹn đi lại còn định chuồn phỏng!

Sau tiếng dạ ran, những ngọn đuốc linh tinh kéo đi các ngả. Ông lý dặn theo, tiếng oang oang:

- Hễ đứa nào láo, cứ đánh sặc tiết chúng nó ra, tội vạ ông chịu. Mẹ bố chúng nó! Việc quan thế này chết cha người ta không! Chúng bay gô cổ cả, giải cho được ra đây cho ông!

Lại một tiếng dạ nữa, giữa những tiếng chó rống dậy. Ngọn lửa đỏ như nổi lềnh bềnh trong biển sương mù”.

Cuối cùng, “tinh thần thể dục” của đám dân đen như thế nào?

Nhà văn Nguyễn Công Hoan viết tiếp: “Cuộc săn dù ráo riết đến đâu cũng không sao tróc đủ một trăm người phải đi xem đá bóng. Dăm sáu anh khôn ngoan, đã kéo đến ngủ nhờ nhà khác, hoặc làng khác. Họ làm như lánh nạn.

Khi thấy đã chậm giờ, ông lý trưởng nghiến răng nói:

- Chúng nó ngu như lợn. Người ta cho xem đá bóng chứ ai làm gì mà cũng phải bắt. Rồi quan thấy không đủ số, lại chửi ông không tận tâm.

Rồi ông ra lệnh:

- Chín mươi tư thằng ở đây, xếp hàng năm lại, đi cho đều bước. Tuần chúng bay phải kèm chung quanh giúp tao. Đứa nào mà trốn về thì ông bảo.

Đoạn ông lo lắng, đi cuối cùng, mắt nhanh nhẹn để coi cẩn thận như coi tù binh.

- Mẹ bố chúng nó, cho đi xem đá bóng chứ ai giết chết mà phải trốn như trốn giặc!”

Đúng quá! Ông lý trưởng nói có sai tí tẹo nào không? Đọc mà cười chua chát. Sở dĩ đọc vì sực liên tưởng đến vụ thời sự đang diễn ra: Dân Đường Lâm (thị xã Sơn Tây, Hà Nội) lại xin trả di tích, không muốn nhận lấy vinh dự này. Trước đó, ngày 15.5.2013, họ đã ký đơn rồi. Oái oăm thật! Những tưởng lãnh đạo Sở VH-TT&DL Hà Nội, UBND thị xã Sơn Tây đã hứa hẹn, giải quyết xong cớ sự tróe ngoe rồi chứ? Nào ngờ, ngày 25.9.2013, một lần nữa họ lại đồng loạt làm đơn xin trả danh hiệu! Sự đời có những tình tiết cứ như mô phỏng từ truyện của Nguyễn Công Hoan. Có người, có nơi phải chạy chọt cổng sau, đút lót xin cho bằng được cái giấy khen, giấy chứng nhận thế này, thế kia. Ngược lại, có nơi mèo chê mỡ! Tại sao mèo chê mỡ? Cớ sự chắc chắn không phải là mèo.

Không đi sâu vào các chi tiết, nhưng có một điều chắc chắn rằng khi được phong danh hiệu đó, đời sống của người dân ở làng cổ Đường Lâm không hề được cải thiện thêm. Đã thế, lại gánh thêm quá nhiều phiền toái. Bài học kinh nghiệm của Hội An là một bằng chứng sinh động nếu khi danh hiệu đó gắn với quyền lợi của người dân. “Dễ trăm lần không dân cũng chịu/ Khó vạn lần dân liệu cũng xong” câu thơ của Thanh Tịnh lại quay về trong trí nhớ.

Mà riêng gì vụ phong tặng danh hiệu làng cổ Đường Lâm đâu. Thử nhìn quá, các vụ lễ hội trùng trùng điệp điệp nhằm thúc đẩy du lịch, văn hóa của nhiều địa phương. Trước đây có thống kê từ Bộ VHTT&DL: Hàng năm trong cả nước đã diễn ra hơn 9.000 lễ hội (LH) lớn nhỏ! Trong đó, khoảng 7.000 LH dân gian (chiếm 78,6%), 407 LH lịch sử  (5%), 1.399 LH tôn giáo (15,7%); còn lại là các LH quảng bá du lịch, LH mới du nhập từ nước ngoài...

Chưa nói đến nhiều hay ít, chất lượng ra sao mà vấn đề là người dân địa phương đó có thật sự được sống và tận hưởng các giá trị văn hóa do LH đem lại? Chỉ xin nêu một ví dụ, tại Festival Huế, có những chương trình nghệ thuật vẫn không thu hút được người dân địa phương đến xem, đơn giản chỉ vì... giá vé quá cao! Một đồng nghiệp là nhà báo Lê Đức Dục đặt vấn đề không sai: “Nếu chúng ta có mức vé ưu đãi giữa người Việt với người nước ngoài thì sao không có một mức vé ưu đãi cho dân Huế, thu hút đông người Huế đến với các chương trình nghệ thuật của festival?” Đặt câu hỏi này, bởi không ít festival, LH diễn ra tại đại phương nhưng người dân nơi đó chỉ đứng bên lề!

Dù thiên hạ đang bội thực về LH, nhưng vẫn chưa có một công trình nghiên cứu khoa học cụ thể nào  nhằm hiến kế Nhà nước quản lý, quy hoạch hoạt động này. Ấy là chưa kể đến các “tổng đạo diễn” qua các mùa LH, quay đi ngoảnh lại vẫn một vài tên tuổi quen thuộc. Nhân tài của các địa phương ở đâu, chả lẽ “như lá mùa thu” phải “cầu cứu” người từ nơi khác đến? Chính vì thế, không ít LH chưa quy tụ được “sức mạnh tập thể” tại chỗ, không được người dân địa phương tâm phục khẩu phục! Vì thế mới có chuyện “bản sắc văn hóa” của Quảng Nam tại LH cách đây vài năm là hát Quan họ; dâng bánh trong lễ hội đền Hùng tại Phú Thọ 2008 là bánh thiu và độn thêm xốp cho nặng để đạt kỷ lục!

Nhìn qua liên hoan, hội diễn các loại hình nghệ thuật cũng lãng phí không kém. Gần đây, Liên hoan Tài năng trẻ sân khấu toàn quốc (8.2008) tại Hải Phòng, các đơn vị của TP.HCM không “mặn mà”. NSƯT Hồng Vân từng từ chối: “Lý do thứ nhất là kinh phí. Chúng tôi là đơn vị xã hội hóa, cái gì cũng bỏ tiền túi ra làm, phải cân nhắc kỹ lắm... Mà dù có tiền đi nữa, thì cũng không tham gia vì lý do thứ hai là tiêu chí chấm thi của giám khảo có đồng nhất với tiêu chí mà khán giả yêu cầu chúng tôi hay không? Mình tham gia cơ chế thị trường, phục vụ khán giả, không biết có phù hợp với tiêu chí chấm thi hay không? Chúng tôi cần khán giả hơn. Sự đồng cảm và ủng hộ của họ cũng là một tiêu chí cần thiết”.

Phát biểu này đúng như suy nghĩ của nhiều người.

Hơn nữa, đã từ lâu chúng ta có tư duy lạ lùng: Đã tham gia ắt có giải thưởng. Các “trận mưa” huy chương vàng, huy chương bạc được ban tổ chức “ban phát” rộng rãi, hào phóng khiến đơn vị tham dự thấy... nhàm! Thậm chí, Liên hoan phim VN lần thứ 15, phim Hà Nội, Hà Nội được trao Giải thưởng phim được khán giả yêu thích nhất, trong khi đó khán giả từ Nam chí Bắc chưa hề biết mặt mũi ra sao vì phim này chưa công chiếu rộng rãi! Kết thúc Liên hoan sân khấu Lưu Quang Vũ (9.2013) trang web của VOV Đài Tiếng nói Việt Nam đã có bài báo: “Mưa giải thưởng ở Liên hoan các vở diễn của Lưu Quang Vũ”. Đọc tựa này, tưởng như sinh hoạt văn hóa của những năm 80 của thế kỷ trước.

Mà phải thế thôi, “một miếng giữa sàn” được chia đều để không ai thắc mắc, kiện tụng thì lúc tổng kết mới mạnh miệng “thành công tốt đẹp”, “vui vẻ cả làng”! Cứ như thế, qua năm sau liên hoan của các hội chuyên ngành cứ thong dong “đến hẹn lại lên”. Cuộc đời vẫn đẹp sao.

Bên cạnh đó, lại còn sự lãng phí tương tự. Ấy là kinh phí dành cho các trại sáng tác! Các văn nghệ sĩ  được bao cấp từ A đến Z “mang nặng đẻ đau”. Sau đó, có diễn văn, báo cáo tổng kết, thống kê “thành quả” ra đời từ chuyến đi “chăn êm nệm ấm” đó. Các tác phẩm đó tác động, góp phần thúc đẩy sáng tác văn học trong cả nước như thế nào? Chẳng nghe ai bàn rốt ráo. Thì làm gì nhau? Bình tĩnh đi, có gì đâu mà ồn ào? Kinh phí dành cho các hoạt động này được rót từ “bầu sữa” của Nhà nước, chứ có phải “đồng tiền liền khúc ruột” của ai đâu? Cuộc đời vẫn đẹp sao.

Ủa? Đâu là nhà văn hiện thực phê phán tầm cỡ Nguyễn Công Hoan trong thời buổi này? Chả nhẽ, phải gọi thằng Xuân Tóc Đỏ ra và kết nạp nó vào hội nhà văn nữa sao?

Y nhiều chuyện quá.

Rách việc.

 

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 25.9.2013

 

sachmoiE

 

Khi ra ngoài chợ, vào siêu thị, lúc ấy, quan sát các loại hàng hóa và ta thường muốn mua một thứ nào đó. Thử hỏi, ta chủ động chọn mua nó hay nó giục ta phải mua? Hỏi gì mà ngớ ngẩn. Hết khôn dồn đến dại rồi chăng? Ai cũng bảo, ta chủ động đấy chứ. Nếu không, đừng hòng. Có đúng vậy không? Không. Thật ra, hàng hóa đó nó chọn ta, buộc ta phải mua đấy thôi. Từ lâu lắm rồi, nó đã nằm sâu trong tiềm thức dưới nhiều hình ảnh khác nhau. Không rõ hình. Không rõ tướng. Ta không biết rõ, chỉ lờ mờ loáng thoáng cảm nhận nhưng chắc chắn có. Rồi đến một lúc, tình cờ nhìn một vật nào đó bỗng nhiên sự thôi thúc trong lòng buộc ta phải chọn lấy nó. Ta chọn lấy bởi đã từ lâu, nó đã có ở trong ta rồi.

Yêu một người đàn bà cũng thế. Mỗi ngày đi qua, trong con mắt thu gọn hình ảnh bao nhiêu con người nhưng tại sao ta chỉ có thể ngất ngây bởi cô này mà không mê đắm bởi nàng kia? Gặp người đó, chọn người đó tự dưng ta cảm thấy thân quen tự thuở nào. Mắt, môi, hương thơm, giọng nói, cử chỉ ấy… ta đã gặp, có thể từ nhiều người khác nhau. Và đến khi lần đầu tiên gặp người này, tự nhiên ta có cảm tưởng gặp từ lâu lắm rồi. Và buộc ta phải chọn lấy.

Sao lại ngẫm nghĩ dông dài chuyện này giữa trưa hè trên đường về nhà trưa nay?

À, sáng nay, họp báo với Công ty Phan Thị ra mắt tập 1 bộ truyện tranh thiếu nhi về Hoàng Sa - Trường Sa. Trên đường về cơ quan, nhà báo Lam Điền báo tin 3 tập sách đầu của bộ Lời Người Man di hiện đại của nhà văn hóa Nguyễn Văn Vĩnh đã chuyển từ Hà Nội vào rồi. Vì lẽ đó, phải đi mua ngay thôi. Đã có một cái nhìn khác về Nguyễn Văn Vĩnh. Cũng như với Phạm Quỳnh và nhiều nhân vật khác. Bộ sách của ông Vĩnh cả thảy 15 tập. Sẽ in dần. Đồ sộ chưa? Quyển Nguyễn Văn Vĩnh (NXB Tân Việt - 1957) của Nhất Tâm cho biết lúc ông Vĩnh qua đời, nhà thơ Á Nam Trần Tuấn Khải có khóc câu đối:

“Mười mấy năm xoay sở một trò đời, nào khi vào nghĩa đảng Đông Kinh, lúc từ huy chương Bắc đẩu, khi hò hét Âu Tây tư tưởng, lúc giảng diễn Niên lịch thông thư, vang từng giọng nói câu văn, nóng lạnh trái tim, đậy nắp quan tài chưa hẳn định;

Bao nhiêu bạn đi về cùng lớp trước, nay người ta đã Thượng thư Tổng đốc, kẻ còn Tân Đảo Côn Nôn, người ca tụng Pháp Việt đuề huề, kẻ theo đuổi quân dân hiến pháp, rộn rịp đường ngay lối dọc, sang hèn cuộc thế, trông chừng dân nước vẫn đang say”.

Những ai hiểu rõ sự nghiệp Nguyễn Văn Vĩnh phải “chịu” câu đối này là hay, đúng. Từ điển văn học bản in năm 1984, không có Nguyễn Văn Vĩnh. Bản in năm 2003 với tựa Từ điển văn học bộ mới, Nguyễn Văn Vĩnh mới được bổ sung. Mà đâu chỉ có thế. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, một cán bộ thuộc Viện KHXH tại TP.HCM đã cho in tập sách dày trên 850 trang: Văn hóa văn nghệ phục vụ chủ nghĩa thực dân mới Mỹ tại Nam Việt Nam 1954 -1975. Trong tập sách này có công bố Danh mục sách cấm lưu hành với sự liệt kê đầy đủ. Bản liệt kê này, đem so với những gì đã diễn ra ở thị trường sách thì nay đã khác xa. Một trời một vực. Không ít tác phẩm thuộc Danh mục sách cấm lưu hành đã tái bản và không ít tác giả đã  “tái xuất giang hồ”. Điều này cho thấy, cái nhìn về văn hóa văn nghệ của Sài Gòn cũ đã khác trước. Thậm chí, trong bộ sách Từ điển văn học bộ mới, lần đầu tiên có không ít nhà văn thuộc diện có “sách cấm lưu hành” cũng được ghi nhận.

Sự ghi nhận này rất đáng kể, có thể xem như một động thái “cấp giấy thông hành” cho các nhà văn đó trở lại với bạn đọc. Hoặc ít ra cũng là sự thừa nhận vai trò của họ trong một giai đoạn của văn học miền Nam. Nói như thế vì Từ điển văn học bộ mới  từng được đánh giá “ghi nhận một dấu mốc cho loại sách công cụ chuyên ngành về Khoa học Xã hội ở Việt Nam ở VN”. Nhóm chủ biên là những nhà nghiên cứu uy tín, tâm huyết, công tâm như Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá và sự cộng tác của hàng trăm chuyên gia nghiên cứu văn học. Bộ sách này gồm 2.625 mục từ với 2.180 trang chữ và 188 hình ảnh, lần đầu tiên những tên tuổi như Bùi Giáng, Cung Trầm Tưởng, Đinh Hùng, Lê Văn Siêu, Nguyên Sa, Phan Du, Võ Hồng, Sơn Nam, Nhật Tiến, Kim Định ... được lựa chọn đưa vào từ điển.

Sự trở lại các cây bút tiêu biểu của miền Nam trong giai đoạn trước 1975, thiết nghĩ cũng là điều hết sức bình thường, hợp với lẽ tự nhiên, vì không ai có thể phủ nhận những đóng góp của họ trong tiến trình văn học nước nhà - nếu những tác phẩm ấy thật sự có giá trị lâu bền. Có lẽ, cú phát pháo mở đầu gây nhiều sóng gió nhất mà sau đó “tịt ngòi” luôn là cái năm NXB Văn Nghệ TP.HCM & Công ty văn hóa Phương Nam phối hợp tái bản. Đợt đó có Dương Nghiễm Mậu với Nhan sắc, Cũng đành, Tiếng sáo người em út, Đôi mắt trên trời; Lê Xuyên với Nguyệt Đồng Xoài (3 tập)... Thế nhưng khi loạt sách này ra đời lập tức có sự phản hồi dữ dội. Có ý kiến, đại loại tại sao lại in một lúc đến 4 tác phẩm của một “nhà văn cũ”? Sự “trở lại” như vậy là quá “hớp”. Ý kiến này không vững vì một tác phẩm văn học khi đã phát hành, phải xem nó như một giá trị hàng hóa. Với người kinh doanh, họ có quyền tính toán trong kế hoạch sản xuất. Vấn đề quan trọng vẫn là giấy phép có đúng Luật Xuất bản hay không? Đành rằng, những cuốn sách trên đã được Cục XB cấp phép hẳn hòi thì không có gì đáng bàn nữa.

Tuy nhiên, đứng ở góc độ người đọc, rõ ràng cần có sự thẩm định kỹ để “kiểm chứng” giá trị của nó, không phải tất tần tật những gì của các nhà văn trước 1975 cũng đều có thể tái bản. Mặt khác, cần phải có sự giới thiệu, đánh giá lại "tác giả - tác phẩm" để qua đó bạn đọc hiểu thêm về bối cảnh ra đời đặng tiếp nhận một cách khách quan. Nói như thế, vì lúc đọc nếu không có sự chú thích chu đáo, cặn kẽ với những câu đại loại như “Bộ mình cưới nhau liền được sao? Anh còn lo vấn đề động viên. Việc gì mà mình phải gấp rút như vậy?” (tr. 7 - Nguyệt Đồng Xoài) khác nào đánh đố người đọc, bởi từ “động viên” không hẳn mang ý nghĩa như hiện nay v.v...

Nghĩ cho cùng, khi nhìn lại diện mạo văn học nước nhà cũng giống như lúc ta bước vào một phòng tranh. Nếu phòng tranh ấy thiếu đi những tác phẩm tiêu biểu, xứng đáng thì chỉ còn là những mảng tường trắng vô hồn. Nhưng phòng tranh ấy cũng trở thành bát nháo, gây phản cảm cho người thưởng ngoạn (thậm chí độc hại) nếu tất tần tật “bức tranh” nào cũng được trưng bày - bởi đó chỉ là động thái đánh đồng “cá mè một lứa”. Mà việc làm ấy đòi hỏi bản lĩnh người làm văn hóa và có tâm với bạn đọc.

Lan man nghĩ về chuyện này bởi sáng nay đi mua 3 tập sách của Nguyễn Văn Vĩnh, rồi nhân tiện hỏi mua luôn bộ Tự điển văn học bộ mới giúp cho N.K.Luân. Tìm đỏ con mắt. Chưa ra. Tật xấu nhất của y, khi vào nhà sách là quên mất trời trăng mây gió. Không còn nhớ đến thời gian. Có những tính cách đã hình thành từ lúc ấu thơ, mãi về già vẫn còn đeo bám, bám theo con người đó. Thời nhỏ, đã đọc câu này trong Úc viên thi thoại của nhà thơ Đông Hồ, nay vẫn còn nhớ như in trong óc: “Mặt giấy nõn nường so với làn da ngọc của giai nhân, nét mực đen nhánh so với gợn tóc đen nhánh của giai nhân, lưng sách dịu thon so với đường lưng uốn thon của giai nhân, lòng sách trinh bạch so với lòng trinh bạch của giai nhân, trang giấy ngỏ ra như nếp áo lụa giai nhân phong phanh, bụi hương giấy vương vương như bụi phấn của giai nhân trang sức. Giai nhân là ai? Là trang sách, là nàng thơ, là nàng văn chương kiều diễm đang giữa xuân đời kiều diễm”. Thú tao nhã của người yêu sách cỡ Đông Hồ tiên sinh liệu có còn không?

Sáng nay, đứng trước một rừng giai nhân, chợt rúng người lúc quét một tầm mắt và dừng lại ở tập thơ Hóa thân (NXB Phương Đông) của Viên Linh vừa tái bản. Từ những năm 1973, y đã đọc tập san Thời tập do Viên Linh chủ trương. Số 1 phát hành ngày 14.12.1973. Do đó, sáng nay gặp tập thơ của ông bỗng trong lòng thức dậy một cảm tình xa xăm. Cảm tình của lúc thiếu thời mới chập chững gửi thơ đăng báo. Cảm tình dành cho Viên Linh dù chưa hề gặp mặt, chưa đọc nhiều thơ của ông. Không cảm tình sao được, bởi lúc ấy, y đã gửi bao nhiêu là thơ nhưng nào có được Viên Linh chọn đăng trên Thời tập đâu. Không cảm tình sao được, lúc ấy, tạp chí này mở chuyên mục “Tiếp xúc với người đọc về kinh nghiệm sáng tác” dành cho bạn đọc đặt câu hỏi với các nhà văn, nhà thơ nổi tiếng.

Trên Thời tập số 12 ra ngày 10.10.1974, các nhà văn Võ Phiến, Vũ Hoàng Chương, Võ Hồng, Lê Tất Điều, Vũ Hạnh, Du Tử Lê trả lời câu hỏi bạn đọc. Lần đầu tiên bút danh Thiên Bất Hủ được xuất hiện với câu hỏi: “Ông Vũ Hoàng Chương, ông làm thơ và có bài đăng báo lần đầu năm đó ông bao nhiêu tuổi?  Ông có thể cho bọn trẻ chúng tôi một lời khuyên nào khi chúng tôi đeo đuổi nàng thơ? Thưa ông, đó là câu hỏi mà chúng tôi tấm tức mãi mong ông giải đáp giùm”. Còn nhớ, với câu hỏi ấy, y nắn nót trên giấy học trò,  viết bằng mực tím. Và không sợ thư thất lạc, thay vì vào bưu điện nhỏ gần nhà, y đạp xe xuống tận bưu điện trung tâm ngay bờ sông Hàn gửi cho chắc ăn. Gửi về địa chỉ tòa soạn 51/51B Nguyễn Trãi, Sài Gòn 5. Gửi xong, hồi hộp chờ ngày ra báo. Chao ôi! Ngày đó, đọc xong câu trả lời của thi sĩ Đời vắng em rồi say với ai, thất vọng não nùng. Thất vọng như chắc mẩm cùng người tình cuộc hò hẹn đầu tiên nhưng lại bị cho leo cây, không một lời giải thích. Câu hỏi của y, thi sĩ Vũ Hoàng Chương trả lời như sau: “Đã cùng đeo đuổi nàng thơ tất chúng ta sẽ gặp nhau. Và cùng nhau tâm sự. Đâu có vội gì!”. Hết. Chấm hết. Ngắn gọn. Cụt lủn. Ức lắm. Sau này, ít nhiều được công chúng biết đến, khi đi giao lưu, trả lời câu hỏi của bạn đọc, lạ thay, y cũng gặp lại câu hỏi đáng yêu và ngây thơ như thuở vừa 14, 15 tuổi ấy. Thì ra, thời nào cũng có những người mê văn nghệ hồn nhiên, trong sáng đến thế.

Trở lại với tập thơ Hóa thân của Viên Linh. Mua hay không mua? Sở dĩ hỏi như thế, bởi dạo này đã quá chán đọc thơ. Bội thực. Thỉnh thoảng lại nhận thơ do bạn thơ gửi tặng. Đủ lắm rồi. Mua hay không mua? Cuối cùng, Hóa thân đã chọn y. Quay về cơ quan lại nhận được tập Hát bội, đờn ca tài tử và cải lương cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 (NXB Văn hóa Văn nghệ) của Nguyễn Lê Tuyên - Nguyễn Đức Hiệp do Công ty Phương Nam vừa gửi tặng. Nghĩ buồn cười, ngày nào cũng sách. Ngày nào cũng tiền có phải hay hơn không? Mà thôi, phân vân làm gì, hãy đọc lại bài thơ mở đầu tập Hóa thân. Tìm lại một kỷ niệm cũ của thời niên thiếu đã xa:

Đầu thai

Sớm nay trả lại ưu phiền

Đời ta đã nhẹ trăm miền hợp tan

Xuân hồng chỉ đỏ ngồi đan

Lưới thưa giăng một trần gian đứng chờ

 

Đừng khô sợi chỉ đừng khô

Trăm năm sống vội ngựa thồ xe bon

Ngón này chỉ nọ đan luôn

Lưới ơi mau rộng thân buồn sắp rơi.

 

Sớm nay trả lại ơn đời

Thâu canh bụi phủ thân người lãng du

Giọt mòn gieo mái thiên thu

Chân mưa dạ héo hon bù lúc vui

 

Sớm nay rộng đất xa trời

Trăm tay tượng đá nghe rời chỗ xưa

Lưới ơi chỉ hỡi đừng thưa

Bên kia dương thế hồn chưa chịu về.

 

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 23.9.2013


Quái quỷ. Sắc màu quái quỷ. Như bỡn. Như đùa.

Tự nhiên thèm vẽ.

Trưa. Mưa tầm tã. Như từ trời, thác trút. Như từ trời, vỡ đê. Ngoài sân ngập nước. Nghe đâu quê nhà có bão. Ngồi trong nhà, ngước ra sân, ngó lên tường, lật ngửa hai lòng bàn tay, nhìn săm soi bỗng từ trong ngực dội lên một cảm hứng muốn vẽ quá chừng.

Lâu quá đã quên béng đi những cọ, sơn dầu, toan trắng. Quên cảm giác của người chuẩn bị lao xuống biển dù trong ý thức hoàn toàn không có một khái niệm gì về hình khối, màu sắc. Một cảm phiêu du bồng bềnh thử thách lòng gan dạ của gã làm xiếc trên chiếc đu bay không có bảo hộ. Cảm giác ấy khó có thể tìm được khi làm thơ. Cảm giác mới mẻ. Lạ lùng. Bồn chồn. Chỉ một cú nhíu mày, nghiến răng, tay cầm chặt cọ. Hồi hộp thở. Dứt khoát thở. Và quyết liệt ném xuống toan trắng trinh nữ kia những vệt màu bất chợt. Nỗi sung sướng vỡ òa ra. Thở phào nhẹ nhỏm. Như vừa nhắm mắt, lấy trớn, lấy toàn bộ sức lực để lao qua vực thẳm.

Hú vía, đã qua được bờ này.

Vẽ đi.

Ông bà mình nói: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Nhờ có thời gian dài ngao du, đàn đúm với các anh chị họa sĩ - nhất là với Suối Hoa, con gái nhà thơ Huyền Kiêu nên từ tăm tối về hội họa cũng dần dần “sáng” ra đôi chút. Thấy họ vẽ, y cũng vẽ. Và dần dà đâm ra thích sắc màu. Vẽ như điên và cũng triển lãm chung với họ. Mỗi loại hình nghệ thuật đều có thế mạnh riêng. Hội họa, là một cuộc thể nghiệm mới mà cảm xúc thơ khó có thể đem đến. Trước toan và màu, y luôn là đứa trẻ con giàu cảm xúc. Như người mù tập đi. Như đứa trẻ tập nói. Chỉ “vọc” màu sắc theo cảm nhận và hài lòng với nó.

Chơi thôi.

Chơi trong cảm giác của một người sắp lao xuống biển. Các kỹ thuật, ý tưởng chỉ  zéro nên vẽ hoàn toàn theo cảm xúc. Theo ngẫu hứng. Theo sắc màu thay đổi thiên biến vạn hóa mà bức tranh ấy rốt cuộc sẽ ra sao, như thế nào. Chẳng biết nữa. Vẽ là một cách giải bày cảm xúc. Không nhằm một toan tính gì khác. Những bức tranh trên tường đã lần lượt ra đi. Hầu hết tặng bạn bè. Họa sĩ Việt Nam nhiều người vẽ đẹp. Rất đẹp. Thế nhưng vẫn chưa có nhiều tập sách của họ viết cảm nhận về hội họa, có chăng chỉ của các danh họa Nguyễn Gia Trí, Bùi Xuân Phái, Thái Tuấn. Chỉ có thế? Hay còn nữa mà thư viện của y không lưu giữ được? Những tập sách này đọc lôi cuốn, ngày đọc nhẩn nha vài trang, thấy thích. Thích bởi dấu ấn cá nhân, suy tư cá nhân về hội họa, không rập khuôn theo nguyên lý, nguyên tắc của sáo mòn lý luận. Thêm một quyển sách cũng viết cực kỳ hấp dẫn: Tiếp xúc với nghệ thuật của Thái Bá Vân. Thích bởi văn phong bay bướm khi trình bày một vấn đề thuộc về lý luận. Sự uyên bác về chuyên môn được ông trình bày dễ hiểu, rõ ràng. Quái, có nhiều người lại thích diễn đạt sự dễ hiểu, rõ ràng bằng câu cú rất tù mù rối rắm. Cứ như đánh đố người đọc. Thái Bá Vân không thế. Phải còn lâu lắm, nền mỹ thuật nước nhà mới có một Thái Bá Vân nữa. Nhìn ra ngoài trời vẫn lai rai mưa. Sao không lật hú họa lật vài trang? Thử đọc:

“Lịch sử và lịch sử nghệ thuật rất khác nhau ở một điểm là: lịch sử nghiên cứu và phán xét cái gì đã qua, còn lịch sử nghệ thuật thì nghiên cứu và phán xét cái gì còn ở lại.

Trên bàn viết của lịch sử là những con người, những triều đại, những nền văn minh đã đi. Nhưng trên bàn viết của lịch sử nghệ thuật là một đời sống thẩm mỹ còn lại. Nền văn minh nguyên thủy trồng lúa nước đã đi qua, nhưng nghệ thuật Đông Sơn thì vẫn còn đấy. Chế độ phong kiến đã chết, nhưng tranh làng Hồ và điêu khắc đình làng vẫn thờ.

Đó là cánh cửa ưu quyền mở cho các nhà lịch sử nghệ thuật, không phải để nhìn các tác phẩm như người ta nhìn ra hoa cỏ và mộ chí ở nghĩa trang mà là để vin vào Cái Đẹp, do con người làm ra, rồi vui vẻ đứng lên, bước tiếp vào cuộc sống”.

"Bước tiếp vào cuộc sống". Đúng thế, mọi giá trị, mọi lý luận từ cổ xưa, từ truyền thống đến hiện đại nếu không phục vụ cho cuộc sống hiện tại thì chẳng là gì. Tổng thống Mỹ Abraham Linconln đã nói được câu này, ghê gớm làm sao cho một tư duy đã nhìn ra quy luật của biện chứng: “Những giáo lý của thời quá khứ phẳng lặng không còn thích hợp với hiện tại đầy giông tố nữa. Chúng ta phải suy nghĩ và hành động theo một lối mới”.

Đêm. Mưa rả rích. Một cảm giác quạnh hiu. Đơn độc. Vùi đầu vào trang sách mãi cũng chán. Gấp sách. Và vẽ. Một không gian riêng biệt tạo dựng dưới mái nhà. Ở đó, có một gã mù đang lao nhanh trên đường cao tốc. Đang rú ga. Phóng xe bạt mạng ngoài xa lộ. Có một tay mơ dù không biết bơi nhưng dám cắm đầu xuống vực sâu đang cuồn cuộn sóng dữ. Y vẽ. Những màu sắc ném tung tóe lên toan. Những nhát cọ lướt ngon. Những đường bay sắc lẹm. Y vẽ. Như học tập đứa trẻ đứng trên đỉnh núi cất lên tiếng hú u oa của thuở mới lọt lòng. Như bắt chước đứa trẻ lang thang cỏ nội hương đồng thả vút cánh diều giữa chiều giông bão. Vẽ là một cách giết thời gian nhanh nhất. Cảm hứng tràn trề ùa đến. Dẫn đi. Đi đâu? Chẳng rõ. Mà cần gì phải nghĩ ngợi. Vẽ là dành toàn tâm toàn ý trong phạm vi khung vải đang đặt trên giá, đang phơi bày dưới nền nhà.

Nhà thơ, nhà văn viết kịch tài năng Lưu Quang Vũ (1948-1986) đã có lần tâm sự, đại khái: “Khi viết đến vở kịch thứ mười thì tôi đã nắm gọn trong tay mọi kỹ thuật, kỹ xảo để xây dựng hoàn chỉnh một vở kịch. Nhưng khi đã viết đến bài thơ thứ một trăm thì tôi vẫn không biết phải mở đầu và kết thúc như thế nào hoặc đánh giá thế nào là một bài thơ hay”. Vẽ cũng vậy thôi. Khó có thể nói trước sẽ vẽ cái gì. Vẽ thế nào. Đang muốn vẽ A, dần dà lại ngược qua B và cuối cùng đến xuôi tận Z. Cảm giác lúc buông cọ? Thở phào. Nhẹ nhỏm. Tưởng chừng vừa đội đá vá trời. Sống sót sau cuộc lữ hành vượt qua sa mạc. Lúc ấy, rông rênh. Rã rệu. Như với một người đàn bà. Ân ái với hoa. Làm tình với lửa. Vừa xong. Hồn chưa kịp về với xác. Thân xác rỗng không.

Hồn thơ gió cuốn bay vèo

Lấm lem cát bụi lộn lèo bến sông

Tưởng chừng bắt gặp hư không

Tâm thần vắt kiệt từng dòng phun ra

Chập chờn rờn rợn thịt da

Như xuân nữ hóa đàn bà phút giây

Hồn thơ cầm gọn trong tay

Mở ra đã thấy hao gầy nhân duyên

Vậy đó, sau vài giờ đồng hồ ngồi vẽ tưởng đã có thể ngủ yên với tranh đã vẽ. Nhắm mắt lại. Định tâm. Thở sâu. Chỉ một giây sau, mở mắt. Con mắt ném ngay cái nhìn vào bức tranh. Đột nhiên cười ngặt ngẽo: “Ủa? Ròng rã cả đêm chỉ thế này ư?”. Tranh xấu không thể tưởng. Xấu đến độ ma chê quỷ hờn. Không một chút bối rối. Xóa toẹt. Không nương tay. Không thương tiếc. Lại vẽ. Lại quay về điểm xuất phát. Đi lại những bước đầu tiên. Cảm hứng vẫn tươi ngon như lúc ban dầu. Y vẽ. Vẽ theo gì mình thích. Kinh tởm nhất vẫn là tranh sao chép. Dù có chép đúng y chang từng hạt bụi, từng sợi ánh sáng, từng mảng linh hồn nhưng vẫn vô hồn. Thích xem một bức tranh của đứa trẻ mẫu giáo hơn là nhìn bản sao cả một kiệt tác. Ai cũng vẽ được, nếu muốn, nếu ý thức rằng, tự mình nghĩ đẹp là đẹp chứ không kỳ vọng người khác cũng nhìn thấy đẹp như con mắt của mình đã thấy đẹp.

Có lẽ Tản Đà là nhà thơ trước nhất đã vẽ tranh. Trên báo Tao Đàn in năm 1939, nhà văn Nguyễn Công Hoa có kể câu chuyện xẩy ra vào khoảng năm 1913 hay 1914 gì đó nhân có cuộc “đấu xảo” tổ chức tại Hà Nội, thi sĩ Thề non nước đã dùng mực nho vẽ trên giấy tàu bạch một cành lan và trên có con cóc. Phía dưới bức tranh này có đề ba câu thơ lâm li:

Con cóc mà đậu cành lan

Cành ngô con phượng thế gian đã thường

Có ai thương cóc thì thương

Cha đẻ Kép Tư Bền kể tiếp: “Cửa nhà đấu xảo mở, tôi hăm hở tối nào cũng chen vào. Tôi sục sạo hết sức mà không thấy bức vẽ con cóc cành lan đâu cả. Sau hết, đến lần thứ tư, tôi mới tình cờ tìm ra. Mà không phải tôi nhận được nó vì thấy tranh con cóc cành lan, nhưng là do mấy câu thơ lục bát tôi thuộc lòng. Người ta bày nó ở một xó, xó tối, hình như ở chỗ để cất những cái bẩn đi cho khuất vậy. Bức tranh ấy có đóng khung, lồng kính, treo ở tường, nhưng hai cái đinh đỡ dưới thì tụt một. Tôi ngắm mãi mà không tài nào nhận ra đâu là cóc, đâu là lan, vì nó chỉ nhòe nhoẹt những mực chỗ thẫm chổ nhạt. Kết cục sự ngắm nghía là tôi không thể nhịn cười được”.

Đúng thế, xem tranh của nhiều nhà thơ mê mải vẽ, biết đâu cũng có nhiều người “không thể nhịn cười được”. Mà cũng chẳng sao. Vẽ để thỏa mãn một nhu cầu tự thân. Cho mình. Chính mình. Chứ không vì ai khác. Vậy tại sao lại bị chi phối bởi khen chê của người khác? Đêm qua, ngốn hết một đêm dài vào tranh vẽ. Rồi hài lòng. Cẩn thận treo lên tường. Tranh đẹp quá. Vì thế, giấc ngủ nhiều mộng đẹp. Cỡ các danh họa cũng chỉ vẽ đến thế. Kiêu căng chưa? Tự mãn chưa? Tự mình khen mình cho nó sướng bởi cả đêm vật lộn hùng hục với màu sắc đến đứ đừ đư thân xác. Mình khen mình là sự tỉnh táo, khó chết. Dễ chết nhất là sự ngộ độc bởi lời khen vô tội vạ của kẻ khác.

Sáng nay, trước lúc xuống giường, đã nghĩ bước chân đầu tiên trong ngày là đến xem lại bức tranh đã vẽ. Đã vẽ đêm qua. Ắt hài lòng. Ắt toe toét cười. Sung sướng. Vẽ tranh còn có cái thú đó. Thích xem lại tranh vừa vẽ xong. Mỗi lần xem, tự mình gật gù. Ngó tới, ngắm lui. Chà, nét vẽ thần sầu quỷ khốc. Sáng nay, sẽ có cảm giác ấy đấy chứ? Thật không? Vừa ngước nhìn tranh bỗng một tiếng nói dội đến: “Ủa? Ròng rã cả đêm chỉ thế này ư?”. Thất vọng não nùng. Cảm hứng tụt dốc. Bong bóng xì hơi. Chìm nghỉm. Thẩn thờ. Chỉ giây lát thôi. Lại vẽ. Ngốn mất luôn cả buổi sáng đầu tuần.

Quái quỷ. Sắc màu quái quỷ. Như bỡn. Như đùa.

 

ngnanamao-maio

 

Đến cơ quan họp thi đua quý. Tranh thủ đọc mấy tờ báo. Thời sự văn hóa, hầu như báo nào cũng đưa tin về Giải thưởng Sách hay 2013 do Viện IRED và một nhóm trí thức tổ chức. Nhìn chung chỉ có tờ TT&VH, nhà báo Trần Hoàng Nhân phản biện: “Nhiều băn khoăn về giải Sách hay”. Có chi tiết cần chú ý: “Nhìn vào danh sách những cuốn sách in bằng chữ Quốc ngữ đoạt giải thưởng này sẽ thấy đa phần là sách dịch. Có thể kể ở lĩnh vực “nghiên cứu” có cuốn: Xứ Đàng Trong, lịch sử kinh tế-xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18 do Nguyễn Nghị dịch của tác giả nước ngoài; lĩnh vực “giáo dục” có: 7 tri thức tất yếu cho nền giáo dục tương lai do Nguyễn Hồi Thủ dịch; lĩnh vực “kinh tế” có Tại sao các quốc gia thất bại do một nhóm dịch giả tiến hành…; Tệ hại hơn, trong các mùa giải trước, ở lĩnh vực “quản trị”, nhận giải cũng toàn sách dịch, lần này là cuốn Chiến lược đại dương xanh do Phương Thúy dịch…

Điều đáng nói là tất cả các cuốn sách dịch vừa nêu đều là sách cũ được in bằng tiếng Việt từ nhiều năm trước khi nhận giải thưởng Sách hay 2013. Ngay cả các cuốn sách do người Việt viết cũng là sách cũ. Ví dụ: Thần, Người và Đất Việt của nhà nghiên cứu Tạ Chí Đại Trường do NXB Văn hóa Thông tin in nhiều năm trước đây; hay như cuốn truyện thiếu nhi Những giọt mực của nhà văn Lê Tất Điều do NXB Văn hóa Văn nghệ và Phương Nam Book liên kết ấn hành cũng là quá cũ…

Mọi giá trị đã được khẳng định qua thời gian thì mặc nhiên tồn tại và hiển nhiên được con người đón nhận bất kể thăng trầm số phận của tác phẩm đó. Nhưng như đã nói ở trên, các tác phẩm được nhận giải Sách hay trong các mùa giải qua đều là những cuốn sách đã khẳng định giá trị qua thời gian. Như vậy, đến hơn một thập kỷ thứ nhất của thế kỷ 21, thêm một giải thưởng cho các giá trị đã xác định theo thời gian để làm gì nữa?”. Và đúng như bài báo này nhận xét: “Những cuốn sách đã khẳng định giá trị thời gian hay thời cuộc của mình, thì cuốn sách đó đã làm xong số phận của mình rồi!”

Sự phản biện này không thừa.

Lẽ ra Giải thưởng Sách hay 2013, phải là sách ấn hành trong năm đó? Nếu lựa chọn những giá trị cũ, liệu có là tác động tích cực tạo "cú hích” kịp thời cho ngành xuất bản?  Mà thôi, ban giám khảo nào, ban tổ chức nào thì sẽ có kết quả đó. Nếu y, chắc chắn trong danh sách phải có cuốn này, cuốn kia, chẳng hạn Ngàn năm áo mũ (NXN Trí Thức) của Trần Quang Đức - một công trình nghiên cứu công phu và đầy tham vọng với mục đích dựng lại bức tranh trang phục Việt Nam trong cung đình và ngoài dân gian trong khoảng một nghìn năm từ thời Lý đến thời Nguyễn (1009 - 1945). Nói như thế, để thấy cuộc thi nào, cuộc trao giải nào cũng vậy. Chỉ có tính tương đối. Vấn đề là nhìn vào mục đích của nó. Mục đích của trao giải Sách hay hằng năm này rất cần biểu dương bởi từ đó, chắc chắn sẽ góp phần khơi dậy văn hóa đọc. Vậy tốt quá.

Chiều nay làm gì?

Y hỏi y nhưng chưa nghe câu trả lời.

 

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 22.9.2013

 

Có những lúc ban đầu định kế hoạch thế này, cuối cùng lại thế kia. Sáng nay, vẫn phở với T.H.Nhân. Trời mưa lất phất lơ phơ, tạo cảm giác phở ngon hơn mọi ngày. Hai anh em, mỗi người một xe sẽ đến khách sạn Rex tham dự công bố Giải thưởng Sách hay 2013. Trên đường đi, tạt ngang qua nhà thờ Đức Bà, xuôi về trung tâm Q.1. Chợt đổi ý. Bởi trời đổ mưa. Mưa nặng hạt như suối nguồn từ trời cao ập xuống. Một cảm giác mát lạnh. Mưa chạm vào mắt môi. Vui như trẻ con. Ngày chủ nhật. Đường phố vắng hơn mọi ngày. Tự nhiên trong lòng thấy vui. Những nam thanh nữ tú khoác vai nép mái hiên. Cười nói ồn ào. Ngược xuôi vẫn xe. Vẫn mưa. Không nhìn thấy một cái ô (dù) nào trong mưa. Ô hay, đã lâu mới thoát khỏi công việc, hiên ngang bước ra khỏi nhà vào ngày chủ nhật, vậy mà.

Vậy mà cái gì?

Vậy mà lại tiếp tục chui vào căn phòng máy lạnh với những lễ nghi, những chào hỏi, những bắt tay, những lời thăm hỏi. Những bức tường. Những trang sách. Những âm thanh đã nghe mỗi ngày. Những đau đáu phải suy nghĩ mỗi ngày. Ôi! Mệt. Lúc này, trời đang mưa. Mưa xanh. Mưa tím. Mưa hồng. Nhiều sắc màu. Những vòm cây xào xạc trên từng lá biếc. Lá nõn. Lá thơm. Và em đang thấp thoáng đâu đó trong trí nhớ của những ngày rượu đỏ sóng sánh ly pha lê trắng muốt ngón tay cầm thơm mùa mận chín.

Mỗi ngày một mới lạ thêm

Mặt trời lên đặng ngắm em mỗi ngày

Mỗi ngày ngày một ngày hai

Một tôi hai bóng bởi đầy bóng em

Ủa? Sao lại không tận hưởng lấy giây phút này? Tận hưởng bằng những vòng bánh xe lăn trên phố không định trước. Đi đâu về đâu trong sáng nay? Chẳng biết nữa. Nhưng ngay lúc này. Ngay bây giờ đang có giây phút thật sự bình yên. Tận hưởng đi. Cần gì phải đợi lúc “ngựa hồng đã mỏi vó” (Trịnh Công Sơn)? Đợi gì nữa? Chẳng lẽ đợi như lúc nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm rời khỏi quan trường, trở về Huế mới có thể nhẹ nhàng thốt lên:

Bây giờ là lúc có thể chia tay với điện thoại để bàn, các vi-dít, nắm đấm mi-crô

Tự do lên mạng với đời sống, ăn ngủ với bụi đường

Một mình một ba-lô và xe đạp

Bây giờ gió gọi anh đi

Cần quái gì phải đợi đến ngày ấy. Nghĩ thế, thay vì vào Rex lại quay xe đi về hướng sông Sài Gòn. Đi chậm và nhìn mưa lướt qua mặt. Xòe tay lau mặt. Những giọt nước mưa ngọt lành. Vậy mà lâu nay đã quên. Đã xa. Thế là, cứ phóng xe đi trong mưa. Buổi sáng. Sáng đẹp như mơ. Không một ai nhắn tin. Không một ai gọi điện thoại. Chỉ có mưa réo gọi phải đi. Đi trong phố và nhớ một người. Một cảm giác của tuổi trẻ hừng hực men say của một ngày không bận rộn. Ngang qua khách sạn Continental sực nhớ ngày 20.9 tại đây có một sự kiện liên quan đến nhà tình báo Phạm Xuân Ẩn:

 

ban-dong

 

Một tấm bảng đồng được gắn tại căn phòng 307, lầu 2 của khách sạn này. Nội dung dịch ra tiếng Việt (ảnh): “Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, Khách sạn Continental Sài Gòn, trước đây có tên gọi là Continental Palace, từng là trụ sở của các tạp chí danh tiếng Time và Newsweek. Với sứ mệnh là một nhà tình báo chiến lược, Tướng Phạm Xuân Ẩn, đã đi học báo chí ở Mỹ, và sau đó là nhà báo chính thức của hãng tin Reuters, Tạp chí Time và New York Herald Tribune, đã từng hoạt động tại đây cho đến ngày 30/4/1975”. Người biên soạn văn bản trên là nhà nghiên cứu người Mỹ Larry Berman, tác giả cuốn sách Điệp viên hoàn hảo X6.

Có lẽ chỉ dừng tại đó vẫn chưa đủ. Đừng quên một sự kiện khác cũng cần được lưu giữ lại, cũng tại lầu 2. Trong Du lịch của người câm, khi y sang Hà Lan, đến khách sạn De Wereld: “Một thói quen của sự liên tưởng đã khiến tôi sực nhớ về khách sạn Continental ở Sài Gòn. Nơi nhà văn tiến bộ Anh Graham Greene đã viết tác phẩm nổi tiếng The quiet American (Người Mỹ trầm lặng). Ông đã đến Việt Nam lần đầu khoảng năm 1942-1943, sau đó còn quay lại khoảng năm 1951 -1953. Thời gian này, ông đã ở khách sạn Continental và đã viết tác phẩm nổi tiếng trên tại phòng 214 (lầu 2). Căn phòng này được cấu trúc nằm ở góc nhìn ra Nhà hát Lớn và đường Đồng Khởi. Sau một phần tư thế kỷ viết The quiet American, ông đã phát biểu: “Tôi đã đến Việt Nam vì đã yêu đất nước đó. Tôi đã yêu ngay tức khắc từ khi đến đó lần đầu”. Vào khoảng thập niên 1960, nhiều người yêu thích tác phẩm này đã đến khách sạn Continental để đoán già đoán non ai là nguyên mẫu của nhân vật Phượng? Và gần đây, năm 2002, nó được Hãng phim Giải phóng hợp tác với nước ngoài dựng thành phim. Nếu khôn khéo, ta cũng có thể học tập được như người Hà Lan đang kinh doanh khách sạn De Wereld chăng? Bằng tư duy của nhà thơ, kẻ luôn thất bại trên thương trường, khó có thể kiếm được nhiều tiền, nhưng tôi trộm nghĩ nếu phục hồi nguyên trạng căn phòng mà nhà văn đã ở thì ít nhiều cũng đạt hiệu quả về quảng bá “thương hiệu” Continental và kinh doanh?”

Lan man thế thôi. Chẳng phải nghĩ gì thêm. Trời đang mưa. Hình ảnh những thanh niên khỏe khoắn trên đường phố đã gợi một tình cảm mới. Một hình ảnh mới. Mấy hôm nay, trên mạng truyền thông ồn ào về vụ Huyền Chip - một cô bé 21 tuổi đã vác ba lô lang thang qua nhiều nước. Và viết luôn tập sách Vác ba lô lên và đi. Hoan hô tuổi trẻ. Dám đi. Dám thể nghiệm cảm hứng đầu đời. Nhiều người nghi ngờ chuyện này không thể xẩy ra với một cô nhóc. Sau đó, cô có đưa ra vi - sa đã chứng minh đã đến 25 nước. Dám đi là “ngon” rồi. Cứ nhìn Tây ba lô đi, nghĩ gì? Khâm phục quá đi chứ. Chỉ vác ba lô, ít xu trong túi là họ lên đường. Hình ảnh tuổi trẻ đẹp nhất là lúc rồi khỏi mái ấm, lên đường. Đến một xứ sở mới và mở rộng một tầm nhìn. Nếu không có phong trào Đông Du do cụ Phan Bội Châu khởi xướng, liệu trước 1945 có hình thành một thế hệ trí thức mới? Diễn thuyết chủ đề Lý tưởng của thanh niên An Nam đêm 15.10.1923 tại Sài Gòn, nhà yêu nước Nguyễn An Ninh, năm đó 25 tuổi đã kêu gọi: “Các bạn trẻ! Chúng ta hãy bỏ cha mẹ ra đi, phải xa lánh gia đình chúng ta, thoát khỏi xã hội chúng ta ngày nay, phải lìa xa xứ sở. Phải dấn thân vào cuộc sống đấu tranh, để khơi dậy nguồn sinh lực còn tồn đọng trong ta”. Đi là học. Đi để thấy nỗi nhục mình còn thua kém người ta. Đi để thắp lên một khát vọng lành mạnh cho cộng đồng mà Nguyễn An Ninh đã kỳ vọng: “Hãy tôn sùng những ai đã dùng tài năng hay thiên phú của mình mà tự nâng vị trí của dân tộc ta trên thế giới, và những ai đã đóng góp vào việc cải thiện điều kiện sống cho dân tộc chúng ta”. Lời kêu gọi này vẫn ý nghĩa thời sự đấy chứ? Ít ra, đối thoại với bạn trẻ có tư duy ấy vẫn hào hứng hơn. Bởi ở nhiều người trẻ hiện nay, phần lớn chỉ nghĩ rặt những tính toán cỏn con. Phải quan hệ thế này với anh  Ba này, ông Tư kia, cô Năm kìa, chú Sáu nọ. Phải tạm thời ngồi vị trí kia. Phải thế này, phải thế kia thì mới co thể leo lên vị trí nọ. Nghe rất mệt. Mệt với câu thành ngữ mới: "Mười năm phấn đấu không bằng cơ cấu một lần". Tục ngữ, thành ngữ, ngạn ngữ, phương ngữ ra đời từ hiện thực xã hội, là kinh nghiệm sống mà nhân dân đã đúc kết lại và truyền từ đời này sang đời nọ. Đã "cơ cấu" thì những tiêu chí, nguyên tắc đặt ra trước đó không còn là yếu tố quyết định nữa.

Lũ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp

Giấc mơ con đè nát cuộc đời con

Hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp

Một mái nhà yêu rủ bóng xuống tâm hồn

(Chế Lan Viên)

Tư duy ấy, vẫn còn phổ biến? Nếu còn, khó có thể tin cậy và kỳ vọng một điều gì lớn lao hơn, ở những người trẻ tuổi. Mấy hôm nay, Sài Gòn mưa lớn. Kỳ lạ, nếu Sài Gòn mưa to gió lớn là nơi nào đó trên đất nước mình có bão. Vậy mà, dân Sài Gòn vẫn bình chân như vại. Ô hay! Vậy còn đâu tính cách của người Sài Gòn? Còn nhớ, trước đây chừng mươi năm tinh thần “lá lành đùm lá rách” trong mỗi người dân Sài Gòn mạnh mẽ, nhiệt tình, kịp thời hơn bây giờ nhiều lắm. Nói gần nói xa, chẳng qua nói thật. Trong đó, có một phần tích cực của báo chí. Báo chí kêu gọi xã hội đóng góp, rồi trực tiếp vận chuyển hàng hóa cứu trợ đến tận nơi. Từ vùng bão lụt, họ viết bài tường thuật. Những bài báo nóng hổi thông tin chân thực đã tác động ghê gớm đến tình cảm mỗi người. Qua đó, một nơi có lũ lụt thiên tai là cả nước biết, cả nước chung tay. Vẫn còn nhớ các chị, các mẹ tiểu thương chợ Bến Thành, Bà Chiểu, Tân Bình.... lũ lượt đến báo P.N đóng góp  gạo, mì tôm, quần áo cũ... rồi đóng góp cẩn thận cho anh em nhà báo trước lúc đến vùng bão lụt. Hình ảnh đẹp và cảm động của tình người "bầu ơi thương lấy bí cùng"...

Bây giờ đã khác.

Phải quy hàng cứu trợ về một đầu mối, sau đó người ta phân phát đi. Phân phát với suy nghĩ của một công chức làm tròn nhiệm vụ chứ không phải là sự dấn thân. Một bất cập hiển nhiên đã rõ: Không phải cơ quan nhà nước nào cũng có thể làm công tác từ thiện. Thời gian qua, đã có nhiều vụ việc đau lòng, chẳng hạn, gạo chở đến vùng cứu trợ nhưng lại không đến tay người dân. Gạo ẩm mốc chất đầy  trong kho! Vô lý chưa? Tàn nhẫn chưa? Rồi lại các lý trưởng, quan xã cắt xén hoặc chỉ ban phát cho ruột rà v.v… Nghe mà rầu thúi ruột.

Ngoài trời vẫn mưa.

 

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 18.9.2013


Đang trên đường đi làm, có cú điện thoại: “Q ơi! Phở”. Đến một lúc nào đó, ăn sáng luôn cần một, vài người bạn ngồi chung đấu láo, bông phèn vài câu. Đỡ buồn. Ngồi một mình? Cúi mặt xuống trang báo. Chán chết. Chán bởi tờ báo dày cui nhưng chưa xong bát phở đã có thể khép lại. Chỉ đọc loáng cái tít, cái tựa, nhảy cóc vài dòng. Hiểu na ná nội dung. Là xong. Xong một tờ báo. Xong thông tin cần biết của một ngày. Đã nghe nhiều người bạn la toáng lên: “Mỗi ngày mua một xấp báo mà chẳng biết đọc gì!”. Chẳng biết đọc gì? Quái, nghe lạ. Có thể do những chuyện mình quan tâm không xuất hiện trên mặt báo? Có thể do mình chẳng quan tâm gì đến cái sự đời nữa? Nếu thế, nếu chẳng quan tâm gì đến cái sự đời ấy là lúc tuổi già đang dần dà lướt đến. Do già nên lẩm cẩm tự hỏi người đàn bà góa chồng khi ăn một mình như y mỗi ngày sẽ thế nào?

Một mình một mâm cơm

Ngồi bên nào cũng lệch

Chị chôn tuổi xuân trong má lúm đồng tiền

Câu thơ của Hữu Thỉnh buồn rười rượi. Có những câu thơ vụt đến. Đọc một lần là nhớ. Chị chôn tuổi xuân trong má lúm đồng tiền. Y chôn tuổi xuân ở đâu?

Ngược thì ngược xuôi thì xuôi

Trái đất chật hẹp tới lui mỗi ngày

Căn phòng rộng cỡ gang tay

Cớ sao ngày lại qua ngày rộng rinh?

Từ hoàng hôn đến bình minh

Tôi cô độc tựa vết đinh trên tường

Có thật vậy không? Viết xong câu thơ, y lại tự hỏi. Đêm qua đã ghé Nhà tang lễ TP.HCM thắp cho đồng nghiệp Hoàng Hoài Sơn nén nhang. Vĩnh biệt bạn mình. Cũng một kiếp người. Nơi này, không có nhà sư tụng kinh, không có bàn thờ Phật nên càng gợi lên cảm giác lạnh lẽo, buồn bã. Khâm phục Sơn ở chỗ vẫn tin mình sống, vẫn có thể giúp ích cho đời. Những ngày đối đầu thần chết, anh vẫn đứng ra làm ấn phẩm K+ Sức khỏe chuyên về bệnh ung thư. Trong đó có những bài của người này, người kia viết về kinh nghiệm chữa trị bằng thuốc Nam mà lành bệnh. Nhà thơ Hoàng Cát kể chuyện nhờ nước ép mãng cầu xiêm, ông trị hết bệnh ung thư hạch; GS Phùng Văn Bộ, từng dạy Đại học Đà Lạt chữa hết ung thư tuyến tiền liệt bằng cách nấu lá đu đủ, lá sả thay thức uống mỗi ngày. Có lẽ do “may thầy phước chủ”? Chẳng biết nữa.

Đã lâu lắm mới ghé lại Trường Đại học Sư phạm. Tham dự ra mắt sách của Cuộc thi Văn học tuổi 20 lần V. Khác với các lần trước, có tác phẩm tham dự lần này, nếu chất lượng tốt sẽ được xuất bản và nhận nhuận bút trước ngày công bố kết quả. Sáng nay, ra mắt 5 tác phẩm đầu tiên: truyện dài Anh đã đợi em, từng ngày (Nguyễn Thị Thanh Bình), truyện dài Hạt hòa bình (Minh Moon), tập truyện ngắn Ngôi nhà không cửa sổ (Khiêm Nhu), truyện dài Ở trọ Sài Gòn (Nguyễn Hoàng Vũ) và truyện dài Urem - Người đang mơ (Phạm Bá Diệp). Cuộc thi này do Hội Nhà văn TP.HCM, NXB Trẻ và báo Tuổi Trẻ phối hợp tổ chức. Dự kiến được công bố vào ngày 2.9.2014.

Trường Sư phạm đã xây lại, tạo cảm giác thoáng đãng, rộng rãi hơn. Từ ngoài cổng đã thấy các thông tin về ra mắt sách. Có điều nhìn đi nhìn lại trong khán phòng vẫn những gương mặt quen thuộc. Vẫn nhà báo, nhà văn bạn hữu. Không có nhiều sinh viên tham dự. Ngạc nhiên quá chừng. Một sự kiện liên quan đến văn hóa đọc tổ chức ngay tại trường sao họ lại hờ hững thế kia? Nhiều sinh viên lững thững lơ thơ đi dạo trong sân trường; vẫn ngồi trên băng ghế chuyện trò không buồn ghé mắt đến. Chẳng hiểu vì sao nữa. Một câu hỏi vọng lên trong óc. Chợt buồn buồn.

Sức hấp dẫn nhà văn đã hết thời chăng?

Đọc lại báo chí miền Nam trước 1975, rõ ràng thời ấy nhà văn có uy lắm. Ngày 25.6.1962, danh ca Dalida đến Sài Gòn và ở tại khách sạn Caravellle, lầu 6, phòng 606. Trong cuộc trò chuyện thân mật đầu tiên với báo chí Sài Gòn, ban tổ chức còn mời cả nhà văn Mai Thảo, nhà thơ Hoàng Anh Tuấn. Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, danh  ca Dalida: “Sinh ra ở Cairo, Ai Cập trong một gia đình gốc Ý, sau đó lại hoạt động nghệ thuật chủ yếu ở Pháp, Dalida có thể hát bằng hơn mười thứ tiếng khác nhau trong đó có rất nhiều bài đã trở thành bất hủ như Bambino, Besame Mucho, Paroles... Paroles... hay Le temps des fleurs”. Chi tiết này chưa chính xác, cuộc trò chuyện này báo Kịch Ảnh số 19 (7.7.1962) có chi tiết:

“Thấy cái pip của Mai Thảo tắt lửa, Dalida lấy bật lửa châm hộ.

Mai Thảo tinh nghịch:

- Cám ơn Dalida.

Dalida lắc đầu:

- Không! Tôi là Yolanda Gigliotti, sinh tại Serrastrara, Ý Đại Lợi.

Mai Thảo tiếp lời:

- Lớn lên tại Caire, Ai Cập, nghe lời đạo diễn điện ảnh De Gastyne, tới Paris định làm minh tinh điện ảnh, nhưng rốt cuộc thành ca sĩ”.

Vừa tìm thông tin trên goole về danh ca Dalida, được biết: “Đêm ngày mùng 2, rạng sáng ngày 3.5.1987, Dalida tự sát bằng thuốc an thần và qua đời tại nhà riêng trên phố Orchampt thuộc khu Montmartre, bà chỉ để lại một dòng trăng trối: “La vie m'est insupportable, pardonnez-moi - Tôi không thể chịu đựng cuộc sống thêm được nữa, hãy tha lỗi cho tôi”.

Chi tiết này cảm động. Phẩm chất của một nghệ sĩ đích thực đấy ư?

Đọc Nghiên cứu văn học (số 15 tháng 5.1972), có bài tường thuật nhà văn Duyên Anh đến nói chuyện  với sinh viên Đại học Văn khoa Sài Gòn vào lúc 15g30 ngày 6.3.1972. Cuộc trò chuyện kết thúc lúc 18g30 dù sinh viên vẫn còn hào hứng. Trước đó, GS Thanh Lãng cũng mời nhiều nhà văn khác đến trò chuyện ngoại khóa với sinh viên. Đọc tạp chí Văn số cuối cùng có chi tiết, khi trường Phan Châu Trinh (Đà Nẵng) tổ chức húy nhật cụ, ban tổ chức đã  cất công vào Sài Gòn mời nhà văn ra tham dự. Thời đó, một giọng ca, một gương mặt diễn viên càng trở nên “sang trọng” hơn khi có bài nhận định của nhà văn, nhà thơ.

Bây giờ đã khác. Sự khác biệt này bình thường. Hào quang mỗi thời mỗi khác.

Thế kỷ trước, những nhà nho cấp tiến, tù chính trị vì chống phong kiến, đế quốc mà phải cơm Côn Đảo, Hỏa Lò, Sơn La, Kon Tum... khi trở về đời thường được xã hội trọng vọng, kính nể. Vụ tranh luận Truyện Kiều thập niên 20 - 30 thế kỷ XX giữa Phạm Quỳnh, Ngô Đức Kế, Phan Khôi, Huỳnh Thúc Kháng... chưa nói về lý lẽ mỗi bên nhưng ít nhiều dư luận vẫn có thiện cảm với các "ông Nghè" ăn cơm tù đã mòn răng; hoặc nhà thơ trào phúng Nguyễn Thiện Kế, anh rể thi sĩ Tản Đà sau khi Côn Đảo về lại được làng xã nể nang, kính trọng; bà con lui tới chăm nom, giúp đỡ để hào hứng nghe ông kể chuyện ngồi tù v.v... Ngay cả Đội Cấn vì cảm phục người tù ái quốc Lương Ngọc Quyến mà cùng tham gia lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên năm 1917 đấy chứ. Tóm lại, thời đó những ai làm "quốc sự", tham gia "hội kín" được xã hội nể trọng, tin cậy. Rồi như ta biết, giới trí thức trước 1975 tại miền Nam như nhà giáo, nhà văn cũng vậy. Bây giờ đã khác.câu thành ngữ mới: "Chuột chạy cùng sào mới vào sư phạm" đã cho thấy một thái độ. Hào quang mỗi thời mỗi khác. Bình thường thôi. Có điều, hiện nay vẫn có những nhà văn rất thu hút bạn đọc, nhưng các sự kiện kinh tế, chính trị, xã hội lại ít thấy mời đến họ, chỉ rặt ca sĩ.

Hình ảnh hào nhoáng, âm thanh rôm rã, "chém gió" náo nhiệt mới là “điểm nhấn” của thời đại chăng?

 

L.M.Q

dalida

Danh ca Dalida qua báo chí Sài Gòn (1962)

vannghe-sai-gon

Nhà văn Sài Gòn tiếp danh ca Dalida tại KS Caravelle, (ảnh dưới cùng: từ phải nhà báo Quốc Phong, Dalida, nhà văn Mai Thảo, nhà thơ Hoàng Anh Tuấn)

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 17.9.2013

 

Mấy hôm nay nằm đọc lại TTC, đọc lai rai chút đỉnh đặng viết tham luận chủ đề: “Sự đóng góp của TTC trong lãnh vực báo chí, văn học và hội họa trong 30 năm qua”. Sẽ tổ chức vào ngày 5.12.2013 tại báo TT. Cũng đọc luôn Thông báo Hán Nôm học năm 2010 - 2011. Bởi đang quan tâm về vụ tên húy của vua chúa Việt Nam nên đọc ngay bài khảo cứu của ông Nguyễn Khắc Bảo (Hội Ngôn ngữ học Việt Nam). Lâu nay, các nhà nghiên vẫn chưa có kết luận thống nhất thi hào dân tộc Nguyễn Du đã sáng tác Truyện Kiều vào năm nào? Ông Bảo tìm ra một bản Kiều Nôm cổ đã in những chữ phạm húy vua Gia Long vì dám dùng chữ "Chủng" (tên vua hồi nhỏ) để ghi âm chữ "Giống" trong câu Kiều 853 "Tuồng chi là giống hôi tanh" và câu 1728 "Diếc rằng: Những giống bơ thờ quen thân". Đã thế, còn phạm húy cả chữ Lan (tên mẹ cả của vua Gia Long) trong câu 1310 "Thang lan rủ bức trướng hồng tẩm hoa"; câu 1988 "So vào với thiếp Lan Đình nào thua". Từ đó, ông kết luận: "Chúng tôi tin rằng thời gian thích hợp nhất để Nguyễn Du viết Truyện Kiều là khoảng (1796-1801) tức vào thời Tây Sơn" (tr.37). Thú vị chưa? Thú vị quá nên đọc mải mê. Vì thế, nhận nhiều tin nhắn: “Nhật ký đâu anh?”.

Thì đây.

Những ngày hôm nay vẫn thế. Vẫn nhẹ nhàng trôi qua. Vẫn thói quen đã công thức. Đã lập trình. Vẫn giờ nào việc nấy. Đã lâu rồi không có niềm vui cho ngày cuối tuần. Một chỗ ngồi. Một rượu đỏ. Một không gian riêng biệt nhìn xuống dòng sông Sài Gòn. Sắp rồi. Thời gian qua nhanh. Sáng nay, trên đường vào cơ quan, nghĩ lẩn thẩn rằng, nếu ai làm một công trình nghiên cứu, đại loại, ở Việt Nam hiện nay một người gọi là trẻ khi họ ở độ tuổi nào?

Thời trước, 20 tuổi gọi trẻ, nay gọi trẻ con? Còn nhớ, hồi giữa tháng 8.1998 lúc diễn ra Hội nghị Nhà văn trẻ toàn quốc do Hội nhà văn Việt Nam tổ chức, “nhà văn trẻ” được quy định là những ai sinh sau ngày 1.1.1963 - tính ra lứa tuổi trung bình là tuổi 35.

Trong văn học nghệ thuật thế kỷ trước, tinh hoa phát tiết ở lứa trẻ chắc nhiều hơn hiện nay chăng? Thử đưa ra vài ví dụ, tập thơ Từ ấy của Tố Hữu ấn hành năm 26 tuổi. Nhiều nhà phê bình cho rằng, Lửa thiêng là tập thơ toàn bích nhất của phong trào Thơ Mới, năm đó Huy Cận 21 tuổi. Những câu tuyệt bút: “Yêu là chết trong lòng một ít” trong tập Thơ thơ (1938), năm đó Xuân Diệu cũng mới 21 tuổi. Lỡ bước sang ngang  (1940) của Nguyễn Bính xuất bản năm 22 tuổi. Thế Lữ năm 28 tuổi đã có Mấy vần thơ (1935) và trở thành ngọn cờ đầu của phong trào Thơ mới. Anh Thơ có Bức tranh quê (1941)  lúc 20 tuổi, Chế Lan Viên với Điêu tàn (1937) lúc tròn I7 xuân…

Thời đó, họ trẻ hay già trước tuổi? Tập thơ Tiếng thu của Lưu Trong Lư in năm 1939, lúc đó ông mới 27 tuổi nhưng đã thấy:

Lòng anh đã rời rụng

Trên sông ngày tàn rơi

Năm 24 tuổi, Nguyễn Bính thở than:

Hai mươi bốn tuổi trên đầu

Hai mươi bốn tuổi qua cầu lệ rơi

Là xong hết nửa kiếp người

Là xong hết cả quãng đời thơ ngây...

Mới ngoài 20 nhưng họ đã thấy già lắm rồi, đã "nửa kiếp người"! Tương tự, Nam Cao năm 24 tuổi có truyện ngắn xuất sắc Chí phèo (1941), Nguyễn Công Hoan 20 tuổi có Kiếp hồng nhan, Nguyên Hồng 19 tuổi có Bỉ vỏ, Hoài Thanh 27 tuổi có Văn chương và hành động (viết chung với Lê Tràng Kiều và Lưu Trọng Lư) vừa in xong, bị tịch thu! Tô Hoài 21 tuổi có Dế mèn phiêu lưu ký hoặc Vũ Trọng Phụng chỉ sống 27 năm trên trần gian này nhưng đã tạo ra một sự nghiệp vững chắc là năm 19 tuổi đã có vở kịch gây chấn động dư luận Không một tiếng vang; năm 21 tuổi có phóng sự Cặm bẩy người v.v… hoặc Bùi Hiển năm 21 tuổi có Nằm vạ (1941)…

Thế hệ sau, có thể nhắc đến Anh Đức có Một chuyện ghi chép ở bệnh viện năm 24 tuổi, Nguyễn Khải có Xây dựng năm 21 tuổi, Vũ Tú Nam 21 tuổi có Bên đường 12, Nguyên Ngọc 23 tuổi có Đất nước đứng lên, Vũ Huy Tâm 25 tuổi có Vùng mỏ… Chúng ta có thể dẫn chứng thêm nhiều nữa để thấy rằng trước đây các tác gia Việt Nam thành danh rất sớm. Dù vẫn biết, không thể lấy tuổi tác để khẳng định giá trị tác phẩm nhưng quả thật thời đó người ta "thành danh" lúc còn rất trẻ. Không riêng gì văn học, các lãnh vực khác cũng thế.

Thế hệ đó “già trước tuổi” chăng?

Không, thế hệ đó “chín sớm”.

Thế hệ hiện nay đang “chín muộn”. Hiện nay, nhìn vào hệ thống chính quyền nhà nước, khó có thể tìm ra những người dưới 30 có thể giữ những vị trí chủ chốt. Trên những điễn đàn, hội nghị bàn chuyện tầm cỡ quốc gia đại sự cũng khó nhận thấy những gương mặt trẻ.

Chợt nghĩ lan man về trường hợp một nhóm bạn tuổi teen quỳ xuống, kính cẩn hôn chiếc ghế của ngôi sao ca nhạc Hàn Quốc - Bi Rain đã ngồi, trong đêm lưu diễn tại Nhà hát lớn Hà Nội. Họ trẻ hay trẻ con? Chợt nghĩ lúc hàng ngàn các bạn trẻ rầm rộ, hào hứng, chen lấn, hò reo, căng băng ron tại sân bay, ầm ĩ chào đón Omar - một thanh niên không có tài năng gì ngoài biệt danh “trai đẹp”. Họ trẻ hay trẻ con? Chỉ có thể trả lời, họ “chín muộn”. Nói như thế không phải trách móc, cười ruồi cái trò nhố nhăng ấy vào mặt họ.

Không, trò bỉ ổi nhất của người lớn là đã lợi dụng tuổi trẻ. Thời buổi nào cũng vậy. Tuổi trẻ luôn cô đơn. Tuổi trẻ dễ bị khích động. Tuổi trẻ thèm đám đông. Tuổi trẻ có tâm lý bầy đàn. Vấn đề đặt ra người lớn có đủ tư cách, trách nhiệm, lòng tốt hướng dẫn tuổi trẻ? Đặt câu hỏi này, chẳng khác gì trong ngày nắng hạn ngồi ngáp dài, ủa sao chẳng thấy mưa? Cái gốc, cái cốt lõi nhất vẫn là hệ thống giáo dục. Hệ thống đó đào tạo tuổi trẻ theo mô hình, chiều hướng nào? Một câu hỏi ai cũng trả lời được nhưng rồi đâu lại vào đó. Nhà văn Hoàng Ngọc Hiến có câu nói cửa miệng rất trứ danh: “Cái nước mình nó thế”.

Mà có riêng gì lãnh vực giáo dục, ở đâu người ta cũng có thể thốt lên câu slogan của ông Hiến.

Thử nhìn qua một lãnh vực khác. Rằng, ròng rã mấy mươi năm nay, thiên hạ kêu trời, kêu trời như bộng bởi con cháu Tần Thủy Hoàng tung đòn quá độc. Tạm liệt kê: Chúng nó đổ xô tìm mua chuối với giá cao ngất ngưỡng nên cả huyện Hướng Hóa (Quảng Trị) hè nhau đi trồng chuối! Đùng một cái đến mùa thu hoạch chúng nó mất hút con mẹ hàng lươn! Rồi thị trường dừa trái ở Bến Tre cũng được con cháu Sầm Nghi Đống thu mua tất tần tật khiến ngành chế biến dừa của ta có nguy cơ ngồi chơi xơi nước - vì thiếu nguyên liệu sản xuất! Đã thế, con cháu Tôn Sĩ Nghị còn lặn lội xuống tận Bạc Liêu ồ ạt thu mua tôm, kể cả tôm có bơm tạp chất cũng mua tuốt tuồn tuột! Chưa hết, hậu duệ Ô Mã Nhi còn mò đến Vĩnh Long thu mua khoai giá cao khiến nông dân bỏ lúa trồng khoai! Ố dào! Những chuyện này chẳng có gì mới! Trước đây, hậu duệ Hốt Tất Liệt cũng tìm mua những thứ còn oái oăm hơn như móng trâu, thớt gỗ nghiến, rễ hồi, rau ngô non… đã để lại biết bao bài học chua xót rồi! Mà dân mình có “rút kinh nghiệm” gì đâu! Mới đây, ngày 13.9.2013 báo Công lý - cơ quan ngôn luận của Tòa án Nhân dân Tối cao đăng phóng sự hiện nay ở Tây nguyên “Thương lái Trung Quốc lại giở trò ào ạt mua cột nhà, cọc rào, trụ tiêu của người dân”.

Đọc mà đau điếng!

Đau nhất là đất nước mình đã hoàn chỉnh hệ ban ngành, đoàn thể các cấp. Vậy tại sao không cơ quan chức năng nào có trách nhiệm và kịp thời giải thích, hướng dẫn người bà con nông dân cách đối phó? Thế vai trò đoàn thể ở đâu? Hỏi, bởi hệ thống đoàn thể của ta đã hoàn chỉnh, chằng chịt một mạng lưới chỉnh chu. Đâu ra đó. Này nhá, ở địa phương cấp thấp nhất có tổ dân phố, công an khu vực, hội cựu chiến binh, hội phụ nữ, chi bộ khu phố, tổ dân phòng... Vậy mà. Cái tặc lưỡi “vậy mà” này còn nhiều lắm lắm. Nhìn đâu cũng thấy. Cũng buồn. Chẳng giải thích, bàn luận nữa. Ai cũng biết tỏng cả rồi. Rồi lại ngó lên trời mà rằng: “Cái nước mình nó thế”.

 

TANDA

 

Nó thế! Nó thế! Khiếp! Nghe vô tích sự quá. Thôi thì, bàn qua chuyện thơ có vui hơn không? Chắc là vui. Tản Đà viết bài thơ Mậu Thìn xuân cảm vào sáng ngày mồng Một tết Mậu Thìn (1928) tại Xóm Gà (Gia Định - Sài Gòn). Bài thơ thất ngôn bát cú nhưng chỉ có 6 câu, không rõ vì sao Tản Đà lại bỏ khuyết:

Cuộc thế xoay quanh đất một hòn

Sông chưa cạn đó, núi chưa mòn

Dân hai nhăm triệu, ai người lớn?

Nước bốn nghìn năm vẫn trẻ con

Cám cảnh khói mây mờ mặt biển

Lo đời sương tuyết bạc đầu non.

Nếu chọn lấy 2 câu hay nhất, ý nghĩa nhất thì chọn thế nào?

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 14.9.2013

toa-dam

 

Như mọi ngày, sáng nay dậy sớm. Vẫn phở. Đã lâu lắm rồi mới trở về trường cũ. Nơi có nhiều kỷ niệm êm đềm thời sinh viên. Trường đã xây lại, từ lâu. Khác trước nhiều. Vẫn nhớ nơi ấy, thầy Hoàng Như Mai khi giảng bài phong cách hết sức nghệ sĩ, ngâm thơ oang oang,  các bạn sinh viên lớp khác ùa đến vây kín cửa sổ nghe thơ; thầy Lê Đình Kỵ luôn ăn mặc lôi thôi, có lúc cài nhầm nút áo, mang dép ngược, giảng bài rề rà, bù lại thầy viết cực hay; thầy Mai Cao Chương khi giảng bài thường nhìn lên trần nhà, cười tủm tủm một mình mà lần dạy nào cũng vậy. Có giai nhân nào lấp ló trên đó chăng? Lũ sinh viên ngơ ngác. Mãi sau này, thầy mới cho biết những lúc ấy thầy cười với... lũ thạch sùng!

Vẫn nhớ nơi ấy, khi thi ra trường môn tiếng Nga, y và Trương Nam Hương đã được cô Dung cho số điểm cao tuyệt đối. Vào môn thi vấn đáp, cô đọc một đoạn thơ bằng tiếng Nga và bảo dịch tại chỗ. Dù vểnh tai, căng tai nhưng chỉ đoán ra chữ đực, chữ cái, chữ tác, chữ tộ loáng thoáng hiểu đại khái nội dung. Thế là bèn láu cá dịch luôn qua tiếng Việt bằng thơ! Ra trường vài năm, mới biết tin cô Dung chuyển sang học tiếng Anh, bởi lúc ấy tiếng Nga đã lỗi thời.

Cảm giác của bất kỳ ai về lại trường cũ là trong lòng kỷ niệm dậy sóng.

Thoáng đó. Đã xa.

Sáng nay, trời mưa. Bước vào hội trường đã đông nghẹt người. Thật lạ, những cuộc hội thảo, tọa đàm khoa học thường ít thấy anh em trẻ đang sáng tác, viết lách. Họ trốn biệt đâu mất. Chỉ gặp các giảng viên đại học, nhà báo, anh em sinh viên và độc giả ái mộ Bùi Giáng. Sức hút Bùi Giáng khủng khiếp, không còn một chỗ ngồi. Không khí trang trọng. Chủ tịch đoàn điều khiển Tọa đàm khoa học về thi sĩ Bùi Giáng là các nhà giáo, nhà nghiên cứu Võ Văn Sen, Đoàn Lê Giang và Bùi Văn Nam Sơn.

Ngoài hành lang là các tư liệu về Bùi Giáng do tộc Bùi cung cấp như sách, tranh, hình ảnh, thủ bút liên quan đến trung niên thi sĩ. Vào phút 89, vì một lý do “tế nhị” nên tập Kỷ yếu in các tham luận không thể đến tay người tham dự. Lý do gì thì tự đoán vậy. Hôm qua, L.K.T gọi điện thoại cho biết trong tuần lễ Liên hoan kịch Lưu Quang Vũ từ 9/9 đến 16/9 tại Hà Nội lẽ ra có cả phần hội thảo về dấu ấn của ông đối với nền kịch nước nhà, nhưng vào phút 89 lại hoãn.

Trước lúc chờ đến phiên phát biểu, lẻn xuống căn tin ngồi uống cà phê chung với nhà văn Vu Gia, họa sĩ Phạm Cung, bạn thơ Trần Hoàng Nhân. Đang vui vẻ, anh Đoàn Lê Giang vừa điện thoại, vừa nhắn tin phải về hội trường gấp. Khi được mời lên diễn đàn, y đã phát biểu ứng khẩu 5 ý chính đã tạo nên diện mạo của Bùi Giáng. Nhiều người khen hay, xác đáng. Có thể tóm tắt mấy ý chính:

 

1236771_497311567030754_237101321_n

Nhà thơ Lê Minh Quốc phát biểu

 

1. Về thi pháp, Bùi Giáng đã giải quyết xong vấn đề thơ có cần phải cách tân, hiện đại, hậu hiện đại hay không? Khi đọc thơ ông, ta thấy ông vẫn tuân thủ theo thể loại thơ truyền thống như lục bát, song thất lục bát, Đường luật… Với thể thơ cũ nhưng ông đã thổi vào đó hơi thở, linh hồn thời đại ông đang sống. Vậy vấn đề đặt ra cho thơ không phải hình thức thể hiện mà ở tính tư tưởng của nó.

2. Điều gì tạo nên hồn thơ của một thi sĩ nói chung? Có những người rất tỉnh nhưng làm thơ rất hay như Chế Lan Viên, Huy Cận, Xuân Diệu… Những “ẩn ngữ” của họ (nếu có), chúng ta có thể giải mã. Có những người vì khốc liệt của cuộc đời cũng làm thơ rất hay nhưng hồn thơ đó sáng tạo lạ lùng, khó có thể giải mã bởi đó là những “mật ngữ”. Ở Việt Nam chỉ có hai người là Hàn Mặc Tử và Bùi Giáng. Hàn Mặc Tử là do khốc liệt của bệnh nan y; ở Bùi Giáng là sự không tương thích giữa văn minh cơ khí hóa với đời sống nội tâm.

3. Đến nay, chúng ta vẫn chưa thể đánh giá hết đóng góp của Bùi Giáng về mặt triết học. Bởi ông có thể đọc từ nguyên bản nhiều tác phẩm triết học Đông - Tây; từ đó có một cái nhìn khác mọi người. Ai có thể đứng cao hơn Bùi Giáng về sự uyên bác này để có thể phê phán, tán đồng, chia sẻ những gì ông đã viết về triết học?

4. Qua Bùi Giáng, ông chứng minh tiếng Việt phong phú, đa dạng, linh diệu, giàu có. Cách sử dụng tiếng Việt của ông, qua thơ lục bát đã thể hiện điều đó rất rõ. Chẳng hạn: “Ngõ ban sơ hạnh ngân dài/ Cổng xô còn vọng điệu tài tử qua/ Kể từ lạc bước chân ra/ Chết từ sơ ngộ màu hoa trên ngàn…”. Dù chưa hiểu nhưng âm vang câu thơ đã ta khiến hình dung được nhịp đi của sóng biển, của gió thổi dặm dài; hoặc vừa nghe tham luận của nhà nghiên cứu Nhật Chiêu, ta nghĩ gì về câu thơ “Vườn hoa nụ đứng, nụ đằm”? Nghe cực kỳ thơ mộng, trang nhã nhưng nói lái thử xem?

5. Hơn ai hết Bùi Giáng (hoặc thiên hạ) đã tạo quanh ông quá nhiều giai thoại, huyền thoại tầng tầng lớp lớp.

Sáng nay, mới có dịp bù khú, chuyện trò với các bạn học cũ cùng khóa hoặc học trên vài năm, giờ đã làm thầy, giảng dạy tại trường. Cuộc sống chẳng biết đâu mà lần. Tiếng Việt khi nói “con cái” hoàn toàn khác “con với cái”. Lâu nay, thầy Võ Văn Nhơn vẫn là người sưu tập, phát hiện nhiều tác phẩm bị lãng quên của nhà văn V.B. Qua các công bố đó, tài năng Thương nhớ mười hai càng khẳng định hơn, rực rỡ hơn. Vậy mà, “Nản quá rồi Q ơi”. Ngạc nhiên quá, chưa chi mà bỏ cuộc à? “Ông con vòi tiền quá, lúc đòi tiền này lúc đòi tiền kia, chịu hết xiết. Dù sách in ra vẫn trả tác quyền đàng hoàng”. Đúng là “con với cái”, người này lúc mới từ HN vào định cư tại SG, y có gặp, dẫn đi gặp những nhà báo như anh Phan Kim Thịnh - chủ bút báo Văn Học xin các tư liệu về V.B. Lại nghe anh Vu Gia kể trường hợp khác, có trường hợp sinh viên nọ làm luận văn về nhà văn N.C.H do thầy Nguyễn Đăng Mạnh hướng dẫn. Khi đến gặp con gái nhà văn tìm hiểu, kiếm thêm tài liệu, người con dứt khoát không đồng ý chỉ vì lý do “người khác làm sao hiểu bố bằng con? Vì thế, tôi phải là... người hướng dẫn”.

Lạ lùng chưa?

Con cái tự hào về bố là đúng rồi, nhưng có những điều chưa chắc mình báo hiếu bố bằng việc làm của người khác. Còn nhớ, lúc cùng VTV lên nhà con gái nhà văn Hồ Biểu Chánh ở Gò Vấp, bà Hồ Thị Vân Anh có nói chi tiết: “Ba tôi thuở sinh thời dặn dò, sau này ai muốn in tác phẩm của ba thì cứ cho in để thiên hạ biết ba con là ai”. Rõ ràng, khi còn sống nhà văn Hồ Biểu Chánh không chăm bẳm vì nhuận bút. Thế nhưng, không phải vì thế, tái bản sách không trả nhuận bút cho con cái họ. Có điều, con cái phải tạo điều kiện hết mình cho người nghiên cứu chứ? Bởi họ đã làm cái việc lẽ ra con cái phải làm, nếu được hiểu là sự báo hiếu.

Trong những người con của nhà văn nổi tiếng, vẫn quý chị Lê Thị Giáng Vân, con gái út nhà văn Lê Văn Trương. Năm 1987, lần đầu tiên sau vài chục năm vắng bóng trên văn đàn, nhà văn Vũ Trọng Phụng được NXB Văn Học in Tuyển tập (3 tập). Bấy giờ là PV báo PN, y ngồi cạnh chị Lê Thị Giáng Vân, sát chị Vũ My Hằng - con gái nhà văn Vũ Trọng Phụng. Chị nói: “Chả biết bao giờ bố tôi mới được vinh dự như thế này?”. Nghe mà bùi ngùi cho “người hùng”của một thời đã chết trong nghèo túng. Mãi đến ngày 5.9.1995, tác phẩm Hận nghìn đời, Người anh cả, Hai đứa trẻ mồ côi, Trận đời, Đứa con hạnh phúc của Lê Văn Trương mới được NXB Trẻ tái bản lần đầu tiên. Lúc ấy, chị Vân có đọc bài thơ khiến ai nấy cảm động:

Con thương cha lắm cha ơi

“Ngàn thu bạc mệnh một đời tài hoa”

Ba trăm tác phẩm của cha

Bao nhiêu tâm huyết, bao là mồ hôi

Bao nhiêu tình nghĩa với đời

Mà đời nỡ phụ cha tôi thế này

Con mong sao có một ngày

Truyện cha chép lại, làm say lòng người

Hương thơm, thơm ngát đất trời

Nghe trong hơi gió vẳng lời của cha

Nghĩ cũng lạ, có những lúc đi đường đường chính chính thì bị ách lại. Còi thổi ngay. Có thể phạt ngay thẻ đỏ, đuổi ra sân. Cũng có khi tự mình cẩn thận quá nên đành chấp nhận một vài tiểu tiết. Sáng nay, trên báo TN anh Giao Hưởng công bố đầy đủ một bài thơ của Bùi Giáng -  Người con gái mặc quần - mà khi in tập Rong rêu, người nhà của thi sĩ tạm gác lại "để việc kiểm duyệt được nhanh chóng". Vì bài thơ này phong cách rất Bùi Giáng nên chép lại làm tư liệu. Nguyên văn như sau, đã phục hồi đoạn cuối bị cắt, trước đó:

Người con gái hôm nay mặc quần đỏ

Vì hôm qua đã mặc quần đen

Đen và đỏ là hai màu rồi đó

Cũng như đời đường hai nẻo xuống lên

 

Người con gái hôm nay mặc quần trắng

Vì hôm qua đã mặc chiếc quần hồng

Hồng và trắng là hai màu bẽn lẽn

Như núi rừng đều rất mực chênh vênh

 

Người con gái hôm nay mặc quần tím

Vì hôm qua đã mặc chiếc quần vàng

Vàng và tím là hai màu mím miệng

Mím môi cười và chúm chím nhe răng

 

Người con gái hôm nay mặc quần rách

Vì hôm qua đã mặc chiếc quần lành

Lành và rách đều vô cùng trong sạch

Bởi vì là lành rách cũng long lanh

 

Người con gái hôm nay xé toạc cái mảnh quần

Thành ra một nữ nhi không quần áo

Tất nhiên là tuyệt đối gái ở truồng

Truồng như nhộng và truồng như gái gái

Khắp năm châu bốn biển ngọn nguồn

Trần trụi khắp tân châu và cổ tái

Và bỗng nhiên - thập thành thành thục nữ thiên đường

Vậy đó, đôi lúc phải như thế. Phải đi ngoắc nghéo mới được việc. Ai cũng biết, tác phẩm của nhà văn V.P vẫn chưa được in lại, thế mà vẫn có đấy, thậm chí ngoài bìa còn in chân dung ông mà phát hành ngon ơ! Thôi thì cũng cám ơn người làm sách đã trong “cái khó ló cái khôn”. Nhờ vậy những tác phẩm hay của văn học miền Nam trước 1975 mới có thể tái bản dù núp dưới bút danh, chứ chưa thật “chính chủ”!

Ô hô!

L.M.Q


VÀI HÌNH ẢNH TẠI Tọa đàm khoa học về thi sĩ Bùi Giáng

 

DSCN0504RRRR

Tiểu sử Bùi Giáng (ảnh làm nền là Bùi Giáng thời trè, ảnh dưới là tranh Bùi Giáng vẽ)

BG-thoi-tre-R

Bùi Giáng thời trẻ

DSCN0514RRR

anh-nay-QR

chan-dung-1

BG-Thanh-tam-tuyen76

Bùi Giáng & Thanh Tâm Tuyền

BG-Van

Từ phải: Bùi Giáng, Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, Nguyễn Xuân Hoàng

Bui-gang-tcs

Trịnh Công Sơn & Bùi Giáng

Vu-hoang-cghuong

Vũ Hoàng Chương & Bùi Giáng

ve-dinh-cuong

Bùi Giáng vẽ Đinh Cường

ve-tcs

Bùi Giáng vẽ Trịnh Công Sơn

tuhoaR

Bùi Giáng tự họa

luu-niem

Từ trái: Anh Lê Nguyên Đại, nhà nghiên cứu Nhật Chiêu, Lê Minh Quốc, Bùi Văn Nam Sơn, đạo diễn Đào Bá Sơn gặp gỡ tại Tọa đàm khoa học về thi sĩ Bùi Giáng.

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 13.9.2013


Có những ngày không muốn viết bất kỳ một chữ nào. Như ngày hôm qua. Rã rời. Mệt mỏi. Ngao ngán. Thói quen lướt web mỗi sáng bị khựng lại. Cái tin vụ nổ súng ở UBND Thái Bình đã trở thành đề tài sôi nổi của nhiều người. Sau khi xả súng, thủ phạm cũng tự liểu số phận. Người anh trai thủ phạm cho biết: “Nguyên nhân dẫn đến hành động mang súng vào trụ sở UBND TP bắn người của em tôi (Đặng Ngọc Viết - PV) là xuất phát từ sự bức xúc quá lâu về vấn đề giải tỏa, đền bù đất của gia đình" (báo T.N 12.9).

Tuy nhiên, nhà chức trách vẫn chưa có kết luận chính thức. Mà dù có thế nào, trước hết không thể đổ lỗi cho người dân. Tiên trách kỷ, hậu trách nhân. Chẳng có ai điên rồ chống lại bộ máy hành chánh của Nhà nước, nếu họ không bị đẩy vào tận chân tường. Đọc lại sử Việt Nam, hầu hết các cuộc khởi nghĩa nông dân cũng chính từ sự thúc ép, cưỡng đoạt đất đai, sưu cao thuế nặng. “Hôn nhân - điền thổ, vạn cổ chi thù”. Mối thù truyền kiếp, chỉ có thể trả bằng máu. Không ý thức lời dặn dò của người xưa ắt phải trả giá.

Ông Nguyễn Trường Tộ từ nửa cuối thế kỷ XX đã nhìn ra mối quan hệ giữa dân và quan lại: “Tôi thấy các quan ở kinh thành bận rộn công việc không kể ngày đêm. Thế mà các quan ở phủ huyện thì nhàn rỗi đàn ca xướng vọng. Hễ đi đâu thì tờ trát đi trước, bắt dân chầu chực nghinh đón. Như thế thì làm sao đi vào trong dân gian để tìm hiểu những uẩn khúc của họ được? Làm quan có đức độ, biết khéo giáo hóa dân chúng, là phải đi vi hành trong dân gian, nhưng giản dị dễ dàng cho dân... Còn quan viên ta ngày nay ngồi giữa công đường, ngoài cái án thư bàn độc ra, không còn biết việc gì khác. Những công việc như phong tục dân gian tốt xấu thế nào, đất đai hoang phế ra sao, lúa thóc phải tích lũy thế nào, rừng rú ao đầm phải giới hạn đến đâu, tất cả phó mặc cho mây bay nước chảy, không cần biết đến…

Người làm quan thời nay ngoài các công vụ tầm thường chỉ thấy bọn văn nho ra vào tâng bốc lẫn nhau, bọn phú hào chầu chực để mượn uy cậy thế mà thôi. Có ai thanh liêm siêng năng thì họ chế nhạo rằng: “Đồ làm bộ để được tiếng tốt để cầu địa vị cao. Ta thì ba lần làm quan ba lần bị truất cũng chẳng nghĩa lý gì!” Đó là nói những phường quan lại xấu xa kém cỏi. Quan trên cách xa muôn dặm làm sao biết được sự tình. Như vậy mà phần đông cứ bảo là chính lệnh trong sáng dân chúng yên hòa. Cho nên bọn giặc cướp lén lút hoành hành, qua lại thông báo cho nhau còn nhanh chóng hơn là việc nước mà Triều đình không hề hay biết cũng phải!

Nếu Triều đình tìm được người nào có lòng ngay thực vượt hơn thường tình xin phái họ ra Bắc kỳ và vào Gia Định giả làm dân thường thăm dò dân chúng mới thấy những lời nói của tôi không phải là vu cáo mà còn thấy rõ ở phủ huyện còn trăm phần tệ độc tôn chưa dám nói ra” (Tế cấp bát điều luận).

Ôn cố tri tân vẫn là công việc của người học sử. Thời nhỏ đọc truyện cổ tích, đứa trẻ nào cũng mừng rỡ khi nhân vật đại hiệp mình yêu quý bị đẩy vào hoàn cảnh bức bách, bị mưu toan ám hại bỗng dưng nhà vua vi hành nắm rõ trắng đen rồi phán xử công bằng. Cũng như lúc người tốt gặp hoạn nạn, đơn thân độc mã lại có bà Tiên, ông Bụt hiện ra. Sướng quá. Vỗ đùi cái đét. Chà, phải thế chứ! Khát vọng ấy ngàn đời, thời đại nào, dân tộc nào cũng có. Mà nghĩ cho cùng cũng là một cách tự mình lừa mị, phỉnh phờ chính mình đấy thôi. Thời trước ở Quảng Nam có câu ca dao như vầy:

Trách lòng quan huyện Hà Đông

Xử vị lòng chồng hai bảy mười ba

Không nghe tan cửa hại nhà

Nghe thời hai bảy mười ba cực lòng

Hà Đông này không thuộc địa danh “Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát/ Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông” trong thơ Nguyên Sa. Hà Đông tức thành phố Tam Kỳ. Năm 1803, vua Gia Long lập dinh Quảng Nam gồm 2 phủ Thăng Hoa và Điện Bàn. Phủ Điện Bàn gồm 2 huyện: Diên Khánh  và Hòa Vang; phủ Thăng Hoa gồm 3 huyện: Duy Xuyên, Lễ Dương và Hà Đông. Năm 1906, huyện Hà Đông nâng thành phủ, đổi tên phủ Tam Kỳ. Ai cũng biết 2 x 7=14, nhưng theo quan huyện Hà Đông lại “hai bảy mười ba”.

Dân đen nào chịu cho xiết?

Đọc thông tin mỗi ngày là cần thiết. Tuy nhiên có những lúc đọc xong bèn tần ngần tự hỏi: “Viết gì nữa?”. Y nhếch mép cười khinh bỉ y: “Ô hay, từng ngày kiếm sống bằng nghề viết báo mà lại nói thế ư?”. Biết trả lời thế nào? Y biết y quá mà. Yếu bóng vía. Sợ bóng sợ gió. An phận thủ thường. Gió chiều nào theo chiều ấy. Tâm hồn y thơ thẩn trên mây. Khi gặp những vấn đề gay cấn quá, luôn né tránh, quay mặt nhìn chỗ khác. Quay mặt vào trang sách cũ. Giấy nát, chữ mờ. Như một cách lãng quên hiện thực. Để vui sống từng ngày. Để có thể bia rượu tèm nhem. Để ngong ngóng theo bước chân lướt qua trên đường dài vạn trùng gái đẹp.

Có thú vị hơn không?

Lúc ấy, vừa đắm đuối gái đẹp lại vừa chúi mũi cổ thư. Có lần, y đọc lại tờ Tiếng Dân của cụ Huỳnh Thúc Kháng. Tờ báo này, ban đầu cụ Huỳnh dự tính lấy tên Trung Thanh (tiếng nói ngay thẳng, trung thực); chưa ưng ý lắm, cụ đổi Dân Thanh (tiếng nói của dân). Cũng còn phân vân. Hỏi ý kiến cụ Phan Bội Châu. Sau một hồi ngẫm nghĩ, cụ Phan bảo cụ Huỳnh: “Đã làm báo quốc ngữ thì để Tiếng Dân không rõ ràng hơn sao?”. Từ đó Tiếng Dân ra đời, ngày 10.8.1927. Quan điểm làm báo của cụ Huỳnh: “Vì rằng ta không có quyền tự do nói những điều nên nói, mà ta lại có quyền tự do không nói những cái không nên nói” (Tiếng Dân số 175, 1.5.1929)

Năm kia viết Hỏi đáp Non nước xứ Quảng, đã in 4 tập, lúc bắt tay viết tập 5 lại biết được một vài thông tin tiêu cực, nhố nhăng của quan chức từ quê nhà. Chán. Không viết nữa. Hình ảnh hoa mộng giữ gìn bấy lâu trong ký ức bỗng tan tác. Não nùng. Xóa nhòe. Cảm hứng tàn lụi theo. Ngao ngán. Bèn bỏ luôn. Mãi sau mới có thể bổ sung, cấu trúc lại Người Quảng Nam. Năm nọ viết Kể chuyện danh nhân Việt Nam, sách phát hành hàng tuần, đang viết hăng, rồi cũng khựng lại bởi nhận ra khoảng cách quá xa giữa quá khứ với hiện thực. Hết hứng thú. Viết không thật những gì đã nghĩ trong đầu, viết làm gì?

Trong bàn nhậu là lúc con người ta nói thật, ít ra cũng thật hơn lúc phát biểu công khai trong các cuộc họp. Tưởng chừng có hai con người trong một thân xác. Dám nói thật đã khó, dám nghe nói thật còn khó hơn. Nhà canh tân Phạm Phú Thứ có lần do nói thật nên đang “lên voi” đã “xuống chó”. Chuyện rằng, năm 1849 cụ được điều về Viện Tập hiền, ở Tòa Kinh diên. Trong một ngày mùa đông rét mướt, vua Tự Đức nghỉ thiết triều, cụ nghĩ rằng, nhà vua mới lên ngôi chấp chính thì phải sửa đổi cái tính lười biếng ấy, liền viết sớ dâng lên. Đọc sớ, vua Tự Đức đùng đùng nổi giận bèn hạ lệnh cho đình thần nghị tội! Từ một người ở “phòng nghe giảng sách của vua”, cụ bị giáng làm người “chạy trạm về việc canh nông”! Lúc nổi nóng, vua Tự Đức đã quyết định như vậy, chắc ngài không ngờ  hàng trăm năm sau vẫn còn bia miệng. Sống trời đời thật khó, sau khi đã vùi nông ba tấc chắc gì đã yên thân? Vậy sống như thế nào? Muôn đời vẫn là bài học đời người. Bài học vở lòng này từ lúc lọt lòng mẹ đến khi về cát bụi còn phải học từng ngày.

Còn mấy ngày nữa đến rằm tháng tám? Mua một hộp bánh tặng nàng. Cô bán hàng rầu rĩ, chẳng thấy người ta chen lấn mua như trước, cả ngày chỉ loe ngoe vài mống! “Chắc thiên hạ họ đợi đến gần ngày mới mua?”. “Không, thời gian này mua biếu xén, mua ăn, bánh mới chất lượng. Đợi lúc các quày thông báo giảm đến 30%, “mua 1 tặng 1” thì đừng vội tin! Chẳng hạ giá gì, tiền nào của đó”.  Ngẫm một lúc khen người bán hàng thật thà.

Đã nhận thư cám ơn của báo Pháp luật nhân kỷ niệm 23 năm ngày thành lập báo. Nhanh ghê. Nhớ thời anh Nam Đồng về làm TBT, có viết bài thơ tặng, chỉ nhớ mỗi đầu: “Từ nay sung sướng làm chồng công an”. Viết thế, bởi báo C.A nếu đưa tin về các vụ án, tất nhiên báo P.L cũng vậy nhưng phải có sự phân tích trên cơ sở pháp lý, bởi tờ báo này thuộc ngành tư pháp. Chỉ nhận được thư cám ơn, chẳng thấy mời liên hoan lai rai như mọi năm. Có lẽ do chủ trương chung phải tiết kiệm chăng? Đã nhận được khoảng chừng năm tập thơ mới ấn hành, thư mời ra mắt sách của một chuyên gia kinh tế, tọa đàm thi sĩ Bùi Giáng, trao giải kỷ lục về văn hóa, công bố kết quả Giải thưởng Sách hay 2013. Cuối tuần này, tuần tới nhiều cuộc phải rời khỏi nhà vào ngày thứ bảy và chủ nhật.

Chiều hôm qua bên quán cơm Nụ Cười đã đến nhận mấy bức tranh rồi. Sẽ bán làm từ thiện. Như vậy phòng tranh này có các bạn bè: nhà văn Mường Mán, nhà thơ Lê Thị Kim, Bùi Chí Vinh, Đỗ Trung Quân và y. Chẳng rõ có thể bán được không? Vì thế, chẳng hào hứng lắm. Mà thôi, có chỗ treo tranh cho người nghèo ăn một suất cơm chỉ 2 ngàn đồng ngắm nghía vui mắt. Nếu cái sự ngắm ấy khiến họ ăn ngon miệng hơn thì cũng hữu ích.

 

DSCN0497R

DSCN0494R

DSCN0499r

DSCN0495R

DSCN0488R

 

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 11.9.2013

 

luu-but

Lưu bút của Lê Minh Quốc thời sinh viên (niên khóa 1983 - 1987)

 

Thời nhỏ đi học, có thầy cô giáo rèn học trò bằng cách bảo phải viết nhật ký mỗi ngày. Cũng là một cách tập viết văn. Những cuốn vở ngày xa xưa đó, nếu nay đọc lại ắt thú vị. Mấy ai còn giữ? Nhạc sĩ Thanh Sơn viết ca khúc Lưu bút ngày xanh, nghe lại thấy rầu rĩ quá. Ca khúc Họp mặt lần cuối của Hàn Sinh cũng não nùng không kém: “Ve kêu gọi hè sang/ Phượng về khơi niềm nhớ/ Giây phút chia tay là đây/ Chép cho ai bài thơ/ Lưu bút thư sinh mình ghi/ Chiếc hình kỷ niệm hôm nay/ Phượng vẫn rơi xác phượng tả tơi/ Nghe tiếng ve, réo gọi hồn tôi…”. Những giọt âm nhạc rơi xuống vạt nắng sáng nay  len vào bàn phím và buồn. Ngày trước đi lại khó khăn, thông tin liên lạc ít ỏi nên nẩy sinh tình cảm bùi ngùi lúc chia tay là lẽ tất nhiên. Buồn nhưng qua đó cũng gợi lên tình bạn ngày cùng trường chung lớp.

Ngày trước, “một ngày nên nghĩa, chuyến đò nên quen”. Nay khác hẳn. Con người có nhiều mối quan hệ hơn nhưng rồi lúc nào cũng cô đơn. Có những lúc tần ngần, tẩn ngẩn cầm điện thoại, ngó vào bàn phím với hàng ngàn con số nhưng cuối cùng chẳng biết gọi ai. Lẻ loi. Đơn độc. Quan hệ người thành thị gắn kết theo kiểu loang rộng nhưng không có chiều sâu. Lại có người đưa vài cảm nghĩ gì đó lên facebook, không thấy ai like bèn "sì trét" luôn! Họ buồn bởi nghĩ rằng chẳng được ai quan tâm, dẫu thừa biết sự chia sẻ ấy là ảo. Con người ngày càng lạc lõng trong một thế giới đông đúc, hàng tỉ con người nhưng tìm được một sự đồng cảm chẳng dễ dàng. Điều này lý giải vì sao có những người bịa ra và ném trên mạng xã hội thông tin thật giật gân. Để làm gì? Để mong nhận được thật nhiều like như một sự an ủi là người khác có quan tâm đến. Lấy cái ảo để làm niềm vui thật trong đời. Tội nghiệp con người hiện đại chưa?

Đã con người thì lúc nào cũng tội nghiệp. Ngày trước, trên đường xa vạn dặm, đi sứ chẳng hạn, cũng là một nỗi buồn ghê gớm. Thường là gia đình, vợ con lấy ngày họ rời nhà làm ngày giỗ, nếu sau này không về. Còn người đi luôn tin mình sẽ về nên dọc đường có nhiều lễ tế. Và cũng tin rằng, có như thế chuyến đi, về suôn sẻ hơn. Lẩn thẩn đọc lại Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú biết thêm một vài phong tục của người Việt xưa.

Trước lúc đi, nhà vua truyền cho nha Phủ doãn dựng một cái đình ở bến Đông Tân để đến ngày khởi hành các quan triều thần hội tiễn. Bến Đông Tân ở đâu? Tra lại Sổ tay địa danh Việt Nam của Đinh Xuân Vịnh, thì ra đó là bến Đông Bộ Đầu, tức bến sông Hồng. Trên đường đi sứ sang Trung Quốc, sứ đoàn của ta tế cáo dọc đường như sau: Tế thần Hà bá thủy quan ở bến Nhị Hà: 1 lợn con giá 8 tiền, xôi một mâm giá 3 tiền, vàng bạc giấy và hương rượu giá 3 tiền; Tế cung miếu: trâu 6 con, giá mỗi con 4 quan và tiền cau hương rượu 6 tiền, xôi 6 mâm, giá mỗi mâm 1 tiền, vàng bạc giấy 6 mâm, giá mỗi mâm 1 tiền; Tế đền Lý bát vị (đền thờ tám vị vua nhà Lý ở Từ Sơn - Bắc Ninh): trâu 1 con giá 4 quan, xôi 1 mâm giá 3 tiền, vàng bạc giấy và hương rượu cộng 2 tiền; Tế đền Cần Dinh (thuộc phủ Lạng Giang): trâu 1 con giá 4 quan, xôi 1 mâm giá  3 tiền, vàng giấy và hương rượu giá 2 tiền; Tế đền thần ở Quỷ môn quan  (thuộc Lạng Sơn), đền Trung Vũ, đền Bờ Long (đền thờ thần núi ở cửa nam tỉnh thành Lạng Sơn), đền Bờ Duy (thờ thần núi ở Đồng Đăng - Lạng Sơn): lễ vật như đã tế ở đền Cần Dinh. Khi về, sứ bộ ta cũng tế như vậy.

Ngày nay, một bước ra máy bay, nháy mắt đến nơi rồi. Chẳng việc gì phải tế như xưa. Duy chỉ cuộc đưa tiễn này là còn có tế: Tiễn đưa người quá cố về nơi an nghỉ cuối cùng. Khi đưa xe tang sắp vào đến địa phận sẽ an táng người đã khuất, tất cả dừng lại và làm lễ "tế đầu trung". Ta có thể hiểu nôm na là lễ báo cáo với sơn thần, thổ địa cho người đã khuất được "định cư" tại vùng đất mới. Trước 1945, ở Quảng Nam khi có người đi xa, gia đình thường làm một mâm cáo gia tiên, thông báo ông bà biết đặng phù hộ người đi thượng lộ bình an. Tuy nhiên, cũng có khi cúng  trước do chọn được ngày tốt chẳng hạn, dù hôm ấy người trong nhà chưa đi. Dù chưa đi nhưng phải đem va ly, hành lý sang gửi nhờ nhà hàng xóm, xem như người đó đã đi đúng ngày.

Loay hoay một chút, mới viết đến đây đã đến giờ đi làm. Chiều viết tiếp.

Viết tiếp vào buổi chiều: Có lẽ, bước sang thế kỷ XXI, sẽ có lúc giới học thuật nước nhà phải mất thời gian để làm lại công việc của thế kỷ XX. Nguyên do cũng do lối chép sử của ta vẫn không thoát được cách ghi chép hàng trăm năm trước. Ý kiến của sử gia Trần Trọng Kim đã cảnh báo nhưng nào có thay đổi: “Nước Việt ta khởi đầu có sử từ đời nhà Trần, vào quãng thế kỷ 13. Từ đó trở đi, nhà nào lên làm vua cũng trọng sự làm sử. Nhưng cái lối làm sử của ta theo lối biên niên của Tàu, nghĩa là năm nào tháng nào có chuyện gì quan trọng thì nhà làm sử chép vào sách. Mà chép một cách rất vắn tắt cốt để ghi lấy chuyện ấy mà thôi, chứ không giải thích cái gốc ngọn và sự liên can việc ấy với việc khác là thế nào.

Nhà làm sử lại là người làm quan, vua sai coi việc chép sử, cho nên dẫu thế nào sự chép sử cũng không được tự do, thường có ý thiên vị về nhà vua, thành ra trong sử chỉ cần chép những chuyện quan hệ đến nhà vua, hơn là những chuyện quan hệ đến sự tiến hóa của nhân dân trong nước. Vả, xưa nay ta vẫn chịu quyền chuyên chế, vẫn cho việc nhà vua là việc nước. Cả nước chỉ cốt ở một họ làm vua, cho nên nhà làm sử cứ theo cái chủ nghĩa ấy mà chép sử, thành ra sử đời nào cũng chỉ nói chuyện những vua đời ấy mà thôi. Bởi vậy xem sử ta thật là tẻ, mà thường không có ích lợi cho sự học vấn là mấy”.

Đúng quá! “Nhà làm sử lại là người làm quan” mấu chốt là ở đó. Làm sao có thể khách quan? Đã thế người ta nhầm lẫn, cố tình nhầm lẫn: Sử của một tổ chức chính trị không phải là sử của một dân tộc và ngược lại. Sự nhập nhằng này xét cho cùng không phải tư duy của người nghiên cứu khoa học.

Chiều nay mưa tầm tã. Lật lại quyển Lưu bút của thời sinh viên, ngày 1.71984. Đọc thoáng thoáng, thấy hiện lên những gương mặt bạn bè. Đây là bài thơ của bạn thơ Trương Nam Hương thời sinh viên đã viết trong Lưu bút. Chép lại như một tài liệu:

Chút riêng tư

thu-but-TNH


Tao lại viết những vần thơ cho mi

Thi sĩ của tình yêu, thi sĩ của những cuộc tình có chiều thành đạt

Ai biết trước ngày mai dòng đời đổi khác

Mi đến nơi nào? Tao sẽ lại về đâu?

 

Tao viết dòng thơ kỷ niệm mai sau

Lượm lặt đôi câu chẳng ra đầu ra cuối

Dẫu ý nghĩ nhanh hơn ngòi bút vội

Cũng chẳng bao giờ viết trọn khúc thơ thơ

 

Không biết mi răng, chớ tao chẳng bao giờ

Quên những ngày “hành quân” vất vả

Có lúc phủ phê, có khi đói lả

Trong đường tình không một chút dừng chân

 

Tao với mi đây - đó, xa - gần

Yêu cả những người hơn mình ngoài chục tuổi

Ta yêu ma soeur bởi lòng không gian dối

Trong tình yêu đâu có buổi hoàng hôn

 

Tình bạn đôi ta giữa mất và còn

Tao thấy nó gần nhau mi ạ

Tao không muốn quen đỡ buồn trong khuây khỏa

Sống trọn nghĩa tình, ta nâng bước nhau đi

 

Như sáng sớm mai về Thủ Đức  để thi

Bụng đói, thương nhau, xoay tua điếu thuốc

Bốn bàn chân cùng đạp xe lên dốc

Những lúc buồn tao khẽ đọc thơ yêu

 

Rạp Văn Hoa… mi có nhớ buổi chiều

Không đủ tiền vào coi phim Hòn Đất

Con “xích thố” nhà mình đôi khi phải dắt

Tao động viên mình, mi cũng động viên tao

 

Có lúc tao vui nói chuyện ào ào

Có lúc mi buôn lặng im không nói

Dĩ nhiên một phần sáng nay mi đói

Nhưng thương nhiều vẫn cắn nhau đau

 

Công viên Sài Gòn họ mua cái ôm nhau

Tao với mi thì vào mua cuộc sống

Nghề nghiệp mình cần hiểu sâu, hiểu rộng

Thấy chớ đừng… ta nhắc nhở giùm nhau

 

Cuộc sống phô bày đôi lúc thấy mà đau

Mi chợt hỏi tao: Nghèo chính là cái nhục?

Có đồng tiền họ mua tình, hạnh phúc?

Tao chẳng trả lời ừ có, hoặc ừ không!

 

Beautiful Sunday trước Đại Đồng

Tao với mi đến chờ em Ngọc Tuyết

Sao tao nghèo mà tình yêu vẫn tuyệt?

Giản dị tao mời em uống quán bình dân

 

Tao thấy tụi mình đời là bốn mùa xuân

Dẫu đôi lúc úa mùa đông đôi chút

Đời tao, mi sẽ không là ngõ cụt

Lộng gió tâm hồn trên xa lộ thênh thang

 

Có phải bây giờ mùa hạ đã sang

Sao chằng thấy ve kêu, phượng nở

Kỷ niệm đi vào nỗi nhớ

Tặng bạn đời, bạn thơ nghèo khó nhà Lê

 

Kể cũng lạ, thời sinh viên gắn với Trương Nam Hương như hình với bóng; sau này là Đoàn Vị Thượng. Thuở còn ở trọ, thỉnh thoảng vẫn ngủ ở nhà cha mẹ của Thượng. Rồi dần dà, anh em lại ít gặp nhau. Hôm trước ở Đất Phương Nam tình cờ gặp lại Thượng. Cũng lúc mưa. Gặp lại vẫn thân thiết tình bạn của ngày mới ra trường. Thượng bảo: “Tôi ganh tỵ với Đoàn Tuấn quá?”. Tại sao? “Tại sau này ông thân với Đoàn Tuấn nhiều hơn tôi”.

Cảm động quá. Biết trả lời thế nào?

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

Trang 48 trong tổng số 58