Có nên nói huỵch toẹt ra không? Sao lại không? Sau khi đưa lá thư riêng vào Nhật ký 8.4.2014, nhiều bạn bè nhắn tin, điện thoại hỏi nhà văn đó là ai?
Nhà báo Hà Đình Nguyên comment: “Bây giờ là hơn 1h30 ngày...Giỗ tổ Hùng Vương (nhằm 9.4.2014), mình vừa đọc xong Nhật ký 8.4.2014 của Q. Những lần khác mình cũng đọc trọn bài (trang nhật ký) nhưng lần này mình thấy có gì đó thôi thúc phải "còm", bởi tự... xấu hổ khi đọc: "Ngày hôm qua, đọc ngấu nghiến tiểu thuyết Cuộc đời ngoài cửa của Nguyễn Danh Lam. Bạn bè tặng sách, chẳng lẽ không viết giới thiệu đôi dòng? Khuya lại đọc bản thảo sắp in của một đồng nghiệp. Sáng nay viết lá thư trao đổi. Anh em chơi với nhau, chỗ thân tình, chịu khó vì bạn một chút...”. Thú thực, 2 cuốn sách Q tặng, mình chưa đọc dòng nào, tự biện minh "Bận quá". Nhưng nhìn lại Q: Cũng một độ tuổi, cũng làm báo, cũng viết lách, cũng ăn nhậu, cũng... yêu - nhưng sao mình "ham chơi hơn viết", thờ ơ với những người chung quanh đến vậy? Đọc những lời góp ý chí tình (có tình, có lý) của Q với "anh bạn nhà văn" về tác phẩm viết về SG xưa sắp in. mới thấy "anh em chơi với nhau, chỗ thân tình, chịu khó vì bạn" mà... đọc kỹ, để góp ý chân thành. Đó không chỉ là cái tình, mà còn là cái TÂM của người cầm bút. Chúc Q lúc nào cũng giữ vững "tâm thế" như vậy trong cuộc sống, Q ơi !”.
Ngoài Quảng Nam, một bạn đọc chỗ thân tình nhận xét: “DCC khi nào cũng nhận xét chân thành,tỉ mỉ dễ sợ à nghen. Dạo trước đọc mấy Email DCC góp ý bài viết cho DCC ấy, nói thiệt là cảm động ghê gớm. Lâu ni DCC ít viết nên chưa có cơ hội được đọc tiếp mấy nhận xét thâm thúy của DCC nữa. Hãy đợi đấy, DCC hỉ, hii!”. DDC là viết tắt “đồng chí chú” & “đồng chí cháu”. Một cách xưng hô thân tình giữa hai chú cháu đồng hương.
Thế thì lá thư ấy, y viết cho ai?
Xin thưa, viết cho nhà văn Lê Văn Nghĩa. Nay công bố danh tính rõ ràng bởi tiểu thuyết của anh đã có kết quả: NXB Trẻ sẽ in vào dịp 21. 6 năm nay. Biết tin này, sáng ngày Giỗ Tổ Hùng Vương, lang thang cà phê cùng nàng và đố: “Trong tiểu thuyết của anh Nghĩa có mẩu đối thoại như sau: "Vừa đưa vắt mì lên miệng chú hỏi:
- Mầy biết hông?
- Biết cái gì chú? Chú chưa nói làm sao con biết.
- Mì tàu chính cống là mấy tiệm mì, xe mì có chữ ký phía sau. Thí dụ như Tài Ký, Minh Ký, Minh Ký… Mầy để ý coi, tiệm nào cũng có chứ Ký hết. Có chữ ký mới ngon.
- Ký viết i ngắn hay y-cà-lết vậy chú?
- Y dài hay I ngắn đều được. Mà nó viết "Hải kí mì gia" hay "Hải ký mì gia" cũng như nhau, miễn là nó nấu ngon là được… Chánh tả đâu có liên quan gì đến ước lèo đâu! Mì dở thì có 10 chữ ký như tiệm mì Ký ký ký ký ký ký… cũng dở ẹt. Cũng giống như chữ hủ tiếu có ê hay hủ tíu không ê đâu có quan trọng miễn ngon là được”.
Vậy ta hiểu chữ “ký” ấy như thế nào?”. Thật vậy, hầu hết các quán mì của người Hoa đều có kèm theo chữ “Ký”. Tại sao? Tất nhiên nàng ngắc ngứ. Nhà văn có trách nhiệm ghi nhận lại những gì đã diễn ra trong đời sống, nếu giải thích được thì hay quá, bằng không, với chữ "ký" này là vai trò của các nhà ngôn ngữ học.
Qua ngày hôm sau, lai rai cạn chai rượu đỏ tại một địa điểm mà nàng đã viết trong Ve vãn Sài Gòn: “Trên đường Hai Bà Trưng, đối diện khách sạn Park Hyatt có một ngõ nhỏ, bề ngang độ bốn mét. Chạy xe vào ngõ độ bốn mét thì cái ngõ mở toang ra thành cái sân to, hai bên san sát nhau những nhà hàng đẹp, đủ các loại thức ăn của nhiều nước khác nhau”. Giữa chốn phồn hoa đô hội, tìm được nơi nghỉ chân buổi chiều như thế là một niềm khoái trá. Các quán rượu cận kề, chỉ cách ngăn chỉ một bờ giậu thấp. Mọi người đều bình đẳng hướng mắt ra một khoảng sân rộng. Gió chiều nhẹ nhàng. Âm thanh náo nhiệt của phố xá nghẽn xe lục tặc tam bành không vọng đến. Khu này theo nhà văn Nguyễn Đông Thức, thời trước năm 1975 là “cư xá của dân Quan thuế (Hải quan)”. Thử hỏi, còn thời Pháp dùng để làm gì? Lúc mới quen, nàng đố, y tài lanh tra cứu nhiều sách báo, tài liệu cũ, kể cả Sài Gòn năm xưa của cụ Vương Hồng Sển nhưng rồi bí rị. Nào ngờ, cũng trong Ve vãn Sài Gòn, nàng cho biết: “Thực chất trước đây là một nhà máy chế biến thuốc phiện từ thời Pháp. Cái tên Refinery xuất xứ từ đây mà ra. Và nhà hàng Việt lấy tên là Hoa Túc cũng từ đấy mà ra” (tr.114). Quá thú vị. Thế nhưng chiều qua dù uống cạn cả một chai rượu đỏ mà vẫn không tìm ra cách lý giải chữ “Ký”. Bực mình chưa? Vậy là tối qua bèn vào quán "Lương Ký mì gia" bên Bình Thạnh ăn cho bõ ghét. Mì ngon nhưng vẫn không thể có câu trả lời. Bực mình chưa?
Nào ngờ chiều nay ăn tối ở quán ăn Hàn Quốc, nàng nói như reo: “Em đã tìm ra ý nghĩa của chữ “Ký” rồi. Ngày xưa người Hoa buôn bán tại một địa điểm cố định họ thường gọi “điếm” - người Việt nói trại ra thành “tiệm”. Còn xe mì do di chuyển nên họ gọi là “ký”. “Ký” có nhiều nghĩa trong đó còn hàm ý “di chuyển”, “tạm bợ”… Cách giải thích này nghe hợp lý quá chăng? Sở dĩ nghi ngờ vì tra lại Hán - Việt từ điển của cụ Đào Duy Anh vẫn không thấy có ý nghĩa đó. Hay "Ký" của xe mì người Hoa nằm trong ý nghĩa này: "Gởi - Phó thác cho - Ở ngụ, ở đậu" mà ta có thể suy luận thêm? Xe mì trong tiểu thuyết của nhà văn Lê Văn Nghĩa có tên “Hải Ký mì gia”, anh miêu tả: “cái xe có tranh kiếng vẽ những nhân vật từ truyện Tam Quốc như Lữ Bố, Quan Công, Trương Phi trong các tích “Lữ bố hí Điêu thuyền”, “Vườn đào kết nghĩa”, “Quan Công tha Tào ở Huê dung đạo”…”. Đúng quá, loại xe mì này vẫn còn khá nhiều tại Sài Gòn. Thời sinh viên và nay, mỗi lần đi chơi về khuya y vẫn ghé ăn xe mì trên đường Lê Văn Sỹ, gần Trường Đại học Sư phạm. Mấy chục năm rồi vẫn thế, hai chị em ruột giống nhau y chang, cô chị lưng hơi gù chẳng bao giờ nói một câu nào. Nghe khách yêu cầu là thao tác thoăn thoắt từng vắt mì, không hé răng hỏi một thêm câu nào. Nhân đây cũng "bật mí", có lẽ với tiểu thuyết sắp in thì Lê Văn Nghĩa là nhà văn Việt Nam đầu tiên dám đặt tựa sách dài đến thế. Anh Ánh và nàng phản đối quá xa vì tựa dài ơi là dài nhưng y lại khoái.
Mà này, đố ai biết tựa tiểu thuyết đó là gì không?
Sáng nay, bài y viết về tập sách của bạn văn Nguyễn Danh Lam đã in PN. Đưa vào Nhật ký như kỷ niệm bạn bè: “Nhà văn Nguyễn Danh Lam từng đoạt giải thưởng của Hội Nhà văn VN với tiểu thuyết Giữa dòng chảy lạc. Cùng những tiểu thuyết khác như Bến vô thường, Giữa vòng vây trần gian… Nguyễn Danh Lam luôn tự ý thức tìm tòi cách thể hiện mới. Do đó, những trang viết của anh không dễ đọc, nếu ai đó muốn tìm những tình tiết ly kỳ, gay cấn…Thế nhưng, với Cuộc đời ngoài cửa (NXB Hội Nhà văn), anh lại chọn cách viết khác trước là đưa vào nhiều chi tiết của đời sống. Anh tâm sự: “Nhà văn không thể đứng ngoài hiện thực của đời sống. Dòng chảy các sự kiện từng ngày là chất liệu phong phú để tái hiện trên trang văn, tôi đã quan sát và hư cấu thành số phận cho nhân vật của mình”.
Cuộc đời ngoài cửa là câu chuyện của ông giáo đã có mấy mươi năm đứng trên bục giảng, nhưng một ngày, ông quyết định bỏ dạy. Tại sao? Sự việc hai cậu học trò đâm nhau chết đã khiến ông bàng hoàng; cùng lúc đời sống hôn nhân lại trục trặc đã đẩy ông đến quyết định đó. Ông tâm sự với bạn: “Cũng buồn. Bằng tuổi này rồi, coi như lại lẫm đẫm tập đi. Cả đời, ngoài việc đứng trên bục giảng, dạy học trò, làm mấy bài thơ, tao chẳng có bất kỳ kỹ năng sống nào khác” (tr.17). Sau khi nghỉ dạy, ông thực hiện một chuyến đi xa. Hay tin, cô con gái suốt ngày chỉ dán mắt chơi game trên điện thoại di động, nhoay nhoáy với cả đống tin nhắn cũng đòi đi theo: “Ba muốn đi để có một đời sống khác, để gột rửa quá khứ, để học lại đời mình… như ba đã nói. Vì vậy, con cũng muốn đi để làm mọi điều như ba”.
Hai cha con lên đường.
Những tưởng từ chuyến đi này, cả hai sẽ có những cảm thông, hiểu biết nhau hơn, nhưng không, xung đột giữa hai thế hệ lại mở ra. Với ông giáo, được sở hữu một tủ sách là cả gia tài: “Ba đã từng mơ ước để lại số sách đó cho các con. Đó là tài sản lớn nhất cho các con”, nhưng cô con gái nói toẹt ra “ít khi đọc”, không thèm quan tâm đến. Suy nghĩ này đã khiến ông choáng. Đi ngang nghĩa trang, ông tâm sự: “Những con người trong ấy, họ nằm lại bởi chiến tranh. Cuộc chiến mà con học trong sách đó. Hàng triệu người đã nằm xuống. Và rất nhiều người chưa được về với quê hương bản quán. Những người ở đây cũng vậy”. Điều đó khiến ông giáo thương xót, day dứt, thương cảm, nhưng cô con gái lại dửng dưng đến vô cảm: “Con tưởng có chuyện gì. Họ chết rồi, còn con thì phải đang sống”.
Đi trên cùng một chuyến xe, va chạm nhiều cảnh đời, nhưng hai cha con, hai thế hệ luôn không cùng suy nghĩ, sự bực bội diễn ra thường xuyên. Những lúc nhắc lại chuyện ly hôn của ông cũng gây cho cô con gái cú sốc nặng nề về tâm lý. Xung đột được đẩy đến đỉnh điểm khi cha con cãi nhau kịch liệt: “Trong khoảnh khắc thấy bóng con vừa vùng lên, định gào tiếp một câu gì đó, ông dang thẳng cánh tay, tát giữa mặt con một cú như trời giáng”. Chính vì cơn giận dữ không kiểm soát, ông giáo đã đẩy cô con gái tự tìm cách kết thúc số phận của mình.
Cuộc đời ngoài cửa là một cuốn tiểu thuyết lôi cuốn, mở ra nhiều vấn đề của hiện thực. Ít ra, khoảng cách giữa hai thế hệ không phải là hố thẳm, nếu con người hiện đại - như nhân vật của Nguyễn Danh Lam, được trang bị nhiều hơn về kỹ năng sống để có thể chấp nhận mọi tình huống trong cuộc đời. Điều nhà văn cảnh báo khiến người đọc khép trang sách vẫn còn ngẫm ngợi…”.
Có lẽ lúc khác, sẽ bổ sung và giải thích vì sao các nhân vật của Nguyễn Danh Lam đều không có một cái tên cụ thể nào? Sẽ trả lời sau. Sáng nay lên facebook lại hay tin tiểu thuyết của bạn văn Trần Nhã Thụy cũng sắp tin. Mấy hôm nay, còn vui thêm một chút là cháu An May đã sinh hoạt trong Hướng đạo. Nhìn ảnh của các cô / chú nhóc ngoài Đà Nẵng, y sực nhớ lại tuổi nhỏ và cảm động ghê gớm. Nhớ lại ngày tháng sinh hoạt cộng đồng ấy, sau này, y đã trả lời trên báo TN (số ngày 1.7.2013): “Ngày đó, mẹ tôi thường dẫn ra chợ Cồn, được các anh chị dẫn đi chơi Hội An, Ngũ Hành Sơn, Mỹ Khê, Mỹ Sơn… qua đó tôi thấy cụ thể những gì mà trước đó chỉ biết qua sách vở. Những hình ảnh mới mẻ này đọng lại trong ký ức lâu bền hơn là chỉ học và đọc từ các trang sách. Nếu không có những ngày hè lang thang nhiều nơi ở vùng quê Quảng Nam, đi cắm trại, du lịch… chắc chắn ký ức về tuổi thơ của tôi rất nghèo nàn; và nhất là sự thăng hoa, bay bổng của trí tượng tượng khó có thể hình thành từ ngày ấy”. Lan man thêm một chút chăng? Ừ. Vậy đố tiếp, ai là người tiên phong đưa Hướng đạo vào Việt Nam? Trả lời luôn đi. Rằng, từ năm 1926 mới bắt đầu có hướng đạo sinh tại Việt Nam, nhưng chỉ là con lai Pháp sinh hoạt. Vũ Ngọc Tân là người Việt Nam đầu tiên gia nhập hướng đạo ở trường Albert Sarraut (Hà Nội). Tháng 9.1930, Hướng đạo Việt Nam chính thức khai sinh, Đoàn Lê Lợi. Người thành lập là đoàn trưởng Trần văn Khắc, đoàn Lê Lợi ra mắt tại sân Trường Thể dục Hà Nội, sau giao lại Nguyễn Ngọc Vũ. Tháng 10.1939, thành lập Đoàn Vạn Kiếp... Phải kể đến công sức, vai trò buổi ban đầu ấy còn là các ông Hoàng Đạo Thúy, Tạ Quang Bửu, Trần Duy Hưng, Lê Thị Lựu v.v.…Y không phải dân Hướng đạo nhưng biết rằng muốn tìm hiểu nguồn gốc Hướng đạo Việt Nam thì phải đọc cho bằng được 2 quyển: Kỷ yếu Hướng đạo Việt Nam 1930-1945 (NXB Văn Nghệm -2009) do Phạm Văn Nhơn sưu tầm - biên soạn; Hội Hướng đạo Việt Nam kỷ yếu in năm 2006 (lưu hành nội bộ).
Viết những dòng chữ này, lại ước gì các thế hệ hoa niên hiện nay, bất kỳ nơi nào cũng được khuyến khích sinh hoạt trong những đoàn thể như thời tuổi nhỏ mà y đã trải qua…
L.M.Q
Hình ảnh ra mắt sách NGUYỄN NHẬT ÁNH - HOÀNG TỬ BÉ TRONG THẾ GIỚI TUỔI THƠ tại Hội sách 2014 (ảnh: Cao Xuân Sơn)
Những ngày này, không buồn không vui không không có gì đọng lại trong đầu. Chiều thứ bảy, đi ăn đám cưới con trai người bạn. Gặp nhiều đồng nghiệp cũ. Trước đây, có thể tay bắt mặt mừng, khề khà vô tư. Nay đã khác. Góc nhìn về thời sự của mỗi người, tự nó đã góp phần phân hóa các mối quan hệ. Dù bạn bè nhưng suy nghĩ của mỗi người đã khác. Cẩn trọng hơn. E dè hơn. Chỉ là những xã giao vụn vặt. Vô thưởng vô phạt. Đưa mắt chào nhau nhưng trong lòng chắc gì đã thắm thiết tình. Mà cũng ngồi với nhau. Những câu chuyện nhạt như nước ốc. Đã từ lâu, y không muốn phải quan tâm đến những câu chuyện thời sự nữa. Nghe nói, có trang thông tin mạng nọ ròng rã cả tháng nay “đánh” tờ báo nọ dữ dội lắm, y cũng không buồn đọc. Đọc những thông tin hắc ám, rồi bực, rồi cau có thì làm sao có thể vui trong ngày? Nhìn cuộc đời nhẹ nhàng, thanh thản cũng không dễ.
Đành vậy. Biết làm sao?
Trong hồi ký của Sơn Nam, ông cho biết dưới thời Ngô Đình Diệm để tránh né tình hình chính trị, ông túc trực trong thư viện viết biên khảo Tìm hiểu đất Hậu Giang. Sau này, một loạt sách biên khảo khác nữa, có phải ông viết trong tâm thế đó không? Lúc đó, nhiều nhà văn, nhà thơ đã viết kiểu khác, tất nhiên có tác dụng ngay lập tức với quần chúng, khích thích lòng yêu nước, kêu gọi xuống đường v.v… nhưng nay mấy ai nhớ? Thời gian cứ thế lừng lững đi qua và nghiến nát cả thẩy chúng sinh. Thôi thì, mỗi ngày còn có niềm vui thong dong, tự hài lòng với chính mình là được. Chẳng tham vọng cao xa gì hơn. Ngày hôm qua, đọc ngấu nghiến tiểu thuyết Cuộc đời ngoài cửa của Nguyễn Danh Lam. Bạn bè tặng sách, chẳng lẽ không viết giới thiệu đôi dòng? Khuya lại đọc bản thảo sắp in của một đồng nghiệp. Sáng nay viết lá thư trao đổi. Anh em chơi với nhau, chỗ thân tình, chịu khó vì bạn một chút. Nghĩ rằng, thư trao đổi về chuyện văn chương cũng chẳng gì cá nhân mà phải giấu giếm:
“Thư gửi anh,
Quốc đã đọc xong tập sách mới của anh. Đọc kỹ. Ngoài một vai tiểu tiết về lỗi chính tả, không nhắc lại. Nhìn chung, đây là một tập sách hay, đọc lôi cuốn. Xây dựng được tính cách nhân vật. Các nhân vật có xương cốt, dễ nhận diện. Ngôn ngữ của nhân vật OK lắm, điều này trong tập sách trước anh đã phát huy. Đó là thế mạnh của nhà văn bụi đời, nhiều la cà, lượm nhặt, ghi chép và sử dụng hợp lý. Tuy nhiên, Q mạnh dạn trao đổi với anh như sau:
1. Hạn chế, hoặc thay đổi những từ chửi tục, dù chỉ là “dm” hoặc “cc”… Không cần thiết, vì sách viết cho thiếu nhi nên khó chấp nhận. Dù câu nói đó làm rõ tính cách nhân vật nhưng cũng có cách viết khác. Cái này thì anh thừa biết rồi. Bên cạnh đó, có cách nào cho nhân vật hạn chế hút thuốc lá không? Kể cả việc nhắc đến tên các loại thuốc lá đó. Đừng quên, các bậc phụ huynh rất dị ứng với những chi tiết trên. Viết cho người lớn thì sao cũng được nhưng viết thiếu nhi lại khác. Đôi khi nhà văn cũng tự “ràng buộc” mình, dù muốn dù không thì yếu tố giáo dục vẫn cần. Mà trong này nhiều đoạn rất rõ yếu tố giáo dục của tác giả, chẳng hạn chuyện “sửa lưng” lũ học trò khi gọi con đào, thằng kép v.v…
À, khi xem Tin Tin - một mẫu mực truyện tranh kinh điển thì không bao giờ có nhân vật nào nói tục và cảnh bạo lực.
OK anh nhé.
2. Phải suy nghĩ rằng, đây là truyện viết cho thiếu nhi của thập niên 60 thế kỷ XX tại Sài Gòn, do đó, bạn đọc thế hệ này chưa chắc đã cảm thông và chia sẻ. Trong khi đó, N.N.A cũng viết thiếu nhi nhưng anh lại chọn những tình tiết phổ biến mà ai ai cũng từng trải qua, nhờ đó, dễ tạo sự cảm thông. Hơn nữa, là nhà thơ nên trong văn N.N.A nhiều miêu tả và câu cú cứ như thơ, trau chuốt… Trong khi đó, anh có thế mạnh là chi tiết, ngôn ngữ của đời thường - cụ thể là thời anh đã sống và trình bày lại qua qua nhân vật anh. Đừng quên, cách sử dụng từ ngữ ấy đã trở nên xa lạ với nhiều người, chứ huống gì trẻ em hiện nay.
Vậy thì tập sách của anh nên như thế nào?
3. Mạo muội nghĩ rằng, anh đã đi đúng hướng (không rõ chủ đích hay tình cờ) mà hướng đi đúng nhằm giúp tác phẩm có giá trị lâu dài: Thông qua câu chuyện của những đứa trẻ ở Sài Gòn năm tháng đó, tác giả đã khắc họa lại một Sài Gòn thời trước.
Điều này rất quan trọng.
Theo Q biết, hầu như chưa nhà văn VN nào chạm tới điều này. Viết về SG bất quá cũng dăm ba cảm nghĩ, tự sự, hoài niệm… Chưa có nhân vật trẻ em Sài Gòn quan sát về Sài Gòn. Cảm hứng này chắc chắn người lớn đọc sẽ thích, rất thích. Đây cũng là thế mạnh của anh. Bằng chứng, các chi tiết về chiếu phim thùng, đẩy xe dưới chân cầu kiếm tiền, ảo thuật sơn đông mãi võ v.v… anh viết sống động, nhiều chi tiết rất đắt giá (chẳng hạn, vụ thằng Ti khám phá ra màn ảo thuật đổi người) hoặc cho nhân vật chui vào tủ thờ ngủ (hồi xưa Q cũng vậy thôi. Đọc rưng rưng muốn khóc) v.v…
Các chi tiết này nhiều, khiến tác phẩm vững vàng và có bề dày hơn.
4. Với tư cách người bạn, người đọc khó tính và ít nhiều đọc kỹ anh, đề nghị anh thu hồi lại bản thảo, không vội in và anh viết bổ sung thêm nữa các đoạn về sinh hoạt đời thường của người Sài Gòn. Nhiều hơn nữa. Anh viết đoạn 6 cực kỳ hoặc trẻ con lúc xem phim trong rạp v.v… Q rất thích những đoạn như:
“Tiệm nước của chú Quẩy thường mở cửa từ năm giờ sáng nhưng bây giờ đã hơn 9 giờ mà tiệm vẫn còn đông khách ngồi “dẩm chà” (1), uống cà phê, ăn hủ tiếu. Quán nằm ở ngã tư, nhìn sang khu hành chánh quận 6, một bên nhìn sang nhà thờ Tin Lành của người Hoa, dưới chân dốc cầu Chợ lớn (2), thuộc khu thị tứ, lại ngon nên lúc nào cũng đông khách. Quán có chừng 10 cái bàn tròn. Giữa bàn là một bình trà với mấy cái ly nhỏ nằm úp trên dĩa để cho thực khách có thể thoải mái uống trà trong khi chờ đợi món ăn. Án ngữ phía trước quán là một quày nấu hủ tiếu, mì đang bốc hơi nghi ngút. Chú Quẩy, là chủ quán, kiêm luôn việc đứng nấu hủ tiếu, mì. Nghe người ta nói chú Quẩy chỉ là người tiếp tục công việc bán quán của người cha để lại. Khi ba của chú, từ Quảng đông sang đã mở một cái quán nhỏ tại đây- một khu vực hoang vắng, ít người qua lại. Dù cho thời gian trôi qua, mặc cho khu phố nầy ngày càng phát triển, sầm uất, nhiều nhà lầu mọc lên thì cái tiệm nước Hải Ký mì gia cũng y như vậy. Nhiều người là thân chủ ruột của chú Quẩy cho biết là chú đã có mấy căn nhà cho thuê bên Chợ Lớn nhưng chú nhất quyết không bỏ tiệm nước này và cũng không thèm xây dựng cho nó thật to và bề thế như những tiệm nước khác. Dù trải qua bao nhiêu năm tháng cái quán nầy vẫn vậy về hình thức cũng như hương vị đặc biệt của nó cũng không thay đổi, chỉ có tấm bảng hiệu ngày càng mờ đi vì bụi bặm, khói bám nhện giăng. Vợ chồng chú thì ngày càng già đi nhưng chú vẫn đứng nấu bếp, vợ chú bán cà phê y như ngày xưa. Đứa con gái thì phụ việc bếp núc và rửa chén. Còn thằng con trai thì chú Quẩy đang truyền tay nghề lại bằng cách bắt làm ‘phổ ky’. (3) ‘Hầy à, cái quán lầy trước sau gì ló cũng làm chủ. Muốn làm chủ ‘hảo lớ’ thì phải biết cách phục vụ khách chớ…’ Chú thường nói như vậy với người quen bằng ngôn ngữ nửa tàu, nửa Việt" v.v… và v.v.. Viết kỹ như vậy, đọc thích và nó còn hơn mấy đoạn tạp bút, hoài niệm hiện nay viết về Sài Gòn nhiều lắm.
Hấp dẫn của tập sách này, chính là những chi tiết đời thường này.
Dù theo dõi tình tiết của nhân vật nhưng người đọc vẫn có dịp biết thêm về sinh hoạt của người Sài Gòn ngày trước. Mà anh là người có thế mạnh này. Thiết nghĩ, anh nên “gài” thêm nhiều hơn:
Chẳng hạn, sao không cho nhân vật đi mượn truyện thuê lấy cớ nói về cách thuê truyện thời đó như thế nào? Khi nhân vật vào rạp chiếu phim, sao không nói đến chuyện vẽ phông màn to đùng trước rạp hát, vẽ bằng màu nước (hồi nhỏ, Q ở ĐN nghe đồn là tay họa sĩ đó bị câm, phải không anh?), rồi các tờ “prồ - gam” tóm tắt cốt truyện?; sao không có đoạn “tám” về các nghệ sĩ cải lương, đóng phim thời đó (mà chắc chắn các đứa trẻ ít nhiều có nghe lóm)? chuyện đánh máy chữ sao không gài cho chúng nói đem đơn đến chỗ đánh thuê, lấy cớ để miêu tả thêm hoạt động này (mà nay đã mất)…
Những chi tiết này không làm ngắt mạch truyện đâu, anh đừng lo vì nó sẽ tái hiện lại Sài Gòn rõ nét hơn. Anh đọc “Vạch một chân trời” của Sơn Nam chưa? “Lão” chuyên “gài” chuyện xưa tích cũ vào đó khiến bạn đọc có hai cảm hứng: Câu chuyện đang diễn ra; và kiến thức của “lão” khi đề cập đến tình tiết, địa danh nào đó v.v… Về Sài Gòn, nếu anh chọn hướng đi đó là đúng hướng. Thiết nghĩ, anh vẫn còn nhiều vốn sống, lần này, “gài” thêm nữa đi anh.
Anh thừa sức để miêu tả rõ nét hơn nữa, cái nhà thơ Tin Lành đầu câu chuyện, cái trường lũ trẻ học; chiếc xe đạp của bọn học trò; truyện thơ Thạch Sanh Lý Thông, Lâm Sanh Xuân Nương thời đó in giấy thế nào anh? Hình như xếp chữ chì? Sao không lấy cớ miêu tả thêm? Đi xem hát hạng “cá kèo” sao không miêu tả hình tượng hơn mà chỉ 1 dòng chú thích là không đủ vì từ này rất Sài Gòn v.v...
À, anh xem lại chuyện tiền có hợp lý chưa? Q không rành, nhưng ngờ ngợ, thử so sánh, tiền uống nước, tiền đẩy xe, tiền thuê viết đơn, tiền mua thịt heo v.v… thì những con số đó có hợp lý không? Cái này Q không dám quả quyết lắm.
Đoạn kết, 48, kết thúc như vậy là khéo lắm, hợp lý. Dấu lặng này OK lắm anh, vì dư âm còn mãi.
Đại khái mấy góp ý chân tình.
Đừng ngại phải bổ sung thêm. Nếu giữ nguyên đem in thì chẳng sao, nhưng uổng đi, thử suy ngẫm thêm.
Chúc vui anh nhé.
Tình thân,
Q”.
Email gửi đi, sáng nay hai anh em trò chuyện khá lâu qua điện thoại. Nếu không có gì thay đổi tác phẩm của anh sẽ phát hành vào dịp 1.6 năm nay. Hãy chờ xem. Đọc đoạn trên thấy chính xác. Thường ngày, y vẫn ăn mì ở góc Đinh Tiên Hoàng - Điện Biên Phủ, hỏi ra chủ người Hoa đã theo nghề từ mấy chục năm rồi, trước giải phóng đã có. Đời cha truyền lại đời con. Cứ thế, nhất nghệ tinh nhất thân vinh. Họ không bỏ nghề. Lại nhớ, hồi mới về nhà này đã gặp lão bán bánh tiêu, bánh quẩy... bao nhiêu năm rồi, lão vẫn thế. Khi bạn có sách mới, tự nhiên vui. Sẽ viết đôi dòng nói đầu cho tập sách này. Đố ai biết quyển gì không? Rồi tập sách Sài Gòn mùa trứng rụng của Chị Đẹp nữa. Đêm qua đã xem qua bìa rồi. Còn chỉnh sửa một chút. Cũng là họa sĩ vẽ bìa của Ve vãn Sài Gòn.
Sáng chủ nhật này, 13.4.2014 từ 9 giờ đến 11g tại Tiệm sách Kính Vạn Hoa (hẻm 173 Nguyễn Thị Minh Khai, Q.1), y sẽ gặp gỡ và tặng chữ ký cho bạn đọc nhân dịp ra mắt hai tập sách mới: ĐỜI, THẾ MÀ VUI và KHI TỔ ẤM NHẢY LAMBADA. Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh cũng sẽ có mặt trong buổi gặp gỡ thân mật này nhân tập sách NGUYỄN NHẬT ÁNH - HOÀNG TỬ BÉ TRONG THẾ GIỚI TUỔI THƠ của y vừa được NXB Kim Đồng tái bản.
Chiều rồi. Đi hớt tóc nhé?
L.M.Q
Lưng chừng rượu đỏ đáy ly - chiều ngày 1.4.2-14 (ảnh: L.P.T)
Mấy hôm nay xao nhãng chuyện Nhật ký. Một phần do nản bởi không có thời gian mổ xẻ “ra ngô ra khoai” những gì đã nghĩ. Viết hời hợt, loáng thoáng, né tránh thì viết làm gì? Chiều qua đã làm một việc phi thường, chỉ mới 15 giờ chiều, sau khi viết xong bài vở cho cơ quan đã dũng cảm tắt máy vi tính. Xuống phố. Đi một mạch đến quán cà phê ngay tại trung tâm Sài Gòn. Và rượu đỏ. Cảm giác yên lành. Nhẹ nhàng. Không thèm nghĩ đến những gì đã nghĩ.
Nhìn xuống đường phố, nàng bảo, đã lâu em có xem bộ phim Nửa đêm ở Paris. Có thể tóm tắt, anh chàng nhà văn tỉnh lẻ nọ một ngày kia đến Paris. Trong đêm khuya, anh đi lạc và tình cờ lạc vào quán cà phê, quái, từ khung cảnh bài trí đến cách ăn mặc dường như của thế kỷ trước. Ở đó, anh đã gặp những văn nghệ sĩ nổi tiếng nhất, gặp cả văn hào Ernest Miller Hemingway (1899 - 1961). Mừng quá, anh đến làm quen, rụt rè thổ lộ mình đang tập viết văn. Đôi bên tương đắc. Bia bọt lai rai. “Dân chơi không sợ mưa rơi” vì nhờ có men nên anh ta dạn dĩ van nài: “Ông có thể đọc giúp và nhận xét tác phẩm của tôi được không?”. Nhà văn sốt sắng: “Sao lại không? Đem bản thảo đến, tôi sẽ đọc”. Vâng lời, anh chàng vội vàng trở về nhà lấy bản thảo. Khổ thay, lúc quay lại, anh ta không thể tìm ra quán cà phê nọ. Trời đã rạng sáng.
Mấy này sau, anh chàng vẫn không ngừng bỏ ý định đi tìm quán cà phê đó. Những lần này, anh đem theo kè kè tập bản thảo. Rồi cuối cùng vận may cũng đến. Tìm được quán cà phê, gặp lại cố nhân, anh sung sướng trình bày câu chuyện khuya nọ, nào ngờ Hemingway thốt lên: “Anh là ai? Tôi không biết. Hơn nữa, tôi chỉ đọc tác phẩm của tôi chứ không đọc của ai khác”. Câu chuyện này tất nhiên đạo diễn bịa ra, vì lúc bối cảnh trong phim cho biết thời điểm đó Hemingway đã mất.
Nghĩ gì về chuyện này?
Trước đây, tạp chí Văn số 41 (1.IX,1965) có thực hiện số báo đặc biệt về Hemingway. Còn nhớ câu của Hemingway: “Khi tôi ngừng viết, nguồn văn của tôi khô cạn, nhưng rồi nó lại tiếp tục tràn đầy. Thật chẳng khác gì việc trai gái làm tình với nhau. Trong lúc đó, không cái gì có thể xẩy ra, không cái gì có thể có nghĩa lý gì, cho tới khi làm việc trở lại ngày hôm sau. Chính cái sự chời đợi cho tới ngày hôm sau mới là việc khó khăn nhất đó”. Ghi thêm câu này nữa: “Đối với một nhà văn chân chính, mỗi tác phẩm phải là một sự khởi đầu mới mẻ, nhờ đó họ lại cố công đạt tới được một cái gì không thể nào vươn tới được. Họ phải thử làm một cái gì chưa có ai làm bao giờ, thản hoặc đã có những người thử làm mà đã không thành. Và chỉ có một đôi lần, nếu gặp rất nhiều may mắn, nhà văn đó mới có thể thành công”. Đây là một đoạn trong diễn văn nhận giải văn học Nobel do Hemingway đọc tại Stockholm (Thụy Điển) ngày 25.10.1954.
Chiều hôm qua đã trả lời câu hỏi phỏng vấn của báo ANTG. Câu hỏi, đại khái, “để lại cho anh những tín hiệu gì vui hay buồn” khi có những tác phẩm như (…) rất xoàng nhưng cũng bán được vài chục ngàn bản? Trả lời thế nào? Chẳng muốn có nhận xét nào, đành trả lời chung chung: “Có những tập sách bán chạy nhưng thú thật đó là lần đầu tiên tôi biết đến tên tác giả đó. Tất nhiên tôi cũng tìm đọc họ nhưng do không “hợp tạng” nên tôi không thể đọc nổi. Điều này cũng bình thường bởi độc giả chỉ đọc những gì họ quan tâm. Theo chủ quan của tôi, chỉ có vài nhà văn hiện nay có sách bán chạy là do tự thân của tác phẩm đó, còn lại không ít do các động tác P.R.
Thật lạ, có những tập sách của nhiều nhà văn tên tuổi viết rất hay, sâu sắc nhưng số lượng in chỉ vài ngàn bản, trong khi đó, một tác giả mới toanh lại in vài chục ngàn bản mà đọc xong chẳng đọc lại trong đầu mình một ấn tượng nào. Thế nhưng, các bạn trẻ vẫn chen chúc xếp hàng mua và xin chữ ký tác giả. Trả lời câu hỏi này như thế nào? Do tác giả viết đúng suy nghĩ của lớp người cùng thế hệ nên nhận được sự tán thành? Do tác động của người khác nên họ tò mò “đọc cho biết” chứ không hẳn vì yêu thích tác phẩm đó? Do sự P.R từ các trang mạng xã hội để tạo ra một hiệu ứng nhất định? Tôi nhận thấy điều này cũng bình thường.
Văn chương kỳ lạ lắm, nó chỉ có thể tồn tại tự thân chứ không thể bẳng bất kỳ một sự can thiệp nào. Nếu có, hiện tượng đó cũng nhanh chóng trôi vào quên lãng. Rồi thời gian, vị quan toà phán xử nghiêm khắc nhất sẽ xác định lại lần nữa”.
Vừa trả lời xong, buổi tối, nhà văn N điện thoại, tình cờ cũng trao đổi chuyện này, chị nói gay gắt hơn nhiều và cho biết những tập sách đó khi đọc bản thảo, vì chất lượng kém nên chị không thể đầu tư in ấn. Nào ngờ, có những quyển sách văn học mình đọc thấy kém cỏi nhưng vẫn tạo ra cơn sốt! Tạo ra cơn sốt này, y tin ở chất lượng chỉ có thể là Nguyễn Nhật Ánh, Nguyễn Ngọc Tư và những nhà văn đã thành danh. Vừa qua, có những tác giả mới toanh mà sách bán chạy như tôm tươi, y đọc nhưng thất vọng quá. Lang thang trên facebook, thấy nhà văn Trần Nhã Thụy có câu status: “"Không phải cái gì kẹp vào giữa hai cái bìa thì cũng được gọi là sách". Sáng nay trên đường đi ăn phở thoáng nghĩ, có người lâu nay uống cà phê giả, chỉ là bắp rang, cơm cháy rang khô, bỏ thêm hóa chất nhưng uống riết thấy ngon. Rồi đến khi uống cà phê thật lại chê dở. Thì có gì đáng trách không? Bởi đó là lựa chọn của họ và họ hài lòng kia mà? Nàng cãi: “Chẳng phải đâu anh, phải trách nhà sản xuất chứ?”. Nghe nàng bảo thế, y chẳng dám thốt lên lời nào nữa bèn đánh trống lãng qua chuyện khác. Và câu chuyện này khép lại thôi. Chẳng quan tâm nữa.
Vụ ASIAS mấy hôm nay vẫn râm ran trên mặt báo. Đã có ý kiến, “không khả thi, không tổ chức”. Ông trời hay thật, dù con người giàu nghèo, xuất thân thế nào cũng có hạnh phúc như nhau. Ngồi ăn búp-phê, một suất ăn hơn một triệu đồng ở nhà hàng sang trọng nhất Sài Gòn thì khác gì kẻ ngồi lề đường ăn hộp cơm chỉ mười ngàn? Chẳng khác gì, cả hai đều hạnh phúc như nhau nếu đều thấy ngon miệng, no dạ, hài lòng với bữa ăn của mình. Không những thế, ông trời còn cho mỗi người có cơ hội đáng nhớ nhất. Vấn đề đặt ra là trước cơ hội đó, con người ta hơn nhau ở chỗ có dám thực hiện hay không? Lịch sử đã tạo cho hội cho Trần Thủ Độ trở nên bất tử với câu nói: “Đầu tôi chưa rơi, xin bệ hạ đừng lo”, dù đương thời và đời sau có phán xét gì về ông thì cũng không hể quên được câu nói khí khái, sáng ngời lòng yêu nước ấy. Mọi sự so sánh đều khập khiểng nhưng trong lúc ngẫu hứng bèn bông phèng nghĩ rằng, biết đâu lịch sử cũng đang tạo cơ hội cho ai đó thôi. Thật không? Thì đây, chỉ một câu trả lời, một quyết định dứt khoát “nên hay không tổ chức ASIAS?” là cũng có thể lưu danh hoặc xú danh trong lúc này.
Chiều rồi, tự nhiên lại nhớ nhà văn Mai Văn Tạo. Thế hệ này ít ai biết chăng? Ông cùng thế hệ với Nguyễn Quang Sáng, Anh Đức, Sơn Nam, Đinh Quang Nhã… Nhớ vì có thời cà kê với ông thuở mới vào nghề. Có lần ngồi uống cà phê gần nhà ông, đường Hai bà Trưng, ông cao hứng đọc mấy câu ca dao:
Chị kia bới tóc đuôi gà
Nắm tay chị lại hỏi nhà chị đâu ?
Nhà tôi ở dưới đám dâu
Ở trên đám đậu đầu cầu ngó qua
Ngó qua bụi bắp trổ cờ
Đám dưa trổ nụ đám cà trổ bông
“Q nghĩ thế nào?”. Không để cho y trả lời, ông Tạo nói luôn, giọng lắp bắp, nhát gừng theo thói quen: “Nguyên văn của nó là “Nắm đuôi chị lại hỏi nhà chị đâu”. Ban đầu, tôi cũng nghe hát “Nắm đuôi”. Nhưng khi đưa vào sách, tôi cảm thấy nắm đuôi sỗ sàng quá, hỗn quá. Tôi chữa lại “nắm tay” cho câu hát dịu dàng hơn, lễ độ hơn. Ngày xưa, trước những năm Bốn mươi, các cô gái làng quê bới tóc, cô nào muốn làm dáng, thêm duyên, chừa một tí tóc ló ra khỏi búi tóc. Trông giống cái đuôi gà. Thế là đẹp đấy. Tôi nghĩ anh chàng nào tán gái, mà lại xấn xổ nắm tóc, còn có nghĩa là nắm đầu. Nắm đầu là khi đánh nhau, hoặc hạ nhục. Đàng này ve gái kia mà...
Bài hát hay mà ngộ nghĩnh. Ẩn dụ sâu xa về nhân cách người con gái đoan trang và tư cách một anh chàng hơi cà chớn. Chưa biết nhà người đẹp, có thể mới gặp lần đầu, đã vội vàng “hỏi nhà chị đâu?”. Cách hỏi rất ba gai - nắm tóc người ta mà hỏi! Người con gái đàng hoàng tất nhiên không ai chỉ chỗ ở của mình cho con người như vậy. Không trả lời không tiện, nặng lời càng bất lợi hơn. Chứ đối với anh chàng cà lơ kia đáng mắng, đáng tát tai và tặng hai chữ “cút đi”. Cô gái điềm nhiên chỉ chỗ ở nhà mình. Cái hay là chỉ mà không chỉ. Không làm cho anh chàng thô tục kia mất mặt. Biết đâu hắn chẳng nổi khùng. Cô gái khôn khéo chọn thái độ trung dung, nửa thật nửa đùa. Chỉ nẽo loanh quanh như đố...”.
Ngẫm ra, lời bình của nhà văn Mai Văn Tạo thật chính xác! Tuy nhiên, khi ông sửa "nắm đuôi chị lại" thành "nắm tay chị lại" thì câu thơ đã nhẹ đi nhiều lắm. Thời buổi này, có ai còn rảnh rang thời gian đọc thơ, đọc ca dao chậm rãi và suy ngẫm gì về từng chữ, từng câu không? Chẳng rõ nữa. Với y, mọi sự viết gì cũng mục đích kiếm sống. Chỉ có thơ mới là nơi gửi gắm nhiều tâm sự nhất. Nhưng rồi, có ai đọc không? Thoáng nhớ đến câu thơ của Phạm Hầu mệnh yểu:
Đưa tay ta vẫy ngoài vô tận
Chẳng biết xa lòng có những ai?
L.M.Q
Sách mới của Lê Minh Quốc (Ảnh: Bích Ngân)
Nhiều thông tin choáng váng. Ấy là vụ nhật báo lớn nhất nước Nhật Yomiuri Shimbun đã tung ra một thông tin chấn động: “Chủ tịch Tập đoàn tư vấn giao thông Nhật Bản (JTC) đã hối lộ cho một vài lãnh đạo ngành đường sắt VN hơn 700.000 USD”. Chưa hết, báo chí trong nước cho biết trang tin Japan Daily Press (Nhật Bản) ngày 26.3. 2014 đưa tin: “Cảnh sát Tokyo đã tạm giữ một nữ tiếp viên Vietnam Airlines vì tình nghi cô này buôn lậu đồ ăn cắp, đồng thời đã khám xét văn phòng của hãng hàng không Vietnam Airlines tại Tokyo”.
Đã thế, lại có tâm thư Việt Nam - Nhà giàu và những đứa con chưa ngoan của cô gái Nhật nào đó đang phổ biến trên cộng động mạng. Trong thư có đoạn: “Thật đáng tự hào vì Việt Nam có 4000 năm văn hiến. Thật xấu hổ nếu 4000 năm văn hiến chỉ là một chương trong sách lịch sử chứ không được thể hiện trong cách hành xử đời thường. Nhưng, thật buồn vì đó cũng là điều tôi thấy mỗi ngày. Hãy chỉ cho tôi thấy rằng tôi đã sai nếu nói: Người Việt không biết xếp hàng, xếp hàng chỉ dành cho học sinh tiểu học; Người Việt không biết tự hào về người Việt, nếu không thì Flappy bird đã không phải chết yểu đau đớn; Người Việt chửi hay còn hơn hát, cứ xách ba lô ra tới thủ đô một chuyến thì sẽ được mục sở thị; Người Việt có đôi mắt siêu hạng nhất vì nhìn đâu cũng thấy cơ hội để mánh mun, lọc lừa. Tôi chưa từng thấy đất nước nào mà các bậc mẹ cha dạy dỗ con cháu cố gắng học hành để sau này là bác sỹ, phi công, thuyền trưởng…mà xuất phát không vì đam mê mà vì phong bì nhiều, đút lót dễ, giàu sang mấy hồi… Vì đâu nên nỗi?
Người Việt có một nền di sản độc đáo, một nguồn sức mạnh vô cùng to lớn, ai cũng nhìn thấy, chỉ có người Việt là không thấy hoặc từ chối nhìn thấy. Vì sao nên nỗi?
Tôi đang nhìn thấy một thế hệ, họ không còn biết phải tin vào điều gì, thậm chí còn không dám tin vào chính mình. Là một người Việt - Khó lắm! Thật vậy sao?”.
Có ý kiến phản biện, chẳng hạn nhà báo Nguyễn Thế Thịnh cho rằng: “Tôi nghi bạn là người Việt tự sướng mạo danh”. Thật ra, bản thân ai viết không quan trọng, điều cốt lõi vẫn chính là nội dung có nó. Đừng mất thời gian tìm hiểu ai viết, hãy dành thời gian suy nghĩ về câu hỏi mà bức thư đã nêu. Quái lạ, vụ Ván bài lật ngửa của nam diễn viên N.C.T thiên hạ bàn tán, bình luận sôi nổi trên các động động mạng, ai cũng tự cho mình cái quyền phán xét, chỉ trích, tung hô kẻ khác. Kệ họ. Đó là quyền tự do ngôn luận cá nhân. Y không quan tâm. Chỉ đáng tiếc là trước một vấn đề thiết thực, cần thiết như lá thư của cô gái Nhật lại không nhiều ý kiến trao đổi, tranh luận, phản biện. Lạ nhỉ? Có lẽ đã đến lúc, cần có nhiều hơn nữa các cuộc hội thảo, công trình nghiên cứu về thói xấu của người Việt. Có đau đớn nhìn nhận, tủi nhục dắn vặt mới có thể bắt đầu tự chấn chỉnh và thay đổi. Bằng không, nếu cứ tự vỗ về, tự mơn trớn, tự mũ ni che tai, tự bịt tai nhắm mắt, tự bằng lòng, tự sướng với những gì đang có hoặc tưởng tượng đang có thì còn lâu chúng ta mới trưởng thành. Những ngày này, y nghĩ nhiều về chuyện máy bay MH 370 mất tích.
Còn có sự thất vọng nào khủng khiếp hơn, nếu vào phút chót của sự mỏi mòn chờ đợi, con người ta phải đối đầu với một sự thật mà họ không hề dám nghĩ đến?
“Thuở đợi chờ ôi thời gian rét lắm” (Huy Cận). Trong đời, ai lại không từng sống trong cảm giác ấy? Lo lắng. Bồn chồn. Rạo rực. Có lẽ, chỉ khi đợi chờ tình nhân bước đến, lúc ấy, trong trái tim mới nghe được nhịp gõ hân hoan từng phút, từng giây; và thậm chí còn chờ mong giây phút ấy trôi qua thật chậm. Thật chậm đặng có thể gặm nhấm cảm giác sung sướng, hồi hộp ấy như chàng thi sĩ Hồ Dzếnh thốt lên nhẹ nhàng: “Tôi khẽ nói: Gớm, sao mà nhớ thế?”. Nỗi nhớ cũng làm thăng hoa đời sống này. Thuở nhỏ, ai lại không từng trải qua khoảnh khắc thời gian hạnh phúc cùa lúc ngóng mẹ đi chợ về? Mẹ về là có quà, là tiếng cười reo tíu tít, rộn rã trong nhà.
Còn người đi xa, thông thường, lúc quy cố hương, cảm giác của họ là mong thời gian trôi thật nhanh để mau chóng được gặp lại tình cảm ấm áp nhất. Trong lúc đó, người ở nhà cũng mong ngóng, trông chờ và trong đầu đã hiện lên biết bao hình ảnh, bao câu nói thương yêu dành cho họ. Nếu người ấy lại không về? Chỉ thoáng nghĩ đến điều hắc ám ấy lập tức từ trong lông ngực đã nhói đau, tưởng chừng nghẹt thở.
Trong thế giới phẳng có những nỗi lo âu của sự chờ đợi, tưởng rằng của ai khác nhưng tự sâu thẳm tâm hồn mình cũng như đang sống với cảm giác ấy. Những ngày qua, cộng đồng đã quan tâm, lo lắng đến số phận của những con người trên chuyến bay MH 370 của Hãng hàng không Malaysia Airlines. Chuyến bay này đã rơi vào một phương trời vô định nào? Cả thế giới thấp thỏm, bàn tán, ngong ngóng thông tin trên các phương tiện truyền thông. Một phần, do chưa ai có thể trả lời câu hỏi tò mò, tại sao lại có thể xẩy ra cớ sự đáng buồn đó; nhưng cái chính vẫn là từ tấm lòng nhân văn khi nghĩ đến số phận của hàng trăm con người đang rơi vào cõi vô định, không còn có cơ hội sống sót.
Thân nhân của họ đã sống trong cảm giác âu lo tột cùng, họ luôn nguyện cầu đến một phép lạ thần kỳ có thể đưa người thân quay trở về, chứ không dám nghĩ, dù chỉ trong thoáng chốc một điều tệ hại nhất có thể xẩy ra. Có lẽ điều đớn đau, trông ngóng tột cùng nhất trên đời vẫn là lúc người mẹ canh khuya thao thức đợi chờ con, vợ chồng đợi nhau, con chờ bố mẹ. Đường bay đang bất trắc, sao giờ này người của mình chưa về, có thể gặp tai nạn gì trên con đường tăm tối kia chăng? Và làm sao có thể chống chọi lại tai ương đè ập xuống đầu? Chỉ nghĩ đến đó, tiếng thở dài đã sườn sượt một nỗi niềm bi thảm. Những thân nhân của chuyến bay định mệnh bị mất tích bí mật cũng đã trải qua những ngày tháng khốc liệt ấy.
Khủng khiếp nhất của sự chờ đợi là lúc giây phút phải đón nhận thông tin xấu nhất, thông tin mà trong đầu họ dù có thoáng đến cũng cố gắng xua đuổi, không dám nghĩ có thật trong đời. Vậy mà, điều đó đã đến. Đến giờ phút này, số phận của chiếc may bay bí ẩn kia đã có kết luận cuối cùng. Không bàn cãi, không tranh luận nhằm trả lời câu hỏi tại sao, họ nuốt ngược nước mắt vào lòng; hoặc trào ngược ra khỏi mí để gào lên những tiếng kêu thương và chấp nhận điều bi thảm nhất đã là xẩy ra. Một sự thật mà những ngày qua họ nguyện cầu sẽ không dành cho người thân của mình. Nhưng rồi, cả một bầu trời tăm tối đã ập xuống ngay trước mắt. Cảm giác mất mát của bất cứ ai cũng buồn thảm, cũng nặng như đá tảng đè nặng trong tâm trí lẫn thể xác tưởng chừng như không thể gượng dậy nổi.
Lúc ấy, những lời động viên, an ủi, chia sẻ của người xung quanh cần thiết vô cùng cũng tựa như hớp nước trong lành cho kẻ chết khát trên sa mạc. Thế rồi, nghĩ cho cùng, từ suối nguồn sẻ chia ấy, tự mỗi người phải đứng dậy, biết chấp nhận và gượng dậy bước tới. Biết chấp nhận điều bi thảm nhất đang gánh chịu cũng là một bản lĩnh, một thái độ sống. Không ai có thể sống nổi nếu cứ triền miên trong nỗi đớn đau ấy. Người thân của mình đã mất, đã không về thì liệu sự thương tiếc có thể cứu rỗi được không? Do không thể cứu rỗi nên phải biết chấp nhận và bắt đầu cho một hành trình mới. Một trang đời lại mở ra. Ý nghĩa của cuộc sinh tồn chính là ở chỗ hướng tâm trí này, cõi lòng này về phía ngày mai. Ngày mai còn biết bao nhiêu điều mới lạ, kỳ diệu đang chờ đón.
Nhà văn Cổ Long (1937-1985) tác giả nổi tiếng nhất của trường phái Kiếm hiệp tân phái đã viết hàng triệu con chữ, đã “ra tay” cho hàng ngàn nhân vật phải chết trong cuộc giang hồ gió tanh mưa máu mà cuối cùng ông tự nhủ: “Bất kể buồn bã đau xót sâu xa tới đâu, ngày dài tháng rộng sẽ làm phai đi, làm quên đi. Quên lãng vốn là bản năng mà nhân loại nhờ vào đó để sinh tồn”. Vâng, tin như thế không phải lạc quan tếu mà chính là liều thuốc thần kỳ nhất thúc giục, nâng đỡ những số phận bất hạnh tiếp tục cuộc sinh tồn.
Biết lãng quên đi nỗi đau, bắt đầu một trang đời mới là có thể cảm nhận được sự hiện hữu của người đã mất vẫn còn đâu đó trong cuộc đời này…
Viết như thế, y cũng tự nhủ như thế.
Từng ngày lại trôi đi. Chiều nay, có cuộc hẹn lai rai thơ mộng. Đôi lúc, lại muốn ra Hội sách một chút nhưng nghĩ đến cả một từng người lại ngại. Ấy là y tự “kiềm hãm sự sung sướng” bởi lẽ, đi lang thang trong Hội sách, cắm cúi lựa chọn, lật quyển này, cầm quyển kia, xem cái bìa sách nọ… cũng là một lạc thú. Đôi khi quyển sách đó đã có nhưng lần này thấy cái bìa khác, cũng mua. Quyển này đọc rồi, nhưng tiện tay lại cầm lên, đọc loáng thoáng đôi dòng… Đi giữa một rừng sách luôn đem lại cảm giác bình yên và bỗng thấy thời gian trôi qua thật nhanh.
L.M.Q
Thông tin này thú vị, vừa đọc trên TNO:
“Cách đây 175 năm trước, từ "OK" ra đời, xuất hiện lần đầu tiên trên một tờ báo Mỹ. Đến nay, OK được sử dụng ở khắp nơi trên thế giới. Vào ngày 23.3.1839, từ OK xuất hiện lần đầu tiên trên trang 2 tờ báo The Boston Morning Post, một trong những tờ báo hàng đầu lúc bấy giờ của Mỹ, theo tờ South China Morning Post (Hồng Kông) ngày 23.3.
Giáo sư Allen Walker Read, đại học Columbia (Mỹ), chính là người nghiên cứu và phát hiện ra từ OK lần đầu tiên được sử dụng trên báo The Boston Morning Post. Ông Read qua đời vào năm 2002 sau khi dành cả đời mình nghiên cứu lịch sử hình thành từ OK. “Tôi nghĩ mọi người nên ăn mừng ngày sinh nhật từ OK bằng những bài diễn văn và những buổi diễu hành chẳng hạn”, ông Allan Metcalf, giáo sư tiếng Anh ở bang Illinois (Mỹ) đề nghị. Ông Metcalf có viết một quyển sách xuất bản hồi năm 2001 với tựa đề OK: The Improbable Story of America's Greatest Word (tạm dịch OK: Câu chuyện không chắc có thực về một từ vĩ đại nhất nước Mỹ). Trong quyển sách này, ông Metcalf cho rằng OK là “từ được nói thông dụng nhất trên toàn thế giới”.
Theo định nghĩa của từ điển Oxford, OK là đồng ý, chấp thuận, tán thành... Từ điển Oxford cho rằng từ OK xuất hiện vào giữa thế kỷ 19 ở Mỹ là từ viết tắt của "orl korrect", một cụm từ hài hước của "all correct". Theo từ điển Oxford, từ OK trở nên nổi tiếng khi nó trở thành khẩu hiệu OK trong chiến dịch tranh cử Tổng thống Mỹ của ứng cử viên Van Buren vào năm 1840. Ông Buren, vị Tổng thống thứ 8 của nước Mỹ, lúc đó có biệt danh Old Kinderhook, viết tắt OK, với Old nghĩa là già và Kinderhook là nơi sinh của ông Buren, cũng theo từ điển Oxford”.
Có nhiều từ mới, hiện đang sử dụng nhưng có lẽ ít ai biết rõ gốc gác, ra đời từ lúc nào. Chẳng hạn, “bà tám” có thể hiểu ám chỉ những người đàn bàn rảnh việc, ngôi lê đôi mách, rỗi hơi bàn chuyện thiên hạ. Dần dà, chỉ còn “tám”, bỏ béng đi từ “bà” cho gọn. Trước đây, từng nghe “buồn ơi, bỏ qua đi tám”; chương trình “Gia đình bác Tám”… Đã lâu lắm rồi, dường như đọc trên tạp chí Đối Diện thì phải, đăng bài thơ nọ có câu:
Mì tôm anh Tốm Quảng Nôm
Đi mô đói bụng vô lồm một tô
“Tôm” là biến âm của “tám”. Sao lại chọn “tám” mà không là con số khác? “Nõn nường” ai cũng biết rồi. Tại sao lại:
Ba mươi sáu cái nõn nường
Cái để đầu giường,cái để đầu tay?
Osin nghĩa người giúp việc nhà, chắc chắc ra đời từ bộ phim truyền hình cùng tên. Lại nữa “chip hôi”, “chanh cốm” rồi “chảnh”, “trà xanh chém gió” v.v… Những từ này ra đời từ lúc nào? Không rõ nhưng chắc chắn phải từ những người trẻ. Từ cổ tiếng Việt, có những từ nay đã mất. Đọc văn bản thời trước, có những từ không dễ dàng giải thích chút nào. Có thể tìm đọc quyển Từ điển từ Việt cổ (NXB VHTT - 2001) của Nguyễn Ngọc San, Đinh Văn Thiện; Tiếng Việt trong thư tịch cổ Việt Nam (NXB VHTT- 2011) của Nguyễn Thạch Giang. Thêm quyển này cũng cần thiết, Tiếng lóng Việt Nam (NXB KHXH - 2001) của Nguyễn Văn Khang. Hiện nay, có ai chịu khó biên soạn quyển sách giải thích cái từ mới xuất hiện không?
Trên báo TT gần đây có cuộc trao đổi nhỏ “ngọt sắt” hay “ngọt sắc”? Sách Giáo khoa viết: “Đặt lên lưỡi, cắn một miếng thì nước chan hòa, ngọt sắt, nhai thì mềm mà lại giòn, nhai khe khẽ thì chính tai mình thấy như sậm sựt”. (Tiếng Việt 4, tập hai, tr. 51). Đoạn này trích trong tác phẩm Thương nhớ mười hai, chương Tháng tư, mơ đi tắm suối Mường của nhà văn Vũ Bằng, người làm sách đặt tựa Trái vải tiến vua. GS-TS Nguyễn Minh Thuyết - người chủ biên SGK Tiếng Việt 4 cho rằng:
“Nhà văn viết là “ngọt sắt”, chứ không phải “ngọt sắc”. Khi chọn đoạn văn vào SGK, chủ biên, tác giả và biên tập viên đã bàn thảo khá kỹ về từ này. Theo chúng tôi, nhà văn Vũ Bằng là người Bắc, do đó ông không thể lẫn “sắt” với “sắc” như người sử dụng phương ngữ Nam bộ… Trong Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học không có các từ “ngọt sắc” và “ngọt sắt”. Nhưng đặt trong văn cảnh, có lẽ viết “ngọt sắt” (“sắt” có nghĩa là “sắt lại”) phù hợp hơn với cảm nhận “nhai thì mềm mà lại giòn, nhai khe khẽ thì chính tai mình thấy như sậm sựt”.
Có bạn đọc phản biện: “Tôi không biết là GS lấy từ "sắt lại" ở đâu ra? Riêng từ "ngọt sắc", có thể tham khảo tại đây:
1) Wiki: http://vi.wiktionary.org/wiki/ng%E1%BB%8Dt_s%E1%BA%AFc
Định nghĩa: "ngọt sắc" là "Ngọt đến khê cổ".
2) SOHA tra từ/ Định nghĩa: "ngọt sắc" là "(Khẩu ngữ) rất ngọt, có thể gây khé cổ (thường nói về độ ngọt của đường)". Ví dụ: bát chè ngọt sắc. Có thể tìm Google với từ "Ngọt sắc" để thấy là nó đã được sử dụng rất lâu rồi”.
Ai cũng có lý. Tuy nhiên, GS-TS Nguyễn Minh Thuyết chưa thuyết phục lắm khi viết: “Giả sử có lỗi của nhà in thì Vũ Bằng cũng phải yêu cầu đính chính và khắc phục trong những lần in sau, bởi vì đây là cuốn sách tâm huyết mà ông “thành mến tặng” người vợ thân yêu ở Hà Nội “để thay lời ai điếu”. Bản in cũng có dăm ba bảy đường. Nhóm chủ biên sử dụng bản in năm 1999 của NXB Kim Đồng, lúc đó nhà văn đã mất từ năm 1984 thì làm sao ông có thể yêu cầu đính chính? Ta biết, Thương nhớ mười hai lần đầu in từng kỳ trên tạp chí Văn ở Sài Gòn, sau đó mới in thành sách. Để muốn biết rõ ràng Vũ Bằng viết “ngọt sắt” hay “ngọt sắc”, phải khảo sát từ bản in trên tạp chí Văn thì mới hợp lý. Và việc tuyển chọn vào SGK khi ấy tác giả đã qua đời thì làm sao có chuyện: "Khi chọn đoạn văn vào SGK, chủ biên, tác giả và biên tập viên đã bàn thảo khá kỹ về từ này"? Mà thôi, ấy chỉ là tiểu tiết. Quan sát trao đổi này, ngẫm nghĩ kỹ, y nghiêng về ý kiến của GS-TS Nguyễn Minh Thuyết: 1. Đoạn văn này, nhà văn Vũ Bằng không miêu tả cảm giác ngọt, ngọt như thế nào, mà cái ngọt ở đây đã “sắt lại”. 2. Với người miền Nam, nghe “sắt lại” lạ tai quá nhưng từ này thông dụng ở ngoài Bắc. Bằng chứng Việt Nam từ điển do Hội Khai trí Tiến Đức khởi thảo, Trung Bắc tân văn in năm 1931, có giải thích: “sắt”: quắt lại: “Đậu rán sắt lại không nở” (tr.486). Theo Vũ Bằng, cái ngọt ở đây đã “sắt”, đã quánh, đã quắt trong trái vải tiến vua. Như vậy là rõ ràng, không gì phải tranh cãi nữa.
Tối qua giao lưu ở Hội sách. Sáng nay, qua Phương Nam nhận sách biếu của hai tập sách mới: Khi tổ ấm nhảy Lambada và Đời, thế mà vui. Cầm tập sách mới đưa về từ nhà in, bao giờ y cũng lật ngữa quyển sách ra, úp mặt vào trang giấy mới và hít một hơi thật dài. Giấy mới, chữ mới đem lại một cảm giác sung sướng lạ kỳ. Sách của y đã phát hành. Lại những trang viết mới. Lại là Sisyphus hằng ngày đẩy hòn đá tảng khổng lồ lên đỉnh núi cao như trong thần thoại phương Tây. Chiều nay, Ban Tổ chức Hội sách mời tiệc chiêu đãi hội nghị xuất bản sách nhưng không đi. Đi vào hội sách. Lang thang cùng sách. Mênh mông là sách. Có cảm tưởng một quyển sách, hàng triệu quyển sách viết ra chẳng khác nào ném hạt muối xuống biển. Vẫn biết thế, dã tràng cứ việc se cát biển Đông. Điều này không quan trọng, miễn là tìm thấy niềm vui và hài lòng với công việc mỗi ngày. Ý nghĩa đích thực của đời sống là ở đó, nào phải tìm kiếm dâu xa...
Sách Khi tổ ấm nhảy Lambada & Đời, thế mà vui tại Hội sách 2014 - gian hàng sách Phương Nam. Ảnh: L.P.T
L.M.Q
Trong cuộc đời, có đôi lúc y nhìn thấy cuộc đời xám xịt. Bởi chỉ gặp một điều gì đó không hài lòng, lâp tức bao nhiêu hỉ nộ ái ố ùn ùn kéo tới, y cảm thấy chán nản, buông một câu hằn học và cảm thấy đời đáng chán như thể chẳng còn cảm hứng để sống nữa. Con người ta vốn chẳng bao giờ tự hài lòng với những gì đang có, cứ nghĩ, mình là “cái rốn vũ trụ”, những việc làm của mình dù bé tí tẹo nhưng phải được xã hội biết đến, phải tuyên dương ầm ĩ. Nếu không, lại thấy cuộc đời sao bất công quá (?!). Đâu riêng gì ai. Nghĩ lại đi, ai lại không có lúc suy nghĩ nông cạn ấy? Trong tâm thế hẹp hòi ấy, đôi khi chính mình lại làm khổ mình. Rồi, có một lần, nhiều lần giữa đời thật này, chính y đã gặp những con người bình dị, làm công việc bình dị nhưng họ đã tác động làm thay đổi một nhận thức mà lâu nay y không nhìn ra. Lúc ấy, y tin chung quanh mình vẫn còn có niềm yêu đời, đốm sáng lương thiện từ những con người cần lao đã kiếm sống từ giọt mồ hôi trên vầng trán. Những con người tay làm hàm nhai. Những con người bỏ sức lao động để cầm lấy đồng tiền nát nhầu bụi bặm nhân sinh. Những con người ấy mới chính là biểu tượng làm nên sức sống trường tồn của dân tộc này. Lúc ấy, y “ngộ” ra rằng, số phận của mình còn may mắn, sung sướng hơn nhiều người, sao lâu nay lại không nhận ra để yêu quý năm tháng đáng sống?
Ấy là suy nghĩ của nhiều năm trước khi cùng VTV 9 lên trại phong Bến Sắn làm bộ phim về thi sĩ Đơn Phương. Nay anh đã khuất núi. Rồi gần đây, y lại cùng đồng nghiệp báo PN đi thăm bệnh nhân tâm thần, trẻ thiểu não, người già bại liệt… Nhìn các nữ hộ lý, y, bác sĩ công tác nơi này, y gọi “những cô tiên không phép màu”. Công việc lặng thầm của họ khiến y xác tín trên đời vẫn còn có nhiều người tốt. Những đức hy sinh lặng lẽ vẫn còn. Nếu ngày 20.9.1940 vào trại phong Quy Hòa, không được gặp seur Juetta, không được gặp những con người thánh thiện như Đức Mẹ làm sao Hàn Mặc Tử đủ cảm hứng ca ngợi Thánh nữ động trinh Maria mà từng câu thơ sáng ngời như sao ngọc:
Tấu lạy Bà, lạy Bà đầy ơn phước,
Cho tình tôi nguyên vẹn tợ trăng rằm,
Thơ trong trắng như một khối băng tâm
Luôn luôn reo trong hồn, trong mạch máu;
Cho vỡ lở cả muôn ngàn tinh đẩu,
Cho đê mê âm nhạc và thanh hương,
Chim hay tên ngọc, đá biết tuổi vàng,
Lòng vua chúa cũng như lòng lê thứ.
Sẽ ngây ngất bởi chưng thơ đầy ứ
Nguồn thiêng liêng yêu chuộng MẸ SẦU BI.
Trong đời ai cũng có Mẹ Sầu Bi của riêng mình. Nhà văn Võ Phi Hùng, trước ngày mất anh bảo: “Có những điều oái ăm của số phận ta đành phải chấp nhận”. Anh là đứa trẻ mồ côi, mờ mắt chào đời trong cô nhi viện, sống cù bơ cù bất, viết văn kiếm sống và luôn ý thức đi tìm mẹ. Cuối cùng, anh không toại nguyện. Thế thì, những ai còn có mẹ, biết được mẹ của mình đã là điều hạnh phúc lớn lao trong đời. Quả thật, trôi theo dòng chảy đời sống, y chưa thấy ai thương y bằng mẹ của y. Bà cụ không một lời thở than, than van gì dù y chẳng gương mẫu gì. Có những cuộc vui thâu đêm suốt sáng, y mải mê trôi theo hương hoa phấn son phù phiếm. Nhắm mắt đắm đuối rượu men nồng nàn. Quên cả đường đi lối về. Vậy mà, sáng ngày mai, y vác xác về nhà, bà cụ cũng không một nặng nhẹ một lời, chỉ âu yếm hỏi: “Trưa, con ăn cơm không mẹ nấu?”. Nghe cứ nhẹ nhàng như không. Y thừa biết rằng, đêm qua bà cụ không hề chợp mắt, cứ ngong ngóng, lo lắng, hồi hộp không rõ vì sao y không về… Lúc gặp con, lạ thay bao nhiêu phiền muộn ấy tan biến hết. Bà mẹ nào cũng thương con đến vậy. Lòng yêu thương ấy chỉ từ sự thôi thúc của trái tim, chứ không có một điều kiện nào.
Có gì sánh được với tình mẹ con? Tình chồng nghĩa vợ chăng? Cũng có thể lắm nhưng y chưa nhiều trải nghiệm để có thể thấu hiểu điều này. Nghĩ cho cùng, sự gặp gỡ của những con người trên trái đất này, nói gọn lại, chỉ là duyên nợ. Có duyên nợ chỉ diễn ra trong một giai đoạn. Rồi chia lìa, cắt đứt. Có duyên nợ gắn kết đời đời kiếp kiếp, chỉ có thể tình mẹ con, tình cha con. Y thích đọc sách của học giả Vương Hồng Sển còn có một lý do nữa. Ấy là trong các tập sách, trước khi vào sách bao giờ cụ cũng có những dòng ứa nước mắt. Chẳng hạn, ngay trang đầu tiên Thú chơi sách, cụ viết:
“Con kính dâng quyển sách nhỏ lên hương hồn mẹ, từ trần năm Quý Sữu (1913). Công ơn mẹ sanh thành, dưỡng dục: con chưa đền bồi; Ơn mẹ dạy con biết thương cuốn sách từ tuổi chưa biết gì: con chưa báo đáp”.
Rồi, trước đó, trong tập Sài Gòn năm xưa còn có dòng chữ cụ viết ngày 26.5.1960:
“Tập biên khảo thường đàm nầy để tưởng niệm những phút êm đềm đã qua:
Năm 1919, Ba đưa con lên Sài Gòn vô trường lớn.
Con bắt đầu nếm mùi cháo cá Chợ Cũ, hủ tíu Chợ Mới, xem hát thì Chùa Bà Chợ Lớn, nhai thịt bò kho thằng Lù, có năm cắc leo chuồng gà ngồi coi hát Tây, và cảnh không còn gặp nữa là: bữa bữa hai cha con thượng cao lâu ăn cơm xá xíu.
Năm 1927, Ba lên thăm, con mua bánh Catinat, lòng mừng dâng Ba món lạ. Ba không dùng, hỏi con: "chữ Hiếu" sao có đắt tiền?
Năm nay 1960, đầu con bạc mà túi vẫn nhẹ; muốn mua bánh, Ba không lên: xe giằn, đường xa, hai con đò Cái Vồn và Mỹ Thuận vẫn có tiếng không lịch sự đối với hành khách "bát thập lão ông" như Ba vậy!
Những ký ức bấy lâu, con viết gởi về:
"Vương Trạch Nhựt, cháu hãy đọc lớn cho Nội nghe".
Hỡi ôi, những gì y đã viết có ai đọc cho mẹ y nghe không? Bà cụ ngày xưa có học bình dân học vụ, nay đã quên hết chữ. Những gì y viết, mẹ y chẳng thể đọc. Với cụ Sển, lúc mất, cụ có nguyện vọng: “Xác chở về Sốc Trăng, chôn dưới chân cha sanh mẹ đẻ”. Vừa rồi, có người lên tòa soạn PN tìm gặp y và báo tin nhà thơ Kiên Giang đang bệnh nặng. Lúc ấy, sực nhớ nhà thơ Kiên Giang có bài thơ Ngủ bên chân mẹ thật cảm động. Bài thơ này in trên KTNN khoảng những năm 1990, ít người còn nhớ:
Tết này con ngủ bên chân mẹ
Một cổ thụ già bên gốc khô
Con ngỡ trở về thời bú mớm
Nghe bên thềm vẳng tiếng ầu ơ
Nhìn mẹ ốm gầy dáng khẳng khiu
Lòng con chua xót biết bao nhiêu
Suốt đêm nước mắt trào bên gối
Bếp khói khuya buồn cũng hắt hiu
Hết Tết con về nơi chợ búa
Bỏ thân cổ thụ giữa mùa đông
Biết con mấy Tết, bao mùa bấc
Còn ngủ bên chân mẹ nữa không?
Câu hỏi nghe nhói lòng. Y lại khác. Mỗi ngày, y vẫn ở chung với mẹ. Mà cả hai mẹ con chẳng trò chuyện gì. Thỉnh thoảng chỉ dăm ba câu. Rồi ai làm việc nấy. Những lúc anh em y từ quê vào, thỉnh thoảng nằm dưới chân mẹ trò chuyện rôm rã. Còn y, chẳng bao giờ. Cả một ngày, một đời phiêu bồng đâu đó trên mây như y đã tự thú:
Ta đi tìm thuốc trên trời
Mẹ ngồi bệt đất hát lời ru ta
Ầu ơ! Cá bống, cháo hoa
Ngọn rau, mắm muối, dưa cà... nhà quê
Con đường bến Lú cõi Mê
Đi trong vô vọng nẻo về đã quên
May còn sót lại hương sen
Từ trong giấc ngủ đêm đêm dỗ dành
Ta đi tìm sự vô danh
Chỉ gặp ngọn cỏ níu xanh nấm mồ
Cúi xuống nhặt được câu thơ
Chỉ là ngọn gió hư vô nhạt phèo
Mẹ ngồi thềm cũ sẫm rêu
Sao ta ngoảnh mặt đi theo tuyệt mù?
(Tuyệt mù)
Hỏi là trong một chốc lát nào đó y cảm thấy áy náy, ngoảnh lại tự hỏi chính mình. Rồi lại quên béng ngay đó thôi. Lại lầm lũi dấn thân vào bến Lú. Lại lao theo cõi Mê. Cuối đời, xòe hai bàn tay sẽ thấy gì ngoài mây trắng thong dong đi qua một kiếp đời. Có phải vậy không?
Mấy hôm nay, công việc cũng nhì nhằng thế. Chẳng có gì hay ho cả. Đọc trên các trang mạng xã hội, gặp nhiều thông tin trái chiều về trường hợp N.C.T - diễn viên chính của bộ phim Ván lật ngửa. “Sao không đưa vào Nhật ký?”. Một người bạn hỏi, y chẳng trả lời gì. Chỉ nhớ lại tích xưa. Đại khái, có cung phi nọ khi bệnh, nhan sắc đã xấu, đã xuống cấp trầm trọng, nhà vua muốn vào thăm nhưng nàng từ khước. Nàng không muốn ngài nhìn thấy một chân dung đã tàn tạ, héo úa vì sẽ thất vọng não nề. Nàng bèn cắt tóc, cho người đem dâng vua, nhìn mớ tóc ấy và tưởng tượng nàng vẫn đẹp như xưa. Vậy là đủ. Từ tích này, Đoàn Phú Tứ có câu thơ:
Tóc mây một món chiếc dao vàng
Nghìn trùng e lệ phụng quân vương
Trăm năm tình cũ lìa không hận
Thà nép mày hoa thiếp phụ chàng
Tâm thế của cung phi ấy, đúng là “dân chơi thứ thiệt”. Còn trường hợp trên, nghe ra bẽ bàng, trơ trẽn, thất vọng quá. Vì thế, mấy hôm nay y không đưa vào Nhật ký. Không bàn cãi gì với các đồng nghiệp khi anh em bàn đến chuyện này. Mà thật ra, cũng có nhiều sự kiện khác trong ngày y cũng tránh né. Đơn giản, không muốn từ tâm hồn đến trí não phải vướng bận, nghĩ ngợi về những điều quá khốn nạn. Mệt óc.Tránh né những thông tin xấu ấy, dù ảo tưởng vì đã sống thì không thề đứng ra ngoài các sự kiện xã hội, vẫn biết thế nhưng ít ra cũng giữ được sự nhẹ nhàng cho chính mình.
Sáng chủ nhật này, xuống phố. Huýt sáo. Rượu đỏ. Trước lúc đi, ngắm lại bức tranh mới nhất của Chị Đẹp. Vẽ cũng hay quá ta?
L.M.Q
Y chán y ghê gớm. Những lúc nhậu nhẹt say quắc cần câu, mềm như sợi bún, nói năng ba xí ba tú, phát ngôn nhăng cuội, oang oang đầu cua tai nheo, bán trời không mời thiên lôi thì như rằng, ngày hôm sau y lại tự dằn vặt lấy y. Rồi, y tự kỷ luật chính y bằng cách buộc ngồi vào bàn viết. Viết cái gì đó. Đã thế, cả ngày không cho nói. Buộc câm miệng cho bõ ghét. Lúc ấy, y thành khẩn. Y xỉ vả. Y ăn năn. Y hối lỗi. Y nghiêm túc rút kinh nghiệm sâu sắc để thành người tốt. Ấy mà, qua ngày hôm sau, dù chưa tỉnh rượu, chỉ cần nghe một cú điện thoại, một tin nhắn là y lại hăm hở lên đường. “Ngựa phi ngựa phi đường xa / Tiến trên đường cát trắng trắng xóa..”. Tệ thật.
Mấy hôm nay, chẳng rượu chè gì. Chỉ rượu đỏ lai rai. Cảm hứng nhẹ nhàng. Tuy nhiên, y cũng chán y luôn. Chán bởi một ngày trôi qua nhanh quá. Chẳng kịp làm gì đã một ngày bay vèo. Vì thế, những ngày này, luôn gài điện thoại báo thức. Dậy đúng vào lúc 6 giờ sáng. Không chệch một giây. Không chìu chuộng. Không thỏa hiệp.Không ngủ nướng nữa. Lâu nay, y dễ dãi với y quá. Phải chỉnh đốn lại. Dạy sớm tập thể dục. Và lướt web nhì nhằng. Sáng nay, dậy sớm, nghe chim hót véo von. Tiếng chuông chùa thanh tịnh vọng sang. Với tay lấy tập thơ và đọc. Tập Thơ ca (NXB Quân đội nhân dân - 1980) của nhà thơ Thanh Tịnh. Một phát hiện nho nhỏ. Lâu này trên báo chí, các cơ quan truyền thông đều mặc nhiên thừa nhận:
Dễ trăm lần không dân cũng chịu
Khó vạn lần dân liệu cũng xong
là câu nói của Cụ Hồ. Người này viết, người kia chép lại và lâu dần cứ nghĩ Cụ Hồ là tác giả. Viết, nói, nghĩ như thế là sai lè lè. Bằng chứng trong Bài nói chuyện tại lớp bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo cấp huyện, Cụ Hồ phát biểu: “Các đồng chí ở Quảng Bình nói rất đúng:
Dễ trăm lần không dân cũng chịu
Khó vạn lần dân liệu cũng xong"
Bài này, lần đầu in trên báo Nhân dân số 4722 ra ngày 14.3.1967, có thể kiểm chứng tại trang 1359, Hồ Chí Minh toàn tập (NXB Chính trị Quốc gia - 2002). Rõ ràng, Cụ Hồ không khẳng định mình là tác giả. Vậy mà đương thời, thời sau cứ gán cho Cụ. Vậy tác giả là ai? Xin thưa, của nhà thơ Thanh Tịnh. Trong tập Thơ ca, trang 51 có in bài thơ Dân no thì lính cũng no, nguyên văn như sau:
Trông lên thì thấy đầy sao
Nhìn quanh thì thấy đồng bào mến thân
Dễ trăm lần không dân cũng chịu
Khó vạn lần dân liệu cũng xong
Thóc thuế mà có dân đong
Trăm công nghìn việc ngược dòng cũng xuôi
Đêm nằm nghĩ lại mà coi
Liệu còn thằng giặc đứng ngồi sao yên?
Nhân dân là bậc mẹ hiền
Cơm gạo áo tiền thì mẹ đã lo
Dân no thì lính cũng no
Dân reo lập nghiệp, lính hò lập công
(1951)
Sự việc rất rõ ràng. Chẳng gì phải bàn cãi thêm nữa. Nghe kể, Thanh Tịnh là người sống chí tình. Khi Thanh Tịnh bước vào trường văn trận bút, nhà văn Nguyễn Công Hoan đã quá nổi tiếng và có nhiều tác phẩm được công chúng yêu thích. Thế nhưng, đối với các cây bút mới, tác giả Lá ngọc cành vàng đều có thái độ nâng đỡ tận tình, vì thế ai cũng quý mến. Trong số đó, có nhà văn Thanh Tịnh. Dù chưa có điều kiện “trả nghĩa” nhà văn đi trước từng dìu dắt mình trên đường văn nghiệp, Thanh Tịnh áy náy lắm. Nhưng lần nọ ông cũng có dịp “đỡ” cho Nguyễn Công Hoan. Ông “đỡ” như thế nào? “Đó là lần tôi cùng các anh Nguyễn Đình Thi, Hoàng Trung Thông... đỡ chiếc quan tài đưa nhà văn Nguyễn Công Hoan về nơi an nghỉ cuối cùng”.
Nghe cảm động quá.
Sáng nay, vẫn công việc của mỗi ngày. Đang đi nghe điện thoại của anh em bán sách cũ. Thường có sách gì hay, họ lại gọi y đến mua. Thường là y chẳng mua gì, đơn giản, y không phải là người chơi sách cũ. Không việc gì phãi bỏ ra số tiền lớn để mua. Chỉ mua những gì cần thiết thôi. Mà những cú điện thoại như thế, y rất khoái. Dù không mua nhưng cũng có dịp tận mắt nhìn ngắm, tận tay sờ mó những sách, báo chí cũ. Chà, lần này lại là loại y rất ghét. Đó là thơ. Hầu như tuần nào, tháng nào y cũng nhận được thơ của anh em, bạn bè gửi tặng. Nay lại thơ nữa. Ngao ngán quá. Các tập thơ mỏng dính nhưng xếp lên kệ, kệ sách của y đã dài hàng chục mét… thơ! Vậy mua làm gì nữa? Chẳng lẽ, người ta có lòng gọi điện thoại báo tin mà chẳng mua gì sao? Thôi thì bấm bụng mà mua vài tập thơ cũ vậy. Trưa, cơm nước xong lật tập Hà Nội thơ do Chi hội văn nghệ Hà Nội in năm 1968 đọc lai rai. Nhận xét, hầu hết các bài thơ đều gắn với yếu tố chính trị, thời sự thuở ấy. Đọc lại thấy ít có bóng dáng Hà Nội, chỉ là sự biểu lộ quyết tâm “đánh Mỹ cứu nước” - mà tài năng lừng lẫy như Xuân Diệu cũng viết (tr.160):
Sao chúng nó bỗng tới đây gào rú
Đem cái điên rồi từ Mỹ đến trợn mắt phồng mang
Miệng chảy dãi ra, nhe nhọn cái nang vàng
Con mụ hóa dại Huê KỲ thổi phù phù phun ra cái chết
Máy bay chúng rạch lên trời tinh khiết
Lấy quyền chi bay đến, cái lũ quạ diều kia?
Đập dập đầu mi xuống, vặt trụi cánh mày đi
(Thủ đô, trời chiến thắng)
Chưa kiểm tra lại, Tuyển tập Xuân Diệu có tuyển lại bài này không? Rồi Yên Thao, nổi tiếng với bài thơ Nhà tôi thời kháng Pháp, có những câu như:
Anh rót cho khéo nhé!
Không lại nhầm nhà tôi
Nhà tôi ở cuối thôn Đoài
Có giàn thiên lý, có người tôi yêu
Trong tập thơ này, Yên Thao in bài thơ Vỡ đất, có đoạn (tr.173):
Hội nghị Chi đoàn họp trước tiên
“Việc cần, việc khó có thanh niên"
- Máy cày không nổi ta dùng sức
Đem cánh tay này lật đất lên!
Đã thế:
Cái mạ đầu tiên chưa cắm xuống
Đã nghe vàng óng những nong đầy
Nghĩ gì về những câu thơ này? Phải chăng cũng phản ánh tâm thế của một thời đó chăng? Nói thật, y lại thích những đoạn thơ của tác giả có cái tên lạ hoắc: Từ Đông Quan. Tựa thơ giản dị “Hàng của ta” có những khổ thơ mộc mạc, đọc lại, ắt nhiều người Hà Nội sẽ bùi ngùi khôn xiết:
Có người xa quê hằng tơ tưởng chờ mong
Chợt bồi hồi châm điếu thuốc Thăng Long
Khi lửa xòe que diêm Thống Nhất
Nghe lửa quê hương sưởi ấm trong lòng
Chiếc lốp Sao Vàng xông pha đánh Mỹ
Quấn áo, chăn, giầy bộ đội hành quân
Ánh đèn pin đêm đêm dài chiến lũy
Chai bia Trúc Bạch dâng mát tình dân
Cây bút Hồng Hà chấm mực Cửu Long
Trên giấy Việt Trì ta viết bài thơ ca ngợi
Những mặt hàng
Những mặt hàng rất mới
Như mỗi ngày thêm một chiến công
Sau ngày miền Nam giải phóng, thế hệ y cũng biết đến thuốc lá Thăng Long, hộp diêm Thống Nhất, lốp Sao Vàng, bút Hồng Hà, mực Cửu Long… Nói thật, chất lượng những thứ này thua xa do miền Nam sản xuất. Dễ nhìn ra nhất là loại giấy vở học trò. Một bên trắng tinh. Một bên đen xì. Có một điều lạ, trong hai mươi năm (1954 - 1975) hầu như các địa danh ngoài Bắc ít thay đổi. Bằng chứng, sau nhiều năm chia cắt đất nước, không thông tin liên lạc, sốt ruột quá, ba y viết lá thư gửi về quê nội. Gửi hú họa về làng, xã, tỉnh thành theo trí nhớ. Lạ chưa? Vài tháng sau, nhận được thư trả lời. Chà, vui mừng phải biết. Ba y cầm lá thư ấy đem khoe cả xóm. Ai cũng cầm lá thư, xem từ con tem đến bìa thư. Ngày đó, không rõ trong Nam có bia Trúc Bạch hay không? Y chưa uống bao giờ. Nay đọc những câu thơ mộc mạc, hiền lành này y có thể hình dung ra đời sống thường nhật của Hà Nội năm ấy. Còn những câu thơ “lên gân” thời sự, đọc lại chỉ buồn cười...
Chiều nay làm gì? À quên, ghi luôn vào Nhật ký đoạn này: “Thứ võ thuật mà Jessy đang dạy chính là KravMaga, đỉnh cao của kỹ thuật đối kháng xuất phát từ quân đội Do Thái. “Chỉ đánh nhanh, mạnh hết sức rồi… bỏ chạy các em nhé”, tôi nhớ mãi câu tiếng Việt và vẻ mặt ngộ nghĩnh của Jessy khi dạy học. KravMaga được đánh giá là môn dẫn đầu trong các môn võ tự vệ vì tính đơn giản và hiệu quả”. Chuyện gì vậy? Ấy là thế võ mà ông thầy dạy võ Jessy dạy cho các em gái vị thành niên tự bảo vệ mình khi bị kẻ xấu tấn công, quấy rối tình dục trong một tình huống đơn độc. “Chỉ đánh nhanh, mạnh hết sức rồi… bỏ chạy”. Điều này, trong kỹ năng sống có ai dạy cho trẻ em chúng ta không?
Chiều rồi. Mai đã là thứ bảy. Cuối tuần. Nhanh quá.
L.M.Q
Ủa? lạ chưa, hiện nay còn có Ngày Quốc tế Hạnh phúc nữa à? Ngày 20.3 hằng năm. Chỉ mới bắt đầu có từ năm 2012. Lâu nay chẳng biết. Nhờ đọc báo nên biết rằng, Ngày Quốc tế Hạnh phúc lấy ý tưởng của Bhutan - một vương quốc nhỏ bé nằm sâu trong lục địa miền Đông Himalayas - vốn được đánh giá là đất nước có chỉ số hạnh phúc cao dựa trên các yếu tố như: sức khỏe, tinh thần, giáo dục, môi trường, chất lượng quản lý và mức sống của người dân.
Mỗi ngày, lật trang báo khó có thể tìm được những thông tin khiến mình thật sự hạnh phúc. Bi quan quá không? Sáng nay, lại một vụ bắt cóc trẻ sơ sinh tại Bệnh viện phụ sản Hùng Vương, Q.5 (TP.HCM). Choáng váng. Trước đây đã xẩy ra một vụ tại Bệnh viện Q.7. Thế rồi có “rút kinh nghiệm” gì đâu. Quá nhiều vụ việc tồi tệ xẩy ra trong các lãnh vực, đã cho thấy rằng, không thể cứ đi giải quyết từng việc cụ thể mà phải có một chủ trương, một chính sách chung. Nếu không, sự tồi tệ vẫn còn tiếp diễn dài dài.
Vụ cầu sập ở Lai Châu thế nào rồi? Chỉ giải quyết cụ thể vụ này, ắt còn các vụ khác nữa. Vấn đề là phải có biện pháp thay đổi, chấn chỉnh chung chứ không thể làm theo kiểu là khi thấy mái nhà dột chỗ nào thì thay viên ngói nơi đó. Thay viên ngói này, còn viên ngói khác hư hỏng khác sờ sờ ra đó mà chẳng ai thèm quan tâm. Rồi cũng có lúc tái diễn. Hên xui thôi. Sống trong một xã hội mà sự cố xảy ra theo kiểu hên xui thì làm sao an tâm?
Mấy hôm nay, có thông tin sắp ra đời Ngày sách Việt Nam. Ngày 21.4 hằng năm. Quốc hội đang hoài nghi về kinh kinh phí 150 triệu USD để tổ chức ASIAD 18 sắp tới. Nếu cho một điều ước, y ước gì số tiền này đem xây dựng, thay thể cầu treo các loại trên toàn cõi Việt Nam thống nhất. Có như thế mới thật sự yêu quý, tôn trọng người nghèo. Nông thôn - đô thị ngày càng có một khoảng cách quá xa. Hồi mới giải phóng, còn thò lò mũi xanh đi học chính trị ở phường, nghe tuyên truyền về chủ nghĩa xã hội mà mê quá. Mê nhất là điện khí hóa nông thôn. Mấy mươi năm rồi, muốn qua sông suối vẫn còn như thời hoang dã. Báo TT đưa tin vụ các cô giáo chui vào những bao nilông và ngồi lọt thỏm trong bao cho miệng bao trùm kín quá đầu; rồi những thanh niên trai bản biết bơi sẽ túm gọn miệng bao “đựng” cô giáo và kéo các cô bơi vượt qua suối. Kinh hoàng quá. Bịa chăng? Không, chuyện này xẩy ở bản Sam Lang, xã Nà Hỳ, huyện Nậm Pồ (Điện Biên). May quá, nhờ báo chí một chiếc cầu đang xây dựng ở đây. Còn bao nhiêu nơi nữa cũng cần có chiếc cầu như vậy? Chẳng rõ có ai thống kê không? Hay khi nào xẩy ra sự cố, người ta mới lại có kế hoạch mới chăng?
Chiều qua, đi tham dự nhân khai trương một loại trà Thái Nguyên: Trà của mẹ. Cho đến nay, y vẫn nghĩ, quán này đã chiếm một vị trí đắc địa nhất Sài Gòn. Chiều, ngồi trên sân lầu 1 nhìn xuống đường phố Sài Gòn, góc Lê Lợi - Nam Kỳ Khởi Nghĩa gió lồng lộng. Mê tơi. Gió ơi là gió. Nhìn xuống thấy thiên hạ đang nhốn nháo xe cộ, chen lấn từng bước tự nhiên y thấy hạnh phúc lạ thường. Ít ra, trong lúc mọi người phải tất bật, hối hả, vội vã thì y vẫn bình chân như vại. Uống rượu đỏ. Ngắm trời trăng mây nước. Và không nghĩ gì đến những chuyện cầu sập, cầu treo, trẻ con bị bắt cóc… nữa. Thì ra, tâm thế của y cũng nhỏ nhen, chật hẹp. Chán thế. Thôi, chẳng nghĩ nữa. Ngồi nghĩ bâng quơ như kẻ nhàn rỗi.
Y nghĩ gì?
Ngày nọ, một người du lịch đến bờ biển Địa Trung Hải. Biển xanh. Gió mát. Tâm hồn hưng phấn tột cùng, ông ta ưỡn ngực bảo đám ngư dân: “Hạnh phúc như tôi, khố rách áo ôm đừng hòng mơ tới. Chỉ tỷ phú, nhiều tiền mới có thể mỗi năm đến đây vài lần”. Một lão ngư dân cười khẩy: “Vậy à? Tôi chẳng có xu nào nhưng vẫn có mặt ở đây quanh năm suốt tháng”. Thì ra, không phải hễ ai có tiền nhiều thì hạnh phúc hơn người khác. Một tỷ phú ngủ trong resort VIP giá hàng ngàn USD, giấc ngủ đó cũng không khác gì gã ăn mày “buồn ngủ gặp manh chiếu rách”, miễn cả hai hài lòng và ngon giấc. Cùng quan tâm về vấn đề “tương lai con em chúng ta”, anh nhà văn nọ bạn y, dù nghèo kiết xác nhưng do có con học giỏi, nhận phần thưởng liên tù tì vẫn hạnh phúc hơn ông bạn doanh nhân nằm ngủ trên đống tiền nhưng con cái chữ nghĩa không đầy lá mít.
Đôi khi y nghĩ hạnh phúc là một điều gì xa vời, thật ra nó ở trong tầm tay mỗi người. Hạnh phúc của nhà tỷ phú lúc lâm bệnh, với ông ta lúc ấy không phải tiền, những đồng tiền chắt bóp từng ngày phải lao tâm khổ tứ trên thương trường. Mà trước mắt, hạnh phúc chính là điều mà lâu nay ông ít quan tâm đến: sức khỏe. Nếu đổi cuộc sống phú quý lấy sức khỏe, chắc chắn có người bằng lòng đánh đổi.
Nếu không cùng một tâm thế, chưa chắc người này cảm nhận được hạnh phúc người kia. Rằng, anh nhà thơ nghiệp dư nọ, ngày kia, nhờ “ mưa móc ơn trên” anh được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam, ngay lập tức anh long trọng tổ chức cuộc rước thẻ hội viên từ thủ đô về nhà thờ tộc ở quê cha đất tổ trong niềm vinh quang kiêu hãnh tột cùng. Ấy là anh đang sống với giây phút hạnh phúc của kẻ sĩ ngày xưa “vinh quy bái tổ”. Trong khi đó, vợ anh lại thấy chướng mắt quá, nhưng muốn mắng cho một câu đặng hả lòng hả dạ, bởi cô chỉ muốn chồng đem tiền về chứ không cần hư danh ấy. Hư dnah này, thật ra thời buổi này đã khác. Đã thấy nhiều người viết văn không làm đơn xin vào hội nữa rồi. Có cái thẻ hội nhà văn mà vẫn sống bám váy vợ, vẻ vang gì.
Cùng là nhà thơ nhưng lúc có tác phẩm mới ấn hành, cảm nhận của họ cũng khác nhau. Với nọ người, nếu được quan chức, lãnh đạo chính trị khen vu vơ vài câu là nở mày nở mặt suốt cả đời; trong khi đó, trái lại nhà thơ Hải Bằng lại hạnh phúc là khi được… vợ khen thơ mình! Nghe kể, ngày nọ, sau khi ăn cơm xong ông mới nghiêm túc nói với vợ: “Miềng (mình) ơi! Anh Phùng Quán vừa tặng cho vợ mình hay câu thơ hay quá!”. Vợ trợn tròn mắt: “Thiệt à! Đọc cho miềng nghe đi!”. Chỉ chờ có thế, Hải Bằng đọc ngay: “Nếu biển hỏi vì sao tôi yêu biển/ Tôi xin đưa tặng biển những con thuyền”. Đợi cho vợ hết lời ngớt tấm tắc, xít xoa khen hay, Hải bằng mới ôn tồn: “Hihi! Không phải thơ của eng (anh) Quán đâu! Thơ của miềng đó!”. Bỗng vợ xị mặt, đáp gọn lỏn: “Thế à? Vậy thơ không hay!”. Khổ thế! Rõ ràng, bụt chùa nhà không thiêng! Nghe được lời khen của người yêu quý dành cho mình cũng là hạnh phúc đấy thôi. Đơn giản quá phải không?
Đúng thế. Có lần nhà thơ Cao Xuân Sơn, bạn y đùa tếu táo: “Thơ tôi biếu rất chạy” - âu cũng là hạnh phúc của rất, rất nhiều nhà thơ hiện nay vậy. Hỡi ôi! Tốn tiền in thơ, đem biếu còn có người nhận, nhà thơ đó cảm thấy đã hạnh phúc ghê gớm. Sự trái khoáy này là bình thường bởi khi hài lòng với công việc của mình, tinh thần an vui cũng là yếu tố góp phần làm nên hạnh phúc mỗi người.
Thời trước khi nước nhà còn chia cắt, nhà văn Vũ Bằng tâm tình, hạnh phúc lớn nhất của ông trong thời điểm đó là trở về miền Bắc: “Xắn một miếng cá, chấm nước mắm ngon có vắt chanh, bỏ ớt, và quậy mấy cây tăm cà cuống nguyên chất tự tay mình lấy ở trong bọng cà cuống ra, ăn với cháo có hành cuộn lại, có rau cần điểm một ít thìa là ngọt cứ lừ đi, quỷ thần không hưởng thì thôi chớ đã hưởng một chén chắc chắn cũng phải đòi ăn chén nữa”. Tâm tình vào lúc ông đang đói ăn khát uống à? Không lúc đó, ông đang được chiêu đãi các món ngon vật lạ ở nhà hành Thanh Thế. Người bạn văn quý văn tài ông mà đãi, những tưởng rằng ông sẽ hạnh phúc vô cùng với những “thời trân” nhưng chưa chắc.
Quái, ngẫm nghĩ lại, đôi lúc cũng thấy buồn cười. Rằng, nhiều người cứ cho rằng phải thật nhiều tiền mới hạnh phúc nhưng chắc gì đã đúng? Tiền nhiều, “đông như quân Nguyên” nhưng ăn không ngon ngủ không yên, lo ngay ngáy kẻ cướp khoét vách đục tường liệu có hạnh phúc bằng những người sống trong tâm thế như Nguyễn Công Trứ: “Ngày ba bữa, vỗ bụng rau bịch bịch, người quân tử ăn chẳng cầu no,Đêm năm canh, an giấc ngáy kho kho, đời thái bình cửa thường bỏ ngỏ”?
Giàu hoặc nghèo không phải là yếu tố làm nên hạnh phúc, mà chính là chất lượng sống của mỗi người. Chao ôi! Ông trời “công bằng” quá trời. Dù sinh ra dưới gầm trời, có khác nhau gì đi nữa về xuất thân, thu nhập cá nhân v.v… nhưng mỗi con người đều “bình đẳng” khi tận hưởng giá trị hạnh phúc, miễn là họ hài lòng với chất lượng sống, môi trường sống.
Chiều nay lại ngắm gió với rượu đỏ. Nói như đạo diễn Lê Hoàng trêu y: “Đã thế, còn ăn thêm chocolate đến gẫy răng”. Bịa. Làm gì có chuyện ấm ớ đó. Thử hỏi, y có hạnh phúc không?
Dạ, thưa có.
Lê Minh Quốc tặng tranh nhân sinh nhật đồng nghiệp báo Phụ Nữ TP.HCM
L.M.Q
Sáng nay, đến trường quay HTV 9 trên dường Nguyễn Tất Thành (Q.4). Đến vào lúc chương trình thứ nhất sắp quay xong. Trời nóng, bèn vào trong phòng thu có máy lạnh, tiện thể xem chương trình đang quay. Họ đang bàn về chuyện “Nét chữ nết người”. Có những ý kiến khác nhau. Lắng nghe và chợt nghĩ, khuyến khích học trò rèn chữ chắc chắn không có từ bây giờ mà trước đó đã lâu, từ thời còn học chữ Hán.
Do chữ Hán được cấu tạo theo sáu nguyên tắc gọi là "lục thư": Tượng hình, Chỉ sự, Hội ý, Hình thanh, Chuyển chú, Giả tá. Do đó, khi tập viết chữ cũng là lúc đứa trẻ suy ngẫm về ý nghĩa của từ mà nó đang tập viết. Chẳng hạn viết chữ “mẫu” (mẹ), đứa trẻ hình dung ra hình ảnh mẹ ngồi ở tư thế quỳ, trước mặt là hai bầu vú sữa, cho con bú. Vậy khi chăm chú rèn chữ, đứa trẻ càng hiểu sâu xa hơn từ “mẫu” và ngẫm nghĩ ý nghĩa của từ này: Ơn mẹ cho bú mớm. Với chữ Quốc ngữ thì không. Viết “mẹ” chỉ đơn thuần là "mẹ". Vì thế, bây giờ đặt ra chuyện rèn chữ đẹp không thể có ý nghĩa sâu xa như tập viết chữ Hán. Chỉ đơn giản là viết sao cho dễ đọc, rõ chữ. Điều này cũng tốt thôi. Thời nhỏ, đi học viết chữ cẩu thả, thầy chê: “Chữ xấu như gà bươi”. Ai trong đời không từng nghe câu âu yếm, yêu thương này?
Mà thật ra, với một đứa trẻ, chỉ cần viết chữ đẹp là chưa đủ, vì thế cũng không nhất thiết phải mất quá nhiều thời gian rèn chữ đẹp theo phong trào đang phổ biến. Trước đây, đọc bài báo nọ, có ông nọ bỏ thời gian cả đời để tập viết, gò từng chữ, tưng trang theo một quyển tự điển. Khi đối chiếu, khó có thể phân biệt đâu là trang tự điển viết tay và đâu là trang in! Cả đời mất thời gian để chỉ được khen khéo tay thì lợi ích gì? Lại nghĩ, có người cả đời sưu tập sách cũ, cắt các bài báo lưu trữ theo từng chủ đề, cất chật cả một nhà, liệu có ích gì khi các tài liệu đó không sử dụng cho cuộc sống hiện tại? Hôm 13.3.2014 tại nhà riêng, trả lời anh em VTV nhân họ làm bộ phim về cụ Vương Hồng Sển, y nhấn mạnh, cụ Sển không phải người chỉ biết chơi sách cũ, điều cần học tập là phải viết sử dụng sách cũ ấy như thế nào? À, cụ Sển cũng hóm ra phết. Cụ bảo, phải nói là “thú xem sách”, chứ đừng bao giờ nói “thú coi sách” hoặc “thú đọc sách” vì “mấy người nói lái, đọc lộn lại thì biết”.
Quan điểm của y, bất cứ vật chất nào chỉ có giá trị một khi nó phục vụ cho cuộc tiến hóa của xã hội hiện đại, bằng không chẳng có ý nghĩa gì. Hiện vật trong bảo tàng chỉ giá trị khi thúc đẩy niềm tin cho con người hướng về tương lai chứ không phải ăn mày vào quá khứ. Tự hào quá khứ, đúng rồi nhưng phải làm gì để thúc đẩy niềm tự hào đó trở thành trong hiện tại và tương lai mới là điều cốt lõi.
Lê Minh Quốc, Hà Anh, Lê Hoàng tại trường quay HTV 9 ngày 15.4.2014
Sáng nay, ghi hình ở HTV 9. MC Khương Ngọc, Mai Phương trao đổi với khách mời đạo diễn Lê Hoàng, người mẫu Hà Anh và y. Câu chuyện xoay quanh trong chuyên mục Đẹp, chưa đẹp; Tiêu điểm văn hóa; Nên, không nên. Nhìn chung cuộc thảo luận lý thú, đưa vào Nhật ký bởi những vần đề này đang diễn ra và cộng đồng quan tâm, bàn tán.
Trao đổi trước nhất về một sự việc đẹp: “Học tiếng Anh, hiểu văn hóa Việt”: “Từ hai năm trở lại đây, trong các lớp tăng cường tiếng Anh dành cho học sinh tiểu học tại TP.HCM, Giáo trình “I am proud to be a Vietnamese” - “Tôi tự hào là người Việt Nam” đã mang đến những tiết học hết sức lý thú và bổ ích cho các em học sinh. Điểm đặc biệt của bộ sách chính là việc các bài học tiếng Anh được lồng ghép cùng các kiến thức về văn hóa, lịch sử, địa lý Việt Nam một cách gần gũi và thực tế”. Bên cạnh đó, có sự viêc chưa đẹp: “Môn Lịch Sử bị bỏ rơi trong kỳ thi tốt nghiệp 2014”: "Một thay đổi quan trọng của Bộ Giáo Dục Đào tạo với kỳ thi tốt nghiệp THPT trong năm nay, khi học sinh chỉ phải thi 4 môn học, trong đó có 2 môn tự chọn, bên cạnh Toán và Ngữ Văn. Và khi quyền chủ động chọn môn thi thuộc về thí sinh thì đã nảy sinh một thực trạng đáng lo ngại khi môn Lịch sử gần như bị bỏ rơi. Hàng loạt trường chỉ có vài học sinh đăng ký thi tốt nghiệp môn Sử, và thậm chí có trường con số này là 0%”.
Kế đó là những vấn đề khác, chẳng hạn, hai người Việt được vinh danh “Nhà lãnh đạo trẻ toàn cầu”: “Năm nay, Việt Nam vinh dự có hai đại diện: Nguyễn Hoàng Long - Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam tại Ý và Kiến trúc sư Võ Trọng Nghĩa”. Trong khi đó, chưa đẹp là “Khi hoa hậu lách qua cửa quy định”: “Hoa hậu Thế giới người Việt 2010 Diễm Hương ly hôn cùng chồng đã khiến dư luận hết sức bất ngờ. Điều đáng ngạc nhiên ở đây chính là việc cô đã kết hôn từ năm 2011, nhưng lại là đại diện của Việt Nam tham dự cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ năm 2012, bất chấp quy định không cho phép các thí sinh đã kết hôn tham gia cuộc thi”.
Thêm một sự kiện đẹp : “Đưa gốc cây sưa ở sông Troóc vào bảo tàng”: “Một gốc cây sưa dài 2m, nặng gần 2 tấn được trục vớt ở sông Troóc, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình cuối tháng 2 vừa qua đã được UBND tỉnh chủ trương đưa vào trưng bày trong Viện bảo tàng tổng hợp tỉnh, thay vì dự định bán đấu giá sẽ thu được nguồn kinh phí không nhỏ, thì quyết định trên sẽ có tác dụng giúp người dân địa phương biết rõ về loại cây quý hiếm này và nâng cao ý thức bảo vệ, giữ gìn môi trường sống”. Trong khi đó chưa đẹp là “Dỡ gỗ sưa đình làng đem bán”: “ Vào đầu tháng 3 vừa qua, một sự việc gây bức xúc trong dân làng thôn Cựu Quán, xã Đức Thượng, huyện Hoài Đức, Hà Nội khi các quan chức của làng đã cho người dỡ 4 tấm gỗ sưa trên mái đình đem bán. Với tổng trọng lượng hơn 120 ký, được bán với giá 10 triệu đồng/kg thì số tiền bán gỗ thu được hơn 1,2 tỷ đồng. Và câu trả lời của họ là số tiền này để dùng vào việc công như sửa sang đường làng, tu bổ và mua đất ruộng cho đình”. Kế đó là câu thảo luận về “Văn hóa đọc thời kỹ thuật số”. Và cuối cùng là nên hay không nên “Chụp ảnh khỏa thân nghệ thuật?”.
Y và khách mời đã phát biểu thế nào? Chờ xem chương trình khi phát sóng vậy.
Lê Minh Quốc, Hà Anh, Lê Hoàng tại trường quay HTV 9 ngày 15.4.2014
Sáng nay cũng như mọi ngày, từ thông tin trên facebook mới biết tập sách Đàn bà liêu xiêu của Beo Hồng, Đỗ Ngọc, Hậu Khảo Cổ bị ách lại. Nếu muốn thuận buồm xuôi gió, phải bỏ đi một người. Sững sờ. Tập bản thảo này, y có đọc trước, chẳng chính trị chính em gì, chỉ “tám” về chuyện đàn bà.
Buồn cười với cái tin đọc trên TN sáng nay: “Nơi nào chụp hình 'tự sướng' nhiều nhất thế giới?”. Bài báo viết: “Theo kết quả khảo sát dựa trên số người sử dụng phần mềm chụp và chia sẻ ảnh miễn phí Instagram công bố trên tạp chí Time, Makati và Pasig - hai thành phố thuộc Vùng thủ đô Manila của Philippines - đã cùng đoạt danh hiệu nơi có nhiều người chụp hình tự sướng nhất thế giới: trung bình cứ 100.000 người thì có 258 người “tự sướng”. Một thành phố khác của Philippines là Cebu cũng được xếp hạng 9 trong top 10, với tỷ lệ là 99/100.000 người. Những vùng đất mà dân chúng chăm chỉ chụp hình “tự sướng” khác có mặt trong top 10 gồm: hạng 2 - Manhattan, Mỹ: 202/100.000 người; hạng 3 - Miami, Mỹ: 155/100.000 người; hạng 4 - Amaheim và Santa Ana, Mỹ: 147/100.000 người, hạng 5 - Petaling Jaya, Malaysia: 141/100.000 người; hạng 6 - Tel Aviv, Israel: 139/100.000 người; hạng 7 - Manchester, Anh: 114/100.000 người; hạng 8 - Milan, Ý: 108/100.000 người; hạng 10 - George Town, Malaysia: 95/100.000 người”.
Ủa? Không có Việt Nam à? Thật ra chúng ta đã “tự sướng” ngay từ trong tư duy, suy nghĩ của chính mình từng ngày, từng giờ rồi, cần quái gì phải chụp hình "tự sướng" khoe trên mạng nữa?
L.M.Q
Số phận một quyển sách chẳng bao giờ mất đi. Dù số lượng in ít ỏi bao nhiêu, nhưng chắc chắn vẫn còn lưu lạc ở chân trời góc biển nào đó. Đến một lúc, nếu có duyên may, người ta sẽ tìm được. Tại sao tin vậy? Khi viết, nếu tác giả nghĩ đến lợi ích của cộng đồng thì hãy tin mai sau sách và người vẫn còn có duyên tri ngộ. Điều này bình thường, cũng tựa đóng cái ghế, cái bàn nếu toàn tâm toàn ý, người thợ nào lại không tin nó còn hữu dụng lâu dài. Nói như thế, bởi mấy ngày này sắp xếp lại kho sách, thấy còn lưu giữ những quyển sách đã ra đời cách đây gần trăm năm. Trăm năm là ngắn hay dài? Số lượng thời đó, in bao nhiêu? Ấy cũng là cái thú của người chơi sách cũ. Quyển Morale Pratique A L’usage des Élèves des Écoles de l’Indochine của ông giáo J.C.Bosco in tại Sài Gòn năm 1914 vẫn còn sờ sờ đây. Đọc lại một bài để xem văn phong, câu cú thuở ấy:
“Từ mẫu:
Con trẻ! Ở đời có ai thương con cho bằng mẹ. Tình mẹ lai láng như sông như biển. Vì con mà vong phế mọi việc; coi con như vàng như ngọc; lo từ bữa ăn giấc ngủ cho con.
Khi bây bé thơ, dạy nói từ tiếng, tập đi từ bước. Bây có vang mình sức mây, chạy chơn khôn bén đất, quên ăn quên ngủ, ngày đêm chẳng rời con.
Ai săn sóc con bằng mẹ? Ngày nay mà bây còn thấy đất trời, cũng nhờ chưng có mẹ.
Ớ các con! Hãy thương mẹ bây cho hết lòng và phải lo đền ơn: “thập ngoạt hoài thai, tam niên nhũ bộ” - nghĩa là “Mười tháng đai mang bây trong lòng, ba năm cho bú mớm” (tr.10).
Bài học thuộc lòng này viết cách đây 100 năm rồi còn gì, thời nào cũng đúng. Chiều nắng nhạt, ngồi một mình, tiện tay vớ quyển sách, đọc bâng quơ vài câu cũng là một cái thú. Mấy hôm nay, lại đọc quyển Lao trung lãnh vận của ông Trần Văn Hương, ngoài bìa ghi “Nguyên giáo sư Việt văn Trường Trung học Mỹ Tho”. Ông Hương là nhân vật của chính trường miền Nam, không nhắc lại nữa. Tập thơ này gần trăm bài thơ ông viết lúc ở tù, từ ngày 12.11.1960 đến ngày 7.4.1961. Ông bị Nha Cảnh sát và An ninh Quốc gia gọi lên thẩm vấn vì tình nghi có liên quan đến vụ đảo chính ngày 11.11.1960. Tập Việc từng ngày, Đoàn Thêm cho biết:
Lao trung lãnh vận - tập thơ của Trần Văn Hương
“Ngày 11.11.1960 (23 tháng 9 Canh Tý): Đêm qua, 1g30, tiếng súng nổ ở phía Sở Thú; tới 2 giờ, có tin đảo chính. Nhiều tràng liên thanh ở vài ngả khác, Đại tá Nguyễn Chánh Thi, Tư lệnh Lữ đoàn Nhảy dù, cùng một số sĩ quan, đem quân vây dinh Độc Lập và đòi T.T Ngô Đình Diệm rút lui. Dân chúng vẫn đi lại như thường, trừ ở khu gần dinh Độc Lập.
10 giờ sáng, T.T Ngô Đình Diệm đọc hiệu triệu phát thanh, gọi quân ở Mỹ Tho về.
Buổi trưa, súng ngớt. Trên đài phát thanh , nghe tiếng B.S Phan Văn Đán hô hào quốc dân hưởng ứng Cách mạng.
Chiều, nghe Đại tướng Lê Văn Tỵ đọc nhật lệnh: T.T Ngô Đình Diệm trao quyền cho các tướng lãnh để lập chính phủ khác.
Một hội đồng Cách mạng kêu gọi dân chúng đi biểu tình vào sáng mai.
Có tin các Sư đoàn 7 ở Biên Hòa và Sư đoàn 21 ở Mỹ Tho đã bắt đầu kéo về giải vây dinh Độc Lập” (Nam Chi tùng thư XB 1966 - tr.282).
Tài liệu sử “chính thống” là Việt Nam những sự kiện lịch sử 1945-1960 của Viện Sử học ghi nhận:
“Ngày 11.11.1960:
- Cuộc đảo chánh bùng nổ ở Sài Gòn do Phan Quang Đán, một người thân Mỹ cầm đầu.
- 5.000 công nhân và nhân dân Sài Gòn biểu tình “đả đảo chế độ Ngô Đình Diệm”, đòi thành lập chính phủ liên hiệp dân tộc dân chủ, đòi đế quốc Mỹ cút khỏi miền Nam Việt Nam. Binh lính Diệm và bọn đảo chính xả súng bắn vào quần chúng biểu tình làm nhiều người chết và bị thương.
-Hàng vạn đồng bào các huyện Cái Bè, Cai Lậy, Chợ Gạo (Mỹ Tho) họp mít tinh, biểu tình phản đối chính sách “Khu trù mật”; “Luật phát xít 10.59” và đòi tống cổ cố vấn Mỹ ra khỏi miền Nam (NXB Giáo Dục -2003 - tr. 203 - 204).
Đọc lại hai nguồn tư liệu này, có thể rút ra suy nghĩ gì? Nhân đây, chép lại bài thơ Trần Văn Hương làm ngày 17.11.1960. Còn nhớ đọc hồi ký của Vũ Mộng Long (nhà văn Duyên Anh) đôi lần có nhắc đến và cười cợt bông phèng bởi hai câu “thực”:
Suốt ngày ăn ngủ, ngủ rồi ăn,
Chưa thấy chuyện gì, chuyện khó khăn.
Nằm khễnh sờ môi: râu tua tủa,
Ngồi rù gãi háng: dái lăn tăn.
Làm sang phe phẩy tay còn quạt,
Đi tắm trần truồng mổng thiếu chăn.
Ăn, ngủ, ỉa xong đầy đủ cả
Muốn mần chi nữa, biết mần răng?
Tập thơ này do tác giả xuất bản, có giấy phép hẳn hòi, in vào năm 1964. Đọc thơ của nhân vật chính trị còn có cái thú nữa, những ghi nhận của họ còn có thể phản ánh thời sự của thuở đó. Sau này, báo chí nhắc nhiều đến nhân vật Hà Minh Trí - người đã trực tiếp bắn Ngô Đình Diệm. Sự kiện này, Đoàn Thêm ghi: “22.2.1957: Khánh thành long trọng Hội chợ Buôn Ma Thuột. 8 g 30 T.T Ngô Đình Diệm tới gần đến khánh đài, bị một thanh niên bắn bằng tiểu liên Mas-49 dưới áo blouson. Nhưng đạn lại trúng B.T Cải cách Điền địa Đỗ Văn Công; ông Công bị thương nặng ở tay. Người bắn bị bắt ngay. Lễ khánh thành tiếp tục theo chương trình. Thanh niên bị bắt là Hà Minh Chí, tức Phạm Ngọc Phú, đã từng làm việc ở Ty Thông tin Tây Ninh” (S Đ D, tr.212). Trong khi đó, Việt Nam những sự kiện lịch sử 1945 - 1960 của Viện Sử học hoàn toàn không ghi nhận sự kiện này.
Tại sao?
Thông tin của ông Đoàn Thêm nhầm Trí/ Chí. Điều này cũng bình thường. Đọc tập thơ Hãy nhớ lấy lời tôi (NXB Thanh Niên - 1968), tên gọi về Nguyễn Văn Trỗi lúc ấy cũng khác nhau: "Nguyễn văn Trôi/ Anh đã chết rồi/ Anh còn sống mãi/ Chết như sống, anh hùng vĩ đại” (Tố Hữu); “Hình ảnh Nguyễn Văn Trỗi/ Mọc thành cờ khắp nơi” (Tế Hanh)… Đến nay, chưa một bài báo nào viết về Hà Minh Trí có nhắc đến chi tiết mà Trần Văn Hương đã kể lại trong Lao trung lãnh vận: “Bị giam vào ít lâu, thường lối 9, 10 giờ, có nghe tiếng hoặc ca hoặc hát văng vẳng từ xa đưa đến, giọng vô cùng buồn thảm, như hờn như oán, như khóc như than. Ban đầu cứ ngỡ là tiếng hát ca của mấy ông lính canh; mà sau nghe kỹ lại thì là tiếng ca hát do một xà lim cuối dãy đưa lại, mà người hát là một cậu nhỏ, lối hai mươi tuổi thôi. (Sau ngày biến cố 1.11.1963 mới biết cậu là Hà Minh Trí…)”. Vì cảm tiếng hát đó mà ông Hương thỉnh thoảng chia sẻ cho Trí đồ tiếp tế và ngày 10.12.1960 làm bài thơ như sau:
Từng chập luồn song giọng thiết tha,
Đưa niềm u uất khách phòng xa.
Nỉ non máu nghẹn lời yêu nước,
Tê tái sầu nung hận mất nhà.
Oán dậy ào ào: cây núi đổ,
Hờn tuôn cuồn cuộn: suối ngàn sa.
Lặng nghe não ruột người thông cảm
Đồng bịnh cùng thương lựa trẻ già.
Qua bài thơ này, có thể thấy thêm hình ảnh khác về một chính khách của miền Nam. Sau này, có những vấn đề của thế kỷ XX, thế hệ sau chắc chắn sẽ viết lại, trong đó, bộ môn lịch sử vẫn là thử thách lớn lao nhất. Mấy hôm nay rất thú vị với cuộc tranh luận xung quanh quyển Đại lễ phục Việt Nam thời Nguyễn 1802 - 1945 của nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn. Cuốn sách này in lại bộ tranh quý hiếm của họa sĩ Nguyễn Văn Nhân vẽ thời vua Thành Thái - năm 1902 bằng màu nước, bột màu ghi rõ chủ đề bằng tiếng Pháp bên ngoài: Grande tenue de la Cour d’Annam (Đại lễ phục của triều đình An Nam). Ông Sơn chỉ công bố bộ tranh và vào đó phần Quan phục và Mũ áo trích trong Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, chứ không phân tích gì thêm. Do đó, ngày ra mắt sách ở Thư viện Khoa học Xã hội, nghệ sĩ đàn tranh Hải Phượng đứng cạnh, quay sang hỏi y: “Anh ơi, xem tranh trong sách nhưng em cũng không thể phân biệt các chi tiết áo, mão của vua mình với hoàng đế Trung Quốc. Khác thế nào hả anh?”. Y là dân tay mơ, làm sao có thể trả lời câu hỏi đó.
May quá gần đây có cuộc tranh luận giữa Trần Đình Sơn và Trần Quang Đức - tác giả tập sách quý Ngàn năm áo mũ. Tranh luận này có lợi cho học thuật, đôi bên đều có ý kiến xác đáng nhưng thật bất ngờ đọc một comment trên TNO: “Tiendoan (saigon) - 4 giờ trước: Phải công nhận Nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn rất khiêm cung , nhã nhặn đối đáp từng ý , từng lời của đối phương mà không hề có ý xúc phạm hay miệt thị .. Đáng kính đáng kính. Đây mới là đức tính cần học”. Quái lạ, “đối phương” gì ở đây? Thời buổi này, con người ta cũng lạ, hễ tranh luận nhau là “đối phương” của nhau sao? Chẳng biết từ bao giờ hễ tranh luận với nhau một vấn đề gì, đôi bên cứ như ngồi trên lửa, dùng lời lẽ thiếu thiện cảm ném vào mặt nhau. Cuộc tranh luận này thì không. Đọc và thấy đôi bên cùng có lý lẽ riêng nhưng kết luận chắn thế nào phải là vai trò của Bộ và các cuộc hội thảo khác tầm cỡ quốc gia. Thế nhưng bốn phương phẳng lặng, chẳng thấy có thêm một động tĩnh gì. Đến nay đã có trên mười cuộc festval Huế ngốn biết bao tiền bạc nhưng lễ phục Việt Nam thời Nguyễn ra làm sao vẫn chưa có câu trả lời dứt khoát.
Thật đáng tiếc cho sự bàng quan của các quan chức làm văn hóa.
Trong khi đó, thiên hạ chỉ chăm bẳm vào cái gọi trùng tu di tích mà có ra hồn gì đâu. Những ngày này, dư luận lại bất bình với cái bình phong hình con thú phản cảm trước Lăng Ngô Quyền, đã đập bỏ. Rồi vụ bán sưa nhà chùa cổ, làm biến dạng các công trình di sản văn hóa v.v… nhiều không kể xiết. Công bằng mà nói, bền bĩ báo động các sự khốn nạn ấy chính là báo TT, TN từ nhiều năm qua. Nhưng rồi, có thay đổi, chấn chỉnh tích cực nào đâu. Thế mới đau. Những ngày này, báo chí đưa tin nhiều về Hội sách 2014. Sáng mai thứ 7 (15.3.2014), y và đạo diễn Lê Hoàng, người mẫu Hà Anh cùng trao đổi về văn hóa đọc tại trường quay HTV 9. Y sẽ nói gì? Nói gì thì nói, cũng sẽ nói cái ý mà y đã từng diễn đạt bằng thơ: Người giữ thời gian cho mọi người:
“Nếu anh muốn trò chuyện với những người thành thật của các thế kỷ qua
Thì hãy đọc sách”
Nhà triết học Descarte đã từng khuyên như thế
Sáng hôm nay một mình anh ra bể
Thấy sóng bao la vạm vỡ tận chân trời
Ta có thể lấy điều gì so sánh?
Xin thưa anh: “Tri thức của loài người”
Sáng hôm nay một mình anh lên núi
Thấy ngàn năm mây trắng nõn nà phơi
Mây cuồn cuộn không gì sánh nổi?
Xin thưa anh: “Có kiến thức trên đời”
Nguồn Sống ấy nằm trong trang sách
Từ đời cha truyền lại đến đời con
Lưu giữ mãi một Tình Yêu trong sạch
Sách mở ra vô tận những tâm hồn
Trang sách chứa bao điều mới lạ
Những tinh khôn từ vạn cổ chí kim
Ai giữ sách để người sau được đọc
Để tri âm - tri kỷ biết nhau tìm?
Điều đơn giản mọi người cùng chia sẻ
Là những thủ thư trong thư viện hiền hòa
Họ yêu sách như duyên tình vạn kiếp
Suốt một đời duyên nợ chẳng lìa xa
Họ giản dị như mọi người giản dị
Nhưng có uy quyền là giữ được Thời Gian
Thời gian ấy nằm trong trang sách
Quyển sách hay sánh với một rương vàng
Nếu có được quyền lực cao chót vót
Thì anh làm gì với quyền lực của anh?
Anh sẽ lấy sách
Gieo khắp bốn bề trái đất
Để hành tinh này tươi thắm một màu xanh
Hành tình này tươi thắm một màu xanh
Nếu trên đời vẫn còn nhiều thư viện
Trang sách mở ra tri thức của loài người
Dạy cho chúng ta biết làm người lương thiện
L.M.Q
Trang 41 trong tổng số 58