Sáng nay, Hội Nhà văn Việt Nam phía Nam mời tất niên. Không đi. Cuối năm, bận rộn quá. Vẫn còn vài việc chưa làm xong. Ai đời, giữa lúc thiên hạ đã có thể thở phào, nhẹ nhỏm nghỉ ngơi, y vẫn đêm đêm nằm đọc Đại Việt sử ký toàn thư. Rồi cũng xong thôi. Ngày mai bắt tay vào giao diện PNO Xuân. Những bài thơ của bạn đọc còn ngỗn ngang. Phải đọc lại và viết đôi dòng giới thiệu như mọi năm. Xuống phố, những ngày này mới thấy người Sài Gòn năng động trong việc kiếm tiền. Đã thấy những cái bàn cỏn con đặt bên lề đường và bày bán loại tiền 1 USD, 2 USD mới toanh; lại thấy có nơi còn bán những tờ giấy tiền in hình con ngựa của nhiều nước; những miếng nhựa màu vàng in tiền, đẹp mắt giống y chang tờ USD… Lấy tiền thật mua tiền thật; hoặc tiền giả với giá cao hơn gấp nhiều lần. Vui chưa? Cũng vui. Trong các ngõ ngách đã thấy những xe ba bánh chở nhiều bịch cát sạch, đóng gói cẩn thận, bán cho những ai muốn thay cát lư hương đặt trên bàn thờ. Các chậu hoa mai đã bày bán khắp hang cùng ngõ hẻm, vỉa hè; đồ chơi trẻ con, quần áo, giày dép đại hạ giá cũng bày bán la liệt…
Những ngày này đã thấy cảm giác Tết thật gần. Gần lắm. Chỉ rướn người một chút, một chút thôi, đã chạm đến Tết. Mà Tết là gì? Vừa thật, vừa mơ hồ. Tùy cảm nhận của mỗi người.
Đêm qua, tham gia chương trình Cám ơn Cuộc đời của VTV 6 truyền hình trực tiếp. Sẽ phát lại lúc 21 g ngày 28 Tết (28.1.2014) trên VTV1; lúc 9 g ngày ngày 30 Tết (30.1.2014) trên VTV 6. Có thể còn sau đó nữa. Chủ đề xuyên suốt: Cuộc sống là chuỗi những sự lựa chọn. Lựa chọn như thế nào để sống khi mà Cuộc đời chỉ có một? Chương trình mở đầu của năm 2014 là bàn về lòng tốt, làm việc từ những con người cụ thể. Mấy ý chính mà y đã phát biểu: Lòng tốt tự bản thân con người sinh ra đã có, “nhân chi sơ tính bổn thiện”. Tuy nhiên, nói thế vẫn không đủ. Lòng tốt có được là do môi trường giáo dục từ gia đình, nhà trường và môi trường xa hội.
Có người đàn ông, tên cha sinh mẹ đẻ đặt tên Hà Tư Phước. Anh ở thôn Ia Rok, xã Chư H'Drong (Pleiku, Gia Lai) nhưng mọi người gọi “Phước khùng” bởi anh tự nguyện đem cả vài chục người bệnh tâm thần về nhà nuôi! Em học sinh Nguyễn Văn Nam, học sinh lớp 12T7 THPT Đô Lương 1 đã cứu được 4 học sinh khi bị đuối nước dưới sông. Khi đẩy được em thứ 5 vào bờ thì Nam kiệt sức và bị dòng nước cuốn trôi. Cô gái Phan Thị Thu Hà, 18 tuổi, nhưng phải trải qua 6 năm vào Bệnh viện Nhi Trung ương để chạy thận nhân tạo. Cho đến một ngày, bản án tử thần treo trước mặt, chỉ có đường thoát nếu như có một quả thận để thay. Bi kịch bệnh tật của Hà đã động lòng anh Vũ Quốc Tuấn ở xã Minh Phú, huyện Đoan Hùng (Phú Thọ), làm công việc giữ xe tại bệnh viện. Anh có ý định hiến tặng một quả thận để cứu Hà. Việc hiến thận không đơn giản, anh phải trải qua 68 lần xét nghiệm, mệt mỏi và đau đớn thân xác, nhưng anh vẫn làm. Điều đáng nể trọng hơn trước tấm lòng cao cả của anh, đó là khi biết anh có ý định hiến thận cho Hà, có người đã mua thận của anh với giá 50.000 USD. Anh từ chối và nói: “Nếu ông có 50.000 USD thì ông có thể mua thận để ghép cho con, nhưng cô bé này không có quả thận của tôi thì chết”.
Chung quanh những chuyện này, y nhấn mạnh vai trò của các cơ quan nhà nước bởi làm tốt bằng cái tâm vẫn chưa đủ. Phải có sự hỗ trợ về mặt chính quyền, nếu xây dựng cầu đàng hoàng thì sẽ hạn chế được những trường hợp chết vì cứu bạn. Một cơ sở tự phát nuôi người tâm thần có hoan nghênh không? Rất đáng biểu dương. Thế nhưng về lâu dài sẽ như thế nào, nếu không có sự giúp đỡ của các bác sĩ chuyên khoa, tài chính, cơm gạo hỗ trợ của nhà nước? Có nhiều điều đáng bàn lắm. Chung quy, khi người dân làm việc tốt, có lòng thiện vẫn chưa đủ vì sự ca ngợi ấy, chỉ mới chạm đến phần ngọn. Cái cốt lõi là từ phía nhà nước phải có những động thái tích cực hơn nữa. Ca ngợi đứa bẻ nhảy xuống sông cứu bạn, chỉ dừng lại đó thì sẽ còn những cái chết khác tương tự nếu nhà nước không xây cầu cho dân v.v… Bậc phụ huynh nào không đau đớn khi con mình phải chết, dù nó đang làm việc tốt? Để không xẩy ra nỗi đau đớn ấy, phải có sự thay đổi về phía nhà nước trong việc lo cho dân, vì dân.
Có những chuyện hiển nhiên như nhặt tiền người khác đánh rơi, đem trả lại. Trong một xã hội bình thường đây là lẽ hiển nhiên. Nhưng ở xứ ta, lập tức, trở thành chuyện “lạ đời”. Có lẽ do lòng tốt, người tốt trong cộng đồng ngày càng hiếm hoi quá chăng? Vừa rồi quan chức tỉnh nọ đã làm một việc vô cùng kỳ cục. Chuyện rằng, anh chàng nọ chở bia, chẳng may xe lật, bia đổ lênh láng đầy đường, thiên hạ ùa vào hôi bia. Tưởng rằng, anh lái xe sẽ đền bia này, nhiều người hảo tâm ủng hộ một số tiền. Sau khi biết, chủ bia không đền, anh trả tiền lại cho mọi người. Việc làm nầy phải là thế. Không thể có cách ứng xử khác. Thế mà, tỉnh nọ lại phong cho danh hiệu “Công dân tiêu biểu” của tỉnh (!?). Kỳ quái thật cho não trạng của ban ngành đoàn thể tỉnh đó.
Một xã hội, có những việc làm rất đỗi hiển nhiên lại thở thành “chuyện lạ” ắt xã hội đó không bình thường.
Từ ngàn đời này, lòng nhân ái đã ăn sâu vào máu thịt người Việt: Chị ngã em nâng, lá lành đùm lá rách; thương người như thể thương thân; nhiễu điều phủ lấy giá gương/ người trong một nước phải thương nhau cùng; bầu ơi thương lấy bí cùng/ tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn; tối lửa tắt đèn có nhau; giúp ngặt giúp nghèo; một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ v.v…. là ý thức sống tựa như đã sống thì hít thở. Vậy mà khi có người tự nguyện thực hiện, lập tức trở thành chuyện “lạ đời”! Điều này có đáng suy nghĩ không? Anh Nguyễn Trí, người vừa nhận Giải thưởng văn chương Hội Nhà văn Việt Nam có kể, lúc ra tòa, anh xin giảm án cho cô gái đã giết con anh. Xin, vì cô ta thất học, còn quá trẻ, con còn bú sữa mẹ, bụng lại đang mang bầu. Người có lòng nhân ái, ai cũng ứng xử vậy thôi. Thế mà trong dư luận có kẻ cho rằng anh muốn “chơi nổi”!
Làm tốt, chẳng ai tin. Nếu tin thì ca ngợi hết lời nhưng bắt gặp câu chuyện cổ tích trong đời thường.
Rõ ràng, đó là điều kỳ quặt. Một xã hội chỉ bình thường khi chúng ta tiếp nhận thông tin “người tốt, việc tốt” một cách bình thường, đơn giản, ai cũng làm thế nếu mình ở trong tình huống đó.
Chuyện này còn có thể bàn dài dài. Thôi thì, trong cuộc sống này, chúng ta hãy ngã mũ kính trọng, thán phục những con người đang làm tốt cho cộng đồng. Anh Hà Tư Phước cho biết không nhớ có bao nhiêu người tâm thần đến với mình rồi trở về nhà. Với anh, " những điều không cần nhớ thì nhớ làm gì. Đầu còn lo nhiều việc khác. Nhớ mình đã cưu mang bao nhiêu người mệt lắm, ngủ chẳng ngon". Câu nói nhẹ nhàng nhưng đủ sức lay động tâm hồn chúng ta. Thử hỏi, làm tốt để làm gì? “Để gió cuốn đi”. Vậy thôi. Không cần ai phải nhớ. Họ đã sống và làm như thế. Đáng kính phục thay. Người làm việc tốt không cần ai phải nhớ đến mình. Tuy nhiên, việc làm tốt ấy đã nhen lên trong tâm hồn mọi người sự tin cậy về lẽ sống ở đời. Trên nền bức tranh xã hội xám xịt, loang lổ, nhố nhăng hôm nay vẫn còn có những ánh màu tươi sáng. Ánh sáng đó có được chính từ những con người biết quên mình, sống vì cộng đồng.
Trước mắt, hãy ca ngợi lòng tốt bởi đức tính ấy đang là của hiếm. Tự nhiên, nhớ đến mấy câu thơ bùi ngùi của Lưu Quang Vũ:
Tôi phải đốt lên một cái gì
Cho sáng rực giũa chênh vênh vực thẳm
Dẫu bao lần người làm tôi thất vọng
Tôi vẩn yêu người lắm lắm người ơi
Hôm qua, đọc báo PN nhà mình mà sôi tiết. Căm giận. Chuyện rằng, Tết Giáp Ngọ 2014 đã cận kề, nhưng không khí gia đình ông Nguyễn Văn Dũng (SN 1965, ngụ đường Trần Quang Cơ, P.Phú Thạnh, Q.Tân Phú, TP.HCM) lại rất ảm đạm vì cô con gái út của ông tên Nguyễn Thị Cẩm N. 15 tuổi, mất tích đã hai tháng vẫn chưa có tin tức. Ông Phú đêm ngày đi tìm con. May sao, “Đang tuyệt vọng, thì bất ngờ ngày 29/12, tức hơn 20 ngày sau khi N. “mất tích”, gia đình ông Dũng nhận được thông tin từ một phụ nữ tên Vân (tạm trú tại đường Lũy Bán Bích, P. Phú Thạnh, Q.Tân Phú) báo tin con chị cũng bị “mất tích” tương tự N., mới trở về. Chị Vân kể: ngày 14/1/2013, con gái chị bị một phụ nữ tên Kiều tạm trú đối diện Trường Hiệp Tân, P.Hiệp Tân, Q.Tân Phú dụ dỗ bảo đi xe ôm ra Bến xe Miền Tây. Tại đây, Kiều đón sẵn và đưa tới ấp Suối Sâu, xã An Tịnh, huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh, giao cho một người tên Tuyền (tự Trang) là dì ruột của Kiều. Tuyền bán con chị vào động bia ôm H.Y. Cả Kiều và Tuyền đều là đối tượng chăn dắt, dụ dỗ gái cung cấp cho các động mại dâm, có cả đường dây bán gái sang Trung Quốc. Nhờ lần ra địa chỉ, chị đã cứu được con về. Khi vào “động”, chị đã gặp bé N., người trong ảnh mà gia đình trưng ra. Nhận được thông tin này, gia đình ông Dũng đến ngay CA xã An Tịnh đề nghị giúp đỡ. CA xã đã đưa gia đình đến quán H.Y”.
Đọc đến đây, y reo lên, vậy sự đoàn tụ đang trong tầm tay. Như bong bóng xì hơi, uất nghẹt lúc đọc tiếp: “Theo lời ông Dũng, CA không kiểm tra hành chính, chỉ đứng bên ngoài, mình ông vào gõ cửa từng phòng, nhưng chủ quán không chịu mở, nên ông không thể tìm con được. Không nản lòng, gia đình ông đưa ảnh N. dò la các quán, nhà dân ở cạnh quán H.Y. và có người xác nhận là đã từng thấy N. ra vô quán H.Y. Gia đình ông Dũng tiếp tục nhờ bạn bè đóng vai khách vào quán H.Y. để tìm con gái nhưng vì thấy khách đi xe biển số thành phố, lại bị động từ vụ CA đến quán tìm người, chủ quán đã “cảnh giác”.
Quái đản, sao lúc ấy CA “chỉ đứng bên ngoài”? Cuối cùng, sự việc tắc tị. Sự vô cảm này không thể tưởng tượng nổi. Sao không thử đặt trường hợp, nếu đây là con cháu của mình? Nỗi đau đớn nào có thể sánh nổi? Vậy mà người ta lại vô cảm, dửng dưng đứng ngoài cuộc. Nếu không có lòng tốt, nhưng xin đừng quên trách nhiệm của một nhân viên công lực lúc đang thực thi nhiệm vụ. “Việc gì có lợi cho dân thì hết sức làm, việc gì có hại cho dân thì hết sức tránh”. Ai nói câu này? Ai thuộc câu này? Tin chắc rằng, bất kỳ một cán bộ nào dù cấp làng xã đến Trung ương đều biết, đều thuộc nằm lòng, vậy mà có lúc người ta lại không thèm đếm xỉa tới. Dân tin vào đâu nữa? Bài báo này kết luận: “Rõ ràng, nếu cơ quan CA địa phương, nơi có thông tin nghi ngờ em N. đang bị “nhốt”, làm hết trách nhiệm, có lẽ sự việc đã sớm sáng tỏ. Cách xử lý của cơ quan chức năng cho thấy họ khá thờ ơ, nên người dân không khỏi bất an” (PN 22.1.2014).
Lòng buồn tênh.
L.M.Q
Sáng nay, dậy sớm. Nôn nao với Tết. Chẳng việc gì phải chìm trong giấc ngủ. Hồi mới đi bộ đội về, còn cà nhỏng, chưa công ăn việc làm. Cả ngày đợi đến tối. Tối, đi học bổ túc văn hóa lớp 12 ở Trường PTTH PCT. Sau đó, mới có thể thi đại học. Rảnh rỗi quá, bèn kèm con chị Ái học. Trong sách giáo khoa tiểu học của chúng có bài thơ, nay còn thuộc mấy câu: “Ai dậy sớm/ Chạy ra đồng/ Có mùi hương/ Đang chào đón”. Vèo một cái, chúng nó đã đến tuổi sắp có vợ. Y dậy sớm, có nhang trầm thơm từ bàn thờ của ba từ phía sau lưng. Dậy sớm, nghe tiếng kinh từ chùa vọng sang. Dậy sớm, nhìn từng giọt cà phê lặng lẽ rơi xuống nền đường cát trắng dưới đáy ly. Dậy sớm, mỗi một việc gõ phím. Từng ngày. Ngày nào cũng thế. Nếu sống trong một nơi không có bàn phím, máy tính thì lúc dậy sớm, y sẽ làm gì? Ghét nhất đàn đúm cà phê buổi sáng. Những câu chuyện ấy. Những gương mặt ấy. Bạn bè ấy. Từng ngày, lặp lại từng ngày. Thoáng nghĩ, đã ngao ngán.
Sáng vào cơ quan, không khí vui vẻ. Chan hòa. Anh em. Đã sắp Tết. Ai nấy cũng hân hoan cười nói. Câu “Nhất rún chị sui, nhì đuôi rắn hổ” được bàn tán rôm rả. Mỗi người một ý. Ai cũng quả quyết giải thích của mình là đúng. Nghĩ lại, y thích câu trên do có từ “rún”. Nếu thay bằng từ khác, sự hài hước sẽ không còn. Hoặc thô kệch, hoăc thô tục. Đọc lại Tục ngữ, phong dao của cụ Nguyễn Văn Ngọc không tìm ra câu này. Trong bài chòi miền Trung có nhắc đến rún. Con Ngũ Rún:
Rủ nhau đi đánh bài chòi
Để con nó khóc tới lòi rún ra
Uớ Ngũ Rún!
Chẳng biết nói thế nào. Chiều nay, có cuộc hẹn làm việc về chương trình Cám ơn cuộc đời: Cuộc đời chỉ có một với VTV 6. Sẽ diễn ra vào lúc 20 g ngày 22.1.2014 tại nhà hát Hòa Bình. Y là khách mời. MC là Đặng Diễm Quỳnh. Thời buổi nhố nhăng này, vậy mà, lòng tốt vẫn còn đây. Chẳng hạn, trên đường đi học về, em Bùi Duy Nhất, 12 tuổi, học sinh lớp 6C trường THCS Đoàn Lập nhặt được chiếc ví dày. Em đứng gần 2 tiếng đồng hồ, đợi người đánh rơi ví quay lại. Đợi mãi không thấy, em mang ví về nhà đưa cho bố mẹ, kể rõ sự tình. Bố mẹ Nhất mở chiếc ví và sững người trước 1.500 USD và 1,3 triệu đồng (tổng cộng hơn 30 triệu đồng) cùng giấy tờ tùy thân mang tên Trần Ngọc Tin, thôn Đông Xuyên Ngoại, xã Đoàn Lập, huyện Tiên Lãng, Hải Phòng. Bố mẹ Nhất đưa con đến tận nhà anh Tin trả lại tiền. Cậu bé nhất định không nhận số tiền anh Tin tặng để cảm ơn. Từ bé đến lớn, em đã được dạy không tham lam của rơi nên em phải trả bằng được số tiền, không thì sẽ rất áy náy.
Tại xóm lao động nghèo của ông Vũ Xuân Ngân (quê Nam Định, ngụ P12, quận Bình Thạnh, TpHCM) xôn xao suốt mấy ngày vì câu chuyện chiếc ví của ông Ngân trở về từ miền Tây Nam Bộ. Khi đánh rơi chiếc ví rách, ngoài 710 nghìn đồng và giấy tờ tùy thân, thì tài sản đáng giá nhất là 3 chiếc vé tàu Tết. Vợ ông Ngân phải vay mượn tiền để mua lại 3 chiếc vé khác với giá 3,3 triệu đồng. Những ngày tiếp theo, dù buồn, hai vợ chồng vẫn phải mưu sinh, ông Ngân đẩy xe đi bán cháo lòng, bà Hiền đạp xe đi bán xôi dạo. Trước đó, hai ông bà cũng từng nhặt được ví bị đánh rơi nhưng họ đều trả lại người đã mất. Rồi chuyện cổ tích cũng xảy ra. Nguyễn Thị Nữ Sinh, 26 tuổi, nhân viên một công ty du lịch đã tìm đủ mọi cách để chiếc ví và những chiếc vé tàu Tết về với vợ chồng ông Ngân...
Lại có chuyện Phước "khùng" và tổ ấm người điên như sau: Một lần tình cờ chứng kiến cảnh người đàn ông bị xích lại vì mắc bệnh tâm thần, anh Hà Tư Phước (thôn Ia Rok, xã Chư H'Drong, Pleiku, Gia Lai) suy nghĩ và quyết định đưa người đàn ông điên dở đó về nhà chăm sóc. Sóng gió gia đình nổi lên, vợ anh, chị Huỳnh Thị Hạc không thể hiểu nổi chồng, thậm chí, chị còn cho rằng anh đang có biểu hiện tâm thần. Nhưng từng bước, từng bước một, anh đã thuyết phục cả gia đình đồng tình với quyết định rất nhân văn của mình. Hơn 10 năm qua, vợ chồng anh đã đón những người mắc bệnh tâm thần lang thang về nuôi dưỡng, kệ cho mọi người xung quanh coi anh là "rỗi hơi", là "bị khùng". Anh Tư Phước không nhớ có bao nhiêu người tâm thần đến với mình rồi trở về nhà. Với anh, "những điều không cần nhớ thì nhớ làm gì. Đầu còn lo nhiều việc khác. Nhớ mình đã cưu mang bao nhiêu người mệt lắm, ngủ chẳng ngon".
Lại chuyện em học sinh Nguyễn Văn Nam, học sinh lớp 12T7 THPT Đô Lương 1 đã cứu được 4 học sinh khi bị đuối nước dưới sông. Khi đẩy được em thứ 5 vào bờ thì Nam kiệt sức và bị dòng nước cuốn trôi. Nam mới học và biết bơi được 20 ngày và chỉ còn 31 ngày nữa, Nam sẽ thi tốt nghiệp PTTH. Nam được Chủ tịch Nước truy tặng Huân chương Dũng cảm.
Xoay quanh với nhiều câu chuyện cổ tích khác trong đời thường, y sẽ nói gì? Có phải “nhân chi sơ, tính bổn thiện”? Những người làm việc tốt ấy có phải “khùng” hay không? v.v… Thật ra, y không đủ giỏi giang, thông minh để bàn luận, lý giải các câu chuyện này. Nếu có những người bạn tốt, có thể đặt vấn đề cùng tranh luận, phản biện thì tốt quá. Mà cuối năm rồi. Ai cũng bận. Chẳng ai rỗi hơi ngồi bàn cho ra ngô ra khoai. Dù đã rủ. Ngồi một chút, trao đổi thêm với Quỳnh. Vậy mà không.
Tự nhiên lại nhớ đến vài người bạn tốt cỡ như anh Nguyễn Tôn Nhan, An Chi… khi cần hỏi điều gì, chỉ nhắc điện thoại là sau đó có ngay câu trả lời chu đáo. “Q à? Chờ chút. Tra cứu xong sẽ gọi lại ngay”. Giây lát sau, đâu vào đó. Mà cũng lạ, có những người tốt thật. Cả đời chẳng mấy khi khề khà chén rượu ly bia, đến nhà thăm nhau nhưng khi cần, họ giúp ngay. Giúp vô tư như một trách nhiệm. Lý giải thế nào? Nghĩ lại, cảm động. Tình cảm này cũng tựa như nhà sử học Nguyễn Thiệu Lâu dành cho cụ Nguyễn Văn Tố. Thập niên 1930, thế kỷ trước ở miền Bắc có câu “Quỳnh, Vĩnh, Tốn, Tố”. Đó là bốn trí thức giỏi tiếng Pháp, uyên bác: Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Duy Tốn (bố Phạm Duy) và Nguyễn Văn Tố. Khi nhớ lại cụ Tố, người đã chu đáo từng sửa từng lỗi chính tả, câu cú giúp mình, ông Lâu viết một câu ngắn, ấn tượng: “Bây giờ tôi viết bài, phải tự chữa lấy, thật là buồn…”.
Bây giờ, y tiếp cận đề tài này, phải tự lý giải lấy, thật là buồn.
Làm thế nào để biết, lúc cần kíp mình sẽ cần ai nhất? Chiều nọ, cách đây mươi năm, lần đầu tiên, bước một mình vào bệnh viện tiểu phẩu một cái u sau cổ. Anh Phan Kim Thịnh - chủ bút báo Văn Học tại Sài Gòn trước 1975 cũng bị tương tự. Do lười, sợ, không mổ nên khối u ấy ngày càng to. Nhìn thấy anh, y rút kinh nghiệm ngay. Cái u chỉ bằng lóng tay. Sờ vào không đau. Anh Thịnh bảo: “Q đi mổ đi. Đừng chủ quan như tôi”. Sau khi vào bệnh viện làm xong thủ tục, bác sĩ hỏi câu chót: "Khi cần thiết báo tin cho ai?". Tự nhiên hoảng quá. Thì cũng phải mổ. Lúc đó, trong tờ khám bệnh, y đã điền tên và số điện thoại của ai?
Trời đã chiều. Ghi lại đôi dòng về thông tin này: Sau sự cố chiều ngày 20.1.2014, tàu cánh ngầm SG 6003 của Công ty dịch vụ hàng hải VinaExpress bất ngờ bốc cháy trên sông Sài Gòn, sực nhớ lại những vụ tai nạn tàu thủy kinh hoàng: chìm tàu Cần Giờ, lật nhà hàng nổi ở Dìn Ký, chìm tàu trên Vịnh Hạ Long … đã xảy ra trước đó. Lập tức, các cơ quan chức năng đã có cuộc kiểm định toàn bộ tàu cánh ngầm. Họ đã kiểm định thế nào? Không rõ. Theo trang Vn Epress: “Một cảnh sát PCCC cho biết, chiếc tàu cánh ngầm SG 6003 này vừa được kiểm định đủ tiêu chuẩn an toàn vào ngày 17/1” (http://vnexpress.net/tin-tuc/thoi-su/giay-phut-hon-80-nguoi-nhay-khoi-tau-canh-ngam-boc-chay-2942627.html). Tù ngày 17.1 đến ngày 20.1 là mấy ngày? Bó tay. Tin này không vui chút nào. Không bình luận.
Tìn này vui hơn. Báo PL TP.HCM số phát hành ngày chủ nhật vừa rồi có đăng tin: “Theo thống kê của tổ chức nghiên cứu thị trường Eurowatch, năm 2013 Việt Nam đã tiêu thụ hết 3 tỉ lít bia, tương đương 3 tỉ USD. Như vậy trung bình mỗi người Việt tiêu thụ khoảng 32 lít bia một năm. Với mức tiêu thụ này Việt Nam nằm trong tốp 25 nước uống bia khủng khiếp nhất thế giới, đứng thứ ba ở châu Á chỉ sau Trung Quốc, Nhật và đứng đầu khu vực Đông Nam Á”.
Đọc xong, ưỡn ngực tự khen, y là một trong những đệ tử Lưu Linh đã góp phần làm nên kỷ lục vẻ vang này. Vậy không vui là gì?
L.M.Q
Sáng dậy sớm. Mua tờ A.T. Nội dung đã khác. Hy vọng sống được. Mấy sạp báo nói giá hơi cao. 30.000 đồng. 100 trang cả bìa. Khen bìa và ruột trình bày đẹp. Vậy, chúc mừng lão huấn luyện viên trưởng vẫn sung. Già còn gân. Khi viết những dòng này, tiếng cầu kinh bên chùa vẫn vọng sang. Nghe hoài. Nghe mỗi ngày. Chẳng nhập tâm được câu nào. Bởi lòng y còn sân si lắm. Hôm kia, nghe anh bạn Hà Đình Nguyên cao hứng buộc miệng nói câu thành ngữ thật hay. Ghi lại kẻo quên: “Nhất rún chị sui, nhì đuôi rắn hổ”. Nếu không sân si, sao y lại ôm bụng cười ngất?
À, cách đây chừng hai năm, cũng dịp này, anh Nguyễn Tôn Nhan mất vì tai nạn giao thông. Anh tuổi Đinh Hợi, con rể nhà văn Tô Kiều Ngân. Ngày đó, thỉnh thoảng y vẫn ghé nhà chơi. Nhờ anh viết, đọc giúp vài câu chữ Hán. Ngày anh mất, muốn thắp nén nhang nhưng cuối cùng tìm nhà không ra. Ngõ hẻm Sài Gòn lắt léo, ngoắc ngéo, ngoằn ngoèo, ngủn ngoẳn, loằng ngoằng, ngoặt ngoẹo nên chịu thua. Sở dĩ chiều nay nhớ, bởi đọc tờ báo Pháp luật Hôn nhân thứ 7 (18.1.2014) có thông tin liên quan đến anh.
Đó là vụ “đạo văn” đang gây chấn động ở Viện Văn hóa - Trường Đại học Văn Hóa. Báo trên cho biết bà Nguyễn Thùy Vân, cán bộ Ban Văn hóa thế giới, từ năm 2006 đến 2013 đã thực hiện 17 đề tài khoa học, trong đó có 14 đề tài dịch từ chữ Hán sang Việt, 1 đề tài từ tiếng Anh sang Việt và 2 đề tài nghiên cứu. “Quy mô mỗi đề tài khoa học tối thiểu là 200 - 300 trang, đề tài có số trang hơn 1.000 khá phổ biến. Tính bình quân đề tài mà bà Vân thực hiện có độ dày khoảng 500 trang. Với số trang như vậy, thì 7 năm qua Vân đã chuyển ngữ khoảng 7.000 trang từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt với hơn 3 triệu chữ”. Một người có thể làm được như vậy không? Chỉ biết rằng, theo tờ báo trên, bà Vân đã chép nguyên si nhiều công trình khác, “chẳng hạn, năm 2008 Vân dịch cuốn “Văn hóa cổ điển Trung Hoa”, ở ngoài bìa Vân ghi chủ biên là Nguyễn Tôn Nhan (một học giả người Việt đã mất). Thực tế đây là cuốn sách tiếng Việt do ông viết có tên “Bách khoa thư văn hóa cổ điển Trung Quốc”.
Quyển sách này có trong tủ sách, y xem lại thì biết để biên soạn, trong phần thư mục anh Nhan tham khảo hơn 30 đầu sách của Trung Quốc. Ngoài ra anh còn biên soạn Tự điển thành ngữ điển tích Trung Hoa, Từ điển Hán - Việt văn ngôn dẫn chứng… Có lần anh tâm sự: “Tôi cho tiếng Hán dễ học hơn bất cứ thứ chữ nào tôi đã “nếm” qua. Điều ấy có lẽ là do cái “tạng” của tôi so với nhiều người không giống nhau. Hồi trước năm 1975, giữa những năm của thập niên 60, lúc tôi mới 17, 18 tuổi, thời kỳ người Mỹ đổ qua Sài Gòn, thiên hạ đua nhau học tiếng Anh, tiếng Mỹ để dễ giao dịch, thuận tiện trên đường học vấn thì tôi chịu, dính chết với chữ Hán, tự học và say mê. Thấy thế ai cũng cho rằng tôi học tiếng Hán thời buổi ấy là “bơi ngược dòng” có mà “húp cháo”. Song tôi vẫn thích học, thích đọc và dịch sách chữ Hán”. Cách học của anh cũng lạ. Ngồi đâu là ghi đó. Ghi riết cho nhớ mặt chữ. Bất kể ghi trên giấy hay trên cát, trên mặt bàn... Để có thể toàn tâm toàn ý biên soạn các bộ sách trên, anh bảo, chính anh L.N.Đ đã đầu tư tiền đủ sống hằng tháng. Cứ làm miệt mài, từ năm này qua năm nọ, khi nào xong bản thảo thì đưa in. Chà, tư nhân tham gia vào thị trường sách năng động quá đi chứ. Thời ấy, anh chẳng giàu có gì, chỉ đủ sống. Chị vợ chuyên viết sách dạy nấu ăn, bán bản thảo cho các nhà xuất bản. Đời sống lương thiện. Đáng quý quá. Nay, nghe tin mãi đâu tận HN ở cái Viện Văn hóa rất danh giá kia, người ta lại “đạo văn” của anh để rút tiền Nhà nước. Tiền cấp phục vụ cho các công trình nghiên cứu khoa học!
Đọc tin này choáng quá.
Lại choáng tiếp với cái tin này. Sáng nay, lang thang tên facebook, thấy có bạn chụp tấm hình tờ lịch ngày Mồng 1 Tết năm nay. Phía dưới là dòng chữ (nguyên văn): “Hồ Hoàn Kiếm (Hà Nội) gắn liền với truyền thuyết rùa thần đòi gươm. Một hôm nhà Vua dạo chơi bằng thuyền trên hồ bắt gặp một sinh vật là Rùa lớn nổi lên về phía Ngài, bấy giờ Vua liền rút gươm ra để xua Rùa đi nơi khác, nhưng Rùa bất ngờ ngậm lấy thanh gươm rồi lặn mất xuống lòng hồ. Từ đó hồ được đặt tên là Hồ Hoàn Kiếm”. Viết thế này, dám in thế này là bạo gan quá chừng chừng. Chỉ tiếc, bạn đó chụp lại tờ lịch này mà không cho biết nhà xuất bản nào đã ấn hành, tự nó, không có giá trị phê phán. Đành rằng, có hình ảnh hẳn hòi, nhưng người xem phải biết chính xác đơn vị xuất bản nào chịu chịu trách nhiệm cho ra lò loại lịch cà chớn này? Chỉ mỗi tấm hình, không một thông tin nào thêm, thật đáng tiếc. Đáng tiếc bởi người tiếp nhận, không có cơ sở kiểm chứng lại.
Trước đây, nhà nhiên cứu Văn Tâm làm tập sách Đoàn Phú Tứ, con người và tác phẩm (NXB Văn Học-1995), có người cung cấp nhiều tư liệu. Thế nhưng ông phân vân bởi các tư liệu đó cắt ra từ báo, tạp chí thời trước 1945, nhưng lại không ghi “nguồn”. Do đó, không thể biết bài báo đó, in báo nào, phát hành ngày tháng nào? Khó có thể gọi là chứng cứ đáng tin cậy, chỉ dành tham khảo. Thật đáng tiếc. Điều này cũng bình thường, người sưu tập không có tư duy của nhà nghiên cứu.
Tờ lịch công bố trên facebook cũng vậy thôi. Mà sáng Mồng Một Tết, vô phước cho ai lật phải loại lịch đó, đọc dòng chữ đó, xem như “rông” cả năm!
L.M.Q
Cuối năm rồi. Sáng, họp tổng kết cơ quan. Nhiều tờ báo đã phát hành số báo tất niên. Một năm đi qua. Chưa kịp làm gì đã “ba vạn sáu ngàn ngày là mấy”. Ngẫm nghĩ, chỉ mới đầu năm đã có nhiều quan chức phát ngôn vô tội vạ. Cứ xem người dân chỉ là đứa trẻ con, dễ xoa đầu, dốt nát nên họ ra rả chẳng ngượng mồm. NLĐO ngày 13.1.2014 đã đưa tin: “Không đâu chăm lo mầm non tốt như nước ta!"- Phó Giám đốc Sở GD-ĐT TP HCM Nguyễn Tiến Đạt nhận xét như vậy tại buổi làm việc với huyện Bình Chánh về công tác chăm sóc, giáo dục, bảo vệ trẻ em và xây dựng, phát triển, quản lý trường mầm non vào sáng 13.1”.
Thoáng đọc, đã sốc.
Báo NLĐ số ra ngày 16.1.2014 trở lại với thông tin trên, mục Bạn đọc viết có bài Hãy thôi lạc quan tếu của Hiếu Nghi, mở đầu (nguyên văn): “Không ở đâu lo cho mầm non tốt như nước ta”. Câu nói này của một vị phó giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo TP HCM làm nhiều người bất ngờ. Sau hàng loạt vụ “tra tấn” học sinh tại một số nhà trẻ và tình trạng chạy trường, chạy lớp ở bậc mầm non mà vị cán bộ này còn đưa ra một nhận xét như thế quả là vừa khôi hài vừa mỉa mai”. Khi bài báo này post lên NLĐO, lập tức có một loạt comment như sau:
“Không biết vị này có đi tìm hiểu thực tế ở các nước phát triển không mà phát biểu vậy; Chắc chắn ông này trước kia làm ở công ty quảng cáo chuyên về mảng THỰC PHẨM CHỨC NĂNG nên mới mạnh miệng như vậy; Ông phó giám đốc này ít đọc báo nhỉ; Sáng cắp ô đi, tối cắp về nên có biết gì đâu. Không nắm rõ được nhưng không lẽ họp thì không phát biểu!? Nghĩ rằng phát biểu ở huyện ngoại thành thì có ai biết được. Nào ngờ!; Chỉ có thể nói ông này "ếch ngồi đáy giếng";
"Không đâu chăm lo mầm non tốt như nước ta!" câu nói này rất đúng. Trên thế giới có nơi nào mà trẻ em "được" bảo mẫu chăm sóc "tận tình" đến nỗi tát, đấm, bóp cổ, nhét vào thùng phi nước, giẫm đạp đến chết như ở Việt Nam?; Nguyên văn câu này là "Không đâu chăm lo mầm non như nước ta!"; Đề nghị đưa lời phát biểu này vào danh sách những câu nói hay nhất năm 2013; Táo giáo dục tết này có cái mà báo cáo rồi;
Chừng nào còn những ông cán bộ như ông Đạt này nước Nam này còn khổ. Tôi chỉ là nông dân chưa được đi ra nước ngoài nhưng chỉ cần đọc mạng cũng thấy GD ở họ tiến xa hơn mình; Sáu tui nghĩ, ông phó GĐ này nên chuyển qua làm diễn viên hài đạt hơn là Phó GĐ một sở GD ở một thành phố lớn như TPHCM!; Cảm ơn tác giả bài báo đã đem lại tiếng cười cho mọi người nhân dịp đầu năm; Bây giờ thì tôi đã hiểu tại sao lớp trẻ nước ta không khá lên nổi; Bây giờ mình mới hiểu tại sao nền giáo dục Nước ta "có vấn đề"; Nghe xuân sang đọc tin nầy muốn "Ứa Gan". Cám ơn ông Phó Giám đốc Sở GD-ĐT TP HCM Nguyễn Tiến Đạt đã cung cấp chất liệu để các còm sỹ múa bút trước thềm năm mới;
Tôi từng có một thời gian gởi con (3 tuổi) ở quận, quá biết con mình bị như thế nào, vậy mà dựa vào đâu ổng lại phát biểu như vậy. Thật hết biết; Phó GD sở GD mà phát biểu chủ quan quá. Ở Nhật, trường mầm non công lập nhận trẻ từ 60 ngày tuổi kia kìa. Và cũng không có chuyện đánh đập trẻ đâu nhé; Cảm ơn tác giả đã cho độc giả một câu chuyện vui đầu năm; Ông này hài hước thật.;
"Không đâu chăm lo mầm non tốt như nước ta" nghe câu này mình thấy mắc cỡ quá; Đọc cứ thấy như đang đọc truyện hài vậy!; Đọc xong cái tựa đề thì ....mắt chữ Ô, mồm chữ O luôn! Híc!; Ông này, đọc báo cáo dưới cơ sở gửi lên đúng lúc có cuộc họp phát biểu luôn cho nó sướng cái miệng. Chứng tỏ, anh này rất ít đi xuống cơ sở các cháu! Nên phát biểu "hớ" là chuyện không trách khỏi, cho thấy khả năng lãnh đạo của ông này còn nhiều hạn chế, chưa sâu sắc hết những mặt được và những mặt chưa làm được của ngành mình quản lý.
Nên mới phát ngôn như vầy!; Ở nước ngoài không có trường công lập cho trẻ dưới 3 tuổi, còn ở VN trên 3 tuổi cũng đừng mơ được vào trường mẫu giáo công lập; Theo tui nên trao danh hiệu: "Nổ nhất Thế Giới"! Nổ quá mấy bố ơi, làm ơn đừng nổ nữa...dân khổ lắm mà mấy bố cứ nổ hoài; Chắc Danh hài Trung Dân có thêm tiểu phẩm BA PHI làm GS tâm lý; Tui muốn con tui được chăm sóc ở nước kém hơn, như Singapore chẵng hạn. Ông gì ơi, giúp tui với!; Lại thêm một phát biểu ... dạng AQ!;
Phải nói ngược lại rằng" Không đâu chăm sóc trẻ em sốc như ở nước ta". Chưa có tiền ăn Tết nhưng nghe vậy sướng quá hết muốn ăn luôn rồi!; Này 13-01 mà ông ấy tưởng ngày 01-04 (cá tháng tư); Ông này hình như không đọc báo; Xin hỏi có bao nhiêu % trẻ em Việt Nam dưới 3 tuổi được học trường công lập; Tại một lớp mầm non ở Việt Nam, cô giáo đang thao thao "các con ạ, trường mầm non ở Việt Nam tốt nhất thế giới, trẻ em được chăm lo chu đáo, được các cô yêu thương..v.v". Bỗng Trò bật khóc hu hu. Cô giáo: "Tại sao con khóc?" "Thưa cô, con muốn sống ở Việt Nam"; NS Hoài Linh đang tấu hài hả?;
Nên để chữ tốt trong ngoặc kép: Không đâu chăm lo mầm non "tốt" như nước ta!; Thiệt hông vậy các bác? tui nghe tin trẻ mầm non VN mình được chăm lo tốt nhất...thế giới tui hãnh diện mừng quá trời... muốn té ghế luôn vậy đó. Vậy là VN mình thuộc hàng top thế giới, giáo dục tiểu học và mầm non của ta đáng để thế giới học tập và noi gương rồi nhé; Không rõ ông căn cứ vào cuộc bình chọn nào mà nhận định như thế?; Thật hết biết ;
Chắc vị này phát biểu trong tình trạng không được "tỉnh", chứ đúng ra phải là: "Không đâu chăm lo mầm non theo kiểu nước ta". Vì muốn vào được trường công thì phải "mua", còn không thì xếp hàng từ ngày hôm trước theo kiểu mua thực phẩm của thời bao cấp để đăng ký mà chưa chắc có được vào; Các cơ sở nuôi dạy trẻ không phép, các cô bảo mẫu ưa bạo lực với...bé chắc là vui với lời nhận định này của PGĐ Sở lắm đây; Bạo hành trẻ mầm non liên tục được phát hiện mà phát biểu như vậy! Ông này chấp nhận bạo hành trẻ em như vậy và cho là chăm sóc tốt nhất thế giới à! Thay ông này qua đơn vị khác công tác đi; Chắc ông này nói đùa đó quý vị";
"Không đâu lo cho mầm non tốt như nước ta", thế này thì ông Trần Đăng Tuấn (nguyên phó TGĐ VTV) và Quỹ từ thiện " Cơm có thịt" do Ông và các người bạn lập ra để chăm lo cho các bé ở vùng sâu vùng xa chắc là phải giải tán?; Nhận xét của ông này làm tôi nhớ lại cách mà một đại biểu HĐND đã từng so sánh 1 kg rau muống khi mua bằng tiền đồng ở Việt Nam và bằng đô la khi mua ở Mỹ. Rồi phán rằng tiêu dùng bên Việt Nam rẻ hơn!; Tự sướng đầu năm!;
"Không đâu chăm lo mầm non tốt như nước ta!" “Lần đầu tiên học sinh Việt Nam tham gia chương trình đánh giá PISA (2012) và xếp thứ 8 về Khoa học, thứ 17 về môn Toán và thứ 19 về môn Đọc hiểu trong số 65 quốc gia và vùng lãnh thổ, kết quả này đã gây bất ngờ cho cả thế giới”.Theo đánh giá PISA (2012). Vì vậy học sinh VN mới có một kết quả như ngày hôm nay - NGƯỜI DÂN TUI HƠI BỊ BẤT NGỜ;
Không đâu chăm lo mần non tốt như nước ta. Đúng là một câu phát biểu TỰ SƯỚNG và không biết NGƯỢNG MIỆNG;Có thì nói không thì thôi chứ hổng ai ép;
"Không đâu chăm lo mầm non tốt như nước ta!" - Làm như ở Việt Nam không có ai đi nước ngoài nên các vị muốn nói gì thì nói?; "
không đâu chăm lo mầm non tốt như nước ta " rất đúng... Có lẽ họ chăm sóc tốt hơn hoặc xấu hơn chứ không như mình; Việt Nam chúng ta thì cái gì cũng nhất thế giới; Cụ này làm như chẳng ai có con gởi nhà trẻ, và cũng chẳng ai biết những nước phát triển nó ra sao. Cười không nỗi với cụ luôn!; Câu nói này sẽ được đưa vào kỷ lục Guinness là câu nói giả tưởng nhất thế giới! Nghe mà mắc cỡ quá!;
"Không đâu chăm lo mầm non tốt như nước ta!" Nói hổng biết ngượng và mắc cở là gì?; Nhờ chăm lo tốt nên các cháu được bảo mẫu "tra tấn" đều đều; "
Không đâu chăm lo mầm non tốt như nước ta!". Có thể đây là mong ước của ông Phó Giám đốc Sở, nhưng thực tế ở mình chưa được như vậy đâu ông ơi! Các còm nào có con cháu gửi mầm non ở các nước phát triển hãy cung cấp thêm thông tin để so sánh, đánh giá cho khách quan; Các bác cứ nói đùa làm tôi xém bật ngữa; Cá tháng 4. Đọc xong cừoi mãi ...;
"Không đâu chăm lo mầm non tốt như nước ta!"(Ông Nguyễn Tiến Đạt). Chỉ đơn cử ở huyện Bình Chánh cho ông Đạt biết vì ông phát biểu ở buổi họp này. Để ông có cơ sở nhận xét, phát biểu ở cấp Quốc gia(!) Xin trích bài báo: "trên địa bàn huyện vẫn còn tồn tại 52 cơ sở, trường mầm non hoạt động không phép với 99 lớp và 2.056 học sinh", "đội ngũ nhân lực để phụ trách chỉ có 115 giáo viên, công nhân viên và 135 bảo mẫu hợp đồng thay cho số giáo viên còn thiếu hiện nay. Mặt khác, trình độ cũng là điều đáng báo động khi chỉ có có 13/52 chủ cơ sở học lớp quản lý".(Bà Thái Thị Hồng Mai phó BT Huyện Ủy Bình Chánh).“Có một thực tế là dù biết không an toàn nhưng phụ huynh không biết gửi ở đâu nữa. Phụ huynh ai không muốn gửi con ở chỗ an toàn, chỗ tốt nhưng họ không còn cách nào khác” (Ông Lê Văn Hòa Bí thư Huyện ủy Bình Chánh); Câu nói đầu năm "hay" nhất; Lại seri tự thẩm "ta mà đứng thứ hai thì không ai dám đứng nhất" của các quan chức; Một phát biểu chính xác trước thềm năm mới âm lịch;
"Không đâu chăm lo mầm non tốt như nước ta". Ai không tin cứ hỏi các cháu bé mẫu giáo (Nhớ cầm theo gói kẹo); Thật không vậy? còn những bé ở vùng sâu vùng xa thì sao? Đúng là ở những nước phát triển trẻ dưới 5 tuổi gửi đi học thì gần như mất đứt một đầu lương, vì vậy người mẹ thường nghỉ ở nhà chăm sóc con những năm đầu đời, nhưng lương người bố có thể đủ cover cho cả nhà, hơn nữa hàng tháng nhà nước trợ cấp tiền sữa, tã cho các bé vài trăm đô la mỗi tháng! Đừng nên so sánh như vậy ông Đạt ạ, quan trọng là chất lượng nuôi dậy và chăm sóc trẻ em của VN đến đâu, chính sách đối với nhứng gia đình có thu nhập thấp ra sao...;
"Không đâu chăm lo mầm non tốt như nước ta" - tự nhiên tôi cảm thấy lo lắng khi đọc lời nà; Ông bạn này chắc mới đi thăm châu Phi về; Bó tay! Lãnh đạo ngành giáo dục thành phố mà như sống trên mặt trăng. Địa phương người ta lo 'sốt vó" với tình hình bảo vệ và chăm sóc trể em, ông này lại tự hào và so sánh một cách không căn cứ với các nước phát triển...; Trời ơi là trời! Xin lỗi ông đã đi tham quan được mấy nước tiên tiến mà phát biểu hay quá vậy? Xin cảm ơn ông, bởi con cháu tui ở Nhật, Canada, Phần Lan... nó "khổ" lắm ông ạ, thua xa con nít của ta!; Lại tự sướng! Nổ;
Hiện nay "Không đâu chăm lo mầm non tốt như nước ta!" và cũng chưa có nơi nào trên thế giới hành hạ trẻ em như ở các trường mầm non của nước ta, ý ông muốn nói thế phải không ông PGĐ Sở?;
Không đâu chăm lo mầm non tốt như nước ta! lời ông Nguyễn Tiến Đạt thật khôi hài, tốt hay không thì ai cũng biết cả rồi, giống như trước đây người Việt Nam hạnh phúc đứng thứ hai thế giới vậy; Ông Nguyễn Tiến Đạt chỉ...góp vui trong buổi họp!; Ông này nói liều qúa đi; Xem xong tự nhiên thấy mắc cỡ!; Một trường mầm non mọc lên đâu phải nhỏ như cái phòng trọ, vậy mà không giấy phép vẫn hoạt động; Căn cứ tiêu chuẩn nào mà ông GĐ Sở dám khẳng định như thế?; Ông Đạt nói không đúng: trẻ em chết ở bệnh viện, bảo mẫu hành hạ trẻ em, trẻ em bị bắt cóc... .vậy mà dám nói "Không đâu chăm lo mầm non tốt như nước ta!", bó tay ông này thật!;
"Đi cho biết đó biết đây, ở nhà tự sướng biết ngày nào khôn”; Ông này hình như chưa biết mấy vụ ở Thủ đức, trong khi lãnh đạo quận đã báo cáo rất rõ là 52 cơ sở mầm non hoạt động không phép với hơn 2 ngàn cháu nhỏ đang theo học. Bệnh thành tích của ngành giáo dục hết thuốc chữa rồi, làm ở Việt Nam mà nói chuyện bênh tây. Mong chính phủ siết chặt việc mấy quan lấy tiền ngân sách đi nước ngoài để mấy quan tâp trung vô chuyên môn; Anh căn cứ vào đâu mà phán 1 câu chắc nịch "Không đâu chăm lo mầm non tốt như nước ta"? Mình chỉ thích người im lặng mà làm, chứ kiểu này, chịu thôi;
Rồi đây giáo dục VN sẽ nhất thế giới; Chăm lo mầm non tốt nhất TG ư? Thế thì có đủ trường mầm non công lập cho các cháu vui chơi không? Công nhân, lao động thu nhập thấp đành gửi trẻ tư khiến các cháu bị tra tấn, đánh đập như con thú mà báo chí đã đăng là sao?; Các bác đang "tự sướng"!;
Không đâu "phát biểu tốt" như Phó Giám đốc Sở GD-ĐT TP HCM Nguyễn Tiến Đạt nước ta!; Phải thêm từ "Hình như" vào trước câu nói của ông Phó Giám Đốc Sở GD-ĐT thì mới xác thực, đúng với tình trạng trường mầm non của ta”.
Nhật ký của ngày hôm nay ghi lại để thấy não trạng thời đang sống.
Cái thời gì mà lạ lùng quá. Con người ta chẳng dám nói thật. Nhìn vào sự thật. Cứ vỗ về mơn trớn nhau mãi. Chỉ thích được khen. Khen là phổng mũi. Sướng rơn. Bằng mọi cách để được khen. Có nữ tiến sĩ nọ, chẳng nhắc tên làm gì, cô ta còn sờ sờ ra đó, vốn chánh chủ khảo cuộc thi hoa hậu tầm cỡ quốc tế, vừa qua đã gây quá nhiều tai tiếng, rất thích được nhận bằng khen. Năm vừa rồi, cô ta quyết phải được nhận bằng khen của một cơ quan đoàn thể tại TP.HCM nhằm chứng minh tiết hạnh khả phong, công dung ngôn hạnh, nuôi con giỏi dạy chồng ngoan. Thế nhưng do cô ta chẳng hề sự đóng góp gì cho sự tiến bộ của nữ giới thì hội đoàn khen làm sao? Ấy mà vẫn được khen. Bởi nữ tiến sĩ này “chạy” tít ngoài Hà Nội, chẳng rõ "nhờ cậy" thế nào mà cấp trung ương của cơ quan đoàn thể này chỉ đạo phải ra bằng khen!
Chẳng rõ khi đọc các comment của bạn đọc, ông Phó Giám đốc Sở GD - ĐT TP HCM Nguyễn Tiến Đạt có suy nghĩ gì không? Nếu có, tốt quá. Chỉ sợ là không!
Ngày trước, tiếp cận một thông tin, chỉ dăm ba người chia sẻ. Nay đã khác. Sự ra đời của báo điện tử khẳng định thế mạnh của sự tương tác giữa bạn đọc và tác giả bài báo. Bao giờ báo giấy sẽ cáo chung? Điều đó có xẩy ra không? Trong Hội nghị báo chí toàn quốc triển khai nhiệm vụ trọng tâm năm 2014 tổ chức chiều ngày 14.1.2014: “Theo ông Nguyễn Thành Hưng, Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông, đến hết tháng 12.2013, cả nước có 838 cơ quan báo in; 92 báo, tạp chí điện tử và 67 đài phát thanh, truyền hình, 1 hãng thông tấn quốc gia. Hiện có khoảng 35.000 người làm trong lãnh vực báo chí, trong đó có 17.000 người được cấp thẻ nhà báo” (báo NLĐ ngày 15.1.2014). Nhiều vấn đề đặt ra trong Hội nghị này là “chấn chỉnh báo chí giật gân, câu khách”. Thử hỏi, ai cấp giấy phép cho các loại báo đó?Chẳng lẽ báo lậu không có ai cấp phép? Vô lý!
Mà, đang nói đến chuyện “giật gân, câu khách”, thời sự nhất vẫn là vụ mà báo Người đưa tin bị kiện bởi bôi nhọdanh dự chị Việt kiều Phạm Thị Thanh Ngọc. Ai đời cái kiểu làm báo gì khốn nạn quá. Chỉ nghe thông tin một chiều, nghe từ mấy tay tài xế rồi vu cho chị này “kiều nữ Hải Dương”, đã cưỡng hiếp hàng loạt tài xế taxi. Suốt mấy số báo liền làm nhục người ta. Có điều lạ, chủ xị hãng taxi Mai Linh ở Hải Dương chỉ trả lời nửa nạc nửa mỡ. Không khẳng định tài xế của họ là nạn nhân hay dựng chuyện? Họ bàng quan ngoài cuộc. Vậy đâu là đạo đức kinh doanh? Có phải chiêu trò P.R không? Chưa có chứng cứ, đừng vội kết luận. Chỉ hỏi, có nên đi taxi mà bọn tài xế mồm loa mép dãi như thế không? Nghĩa là bất kỳ động tĩnh gì của khách, nó đều mách cho bọn nhà báo "hê" lên cơ quan truyền thông đại chúng. Đúng sai chưa biết, nhưng ai cho phép rêu rao về khách hàng? Cha nó lú thì chú nó khôn. Trường hợp này, sếp nó ở đâu không dạy nó, chấn chỉnh nó? Hóa ra kỹ cương, nội quy lỏng lẻo đến thế à? Vậy có nên đi taxi của cái hãng vô trách nhiệm này không? Nghe câu hỏi này, đứa trẻ vừa lọt lòng mẹ cũng cương quyết rằng "không". Vụ này, cùng lắm, nếu thua kiện, cánh nhà báo "đính chính", "nói lại cho rõ" là xong. Cái mất lớn nhất, lâu dài nhất là hãng taxi có bọn tài xế mồm mép tép nhảy, toang toác, bô hô ba la, mồm dài đến mang tai sẵn sàng mách lẻo chuyện của khách từng đi xe cho thiên hạ đàm tiếu chơi....
Chiều nay, tay Tổng Biên tập Nguyễn Tiến Thanh chối béng! Chuyện lằng nhằng. Không đi sâu. Để xem vụ kiện này thế nào. Làm báo kiểu đó, nghĩ sâu xa là họ đang nỗ lực nhằm làm sống lại, nhằm chứng minh "giá trị" của câu biếm nhẽ “nhà văn nói láo, nhà báo nói thêm” trong thời buổi này.
Ô hô!
Chị Phạm Thị Thanh Ngọc - người kiện báo Người đưa tin
L.M.Q
Sài Gòn chuyện đời của phố (NXB Hội Nhà văn) của Phạm Công Luận
Sáng nay, 8g 30 có cuộc ra mắt sách mới ở Nhà sách Cá chép; 9 g 30, liên hoan cuối năm, trao giải và kết nạp hội viên mới tại Hội Nhà văn TP.HCM. Chần chừ không muốn đi. Đi hay không là tùy thích, thế nhưng vẫn áy náy. Liền tìm một lý do nào đó. May quá, check email: “Em muốn có cuốn này, với chữ ký và thủ bút tác giả, đề tặng tên em nha, không phải tên anh em nhờ anh vì biết anh quen tác giả
”. À, tập sách Sài Gòn chuyện đời của phố của bạn Phạm Công Luận. Vin vào lý do này, hợp lý quá, phải không?. Đã lâu không đi lại đường Lê Văn Sỹ. Không đi ngang qua nhà thờ Vườn Xoài. Hẻm bên hông nhà thờ, đi sâu vào chừng vài trăm mét, rẽ trái, đi thẳng nữa là đến nơi y ở trọ thời chân ướt chân ráo kiếm sống tại Sài Gòn. Hình ảnh thánh thiện, trong sáng, tốt tươi nhất là những lúc đi chơi về khuya, chừng 4 giờ sáng đã thấy bà cụ chủ nhà nền nã áo dài trắng đi lễ. Lúc bà cụ ra nhà thờ Vườn Xoài, y chui vào “hộp diêm” ngáy khò khò. Căn phòng này đã đi vào thơ của y, từ năm 1989, in trong tập thơ Ngày mai còn lại một mình tôi:
căn phòng như hộp diêm
bốn bức tường xám xịt
nhện về giăng tơ đầy
khói thuốc đông đặc lại
ám vàng những ngón tay
anh xé toạc tờ lịch
thầm mong hết một ngày
một ngày em đã đến
thắp sáng lại trái tim
căn phòng anh mở cửa
trời xanh đã ùa vào
anh hôn vào ngọn lửa
từ môi em ngọt ngào
anh hết những xanh xao
trang giấy thôi vàng úa
Kỷ niệm đã đi qua. Thời gian đã quá cố. Chỉ còn lại chút êm đềm cũ. Lãng quên. Đến thăm Luận. Tòa soạn báo Sinh viên Việt Nam, đối diện nhà thờ Vườn Xoài. Hình ảnh nhà thờ, chùa chiền, trường mẫu giáo... luôn gợi cho con mắt cái nhìn sự thanh thản, hướng thiện. Bước lên cầu thang. Vào phòng máy lạnh. Uống trà. Gặp Luận. Trò chuyện. Hỏi, vì sao viết tập sách này. “Tôi thích câu nói của một nhà văn, hãy viết những gì mình thích đọc”. Khi tìm đọc về Sài Gòn, thấy chưa nhiều người viết, Luận bắt tay viết. Hỏi, ai trình bày đẹp thế này? “Vợ mình. Cô ấy lên mạng mày mò tự học, mua font chữ và trình bày luôn”. Sách viết về Sài Gòn chưa nhiều. Có thêm một tập là vui. Chúc mừng bạn mình. Tập sách này có nhiều hình ảnh về Sài Gòn xưa. Ba của Luận người Cù lao phố Đồng Nai, mẹ người Gia Định. Mấy đời ở Sài Gòn. Do đó anh lợi thế về tư liệu và nhất là tình yêu dành cho Sài Gòn. Đọc hấp dẫn.
Dừng lại với những trang viết về tờ báo Thiếu Nhi trong tập sách của Luận. Thế hệ của y gắn bó với tờ báo này. Dành nhiều tình cảm với những người chưa gặp như vợ chồng nhà văn Nhật Tiến, Đỗ Phương Khanh; họa sĩ Vi Vi; ông Nguyễn Hùng Trương, chủ nhà sách Khai Trí - người bỏ vốn làm tờ Thiếu Nhi… Sau năm 1975, lần đầu tiên vào Sài Gòn, tự hứa sẽ tìm đến tòa soạn báo ở 159 Thiệu Trị, Phú Nhuận, Sài Gòn. Địa chỉ này, y đã ghi quá nhiều lần ngoài thư, lúc gửi thơ cộng tác. Ghi nhiều đến nổi nay vẫn thuộc lòng. Chỉ dám đi ngang qua. Quay ngược lại. Rón rén nhìn vào. Thập thò ngó vào. Rồi bước qua luôn. Sau này thấy tiếc bởi rụt rè, nhút nhát quá. Năm ấy, chưa đến 18 xuân xanh, cứ nghĩ gặp được những tên tuổi trên là tim đập thinh thịch. Ngày tháng qua nhanh. Thoáng đó. Đã già. Sau này, gặp nhiều bạn trẻ, họ kể, trước đây nhiều lần thấy anh, định đến chào làm quen nhưng lại không dám. Nghe câu nói ấy, lại nhớ thời đi học, thời còn mê đắm trong sáng với văn chương. Thoáng đó. Đã xa.
Trên đường đến cơ quan, có cú điện thoại của người bạn. Người bạn này giới thiệu người bạn của bạn, Việt kiều ở Úc, nhờ biên tập, viết tựa giúp tập thơ đầu tay. Chẳng lẽ từ chối?
Hôm qua check mail, một anh bạn nhà văn viết: “Tôi vừa đọc báo Xuân Phụ Nữ TP.HCM, học được một từ cũ mà “mới”. Trong bài Quân tử cầm ở Chắc Cà Đao, nghệ sĩ ưu tú đàn ca tài tử Nguyễn Thiện Vũ cho biết: Anh là “con dòng”, chứ không phải “con cửi”. “Con cửi” là con ngang hông. Còn anh xuất thân từ dòng họ có nghề. Tại sao gọi “con cửi”? Có phải lấy hình ảnh từ con thoi trên khung cửi, chỉ chạy “ngang hông” chứ không chạy dọc? Có cách giải thích nào khác không, xin cám ơn”.
Câu hỏi này, trả lời thế nào? “Con dòng” nói cách khác là “con nhà nòi”. “Dòng” và “nòi” cũng hàm một nghĩa. Ý kiến của anh bạn nhà văn hợp lý không? Xin nêu ra, ai biết giải thích giúp. Riêng y, thú thật rất ấn tượng với địa danh Chắc Cà Đao - tên con rạch đổ ra sông Hậu. Trong Tự vị tiếng Miền Nam, cụ Vương Hồng Sển áng chừng, “đúng ra phải viết “chắp kdam”. Theo cụ, từ điển Pannetier giải thíchì “chắp” là “bắt” (attraper) và “kdam” là cua (crabe); xưa vùng này cua biển nhiều. Vì lâu ngày nói trại, thành quen, mất gốc”. Trong Lịch sử khẩn hoang miền Nam, nhà văn Sơn Nam cho rằng: “Chắc Cà Đao”: do tiếng Prek Pedao, rạch có mây rừng mọc”. Vậy cách giải thích nào đúng? Về địa danh, khó có thể có tìm hiểu tận tận gốc. Đôi khi tên gọi lại đơn giản. Trong tập Sài Gòn chuyện đời của phố, Phạm Công Luận xem từ gia phả của một dòng tộc, tộc Nguyễn từ Đàng Ngoài vào Sài Gòn từ hơn 200 năm trước, cho biết Ngã tư Bình Học (Lê Quang Định - Nguyễn Văn Học) “ngày xưa còn gọi Ngã tư thầy Sóc”. Tên riêng? Đúng rồi. Nhưng tên thật của ông này là Nguyễn Văn Sách, người dân gọi trại ra là Sóc. Rắc rối chưa?
Chưa. Còn nữa nè. Email của nàng past bài viết cũng liên quan dến chuyện chữ nghĩa. Cuối bài này có ghi “(trich TrieuThanh Magazine). Nguyên văn như sau:
“Trong ngôn ngữ giao tiếp và hành chính của người Việt chúng ta hiện nay, nhiều từ đã bị sử dụng không chính xác, bị biến nghĩa hoặc ghép từ một cách kệch cỡm. Điều này thể hiện tư duy tạm bợ và tinh thần thiếu trách nhiệm trong sử dụng ngôn từ. Việc đưa ra những khái niệm không chính xác này tạo thành một thói quen chấp nhận sự mù mờ trong định nghĩa từ, dễ gây hiểu lầm và tranh cãi, khiến cho văn bản kém tính chính xác. Đây là một bài chúng tôi sưu tầm, liệt kê các trường hợp sử dụng từ sai trong tiếng Việt hiện nay.
1.-Sai vì không hiểu nghĩa gốc Hán Việt.
CHUNG CƯ. Từ kép nầy được thành lập theo văn phạm Hán Việt vì tính từ đứng trước danh từ cho nên cả 2 từ phải đều là Hán Việt. Thế mà từ chung Hán việt không có nghĩa là chung chạ mà có nghĩa là cuối cùng. Vậy chung cư 終居 không phải là nơi nhiều người ở chung mà là nơi ở cuối cùng, tức là mồ chôn hay nghĩa địa. Vậy phải đổi từ chung cư thành chúng cư 衆居 thì mới ổn.
KHẢ NĂNG. “Khả năng” 可 能 là năng lực của con người, có thể làm được việc gì đó. Thế mà người ta đã viết và nói những câu đại loại thế nầy: “Hôm nay, khả năng trời không mưa. Khả năng con bò nầy sẽ chết vì bị bệnh”… Nghe thực là kỳ cục và đáng xấu hổ. Tôi cho rằng, người ta đã nhầm lẫn giữa hai từ khả năng 可 能 (capacité, capable) với khả dĩ 可 以 (possibilité, possible). Nhưng thôi, chúng ta nên dùng từ thuần Việt là có thể, đúng và dễ hiểu, còn từ khả năng chỉ nên dùng để nói về năng lực con người mà thôi.
QUÁ TRÌNH. Quá 過 là đã qua, trình 程 là đoạn đường. Quá trình là đọan đường đã đi qua. Nói thế nầy là đúng: “Quá trình thực hiện công việc đã gặp nhiều trở ngại. Nhưng tôi lại thấy trong sách báo câu đại loại thế nầy: “Quá trình thực hiện công tác sắp tới của tôi là sẽ rất thuận lợi”.Thực là sai lắm rồi. Trong trường hợp nầy, phải dùng chữ tiến trình, đúng cho cả 3 thì quá khứ, hiện tại và tương lai.
HUYỀN THOẠI. Người viết, kể cả những người có bằng cấp cao, không chịu học tiếng Hán, mà lại thích dùng tiếng Hán để tỏ ra “ta đây” nên nhiều tiếng được dùng sai nghĩa một cách thực buồn cười. Thí dụ, tôi rất thường nghe đài truyền hình, truyền thanh và báo chí nói “huyền thoại Pelé” “huyền thoại Maradona”.. Người có học nghe thực chướng tai, nhưng người nói chẳng ngượng miệng chút nào. Tại sao nghe chướng tai? Huyền 玄 là màu đen, nghĩa bóng là sâu xa, mờ ảo, không có thực. Thoại 話 là câu chuyện. Vậy huyền thoại là câu chuyện mờ mờ ảo ảo, không có thực, do truyền miệng mà ra. Thí dụ chuyện bà Âu Cơ đẻ ra trăm trứng, chuyện ông Thánh Gióng cỡi ngựa sắt đi đánh giặc Ân là những huyền thoại. Đằng nầy, ông Maradona, ông Pélé có thiệt 100% sao gọi là huyền. Và 2 càu thủ đó là con người sao gọi là thoại được. Nếu muốn dùng chữ huyền thoại để đề cao 2 cầu thủ đó thì phải nói thế nầy: “Cái tài của 2 ông nầy tưởng như chỉ có trong huyền thoại”. Ông bà mình thường nói: “Dốt thì hay nói chữ, có đúng trong trường hợp nầy hay không?”
HÔN PHU, HÔN THÊ. Hôn là cưới, phu là chồng, thê là vợ. Trong chữ phu và chữ thê đã có nghĩa của chữ hôn rồi cho nên gọi hôn phu và hôn thê là để chỉ người chồng người vợ là phi lý. Gọi hôn lễ (lễ cưới) hôn phối (lấy nhau) thì được. Còn nói hôn phu, hôn thê thì có thể hiểu 昬夫,昬妻 là nguời chồng u mê, người vợ u mê cũng như nói hôn quân 昬君 là nhà vua u mê vậy.
2. Sai vì cố ý sửa nghĩa gốc Hán Việt
ĐỘC LẬP. Độc 獨 là riêng một mình, Lập 立 là đứng. Vậy theo nghĩa gốc Hán Việt, độc lập là đứng riêng rẻ một mình, không đứng chung với ai cả. Rõ ràng từ nầy là sai nếu dùng để diễn tả tình trạng của một quốc gia không lệ thuộc nước khác. Ngày nay, các quốc gia như thế đâu có đứng riêng một mình mà đều có liên hệ với nhau trong các tổ chức quốc tế. Vậy từ độc lập là sai. Tôi thấy Cụ Trần Trọng Kim, Cụ Dương Quảng Hàm dùng từ tự chủ để thay thế từ độc lập. Như thế là rất hay. Có người bảo với tôi rằng từ độc lập là do ông Tôn Dật Tiên đặt ra nên không thể bỏ được. Tại sao vậy? Ông Tôn Dật Tiên thì liên quan đến ngôn của Tàu chứ có liên quan gì đến ngôn ngữ Việt Nam. Tàu dùng sai thì chúng ta đâu có buộc phải theo cái sai của họ.
PHONG KIẾN.封建 Phong kiến gồm 2 chữ phong tước 封爵 (ban quan tước) và kiến địa 建地 (ban đất để dựng nước). Phong kiến chỉ chế độ hoàng đế phong tước cho người có công và cấp cho một vùng đất rất rộng để thành lập quốc gia, với quân đội, luật lệ và chế độ thuế má riêng biệt. Chế độ nầy hiện hữu ở đời nhà Chu bên Tàu với nước của thiên tử và nước của các chư hầu; từ nhà Tần trở đi thì chế độ phong kiến bị bị bãi bỏ và được thay bằng chế độ trung ương tập quyền. Chế độ phong kiến cũng tồn tại ở vài nước Âu châu như Pháp, chỉ vào thời Trung cổ mà thôi. Ở Việt Nam không bao giờ có chế độ phong kiến (féodalité) mà chỉ có chế độ quân chủ chuyên chế (royalisme absolu) mà thôi. Gọi chế độ quân chủ ở Việt Nam bằng từ phong kiến là sai. Có tài liệu còn bảo rằng sự cúng tế đình chùa là tàn tích của phong kiến thì càng sai hơn nữa.
TIÊU CỰC, TÍCH CỰC 消極, 積極 Hiện nay, người ta gán vào hai từ nầy ý nghĩa tốt xấu hết sức rõ rệt. Hành động nào tốt thì được gọi là tích cực; trái lại, hành động xấu thì gọi là tiêu cực. Thực ra, suy từ nghĩa gốc Hán Việt thì sự gán ép như thế là sai. Tich cực, tiêu cực tự nó không có sẵn tính chất tốt hay xấu mà chỉ ấn định cường độ của hành động mà thôi. Thí dụ, trong một đoàn đi làm việc phước thiện thì ai tích cực là tốt và ai tiêu cực là không tốt. Nhưng trong một bọn côn đồ đi tổ chức ăn cướp thì đứa nào tích cực lại là đứa xấu nhất. Trong truyện Tam quốc của Tàu, Từ Thứ, mưu sĩ của Lưu Bị bắt buộc phải về phục vụ dưới trướng của kẻ thù là Tào Tháo. Từ Thứ đã giữ thái độ tiêu cực nghĩa là không hiến mưu kế gì cho Tào Tháo. Thái độ tiêu cực nầy của Từ Thứ, từ cổ chí kim luôn luôn được khen ngợi; vậy tiêu cực có xấu đâu.
3.- Sai vì không phân biệt được tiếng Hán Việt với tiếng thuần Việt (tiếng Nôm).
QUỐC GIỖ. Tôi có đọc được câu nầy: “Ngày giỗ tổ Hùng vương là ngày quốc giỗ”. Nói như vậy là sai. Giỗ là tiếng Nôm chứ không phải là tiếng Hán Việt nên không thể đặt sau tiếng quốc được. Hãy bỏ tiếng ngày quốc giố mà dùng tiếng thuần Việt là ngày giỗ cả nước, vừa đúng, lại vừa dễ hiểu, Nơi tiếng Hán, ngày giỗ là kỵ nhật 忌日.Ở một vài tỉnh của Trung Việt, người ta gọi ngày giỗ là ngày kỵ. Ta nên dứt khoát chỉ dùng từ Nôm là ngày giỗ để cho thống nhất toàn quốc.
GÓA PHỤ. Tôi đã gặp vài lần chữ góa phụ trong sách vở báo chí để chỉ người đàn bà có chồng đã chết. Gọi như thế là sai vì tính từ góa là tiếng Nôm, không thể đặt trước danh từ phụ được. Phải gọi người đàn bà góa (toàn Nôm) hay người quả phụ (toàn Hán Việt) thì mới đúng.
ĐỆ NHẬT THÁC. Ở ngõ đi vào của một địa điểm du lịch, có hàng chữ to tướng dùng để quảng cáo “Nơi đây có đệ nhất thác”. Viết như thế là sai. Đặt 2 chữ đệ nhất (tiếng thêm nghĩa) trước chữ thác (tiếng chính), là theo văn phạm Hán Việt thì cả hai chữ đều phải là tiếng Hán Việt mới được. Ở đây, tiếng thác là thuần Nôm, thế là bậy rồi. Không có tiếng Hán Việt nào có nghĩa thác nước. Thác theo tiếng Hán là bộc bố 瀑 布, nhưng đó lại là tiếng Hán thuần túy nghĩa là chưa được Việt hóa thành tiếng Hán Việt nên chưa thể dùng được. Trong trường hợp nầy, nên viết “Nơi đây có thác đẹp nhất”, vừa đúng, vừa dễ hiểu lại vừa hấp dẫn khách du lịch.
4.- Sai vì không phân biệt được văn phạm Hán Việt với văn phạm Nôm.
X QUANG. Mỗi lần có chuyện phải vào bệnh viện là tôi rất khó chịu khi nhìn thấy cái bảng “Phòng X quang”. Tôi khó chịu vì cái chữ X quang nầy phạm đến 2 lỗi. Một là lỗi về ngữ pháp và một lỗi vể kiến thức khoa học. Về ngữ pháp, quang là tiếng chính, X là tiếng bổ nghĩa. Đặt tiếng bổ nghĩa trước tiếng chính thì đích thị sử dụng văn phạm Hán Việt rồi. Mà muốn dùng lối văn phạm nầy thì cả 2 chữ đều phải là tiếng Hán Việt. Ở đây X là một mẫu tự latin thì sai quá đi rồi. Về khoa học, quang 光 có nghĩa là sáng, ở đây chỉ tia sáng. Tia sáng là tia kích thích được tế bào thị giác để tạo ra ấn tượng sáng. Trong chuỗi sóng điện từ, các tia nầy chỉ chiếm một khoảng rất nhỏ bé với độ dài sóng từ 400 nano mét đến gần 800 nano mét mà thôi. Trong khi đó, tia X (với độ dài sóng từ 0,1 đến 10 nano mét) cách tia sáng khá xa, không kích thích được tế bào thị giác thì chắc chăn không phải là tia sáng rồi. Cho nên dùng chữ QUANG cho tia X là sai be bét về vật lý sơ đẳng của lớp 12 trung học. Tôi chẳng hiểu ông “đại giáo sư tiến sĩ” nào đã bày ra cái tên X QUANG đó. Tại sao không dùng chữ “TIA X” như trước đây ở miền Nam, vừa hay, vừa đúng, vừa đại chúng, vừa thuần túy Việt Nam. Không lẽ người ta muốn dùng chữ “X QUANG” để chứng tỏ ta đây biết “nói chữ” hay sao?
BÊ TÔNG HÓA con đường. Bê tông là từ phụ, hóa là từ chính. Đây cũng là văn phạm Hán Việt. Để thành lập từ kép thì cả 2 từ đơn đều phải tiếng Hán Việt. Ở đây bê tông lại là tiếng Pháp (béton) phiên âm ra, do đó nói bê tông hóa là sai. Ngoài ra, nghĩa cũng sai vì từ bê tông hóa được dùng phải được hiểu là con đường đà được biến hóa thành một khối bê tông. Vì vậy, không nên nói bê tông hóa mà nói một cách bình thường: tráng bê tông con đường, vừa đúng lại vừa dễ hiểu.
Còn một lô HÓA rất bậy bạ trong sách vở báo chi, trong chương trình truyền thanh, truyền hình như: nghèo hóa, giàu hóa, no hóa, đói hóa, khôn hóa, dại hóa, vân vân. Tội nghiệp cho ngôn ngữ Việt Nam!
NỮ NHÀ BÁO. Tôi còn nhớ, trong chiến tranh I rắc, sau khi lính Mỹ bắn nhầm nhân viên tình báo của Ý bảo vệ người nữ phóng viên vừa được bọn bắt cóc trả tự do, các đài truyền hình ở Việt Nam loan tin nhiều lần và nhắc đi nhắc lại nhóm từ nữ nhà báo. Thực là quá tệ! Nhà báo là tiếng Nôm nên phải dùng văn phạm xuôi và phải nói “nhà báo nữ” Còn muốn dùng văn phạm ngược thì phải dùng 3 từ Hán Việt: “nữ phóng viên” hay “nữ ký giả”. Ban biên tập các đài truyền hình không biết điều nầy sao?
TRIỀU CƯỜNG. Từ lâu rồi, tôi thấy xuất hiện rất thường xuyên hai từ triều cường khi người ta nói đến thủy triều trên sông Hai chữ nầy có thể thay đổi vị trí trước sau và có hai ý nghĩa khác nhau. Cường triều 強 潮 gồm tính từ đứng trước danh từ thì tương đương với một danh từ và có nghĩa là con nước lớn (haute marée). Triều cường 潮 強 thì lại là một mệnh đề gồm một danh từ triều và một động từ cương và có nghĩa là con nước đang lớn lên (la marée monte). Lúc nào cũng dùng chữ triều cường thì có thể sai hơn phân nửa trường hợp rồi. Nhưng tại sao không nói con nước lớn (danh từ) và con nước đang lên (mệnh đề) vừa đúng lại vừa phù hợp với trình độ và thói quen của đại chúng.
HẠT NHÂN. Đây là từ vật lý học chỉ các hiện tượng xảy ra bên trong cái lõi hay cái nhân của nguyên tử. Miền Nam trước đây gọi là hạch tâm. Hạch 核 là cái hạt, tâm 心 là cái lõi hay cái nhân bên trong. Hạch tâm là cái nhân của hạt. Đó là từ ghép theo văn phạm Hán Việt vì cả 2 từ đều là Hán Việt. Bây giờ người ta chuyển sang dùng 2 từ Nôm thì phải theo văn phạm nôm và phải gọi là “nhân của hạt” hay nhân hạt, cũng như bên ngoài gọi “vỏ hạt” chứ không thể gọi là “hạt vỏ” được. Gọi phản ứng hạt nhân, là sai với văn phạm rồi. Cần phải sửa lại: phản ứng nhân hạt mới đúng. Tuy nhiên, theo tôi, nên giữ từ phản ứng hạch tâm thì hay hơn nhiều. Từ nầy không phải là từ của giới bình dân nên cứ giữ tiếng Hán Việt, không cần chuyển sang tiếng Nôm.
TẶC. Từ Hán Việt nầy đang được dùng một cách rất bậy bạ và rất thường xuyên như bọn tôm tặc, vàng tặc, cà phê tặc, để chỉ những tên ăn trộm. Dùng như thế là phạm vào 2 điều sai. Thứ nhất là sai về ngữ pháp: một từ đơn thuần Việt không thể ghép với một từ đơn Hán Việt để thành một từ kép. Thứ hai là sai về nghĩa. Tặc 賊có nghĩa là ăn cướp, đạo 盜 mới có nghĩa là ăn trộm, thí dụ đạo văn 盜文 là ăn trộm văn của người khác. Tại sao người ta không nói một cách giản dị và đúng là: bọn trộm tôm, trộm vàng, trộm cà phê... Cũng cần nói thêm về một từ đang được nhiều báo đem dùng. Đó là từ đinh tặc để chỉ bọn rải đinh trên đường phố. Đinh là một từ có gốc Hán Việt 釘 nhưng đã được Việt hóa hoàn toàn rồi nên ghép với từ tặc thì không ổn. Vả lại, nói đinh tặc là sai nghĩa vì từ đó có nghĩa là bọn ăn cướp đinh; thôi bỏ từ đó đi và nên nói một cách giản dị là “bọn rải đinh” thì hơn.
Còn vô số những từ sai khác cùng nguyên nhân trên đây như:
Lớp trưởng, phải sửa lại trưởng lớp,
Nhóm trưởng, phải sửa lại trưởng nhóm
Siêu rẻ, phải sửa lại rất rẻ
Siêu bền, phải sửa lại rất bên
Vi sóng, phải sửa lại vi ba hay sóng ngắn
Vân vân…
5.- Dùng từ vô nghĩa
Bệnh viện DA LIỄU. Lần đầu tiên, thấy bảng chữ nầy, thú thật tôi không hiểu là cái gì. Sau hỏi người bạn bác sĩ mới biết đó là “nhà thương chữa bịnh ngoài da và bệnh hoa liễu”. Trời đất! Da là từ thuần Việt. Hoa liễu là từ Hán Việt, sao lại nhập chung một cách kỳ cục như thế. Xét về nguồn gốc, chữ Hán Hoa liễu 花柳 có nghĩa là ổ điếm chứ không phải là một bịnh. Về sau, người ta dùng nhóm từ kép “bịnh hoa liễu” để chỉ cái bịnh lây qua đường tình dục cho những người hay lui tới các hoa liễu. Dùng riêng chữ hoa liễu cho một bịnh đã là sai rồi. Bỏ luôn chữ hoa, chỉ còn chữ liễu thôi thì càng tệ hơn nữa. Riêng chữ liễu 柳 thì có nghĩa là cây liễu. Bệnh viện da liễu tức là bệnh viện chuyên chữa cho bịnh ở da của cây liễu !!!
ĐẠI TRÀ. Tôi nhớ sau năm 1975, một người bạn dạy sử địa kể rằng, lần đầu tiên đọc sách giáo khoa từ miền Bắc đưa vào gặp câu: “Cây chè được trồng đại trà ở vùng nầy”. Anh ta hơi hoảng vì dạy sử địa bao năm mà bây giờ không hiểu đại trà là gì. Đại là lớn, còn trà là gì? Anh về lật nhiều tự điển kể cả tự điển Hán Việt ra tra thì chẳng thấy chữ đại trà ở đâu cả. Hỏi thăm mãi anh mới rõ trồng đại trà là trồng rộng rãi khắp nơi. Có lẽ ai đó nổi hứng bịa ra từ vô nghĩa đó để thay thế từ dễ hiểu và có sẵn, rồi sau đó những người khác bắt chước nói theo. Ngôn ngữ mà biến chuyển như thế thì cũng đáng buồn.
SỰ CỐ. Lại một từ vô nghĩa nữa nhưng đang được dùng một cách rộng rãi để chỉ một sự rắc rối vừa mới xảy ra. Trong tiếng tiếng Hán Việt có từ kép cố sự 故事 có nghĩa là chuyện cũ chứ làm gì có từ sự cố. Cái nghĩa mà hiện nay người ta gán cho từ vô nghĩa đó thực là lạ lùng, không thể chấp nhận được.
HOÀN CẢNH. Trong một bài báo, người ta viết: “Cô ây sống hoàn cảnh lắm”. Đố các bạn biết người ta muốn nói gì? Xin thưa, muốn nói “Cô ấy đang sống trong hoàn cảnh bi thảm”!!! Các bạn có chịu nổi với cách viết văn như thế đó không ?
ĐÔI CÔNG. Kể từ giải túc cầu thế giới tại Nam Phi, đài truyền hình ở Việt Nam bịa ra một từ mới, đó là từ đôi công và rất thường được lặp đi lặp lại. Theo dõi nhiều trận, tôi mới hiểu ý của các ông trời đó muốn nói: 2 đội chơi đôi công nghĩa là cả 2 đội đều chơi tấn công. Đôi là một cặp (tiếng Nôm), công là tấn công (tiếng Hán Việt). Vậy đôi công là một từ bậy bạ do người kém hiểu biết bịa ra mà hiệu quả rõ ràng là làm xấu đi ngôn ngữ của dân tộc mình. Có người nghĩ rằng, cứ bịa ra những từ mới là làm giàu cho ngôn ngữ. Quan niệm như thế là sai; cũng như muốn làm giàu thì kiếm được thực sự nhiều tiền chức không phải cứ nhét vào tủ các thứ giấy tờ bậy bạ mà gọi làm giàu được.
XÂY DỰNG. “Anh Hai tôi quyết định xây dựng với người yêu của mình” Các bạn đừng tưởng rằng 2 người quyết định đi xây nhà để ở nhé. Không, 2 người quyết định làm đám cưới dó. Viết văn như thế thì hết chỗ để phê bình rồi.
6.- Dùng sai nghĩa từ thuần Việt.
NGƯỠNG. Người ít học cũng biết ngưỡng là một giới hạn rất xác định, một gạch ngang rõ nét, và bước qua vạch ngang đó thì mọi việc sẽ thay đổi một cách căn bản. Thí dụ, ngưỡng cửa là một đường ngang, bên trong là phòng, bên ngoài là sân hay mái hiên chứ không còn là phòng nữa. Một thí dụ khác: khi lượng glucose trong máu tăng lên và vượt qua ngưỡng 1% thì đường thoát ra ngoài theo nước tiểu, còn dưới cái ngưỡng đó thì không hề gì. Ngưỡng có nghĩa rõ ràng như thế và học sinh nào cũng biết. Thế mà mổi đêm, trong mục dự báo thời tiết, xướng ngôn viên cứ lải nhải; nhiệt độ đạt ngưỡng từ 32 đô đến 35 độ. Nghe chịu hết nổi. Tôi không trách người xướng ngôn vì bản tin không phải do người xướng ngôn viết mà do các đấng đại trí thức trong ban biên tập viết nên.
KIÊU NGẠO. Có người nhờ tôi giải thích một câu nói trong sách báo nào đó:”Thằng A hay kiêu ngạo người khác.” Tôi không giải thích được vì không rõ câu nầy có nghĩa: “thằng A thường tỏ ra kiêu căng với người khác”, hay là “thằng A thường chế nhạo người khác”. Chắc chắn cả 2 cách giải thích đều không ổn vì dùng từ kiêu ngạo như thế là sai rồi thì không thể có cách nào giải thích câu nói cho đúng được.
TRAO ĐỔI. Từ nầy có nghĩa là đưa qua đưa lại các vật với nhau. Ngày nay người ta lại dùng từ nầy một cách sai lầm để thay thế cho từ bàn bạc hay thảo luận. Thí dụ: “Để thực hiện chỉ thị, tôi đã trao đổi với đồng chí chủ tịch”
7.- Dùng từ thiếu chính xác
CHẤT LƯỢNG. Chất 質là cái khối chứa bên trong một vật (matière,) lượng 量là tính chất của cái gì có thể cân đo đếm được (quantité). Vậy chất lượng hay khối lượng là cái chất bên trong của một vật có thể đo lường được (masse). Thí dụ: “khối lượng hay chất lượng của một vất là 1 kilo gramme”. Thế mà ngày nay người ta dung từ chất lượng để chỉ cái tính tốt xấu của một vật, không thể đo đếm được (qualité). Thí dụ: “Chất lượng của nước giải khát nầy kém lắm, uống không ngon má cò có hại cho sức khỏe nữa”.
CẢM GIÁC. 感覺 Đó là sự nhận biết của cơ thể do ngoại giới tác động vào các giác quan của cơ thể. Thí dụ: “Gió về khuya gây cảm giác lạnh. Tiếng đàn gây cảm giác êm đềm”. Ngày nay, người ta thường dùng từ cảm giác thay cho từ cảm nghĩ. Thí dụ: ‘Với tình hình nầy, anh có cảm giác thế nào?”. Thực là sai một cách trầm trọng.
THỐNG NHẤT. Thống nhất 統一 là làm biến mất tình trạng chia rẻ bằng cách gom các thứ về một mối. Ngày nay người ta lại thường dùng từ thống nhất để diễn tả sự đồng ý, cùng chung quan điểm. Thí dụ, người ta đã nói: “Để thực hiện tốt chỉ thị, tôi cần thống nhất đồng chí chủ tịch”. Nói như vậy là sai.
GIẢI PHÓNG. Giải phóng 解放 là một từ thường dùng trong lĩnh vực chính trị để chi công cuộc cởi bỏ áp bức, trói buộc cho con người. Ngày nay, người ta lại dùng một cách sai lầm từ nầy cho vật chất. Thí dụ: người ta nói giải phóng mặt bằng thay cho từ đúng là giải tỏa mặt bằng.
ĐĂNG KÝ. Đăng ký 登記 là chép vào sổ một vật được đưa đến. Thế mà ngày, người ta nói: “Tôi đã đăng ký đi nước ngoài” Nghe như người ta sẽ gói tôi lại rồi đem gởi ra nước ngoài. Với con người, không thể nói đăng ký mà phải nói: ghi danh hay ghi tên mới đúng.
8.Từ vựng lộn xộn.
LÁI XE. Đó rõ ràng là một động từ, hay đúng hơn là một từ kép gồm một động từ và một túc từ. Tuy nhiên, ngày nay người ta cũng dùng từ nầy để chỉ người lái xe, tức là danh từ. Vì vậy, người ta có thể nói: “Sáng nay, lái xe đang lái xe gặp một lái xe khác cũng lái xe, cả hai lái xe cùng lái xe về nhà.” Thực là buồn cười. Trước đây ở miền Nam, lái xe dứt khoát chỉ là động từ, còn danh từ phải là người lái xe hay muốn nói gọn hơn thì dùng từ phiên âm Quảng Đông (?), tài xế cũng được rõ ràng minh bạch.
YÊU CẦU. Đây là một động từ. Thí dụ: “Tôi yêu cầu anh đi ngay”. Sau 75, tôi gặp ngay trong giáo án (tài liệu chính thức để dạy học) 2 chữ: mục đích và yêu cầu. Động từ yêu cầu đã biến hẳn thành danh từ.
NGHIÊN CỨU SINH. Sinh 生 là tiếng Hán Việt. Dùng làm động từ thì sinh có nghĩa là sống, còn dùng làm danh từ thì sinh có nghĩa là con người đang sống. Thí dụ học sinh là người đi học, giáo sinh là người đi dạy. Nguyên cứu sinh là người đi nghiên cứu. Rõ ràng như vậy, thế mà tôi đã nghe người ta nói và đã thấy người ta viết những câu như “Con tôi được đi nghiên cứu sinh tại Trung quốc” Như thế là nói bậy vì lấy một danh từ làm động từ!
ẤN TƯỢNG. Theo cụ Đào Duy Anh, ấn tượng 印象(impression) là cái hình tượng do ngũ quan cảm xúc mà còn in sâu vào óc. Vậy ấn tượng là một danh từ của tâm lý học. Thế mà ngày nay người ta đem dùng làm tính từ như “cảnh đó rất ấn tượng”, và cả động từ nữa, như “tôi rất ấn tượng cảnh đó”. Hết sức bậy bạ
THẦN TƯỢNG. 神像 Từ nầy có nghĩa là hình tượng cao quý như thần. Vậy đây là danh từ nhưng, cũng như chữ trên đây, thần tượng được dùng như tính từ như “người đó rất thần tượng”, rồi cả động từ nữa “anh có thần tượng đồng chí đó không?”
TRÊN. Rõ ràng đây là một giới từ, bây giờ lại trở thành danh từ. Thí dự: “Cần phải báo cáo cho trên rõ” hay “trên bảo, dưới không nghe”.
LÀM TỐT. Tốt là một tính từ bổ túc nghĩa cho danh từ, như hạnh kiểm tốt, sức khỏe tốt. Ngày nay tốt được dùng làm trạng từ bổ túc nghĩa cho động từ, như làm tốt, học tốt, thay vi nói làm giỏi, học giỏi.
LÃNH ĐẠO. Tôi không tìm thấy chữ nầy trong các tự điển Hán Việt nhưng lại có trong tự điển của Tàu hiện nay 领导 và có nghĩa là điều khiển, hướng dẫn con đường đi. Vậy rõ ràng đây là một động từ. Tuy nhiên ngày nay người ta lại dùng làm danh từ. Thí dụ: “Lãnh đạo đã chỉ thị như thế”
Sự rối loạn về từ vựng trong ngôn ngữ thực là điều rất đáng tiếc. Từ đầu thế kỷ 20, do ảnh hưởng của tiếng Pháp, ngôn ngữ Việt Nam dần dần được minh bạch về từ vựng nên trở nên sáng sủa và rõ nghĩa, nay có biểu hiện rối rắm về từ vựng và trở nên tối tăm, có lẽ do mấy ông đi học bên Tàu về. Tiếng Tàu thì rất lôi thôi về từ vựng, ai cũng rõ điều đó.
9.Cóp tiếng Tàu đang dùng.
LƯU BAN. Học sinh kém quá không được lên lớp thì gọi là lưu ban. Trong tiếng Tàu hiện nay, ban 班 là lớp học nhưng với tiếng Hán Việt (gốc từ tiếng Tàu đời Đường) thì ban không phải là lớp học mà có nghĩa rất xa lạ (ban phát, hạng thứ, đem quân trở về). Do đó, dùng tiếng lưu ban để nói học sinh không được lên lớp thì không ổn chút nào. Dùng chữ lưu cấp 留級 thì gần đúng nghĩa hơn. Nhưng thôi, lưu ban, lưu cấp làm chi. Mình đã có chữ thuần Việt đã dùng từ lâu là ở lại lớp, rất hay vì phụ huynh học sinh nào cũng hiểu được.
TRANH THỦ. Đây là từ mới được đưa vào Nam sau 1975, và có nghĩa là lợi dụng tình hình để làm được việc gì đó. Thí dụ: “trong chuyến đi tham vừa qua, anh ấy đã tranh thủ kiếm chác được chút ít”. Tôi đã cố tìm hiểu xuất xứ của từ nầy và nhận ra rằng từ tranh thủ không có trong tiếng Hán Việt nhưng hiện nay đang được dùng bên Tàu.
Việc đem tiếng Tàu hiện nay, phiên âm Hán Việt rồi nhập vào ngôn ngữ Việt Nam là đều điều không hợp lý vì nó sẽ làm rối rắm ngôn ngữ của mình. Nên nhớ tiếng Hán Việt có nguồn gốc tiếng Hán ở đời Đường chứ không phải là tiếng Tàu ngày nay, đã khác khá nhiều với tiếng Tàu đời Đường, về phát âm cũng như về ý nghĩa. Thí dụ, 大家 , tiếng Hán Việt đọc đại gia và có nghĩa là người hay gia đình có vai vế trong xã hội, trong khi đó tiếng Tàu hiện đại đọc là dà jià và có nghĩa là tất cả mọi người. Một thí dụ khác: 東西 tiếng Hán Việt đọc là đông tây và có nghĩa là 2 phương hướng, trong khi tiếng Tàu hiện đại đọc là dòng xì và có nghĩa là hàng hóa. Cho nên tiếng Tàu ngày nay phải được xem là ngoại ngữ đối với ngôn ngữ Việt Nam và không nên nhập một cách bừa bãi vào tiếng Việt.
10.Đảo ngược từ kép làm sai nghĩa.
ĐIỂM YẾU. Từ kép nầy gồm 2 tiếng đơn ghép theo văn phạm Nôm có nghĩa là cái điểm không mạnh. Có người đem đảo ngược lại thành yếu điểm theo văn phạm Hán Việt thì lại có nghĩa hoàn toàn khác hẳn: điểm rất quan trọng.
THẤP ĐIỂM. Từ nầy thường được dùng sai một cách thực buồn cười. Cao là tiếng Hán đã được Việt hóa, nên có thể dùng theo văn phạm Hán hay Nôm cũng đều có một nghĩa duy nhất là “ở phía bên trên”. Thí dụ: điểm cao và cao điểm cùng một nghĩa. Trong khi đó thấp lại có hai nghĩa khác nhau tùy theo tiếng Hán hay Nôm. Theo tiếng Nôm thì thấp có nghĩa là ở bên dưới, nhưng với tiếng Hán thì thấp có nghĩa là ẩm ướt.. Vì vậy, khi nói điểm thấp thì đó là chỗ ở dưới thấp, nhưng khi đảo lại thành thấp điểm thì có nghĩa là nơi ẩm ướt. Thực là buồn cười khi đọc báo thấy: “giao thông giờ cao điểm, giao thông giờ thấp điểm” hay “dùng điện lúc cao điểm và dùng điện lúc thấp điểm”
11. Đảo tư kép bừa bãi và không cần thiết.
XA XÓT. Tôi đọc được cách đảo kỳ cục trong một tác phẩm bán rất chạy trong thời gian gần đây. Nguyên câu đã viết là: “…ông Năm xa xót nhìn hai đứa trẻ….”. Đảo từ như thế là bừa bãi, chẳng nhằm lợi ích gì. Với văn vần thì có thể tạm chấp nhận sự đảo từ cho hợp thi luật; nhưng với văn xuôi thì không thể đảo từ một cách bừa bãi được.
Còn rất nhiều từ kép bị đảo xuôi đảo ngược vô tội vạ nữa: Nguy hiểm / hiểm nguy; đơn giản / giản đơn; khai triển / triển khai; từ chối / chối từ; bảo đảm / đảm bảo; bền vững / vững bền; minh chứng / chứng minh; phục hồi / hồi phục; biệt ly / ly biệt; tha thướt / thướt tha; thẩn thờ / thờ thẩn; tranh đấu / đấu tranh; thơ ngây / ngây thơ; xúc cảm / cảm xúc; quang vinh / vinh quang; kinh hoảng / hoảng kinh; ái ân / ân ái …..
Ôi thôi, nhiều quá, quá nhiều, không sao kể hết ngay tức thì được.
Có lẽ trên thế giới, không ngôn ngữ nào có các từ bị đảo ngược lung tung như ngôn ngữ Việt Nam hiện nay.
Cứ cái đà nầy, tôi e có ngày mình sẽ đọc được một câu thế nầy: “Người sĩ-chiến sinh-hi ngoài trận-mặt để vệ-bảo quốc-tổ, dân-nhân ở phương-hậu phải tỏ lòng ân-tri với các hùng-anh sĩ-liệt”!!!
12. Ghép từ bừa bãi.
KÍCH CẦU. Đó là nhóm từ “kich thích nhu cầu tiêu thụ” được ghép cho ngắn lại làm cho nghĩa trở thành hết sức tối tăm. Nghe từ ghép “kích cầu”, tôi cứ tưởng công việc của mấy ông công chánh đang thực hiên ở dưới sông. Cách ghép nấy nghe rất chướng tai nhưng lại rất phổ biến hiện nay.
GIAO HỢP. Có một chuyện ghép từ rất khôi hài mà người ta thường hay kể lại. Chuyện thế nầy: Đồng chí giám đốc phái một nữ nhân viên qua một xí nghiệp bạn với lời dặn đò cẩn thận: “Cô hãy sang đó và cố gắng thuyết phục cho họ chịu giao hợp nhé”. Ý đồng chí giám đốc muốn nói giao hợp có nghĩa là giao thiệp và hợp tác; không biết cô nữ nhân viên có hiểu đúng ý đồng chí giám đốc hay không?
13. Dùng từ dao to búa lớn
CHIẾN. Đá bóng chỉ là một trò chơi thể thao thuần túy thế mà các xướng ngôn viên và bình luận viên của chúng ta luôn luôn gọi đó là cuộc chiến. Cuộc chiến thì phải có đổ máu, phải có quyết tâm tiêu diệt kẻ thù hay ít ra làm cho kẻ thù phải khốn đốn. Một hôm đi ngang qua sạp báo tôi thấy một tờ báo chạy một cái tựa rất lớn ở trang nhất: “nội chiến ở bán đảo Ibérique”. Tôi giật mình không hiểu tại sao giữa hai nước anh em Tây ban nha và Bồ đào nha lại nổ ra chiến tranh. Tôi vội vã móc tiền ra mua ngay tờ báo đó rồi chạy nhanh về nhà để đọc. Đọc xong, tôi ngã ngửa, Thì ra, trong một cuộc bốc thăm do FIFA tổ chức, hai đội tuyển bóng tròn của Tân ban nha và Bồ đào nha gặp nhau trong cuộc chơi play-off. Thế mà người ta dám gọi là nội chiến. Xin chào thua cách dùng ngôn từ Việt Nam ngày nay.
CHIẾN ĐẤU. Tôi đã từng nghe nói: “Chúng ta phải cương quyết chiến đấu với tư tưởng sai trái”. Nghe thực đáng sợ.
NGÀI. Đã có lúc, nhân danh lập trường giai cấp, lập trường ta bạn thù, người ta gọi các lãnh tụ của nước tư bản bằng thằng nọ thằng kia. Bây giờ, chúng ta chơi với tư bản thì ai người ta cũng gọi bằng “ngài”. Ngài thủ tướng, ngài đại sứ, ngài nghị sĩ, vân vân. Nghe có vẻ nịnh bợ quá đi thôi.
THAM QUAN. 參觀 Đi chơi để ngắm cảnh thì gọi là tham quan, có nghĩa là tham dự vào một công cuộc xem xét, nghiên cứu. Gọi thế mới hách chứ.
NGHIÊN CỨU SINH. Đi học thêm ở ngoại quốc, chuyện quá tầm thường, nhiều khi lợi dụng làm chuyện bậy bạ, lại tự tâng bốc mình là đi nghiên cứu.
14.Dùng từ Hán Việt thay từ Nôm một cách kỳ cục.
KHẨN TRƯƠNG. Một đồng nghiệp của tôi định cư tại Úc từ năm 1975. Cách đây vài năm, thầy về Việt Nam lần đầu tiên và dùng tàu hỏa ra Hà nội thăm quê. Giữa khuya, tàu đến ga Đồng hới thuộc tỉnh Quảng bình. Đang ngủ say, bỗng thầy giật mình tỉnh dậy vì tiếng loa “… hành khách khẩn trương lên”. Thầy hoảng hồn phóng xuống giường, chạy ra khỏi buồng của toa xe vì tưởng xe trật đường rầy hay có hỏa hoạn xảy ra. Nhưng không, nhân viên trên toa tàu chỉ nhắc nhở hành khách nào xuống tàu ở ga nầy thì nhanh lên, thế thôi! Tội nghiệp, thầy Phụng hoảng hồn cũng phải vì ở miền Nam trước đây, ngươi ta ăn nói một cách giản dị và chỉ hay dùng tiếng Hán Việt trong văn chương và khi có việc nghiêm trọng mà thôi.
BÁO CÁO. Một người bạn đã nói với tôi: “Báo cáo anh, chiều nay tôi phải lên xe về Hà nội”. Tôi nghe chữ báo cáo thì cứ tưởng anh ta đang nói với một vị tư lệnh trên chiến trường.
15.Thay từ Hán Việt thông dụng bằng từ Nôm bất hợp lý.
MÁY BAY LÊN THẲNG. Cái loại máy bay có thể bay lên mà không cần phi đạo, ngày trước người miền Nam, từ thành thị đến thôn quê, từ người có học đến người thất học, đều gọi bằng một cái tên rất gọn là trực thăng. Sau 1975, người ta sửa lại là máy bay lên thẳng, không hiểu lý do tại sao.
LÍNH THỦY ĐÁNH BỘ. Ngày trước miền Nam có một binh chủng đặt tên là Thủy quân lục chiến. Đó gần như là một danh từ riêng. Sau 75 thì sửa lại là lính thủy đánh bộ cho có vẻ nôm na, dù thủy và bộ vẫn là tiếng Hán Việt. Có người bảo rằng cái gì của ta thì dùng tiếng Hán Việt mới bảnh, còn cái gì của kẻ thù thì dùng tiếng Nôm để làm giảm giá trị. Nếu quả đúng như thế thì đó thực là một quan niệm hết sức sai lầm và xúc phạm một cách trầm trọng đến giá trị tiếng thuần Việt của dân tộc mình.
16.Chưa có được những từ thỏa đáng cho khoa học và kỹ thuật hiện đại.
COMPUTER dịch là máy vi tính là không thỏa đáng. Máy vi tính có nghĩa là máy dùng làm những phép tính rất nhỏ. Chức năng của computer không phải chỉ như thế. Xin để dành cho các nhà chuyên môn về kỹ thuật và các nhà ngôn ngữ nói chuyện với nhau để chọn từ cho chính xác.
INFORMATION TECHNOLOGIE dịch là tin học, cần xét lại 2 điểm. Thứ nhất, tecgnologie là một kỹ thuật, dịch bằng một chữ học trơ trọi thì không ổn. Thứ hai, muốn dùng từ kép “tin học” thì 2 từ đơn phải đều là tiếng Hán Việt. Nhưng tin là tiếng Nôm còn tín mới là tiếng Hán Việt. *ON LINE, OFF LINE, dịch là trực tuyến và ngoại tuyến thì e không ổn. Ở tiếng Mỹ, on và off là 2 từ đối nghịch nhau thì dịch sang tiếng Việt cũng cần 2 từ đối nghịch nhau mới được. Cho nên dùng 2 từ trực và ngoại thì chẳng ổn chút nào. Một lần nữa, chúng ta chờ đợi sự bàn bạc giữa các chuyên viên kỹ thuất và ngôn ngữ”.
Bài viết này lý thú quá. Riêng cách đặt vấn đề, Việt Nam có chế độ phong kiến hay không? Đồng tình với tác giả bài viết này. Thật ra, từ năm 1934, trên báo Phụ Nữ Tân Văn đã có cuộc trao đổi, tranh luận dữ dội trên báo chí. Nhà văn hóa Phan Khôi lập luận rất thuyết phục. Có lúc, sẽ quay lại. Nhật ký 14.1.2014, y có giải thích thành ngữ “mã đáo thành công”, nay phần comment, một bạn đọc giải thích khác: "Mã đáo thành công": Người Trung Quốc phương Bắc thường sinh sống trên các đồng cỏ, chăn nuôi ngựa. Đến mùa xuân, người ta thường thả những chú ngựa nuôi vào các cánh đồng, khu rừng để dụ các con ngựa hoang theo về trang trại của họ. Cũng không chắc những chú ngựa thả ra sẽ trở về vì có thể bị người ta bắt dọc đường, bị thú dữ ăn thịt...Sang thu đông, nếu ngựa trở về cùng một hoặc vài chú ngựa hoang thì coi như thắng lợi hoàn toàn”.
Bạn chọn cách giải thích nào?
Nhật ký bữa nay đã dài. Tạm dừng chăng? Ừ, dừng thì dừng. Đọc nhiều quá, biết đâu có người sẽ oải. Ngáp ngắn ngáp dài. Phải tôn trọng bạn đọc chứ. Vâng, vậy thì dừng. Nhưng trước khi dừng, có lẽ nên đọc thêm mẩu chuyện này. Lâu lắm mới đọc một tiểu phẩm hay. Không nhạt như nước ốc đang nhan nhản trên các mặt báo. Tiểu phẩm này đoạt giải nhất cuộc thi Truyện ngắn ngắn năm 2013 của TTC, vừa công bố. Nhan đề “Lo xa” của tác giả Thế Ngọc (Tiền Giang). Ai đọc không cười, y tin người đó chưa hề biết cười bao giờ. Nguyên văn như sau:
“Ở một miền quê nghèo nọ, có một bác nông dân hiền lành, chất phác, luôn chắt chiu từng đồng để lo cho con trai học đến nơi đến chốn. Không phụ lòng cha, cậu con trai học hành rất giỏi, vừa tốt nghiệp loại giỏi ở một trường đại học danh tiếng ở thành phố và đang chờ xin việc.
Niềm vui đến chẳng bao lâu thì bác đổ bệnh, nhà không có tiền thuốc thang nên bệnh càng nghiêm trọng. Cảm thấy gần đất xa trời, bác bèn gọi cậu con trai đến bên giường trăn trối nhiều điều. Cuối cùng bác cầm tờ di chúc viết sẵn trao cho con trai thều thào:
- Bố viết di chúc để lại cho con 500 lượng vàng để con lo thân sau này!
Nghe đến đây, cậu con trai giật mình, quệt nước mắt hỏi:
- Thưa bố, mình nghèo, nhà không còn hột gạo phải đi mượn hàng xóm, bố bệnh không có tiền thuốc thang thì làm gì có vàng mà để lại cho con 500 lượng?
Người cha run giọng nói:
- Con còn nhỏ dại chưa thấu hiểu sự đời. Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Dù không có lượng vàng nào, nhưng tờ di chúc này chính là bùa hộ mệnh cho con sau này. Ngày sau con có đi làm quan, nếu lỡ bị tiền làm mờ mắt, hay tham ô bòn rút của công mà bị thanh tra thì hãy hãy đưa tờ di chúc này ra và nói rằng đây là tài sản của bố để lại cho con. Nó chính là “bằng chứng thép” vững vàng nhất để đảm bảo con đường thăng tiến sự nghiệp quan lộ tương lai”.
Chuyện chỉ có thế. Cười được chưa? Chưa à? Bạn đọc khó tính nhỉ? Vậy mời đọc thêm mẩu tin “Sùng bái và sa hoa”, in trên giai phẩm Doanh nhân Sài Gòn Xuân 2014. Nguyên văn như sau:
“Mới chấp chính tuổi đời được hai năm và tuổi đời chừng 30, nhưng nhà lãnh đạo tối cao CHND Triều Tiên Kim Jonng-un đã được truyền thông nước này xưng tụng là “Lãnh đạo kính yêu”. Dư luận nhận định việc lựa chọn kế thừa danh hiệu này thể hiện nỗ lực của Triều Tiên nhằm thúc đẩy văn háo sùng bái cá nhân đã duy trì nhiều thập kỷ qua tại đất nước bí ẩn này. Tại Triều Tiên có tới 30.000 đền đài, công trình kiến trúc đồ sộ mọc lên ca ngợi sự vĩ đại của Kim Nhật Thành và Lim-Jong-il.
Trong khi đó, một bức tượng Mao Trạch Đông bằng vàng và nạm kim cương trị giá trên 16 triệu USD đã được khai trương vào cuối năm 2013 tại Thẩm Quyến, Trung Quốc để kỷ niệm sinh nhật lần thứ 120 của Mao. Bức tượng này được giới thiệu rộng rãi mặc dù Chủ tịch Tập Cận Bình từ khi lên nắm chính quyền đã yêu cầu cắt giảm những tiệc tùng sa hoa và các chi tiêu hoang phí khác, tôn vinh những gì "Trang trọng, đơn giản và thiết thực”.
Chuyện chỉ có thế. Thế nào? Cười được chưa? Vẫn chưa à? Đúng quá.
Y có cười được đâu
L.M.Q
“Mấy hôm nay trốn biệt đi đâu mà chẳng thấy Nhật ký, hả anh?”
Lại câu hỏi quen thuộc. Trước khi trả lời câu này, hãy đặt câu hỏi khác, chẳng hạn, vì sao người ta nói “mã đáo thành công”? Có lẽ, do ngày xưa phương tiện di chuyển nhanh nhất chỉ có ngựa. Làm gì có máy bay, phi thuyền, ô tô… lúc vận chuyển. Chỉ có ngựa. Đế quốc Mông Cổ thời thế kỷ XIII thống trị cả thế giới, từ Đông sang Tây chính do họ sử dụng ngựa thuần thục. Lịch sử Việt Nam sẽ thay đổi, nếu trong cuộc kháng chiến Nguyên Mông lần lần nhất vua Trần Thái Tông không nghe theo lời tướng Lê Tần.
Sử chép, năm Năm 1258, khi giặc Mông Cổ đem quân men theo sông Hồng tràn xuống nước Đại Việt, vua Trần Thái Tông dẫn quân lên Bình Lệ Nguyên (nay là vùng tiếp giáp giữa ba tỉnh Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Hà Nội) ứng chiến. Giữa chốn sa trường, quân sĩ có phần nao núng nhưng Lê Tần vẫn một mình một ngựa, xông pha đánh giặc mà mặt bình thản như không. Bấy giờ, có người khuyên vua Trần Thái Tông cố bám giữ mặt trận, tiếp tục chỉ huy cuộc chiến, Lê Tần can nhà vua nên rút lui vì nếu tiếp tục “có khác gì dốc hết túi tiền cho một canh bạc mà chẳng rõ thắng thua”. Thuận theo lời khuyên hợp lý, nhà vua cho rút quân về sông Lô, rồi bày binh bố trận lại. Lời khuyên của tướng Lê Tần có thể mỗi lời nói là một nén vàng, bởi giao chiến trên bình địa, quân nhà Trần không thể thắng nổi vó ngựa Mông Cổ. Thế mạnh của người Việt là tác chiến trên sông nước. Đọc lại Đại Việt sử ký toàn thư, thấy rất rõ. Tướng Lê Tần thuộc dòng dõi Lê Hoàn. Về sau, Lê Tần được vua Trần đổi tên Lê Phụ Trần và gả cho vợ cũ là công chúa Chiêu Thánh. Vụ gả vợ này, sử thần Ngô Sĩ Liên phê dữ quá: "Triều Trần vua tôi nhảm nhí trong luân thường vợ chồng lại thấy ở đây".
Ủa! Đang bàn câu “mã đáo thành công”, sao lại nhảy qua lịch sử? Lạc đề rồi đó.
Thì quay lại đây. Chuyện nhỏ thôi mà.
Theo y, sở dĩ, nói “mã đáo thành công” bởi khi tung vó dặm trường, hai mắt ngựa được che lại. Nó chỉ thấy một hướng phía trước. Cứ thế, lao tới. Không phải nhìn ngang ngó dọc. Mất thời gian. Vô ích. Tháng ngày qua, y học tập tính cách ấy của ngựa. Nếu không, sẽ phân tâm với những chuyện chẳng đâu vào đâu.
Chẳng hạn, chuyện hôm kia, ăn phở, anh bạn bảo, cái vụ hôi bia ở Đồng Nai có là gì đâu. Ở quê tôi mới khiếp. Mới đây thôi, do quê ở xã X nên quan chức nọ bằng mọi cách xin huyện, tỉnh rót kinh phí làm đường nhựa nối xã này qua xã nọ. Tốt quá. Một người làm quan cả làng được nhờ. Từ nay đi lại dễ dàng, thuận lợi hơn. Một ngày đẹp trời, xe cơ giới ùn ùn chạy về xã X đổ vật tư. Nào đất đá, nào xi măng v.v… chuẩn bị làm đường Oái! Chỉ trong một đêm, dân trong xã hùa ra, hè nhau vác sạch sành sanh các bao xi măng. Mạnh ai nấy vác. Họ vác về nhà. “Ủa, chính quyền xã đâu?”. “Hỏi thế mà hỏi, mấy ông xã bảo, chuyện làm đường xã không có biết”, rồi anh bạn trầm ngâm bảo, mấy ông xã nói ầu ơ ví dầu bởi trong vụ làm đường mấy ổng có “ăn” gì đâu mà phải ra oai? Đã thế lại mất tình cảm bà con chòm xóm!
Cái vụ này, anh bạn có đưa xem hình ảnh và cho biết cụ thể xã, huyện, tỉnh nọ nhưng y vẫn không tin. Bởi, nhà báo phải nghe từ nhiều nguồn thông tin mà y không kiểm chứng nên ai có đọc đến đây “tin thì tin không tin thì thôi”. Y không có ý kiến, chỉ nói rằng, nếu việc này có thật, dứt khoát ứng vào câu: “Phép vua thua lệ làng” ngàn đời vẫn còn tồn tại đến nay trong lũy tre làng dân tộc Việt.
Lại thêm một chuyện khác.
Hôm nọ, ăn phở, anh bạn bảo, vụ “mẹ mìn” bắt cóctrẻ sơ sinh ở bệnh viên Q.7 chẳng "cái đinh" gì. Cái này mới “kịch tính” hơn nhiều. Chuyện rằng, cô X từ ĐN ra HN buôn bán, ngày qua tháng lại, cô đem lòng yêu anh chàng nọ và có bầu. Có bầu thì đẻ. Đúng rồi. Nhưng khổ nỗi anh này đang có vợ nên mọi chuyện không thể bình thường như các đôi uyên ương khác. Có thể, anh ta lánh mặt; hoặc cũng không thể có mặt từng phút, từng giây được. Thôi cũng được. Miễn là mẹ tròn con vuông. Khi cô đẻ xong, đột nhiên dăm ngày nửa tháng vợ anh chàng này mới bảo, cô nhân tình ấy không phải đẻ con của anh đâu. Trời đất. Đàn bà dễ có mấy tay. Thừa biết chuyện mèo mỡ của chồng nhưng không thèm nói, không thèm ghen. Nay mới nói. Mà nói một câu động trời. “Anh không tin à? Thì thử ADN”. Quả nhiên, không phải con anh. Hoảng quá, cô nhân tình của anh cũng lanh trí thử ADN. Thì ra cũng không phải máu mủ của cô. Vậy con ai đây? Cái bí ẩn chính là chỗ này. Làm sao người ta có thể đánh tráo trẻ sơ sinh như trong phim hành động của Mỹ?
Anh bạn kể vanh vách tên người trong cuộc, bệnh viện phụ sản nhưng y vẫn không tin. Bởi, nhà báo phải nghe từ nhiều nguồn thông tin mà y không kiểm chứng nên ai có đọc đến đây “tin thì tin không tin thì thôi”. Y không có ý kiến, chỉ nói rằng, nếu việc này có thật là ứng vào câu: Ở nước ta “không gì là không thể”.
Nghe những chuyện trái khoáy này, nếu chú tâm tìm hiểu, có phải mất thời gian không? Thời trẻ hăng lắm, cái gì cũng muốn phơi bày lên mặt báo với mong ước xã hội được chấn chỉnh. Cuộc sống tốt hơn. Cuối cùng, y thấy trên đời này vẫn có nhiều gã Đông Ki Sốt đơn độc đánh với cối xay gió. Chi bằng cứ như là ngựa, lầm lũi với công việc hằng ngày, không phân tâm.
Mấy ngày qua, chú tâm viết cho xong mấy thứ. Không còn thời gian để Nhật ký nữa. Xong việc nằm nhai báo Xuân. Truyện ngắn của Ngô Phan Lưu trên TT Xuân, và truyện ngắn của Sương Nguyệt Minh trên TN xuân hay lắm. Một cái viết về mẹ, một cái viết về cha. Cả hai đều xúc động. Lâu rồi mới đọc được vài truyện có dư vang, sau khi khép lại trang báo. Y thích đọc những truyện viết về mẹ. Sực nhớ, bà mẹ thi sĩ Tản Đà là cô đào hát tài sắc vẹn toàn, tên thật Nhữ Thị Nghiêm, vợ hai của danh sĩ Nguyễn Danh Kế. Bà sinh ra “thi sĩ trích tiên” và đặt tên Nguyễn Khắc Hiếu. Tại sao lại Hiếu, chứ không một cái tên gì khác? Tản Đà cho biết: “Mẹ tôi thường dạy tôi: “Mẹ đặt tên con là Hiếu, là mẹ muốn con giữ mãi chữ “hiếu” với mẹ”. Ấy thế lớn lên tôi nghĩ rằng, có lẽ mẹ tôi mặc cảm là một cô đào hát, nên sợ tôi khinh thường. Nhưng tôi luôn luôn giữ tình mẫu tử chí hiếu với mẹ tôi. Các ông có biết vì sao không?”. Có người trả lời, vì tình mẹ con. Tản Đà đáp: “Đành rằng là như thế, nhưng vì tôi cảm thấy rõ rằng tâm hồn thơ của tôi chính là thừa hưởng tâm hồn nghệ sĩ của mẹ tôi. Không phải mẹ tôi sinh ra Nguyễn Khắc Hiếu, mà mẹ tôi sinh ra thi sĩ Nguyễn Khắc Hiếu”. Lời nói của Tản Đà là một cách tôn vinh mẹ mình đẹp xiết bao. Truyện ngắn của Ngô Phan Lưu viết về người mẹ già, tuổi 92, lẫn lộn mọi chuyện, thường thích con trai chở xe đi thăm bạn bè, dù họ đã chết từ đời tám hoánh. Có đoạn:
“Tôi hỏi anh Phát:
"Bà cụ ngồi xe còn vững không?
“Còn vững chớ. Bà ôm chặt bụng tôi, Không những ngồi vững mà còn ưa tốc độ. Tôi biết ý mẹ tôi muốn tôi té xe một chuyến, để bà kiểm tra chất lượng mũ bảo hiểm nữa đấy. Nếu không biết thế, sao tôi dám chở đi?”.
“Úi trời. mẹ anh có một không hai”.
“Mẹ… lúc nào mà chẳng một”.
Đọc đến đây, tự nhiên rưng rưng. Trưa nay, lại ngủ mơ thấy chị Ái, bà chị đã mất hơn một năm. Mỗi lần nhớ lại bùi ngùi. Chị em ruột nhưng kẻ SG, người ĐN mấy khi gặp nhau, trò chuyện nhưng tự dưng trong lòng thương lắm. Trưa nay nằm mơ thấy về quê trong ngày Tết, cũng ở căn nhà cũ, căn nhà Tẹo đang ở bây giờ, lại thấy chị. Lúc ấy, anh em rủ đi nhậu, có nghe nói tên quán nhưng y không biết địa chỉ. Y rời nhà đi sau cùng, mọi người phóng xe trước rồi, rẽ hướng tay trái, đã đi mất hút. Chà gay go. Vậy đi thế nào đây? Lúc ấy, chị của y lại chỉ đi hướng tay phải, hỏi sao mà lạ, trong khi mọi người rẽ hướng trái kia mà, chị bảo, đi hướng nào cũng đến. Bổng một cú điện thoại réo ầm ĩ: “Anh ơi! Qua VTV nhận tiền thưởng Đấu trường 100 đi anh”. Thức dậy. Nhớ chị, tự nhiên buồn. Thúc dậy, ngẫm nghĩ chiêm bao thấy chị là có niềm vui. Trí não con người ta kỳ lạ. Thời đi lính, thỉnh thoảng gặp Phát luôn, con bà dì ruột, bằng tuổi y, chết năm 18 xuân xanh. Mỗi lần mơ thấy Phát, sáng dậy ắt dọc đường hành quân có chuyện. Rồi khi về nhà này, cách đây chừng mươi năm nằm mơ thấy Phát bảo, thèm ăn thịt gà quá. Kể lại cho mẹ. Mẹ làm mâm cơm cúng. Chẳng hiểu sao từ đó, trong giấc mơ chẳng hề gặp lại nữa. Với Tẹo, em trai út, cũng lạ. Trăm lần như một, nếu nằm mơ bao giờ cũng thấy nó mới chập chững lên năm. Cũng dáng đi ấy. Cũng gương mặt ấy. Dù bây giờ em mình đã gần 50 mười, đã ba đứa con đủ nếp tẻ. Vậy mà trong mơ của y, nó mãi mãi nhỏ xíu. Lạ chưa?
Đời người, rồi cũng đi qua.
Sắp Tết rồi đó.
An May - con gái út của Lê Minh Tuấn - em trai út của Lê Minh Quốc
L.M.Q
Cộng tác viên &BBT báo TT nhân kỷ niệm 30 năm TTC
Quái quỷ thế giới mạng. Có những lúc gặp thông tin này kia. Bất ngờ. Rồi nó lôi tuột mình đi. Cả ngày hôm nay, chẳng viết được gì. Muốn thanh toán cho xong các bài viết. Dứt điểm. Anh em đang giục. Dành thời gian cho cái khác. Chẳng thể. Vừa viết đôi câu, thấy nản. Bèn sục sạo vào trang web giết thời gian. Chẳng "ma đưa lối quỷ đưa đường" thế nào gặp ngay ông bạn Vương Trí Nhàn. Hôm kia, có hỏi ông Lại Nguyên Ân mới biết: "Vương Trí Nhàn dạo này ít xuất hiện chốn đông người". Ngày trước khi Thế Thanh còn TBT báo PN, anh Nhàn cộng tác đều đặn. Chuyện đó xưa rồi. Gần hai năm rồi còn gì. Còn nhớ, lúc ấy anh bảo, đại khái, thói háo danh của nhà văn Việt Nam nó chật hẹp, nhỏ bé lắm. In tập sách, chỉ ước mong được trao giải thưởng; sau đó, được chọn đưa vào sách giáo khoa là mãn nguyện. Tâm lý này có còn chăng?
Chiều này gặp lại Vương Trí Nhàn là qua trang blog của anh. Ngày 28.11.2010 anh viết: “Có một việc tôi đang muốn dành thời gian để làm - đọc lại sử mình những năm sau chiến tranh. Ví dụ sau khi đánh xong quân Nguyên, nhà Trần ra sao? Sách vở hiện đại ghi về chuyện này hơi ít. Cụ thể là trong các sử gia hiện thời, chỉ có Đào Duy Anh làm, và tôi chỉ mới đọc có ông chứ chưa có dịp đi vào mấy bộ sử cổ, song đã thấy cả một đề tài chưa ai khai phá”. Chẳng rõ, anh đã làm đến đâu? Chúng ta có nhiều nhà khoa học, sử học mà ít thấy công trình nghiên cứu của họ. Suy nghĩ của anh Nhàn lý thú quá.
Sau chiến tranh thắng Nguyên Mông, ông cha ta làm gì? Câu hỏi lớn quá. Thú thật, gần đây, do viết lời thoại cho bộ truyện tranh thiếu nhi nên y có ngấu nghiến bộ Đại Việt sử ký toàn thư. Trong đó, nhiều, rất nhiều chi tiết hay. Chỉ đề cập một chi tiết về hạng cùng đinh, dân nghèo, nô bộc, gia nô, gia đồng. Vua Trần Nhân Tông bảo các quan cận thần: “Ngày thường, có thị vệ hai bên nhưng khi nước nhà hoạn nạn chỉ có bọn ấy đi theo thôi”. Ôi! Chỉ một câu nói mà đọc xong ngẫm nghĩ nhiều điều. Có được ông vua như Trần Nhân Tông, hồng phúc của dân tộc ấy còn bền.
Lại đọc tiếp ghi chép của anh Nhàn. Ngày 8.5.2010, anh viết: “Hoàng Cầm qua đời. Nhiều báo đăng lại thơ ông, nhân đó tôi cũng đọc theo. Và đây là chuyện buồn cười với tôi: chợt nhận ra trong câu Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng thì lâu nay mình không hiểu cửa võng nghĩa là gì. Tra nhiều từ điển tiếng Việt đang được thông dụng không thấy. Mãi tới cuốn của Khai trí tiến đức 1931, mới có chú cửa võng là cái diềm bằng gỗ chạm. Riêng cuốn của ban biên soạn New Era, do NXb Văn hóa thông tin cho in 2005 thì ghi rõ hơn: “Diềm chạm trổ bằng gỗ, hình cong, nối hai cột giữa ở chùa và đền”. Vẫn còn tù mù quá, thế diềm là gì, nhưng thôi, có khi càng không hiểu mới càng cảm hết cái nhu cầu đi vào phía thần bí của thơ Hoàng Cầm”. Nhân chiều nay rỗi, bèn tra chữ “diềm” xem sao. Cuốn Việt nam từ điển của Hội Khai Trí Đức in năm 1931 giải thích: “Diềm: Đồ thêu thường làm bằng tơ lụa treo ở trên màn, trên cửa cho đẹp: Diềm màn, diềm cửa”. Từ năm 1895, ông Huình Tịnh Paulus Của giải thích: “Diềm: Đồ thêu có mành mành, để mà treo giăng cho lịch sự”. Rõ ràng câu thơ đã dễ hiểu hơn. Mà đọc thơ chẳng cần phải hiểu đâu. Chỉ cần cảm. Có những câu thơ chẳng vội hiểu, nhưng chỉ nghe âm điệu ngân vang là tâm hồn đã xao xuyến:
Ngõ ban sơ hạnh ngân dài
Cổng xô còn vọng điệu tài tử qua
(Bùi Giáng)
Cần gì hiểu. Vừa đọc đã thấy hiện lên hình ảnh vàng son. Bùi ngùi thương nhớ. Sắc màu bàng bạc. Gợi cảm gợi tình. Mà cảm về thơ cũng vô cùng. Báo Văn nghệ của Hội nhà văn cách đây vài số, khi viết về Bùi Giáng, nhà thơ Trần Nhuận Minh cho biết anh thích hai câu này:
Sáng nay bao tử mơ mòng
Cà phê bên nọ, cháo lòng bên kia
Y chẳng thích chút nào. Nhiều người khoái câu này cũng của Bùi Giáng:
Sài Gòn, Chợ Lớn rong chơi
Đi lên đi xuống đã đời du côn
Dù thừa nhận hay, “Nhưng bảo là sâu sắc thì mình chịu. Thơ đó mấy ông nhà thơ dân gian Bắc Kì, xứ Nghệ siêu hơn nhiều”. Ấy là cảm của anh Nguyễn Quang Lập.
Vừa đọc tờ Người lao động xuân 2014, anh Nguyễn Nhật Anh trong bài Hồn vía bài chòi, đặt câu hỏi, ở ngoài quê anh người ta gọi trò chơi này là “tôm cua bầu cá” sao người trong Nam lại gọi “bầu cua cá cọp”? Trò chơi này có "bàn cái" và chủ cái. "Bàn cái" là tờ giấy đặt dưới đất có hình vẽ nai, cua, tôm, cá, gà và cái bầu, người chơi bâu quanh. Chủ cái ngồi trước "bàn cái" đặt dĩa có thau nhôm úp lên. Trong đó, có ba cái hộp cỡ bằng lóng tay cái, mỗi mặt luân phiên có sáu hình như hình trên "bàn cái". Sau khi người chơi đặt tiền xong, không xê nhích, thay đổi gì nữa, chủ cái lắc vài ba cái. Rồi mở thau nhom. Tất các người chơi trố mắt nhìn vào cái dĩa đó, xem hiện ra hình gì. Kẻ thở dài, người cười rộ, xuýt xoa ầm ĩ. Rõ ràng trên "bàn cái" không hề có hình con cọp, vậy sao Ông ba mươi lại nhảy tọt vào tên gọi của trò chơi này? Không phải, "Có thể nơi nào đó, vẽ con cọp thay cho một con nào đó" mà anh Ánh hồ nghi. Vật dụng trò chơi này trước 1975 hầu hết do người Hoa Chợ Lớn cung cấp nên nó "nhất quán" lắm! Thử lý giải, cọp ở đây không phải con cọp mà chỉ là tiếng lóng. “Xem cọp”, “đọc cọp”, “chơi cọp” nghĩa là “ké” theo người khác. Nói như thế, vì trò chơi này thường đông trẻ con. Ai muốn đặt tiền vào ô có hình vẽ nào cũng được. Trong quá trình chơi, có người hên quá, trúng liên tục nên khi họ đặt tiền vào ô nào, những chơi chung quanh cũng đặt “cọp” theo. Do đó, con cọp mới có dịp nhảy xổm vào và trở thành “danh chính ngôn thuận” với tư cách "chính chủ"!
Chà, y thông minh quá. Y lý giải quá ngon lành. Vừa tự khen xong, y đã thấy không thuyết phục. Y bèn cãi rằng, nếu "cọp" là tiếng lóng thì tại sao người miền Trung không gọi “bầu cua cá cọp” mà lại là “tôm cua bầu cá” ? Nếu ai đó, hỏi thế, biết trả lời thế nào? Lại nữa, anh Ánh hỏi vì sao cũng trò chơi này, khi nhắc nhân vật Cô gái Đồ Long trong truyện chưởng Kim Dung, lập tức, chú gà trống bị thiến thành gà mái? Anh nêu bằng chứng câu hát của con nít ngày đó: “Cô gái Đồ Long lắc bầu cua/ Lắc ba cái ra ba con gà mái”. E hèm! Chú gà trống Gô-loa kia nếu biết ắt cũng nhảy đành đạch phản đối. Anh lý giải, cái này nghe hợp lý: “Có thể vì “Cô gái Đồ Long” là phận nữ nhi (hợp với gà mái!?), nhưng cũng có thể từ “gà mái” chỉ để hợp vần với chữ “cái” ở phía trước chứ chẳng phải là cuộc cách mạng gì ghê gớm về hình ảnh”.
Đọc vài hồi ký của các nghệ sĩ cải lương, thường nghe đến loại “vé cá kèo”. Sao lại cá kèo? Dò hỏi nhiều người mới biết con cá kèo bơi đứng, nó thường chúc đầu, loi ngoi lên mặt nước. “Vé cá kèo” là dành cho những người mua hạng bèo, rẻ tiền, đứng phía sau cùng trong rạp diễn nên họ phải luôn nhoi đầu lên, cao hơn người đứng trước thì mới thấy được cảnh quang phía trên sân khấu. Lại nghe chuyện này, cụ Vương Hồng Sển cho biết trong hát bội miền Nam không dùng chữ “nghĩa” mà dùng “ngỡi”. Tại sao? “Chuyện này là do người bạn quá cô Nam Sa Đéc truyền cho biết, như câu Lữ Bố với Điêu Thuyền: “…đây mong kết ngỡi, đó đành vong ân!”, vẫn hát “ngỡi”, kéo dài nghe êm, chớ “nghĩ…ỉa” (nghiĩa) thì thối lắm” (Tạp bút năm Quý Dậu - NXB Trẻ - 2004, tr.259). Đọc sách nghiên cứu phong tục, sinh hoạt miền nam của Sơn Nam, không thấy từ “địa chủ”, thay vào đó là “chủ điền”. Có lần hỏi ông tại sao, ông cười khà khà, không quả quyết, chỉ nói có thể do “địa chủ” nói lái không thanh lịch chăng?
Lan man chuyện chữ nghĩa, thơ thẩn mà lại vui.
Từ phải: Bợm - nhân viên TTC, nhà thơ Lê Minh Quốc, nhà văn Lê Văn Nghĩa, nhà báo Lưu Đình Triều, TS Khảo cổ Nguyễn Thị Hậu
Chiều qua, họp mặt anh em báo TTC nhân kỷ niệm 30 năm. Được trao Kỷ niệm chương. Oách nhỉ? Lâu rồi mới gặp lại anh Q.H. Nào ngờ, anh đã trở thành con người khác. Vừa bị bệnh gì gì đó về phía não. Nói năng khó khăn. Giọng nhỏ xíu. Đi đứng chậm chạp. Trí nhớ đã quên nhiều. Hỏi, số điện thoại. Anh lật điện thoại phía sau có dán tờ giấy ghi số điện thoại của mình. Bởi anh không thể tự nhớ nổi. Cách đây vài năm anh có viết tập sách về giới dân giang hồ Sài Gòn. Anh viết bằng tư liệu khi ở tù với họ từ Chí Hòa đến Côn Đảo. Sở dĩ anh ở tù vì tham gia vụ ám sát giáo sư N.V.B. Một thời rúng động Sài Gòn.
Viết về giới giang hồ Sài Gòn trước 1975, chỉ có anh Q.H và nhà thơ Đam San - tác giả quyển Đại bàng (NXB Văn nghệ -1987) viết là hay. Vì họ sống cùng thời, cùng chung chạ khi ở tù. Sau này, đọc bài loại đó của các nhà báo trẻ, chỉ xào xáo lại thôi. À, cái đầu con người ta cũng kỳ cục. Đang viết chuyện này, tự nhiên lại nhớ anh T.L - cây bút phóng sự số một của làng báo Sài Gòn thập niên 1990. Khi viết về ma túy, anh thâm nhập thế giới này, cũng hút thử. Lân la nhập bọn. Đồng hội đồng thuyền. Lấy tư liệu. Để viết. Rồi nghiện ngập. Chết trong nghèo túng. Con người dễ thương đó, giọng Bắc 54, mặt dài như mặt ngựa kết thúc cuộc đời bi đát quá. Có những con người, đời sống của họ dữ dội quá. Khi đọc hồi ký của Tâm Siđa, rồi gặp chị, không thể hình dung ra nổi vì sao trên đời lại có những số phận khốc liệt đến thế?
Vốn sống nhàn nhạt, đời sống tẻ nhạt của một công chức mẫn cán nếu viết tiểu thuyết chẳng qua chỉ là trò tung tẩy chữ nghĩa.
May quá, y chỉ làm thơ. Vậy có thơ gì không? Hỏi thế mà cũng hỏi. Đi hớt tóc thôi. Tóc dài rồi. Đã bạc. Mỗi thời mỗi khác. Thời tóc còn xanh, bước vào tiệm hớt tóc còn vênh vang, vênh váo lắm. Ỷ còn trẻ. Thuở ấy, còn trẻ nên y mới biết được bài thơ Hớt tóc đêm xuân. Nay, đừng hòng. Thơ rằng:
Trên cái sọ dừa mọc ra những tóc
Nửa đêm đốt đuốc dạo chơi xuân
Thì cũng gọn gàng tai với tóc
Cái răng sợi tóc vóc hồng quần
Hớt tóc kiểu nào thì cũng được
Buồn tình cạo trọc để đi tu
Chán đời cứ hớt cao chót vót
Yêu em thì cạo xuống thiên thu
Cha chả đêm xuân đi hớt tóc
Tóc rễ tre tua tủa túa như chông
Nhớ cạo mặt ta cho nhẵn nhụi
Râu ria nhột nhạt gái chưa chồng
Nhớ cạo tóc ta cho trọc lóc
Đàn áp sợi trắng ngóc đầu lên
Dẫu biết mai kia tóc lại mọc
Ta còn đốt đuốc dạo chơi đêm
Tóc chỉ trắng khi xong sứ mệnh
Hoàn thành bi kịch sợi tóc đen
Cớ sao không rụng khi nghe lệnh
Mà cứ đua đòi với bon chen?
Mà cứ xếp hàng đen lẫn trắng
Nay ta cạo trọc sạch sành sanh
Ồ biết đêm nay xuân lại đến
Tóc ơi xin hãy mọc cho nhanh
L.M.Q
Thẻ Bảo hiểm y tế của mẹ Lê Minh Quốc
Sao mấy hôm nay không có Nhật ký hả anh?
Đến phở, chưa kịp ngồi xuống ghế, anh bạn đã hỏi. Thật ra, mấy hôm nay, y cũng đã hỏi y. Đôi khi cảm thấy sự trăn trở, dằn vặt lại trở nên như một trò hề. Mỗi ngày lật trang báo, cảm thấy chữ nghĩa cũng chẳng là gì. Bao nhiêu hăm hở tắt ngúm. Cụt hứng. Chừng mươi năm trước bắt tay viết dài hơi Hỏi đáp Non nước xứ Quảng. Đã in 4 tập. Lúc bắt tay vào viết tập 5, nghe biết vài thông tin ở quê nhà. Cảm thấy chán. Cũng chuyện các quan chức. Tự nhiên lòng yêu mến, tình cảm nơi chôn nhau cắn rốn, đêm thương ngày nhớ rơi tụt mất. Chán. Chẳng muốn viết nữa. Hình đẹp từ trong ký ức với hiện thực đời sống cách xa quá. Mỗi ngày, có những cú va đập của sự việc nào đó, trong lòng hằn lên vết sẹo. Cảm thấy khốc liệt quá. Mà cũng khốn nạn quá. Làm sao có thể tưởng tượng nổi: Nhận được tin báo sắp bị bắt, tay nọ “lót tay” tay kia những 500 ngàn USD. Làm quan kiểu gì mà có thể “chung chi” số tiền lớn như thế? Một số tiền mà người lương thiện có nằm mơ cũng khó thấy nổi. Nếu có, họ phải cật lực ghê gớm. Còn đây, chỉ bằng một cú điện thoại. Là xong. Ăn xong một miếng bánh và lấy khăn mù xoa lau miệng sạch sẽ. Không phải rơi một giọt mồ hôi. Kinh khiếp quá.
Ở nhà y, mỗi chiều có chị bán hột vịt lộn, người Quảng Ngãi đi ngang qua. Mười ngày như một. Tiếng rao lanh lảnh. Hỏi chuyện mới biết, mỗi ngày chị phải đi ròng rã từ sáng đến 6 giờ chiều; sau đó, đi bán vé số đến khuya. Có như thế, may ra mỗi tháng mới để dành vài trăm ngàn gửi về quê nuôi cha mẹ già. Tự nhiên thấy tội nghiệp. Những số phận cần lao ấy đáng yêu lắm. Mỗi ngày ra chợ, thấy người nghèo mua mớ rau, con cá phải trả giá từng xu, chắt chiu từng đồng mới biết thế nào là “tiền sạch”. Đồng “tiền sạch”, nặng lắm, bởi có mồ hôi của sự lương thiện. Chỉ khi xài tiền của kẻ khác, con người ta mới dám vung tay quá trán.
Một vấn đề nổi cộm của nhiều năm qua vẫn là chuyện quan chức đi công tác nước ngoài. Báo Đời sống & pháp luật số 1, tháng 1.2014 - Cơ quan trung ương của Hội Luật gia Việt Nam, lấy thông tin từ Bộ Ngoại giao cho biết: “Năm 2012 tổng số có 3.780 đoàn của các bộ, ngành đi nước ngoài. Sang năm 2013 tuy có giảm nhưng số lượng còn lớn, tới 3.200 đoàn”. Thử hỏi, một người đi công cán "ngốn" bao nhiêu tiền? Cũng trên số báo này, ông Nguyễn Sỹ Cương - Ủy viên thường trực Ủy ban Pháp luật của Quốc hội trả lời: “Tôi lấy ví dụ một cán bộ, công chức đi châu Âu vé thường cũng phải khoảng 2.000 USD (còn vé VIP thì từ 4.000 đến 5.000 USD). Như vậy riêng tiền vé cho một người đã phải tốn từ 50 - 100 triệu đồng. Đó là chưa kể tiền ở khách sạn, tiền ăn, tiền đi lại ở nước đó, tiền công tác phí và các chi phí khác thì con số chi cho một người đi công tác nước ngoài sẽ là bao nhiêu? Thấp nhất cũng không dưới 70 - 80.000.000/ người, cứ thế mà nhân lên cho một đoàn rồi nhân với con số 3.200 đoàn một năm sẽ cho ta con số hàng ngàn tỷ”. Chà, vấn đề đặt ra ở đây là các chuyến đi đó có hiệu quả gì không? Ngày xưa, các quan lại đi nước ngoài, khi về phải viết sớ tấu trình lên nhà vua. Họ viết rất chi tiết những gì đã làm. Nay, không rõ thế nào.
Trở lại vụ hối lộ liên quan đến nội tình 500 ngàn USD. Mấy hôm nay sực nhớ đến lần được hầu chuyện với Bí thư Tỉnh ủy Hải Phòng và phu nhân. Lúc đó, vợ chồng ông nhân công tác tại TP.HCM có tổ chức thân mật gặp gỡ lãnh đạo báo chí. Y được sếp Tổng phân công đi dự. Còn nhớ, hôm đó, anh em có đặt câu hỏi với ông Bí thư, đại khái, vì sao khi nói đến Hải Phòng người ta chỉ nhớ đến sự nổi trội vẫn nhất là chuyện giang hồ, xã hội đen, đâm thuê, chém mướn? Nay qua vụ 500 ngàn USD, có thể tìm ra câu trả lời chăng? Báo Đời sống & pháp luật (số 6.1.2014) khẳng định có “Dấu hiệu bắt tay với xã hội đen”. Nếu đúng như thế, liệu cơ quan công an có còn là “nắm đấm thép” không? Cũng số báo này, Thiếu tướng Lê văn Cương - nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược (Bộ Công an) trả lời câu hỏi: “Theo ông, tại sao khi rơi vào vòng vây nợ nần, người dân thường chọn cách giải quyết ngoài pháp luật thay vì kiện ra tòa?”. Câu trả lời như sau: “Chẳng ai muốn thuê xã hội đen hoặc dùng “luật rừng” vào việc đòi nợ bởi sẽ rất dễ dính đến pháp luật, vô tình trở thành kẻ phạm pháp. Nhưng rõ ràng khi cơ quan chức năng đứng ngoài cuộc, họ đành phải dùng các biện pháp ngoài luật. Người ta ưa vào “xã hội đen” vì họ không tin vào hệ thống tư pháp. Bên cạnh đó, phải nhận rằng việc đòi nợ bằng con đường khởi kiện ra TAND mất rất nhiêu thời gian và dù thắng kiện thì thi hành án cũng không dễ”.
Sáng vào cơ quan họp. Trưa, trên đường về nhà vẫn thói quen ghé sạp báo quen lựa vài tờ báo. Anh bán báo lại giới thiệu tờ báo Đời sống & pháp luật hôm nay (8.4.2014). Anh lật trang 4 - 5 chỉ tay vào một cái tít dài. Chà, cái tít dữ dội quá, cỡ gan thỏ đế như y chẳng dám há miệng ra nói bao giờ: “Nhiều người dân bị dồn nén “sau một đêm” trở thành tội phạm?”. Bèn mua. Đọc thấy ý kiến có của đại biểu Quốc hội Trần Thị Khá: “Việc người dân bị đẩy vào tình thế cùng cực rồi phạm tội, trong khi đó, cơ quan ban hành quyết định hành chính sai, tòa án trì hoãn sử lý dẫn đến án hình sự lại không chịu trách nhiệm liên đới như hiện nay là một việc bất công. Theo tôi, xử tội của người vi phạm thì cần thiết phải truy đến cùng nguyên nhân đẩy người dân vào hoàn cảnh cùng cực, dẫn tới phạm pháp. Những hành vi phạm tội như trên đều có nguyên nhân vì quá bức xúc trong tranh chấp một quyết định sai của chính quyền, hoặc tòa án. Tuy nhiên hiện nay, trong luật chưa quy định rõ ràng, chưa cụ thể chuyện trách nhiệm này, dẫn tới để quy trách nhiệm rất khó khăn. Một người gây hậu quả chết một người thì chỉ có một người, trong khi đó ban hành một chủ trương sai, một quyết định hành chánh sai có thể làm sai một vấn đề, gây thiệt hại lớn về kinh tế, quyền lợi của người dân nhưng đến nay không có chế tài nào xử lý là điều phi lý nhất”.
Đoc xong, giấc ngủ trưa không ngon như mọi ngày.
Hôm nay, vào cơ quan đã nhận được Thẻ Bảo hiểm y tế của mẹ từ Đ.N gửi vào. Nhìn một lúc, tính rợ một lúc mới hay mẹ đã 86 tuổi. Chiều, em C.L đòi phải có bài điểm sách gấp. Bèn viết. Rồi lang thang facebook. Tình cờ nhìn thấy hình ảnh bài thơ Mẹ về quê chồng của y in trên báo Dân Việt. Số Xuân phát hành ở Úc. Bài thơ viết đã lâu, đã in trong tập Yêu em, Đà Nẵng. Bìa tờ báo rực rỡ, có câu: "Mừng Tết Quý Tỵ/ Phúc vươn cành lộc”. Chẳng rõ, nếu thọ bằng tuổi mẹ như bây giờ, y còn có thể minh mẫn, đi chợ, nấu cơm, quét nhà, bơm nước, giặt giũ, xem ti vi… như mẹ không?
Nghĩ cũng may, nếu nhân loại không sáng chế ra cái truyền hình, mẹ y sẽ làm gì trong một ngày. Đọc sách? Không thể. Vá áo? Cũng không. Mắt đã mờ làm sao có thể xỏ kim. Lân la trò chuyện hàng xóm? Không thể. Ở Sài Gòn nhà nào biết nhà đó. Bước vào nhà, khóa cổng. Nhà sát cạnh nhau bao nhiêu năm cũng chẳng biết vợ chồng nọ tên gì, làm nghề gì. Nghiệm ra rằng, quảng cáo trên truyền hình là hiệu quả nhất. Các bà nội trợ lúc rảnh rỗi thường có thói quen dán mắt vào màn hình. Vì thế, ở nhà y hễ truyền hình có quảng cáo cái gì liên quan đến nồi, niêu, xoong, chảo, nước mắm, xì dầu, hành, tiêu, ớt, tỏi... nghe lọt tai là mẹ y lại khệ nệ vác về. Đến năm 86 tuổi, y sẽ thế nào? Chẳng ai có thể biết trước điều gì. “Hãy cứ vui chơi cuộc đời. Đừng cuồng điên mơ trăm năm sau. Còn đây em ngọt ngào. Đứng bên ngày yêu dấu. Nhìn mây trôi đang tìm về núi cao" (T.C.S). Sống cho mình. Tận hưởng từng ngày. Nghĩ lại, các bậc làm cha mẹ khổ quá. Lúc ấy, chỉ sống cho con. Làm mọi thứ cũng vì con. Mỗi ngày, sau khi y ăn xong, bà cụ lại giở lồng bàn xem y hôm nay ăn uống thế nào? Món ăn nào nó không đụng đũa đến, y như rằng, lần sau chẳng có nữa. Đổi qua món khác. Bởi nghĩ trong đầu, con mình nó không thích. Mỗi ngày, con đi làm về ngồi vào bàn mà ăn nhiều, ăn hết là vui. Bà mẹ nào cũng thương con. Khổ nổi, thằng con mình nó lại mê con gái người khác hơn. Đêm hôm khuya khoắt lại mưa gió chẳng bà mẹ nào sai con đi ra phố mua cho bát phở, cái bánh... Mà có sai bảo, thằng con cũng vùng vằng, càu nhàu. Ấy thế, con vợ hoặc người tình của nó sai bảo là nó chấp hành ngay tắp lự. Thậm chí, trước lúc đi, nó còn huýt sáo hào hứng như đang thực hiện một nhiệm vụ vẻ vang rất đáng tự hào. Rất bản lĩnh. Rất đáng khen. Rất đáng tuyên dương. Đừng nói đâu xa. Chính y đó thôi.
Mấy hôm nay báo xuân đã phát hành lai rai, đọc báo Người lao động số Xuân thấy có tạp bút của nhà văn Đoàn Thạch Biền. Chi tiết này hay, vào thập niên 1960 của thế kỷ trước: “Ở Đà Nẵng khi đó, đường nào ngắn nhất và chỉ có một số nhà? Đó là đường Lê Văn Duyệt”. Anh cho biết thêm: “Mặt tiền tòa án số 28 Bạch Đằng, đối diện với thương cảng. Một bên hông tòa án là số 1 Lê Văn Duyệt, dài khoảng 300 mét”.
Chiều rồi. Đã đến giờ qua TT họp mặt kỷ niệm 30 năm báo TTC. Đi thôi.
L.M.Q
Quái quỷ nghề cầm bút. Lúc nào cũng viết. Có thể viết bất cứ ở đâu. Có lần, nghĩ chẳng nên chút nào. Viết nhiều quá dễ khiến bạn đọc nhàm chăng? Người cầm bút nào lại không ý thức như vậy. Viết ít thôi. Cẩn trọng hơn với chữ nghĩa. Có lần nói chuyện này với ông già Sơn Nam, ông bảo, ai nói cũng được, dễ nghe lọt lỗ tai, thiên hạ đồng tình. Họ hoan nghênh. Họ vỗ tay. Nhưng rồi có ai cho mình một xu không? Không hề. Cả cuộc đời Sơn Nam liên tục viết, ngay cả lúc nằm giường bệnh, lúc trí óc không còn minh mẫn nữa. Đến thăm ông ở căn nhà trên đường Đinh Tiên Hoàng, vẫn thấy cuốn vở học trò đặt đầu giường. Lúc đó, ông không thể ngồi để gõ máy chữ được nữa. Nhớ nhất câu ông nói: “Đã hư, dẫu có viết khảo cứu cũng hư”. Ông giải thích thêm, thời của ông có nhiều người giả vờ đạo mạo tự làm sang mình bằng cách viết những đề tài về học thuật, nghiên cứu lịch sử, khoa học, giáo dục… Thế nhưng chẳng ai thèm đọc bởi tỏng tư cách người đó hư hỏng, nhận tiền của tổ chúc nào đó để viết. Viết khen, chê theo chỉ đạo. Đừng tin các bài viết đó. Đừng tin loại người đó. Chẳng rõ, loại người như nhà văn Sơn Nam nói, thời buổi này có không?
Sáng nay đang viết ngon trớn, phải dừng. Nhớ đến cuộc hẹn với anh em TTC. Đến nơi đã thấy không khí vui nhộn. Nhiều trò chơi. Trẻ trung. Trưa, đi ăn với anh Triều. Rủ thêm Lê Văn Nghĩa nhưng lão đã về nhà rồi. Quái, đố nhà báo nào có thể cậy răng để có được một bài phỏng vấn về lão. Lão chỉ nói, nhà văn là tác phẩm. Tìm hiểu qua tác phẩm là đủ, chứ hỏi nhà văn làm gì? Tróe ngoe chưa? Lão lại ngại xuất hiện nơi đám đông. Sáng nay, Ngày hội 30 năm cùng TTC, lão là một trong những “chủ xị”. Thế nhưng khi phát giải thi thơ hài hước, châm biếm anh em đề nghị lên sân khấu, lão lại không. Chỉ đứng dưới đất như mọi bạn đọc. Còn y ngược lại. Y nhố nhăng quá. Y ham hố quá. Chỗ nào, nơi nào anh em nhờ là y cứ đưa cái mặt ra. Chỉ nghĩ, chơi thôi. Vui thôi. Có gì phải từ chối? Cũng như chuyện viết. Nhiều lần tự nhủ, viết ít thôi. Nhưng rồi mỗi ngày, y lại cày cần mẫn. Chăm chỉ. Tự an ủi, viết nhiều hay ít cũng thế. Chẳng quan trọng gì. Miễn mình thấy vui là được. Khổ thật. Nhiều khi không thích, không vui nhưng vẫn phải viết. Anh em chơi với nhau, báo bạn nghèo, nợ nhuận bút mấy tháng liền vậy mà cũng viết. Chẳng lẽ từ chối thẳng thừng? Coi sao được.
Trên đường về, cùng anh Triều ghé vào quán. Hai người một góc. Đang ăn ngon trớn, có cuộc điện thoại của VTV. Đã hẹn trước từ mấy hôm nay. Vậy phải dừng. Đến nơi cho đúng hẹn. Hơn nữa, y cũng muốn đến nhà họa sĩ người Hoa Trương Hán Minh xem tranh. Anh em quay phim của VTV đang ở đó. Vô cùng lý thú khi bước vào một căn nhà treo đầy tranh thủy mạc. Ông Trương Hán Minh vẽ cá. Nhìn cứ cảm tưởng như cá đang bơi trước mặt. Ông còn viết thư pháp cực đẹp. Hỏi thích chữ gì sẽ viết tặng. Chẳng lẽ nói thích chữ “tiền”? Ngại quá, nên thôi.
Mà này, lúc nghe điện thoại, trời đang nắng. Giữa trưa nắng lại rời khỏi quán, có điên không? Biết thế nào. Anh em chơi với nhau, lúc này họ cần mình để công việc họ tốt hơn. Lẽ nào từ chối? Từ chối, lần sau, lúc mình nhờ, liệu họ có giúp lại không? Chẳng ai có thể sống riêng lẻ. Chẳng ai có thể vận động một mình. Phải nương nhờ nhau. Thậm chí còn “cho ta nương nhờ chút thở than” (T.C.S). Thở than là chuyện riêng tư, vậy mà cũng cần. Cần một chia sẻ, một lắng nghe, một an ủi, một động viên chứ huống gì trong công việc.
Trên đường đi đến quận 11, sực nhớ đã chừng mươi năm nay không đi qua đây nữa. Lúc mới làm báo, mỗi tuần y phải đi vài lần. Đi xuống tận Bình Chánh luôn. Bởi tòa soạn giao y viết mảng công tác Hội PN các quận, huyện ngoại thành. Tuần nào cũng phải đi xuống cơ sở. Đi bằng chiếc xe honda cà tàng. Ngày nào đi công tác thì chiều hôm trước vào phòng tài vụ nhận phiếu xăng. Sáng sớm vào cơ quan, đưa phiếu ra, có người đổ xăng cho. Lại lan man sực nhớ đến anh T.T.T, nhà văn. Nhà anh ở khu này. Chỗ nhà máy rượu Bình Tây. Anh cùng thế hệ với Nguyễn Nhật Ánh, Nguyễn Đông Thức, Võ Phi Hùng… Có nhiều tác phẩm đã in. Có cái đã dựng thành phim. Nay anh đã chết mất xác, theo nghĩa bóng. Rằng, ngày nọ anh cùng một nhà báo “tống tiền” doanh nghiệp nọ. Sự việc vỡ lỡ. Báo chí phê phán dữ dội, nhất là tờ P.L. Xấu hổ, anh bỏ bút. Rời khỏi đường đua. Chìm vào quên lãng. Đi vào bóng tối. Nhớ, lúc y còn sinh viên, anh T có nhận làm tờ Tuổi 18 cho tỉnh Hội VHNT tỉnh Tây Ninh. Anh giao cho y, H.B, L.K.C… viết bài hàng tuần. Nhờ thế mới có đồng ra đồng vào. Nghĩ và tiếc cho một người. Đi, tự nhiên lại nhớ đến anh em của tờ Bản tin quận 11. Nhớ anh Nguyễn Lang Quân, viết từ trước 1975, viết nhiều viết, viết khỏe. Lâu lắm rồi không gặp. Dòng đời lạ lùng. Có lúc ngoảnh lại. Sực nhớ. Lập tức bao nhiêu gương mặt cũ lướt qua. Những gương mặt đã lâu lắm chẳng hề gặp lại. Chẳng thể xác định nổi từ lúc nào không gặp người đó? Chịu.
Chịu, chẳng thể nhớ từ lúc nào không gặp anh B. Chiều qua lật quyển Tiếng nói nôm na tra lại vào chữ. Ngay trang đầu tiên là dòng chữ ký tặng của anh. Chừng mươi năm trước, khi thị trường sách có chính sách cho tư nhân liên kết xuất bản. Nghĩa là tư nhân được bỏ tiền ra mua giấy phép của nhà xuất bản, tự tìm nguồn bản thảo, bỏ vốn ra in và tự phát hành. Lời ăn lỗ chịu. Anh B là một trong những người làm sách kiểu đó. Sách của anh đàng hoàng. Bán được. Đời sống kinh tế ngon lành. Anh học trên y vài năm ở trường Đại học Tổng hợp nên thân tình. Nay anh đã chết mất xác, theo nghĩa bóng. Rằng, con trai anh nghiện hút. Anh cưới vợ cho nó, hy vọng nó vui duyên mới, sinh con đẻ cái thì sẽ cai được. Nào ngờ, con dâu bị thằng chồng dụ dỗ cho nghiện luôn. Bực mình quá, anh bảo nghiện hút mà bỏ được mới đáng mặt đàn ông. Nghiện mà không cai được là loại người vứt đi. Để làm gương cho nó. Anh hút. Rồi sẽ bỏ. Có như thế mới thuyết phục được con. Nào ngờ, anh lại vướng sâu. Chân không rút lên khỏi vũng lầy. Chìm sâu. Thân tàn ma dại. Thỉnh thoảng, thời báo PN ở 188 Lý Chính Thắng, anh B có đến tìm y xin tiền. Y vẫn cho. Bẵng đi không gặp nữa. Qua chuyện này, thấy rằng câu tuyên truyền “Ma túy, đừng thử, dù chỉ một lần” luôn luôn đúng.
Con cái hại bố mẹ. Ngược lại bố mẹ cũng hại con. Hôm trước Tẹo - em út, từ Đ.N vào công tác ở S.G. Anh em rủ nhau lai rai. Hỏi, L dạo này thế nào? Chỉ là cái chép miệng nuối tiếc. Nay L đã chết mất xác, theo nghĩa bóng. Rằng, ngay từ nhỏ L được ông bố cưng chiều lắm. Đi đâu cũng dẫn đi theo. Kể cả lúc đi đánh bài. Dần dần thấy quen với môi trường này. “Con ong đã tỏ đường đi lối về”. Sau khi bố mất, L chơi bài chung với các bạn của bố. Chơi riết rồi nghiện. Dù gia đình giàu có, đời sống phong lưu nhưng vài năm trước đã bỏ trốn qua nước khác. Sống chui nhủi. Nợ bài bạc. Không thể trả nổi. Không trả xã hội đen nó giết. Đành phải trốn. Hỏng cả một đời. Đọc Hồi ký của Tâm Si đa, trong đó, chị có đúc kết vài nguyên nhân chủ yếu khiến trẻ em phạm tội chính là do bắt đầu từ gia đình. Chị thống kê, gia đình nào bố mẹ làm chủ chứa, buôn má túy, nuôi đĩ điếm thì có đến gần 90% con cái sẽ theo nghề! Rùng mình chưa.
Mai chủ nhật rồi. Ăn gì đi chứ? Chẳng lẽ, lại phở nữa sao?
L.M.Q
Khán phòng chương trình Đấu trường 100 ngày 3.1.2014
Tối qua lai rai mừng năm mới. Có cả Đoàn Tuấn từ Hà Nội vào. Câu chuyện quanh bàn nhậu lại bàn chữ nghĩa. Về từ “chùa chiền”, "chợ búa” có người gợi ý nên tìm đọc Tiếng nói nôm na (NXB Văn nghệ TP.HCM - 1999) của Lê Gia xem sao. May quá trong nhà có tập sách này, dày 1.590 trang. Chiều nay đọc lại:
Trang 137, giải thích: “Chùa chiền”: chữ “chiền” do chữ “thiền” là sự im lặng tuyệt đối, im lặng và nghĩ ngơi; “chùa chiền”: cái chùa thờ Phật, nơi tuyệt đối im lặng và suy nghĩ.
Trang 148, giải thích: “Chợ búa”: Nơi có tiếng ồn ào, lộn xộn, mọi vật vải vóc, tiền bạc bày ra khắp nơi”; “búa”: Do chữ “bố” là vải vóc, tiền bạc, sắp bày ra, nói rõ ra, khắp nơi, và chữ “bố” (cũng đọc là “bộ”) là bến sông, chợ họp bên sông.
Hợp lý quá. Lại hỏi, tại sao "th" lại biến thành "ch"? "ố" biến thành "úa"? Hôm nào có dịp gặp ông bạn già An Chi nhờ giải thích vậy. Mà này, có ai ý kiến gì khác không? Ồn ào nào nhiệt chuyện chữ nghĩa vẫn là thói quen trong cuộc nhậu như mọi lần. Có người đọc câu ca dao:
Người xinh giọng nói cũng xinh
Người giòn cái tỉnh tình tinh cũng giòn
Hiểu thế nào về “giòn”? Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học Việt Nam (NXB KHXH - 1988), trang 423 giải thích nhiều nghĩa, nghĩa thứ 3: “Có vẻ đẹp khỏe mạnh (thường nói về phụ nữ). Một người vừa xinh vừa giòn; (Nước da) đen giòn”. Vậy giải thích thế nào câu tục ngữ: “Đông con, giòn mẹ". Chẳng lẽ, người phụ nữ sinh nở nhiều “có vẻ đẹp khỏe mạnh”? Vô lý. Lúc ấy, có người lại bảo, câu ca dao này của Quảng Nam:
Trăng lên trên đỉnh mu rùa
Cho anh chơi chịu tới mùa anh trả khoai
Chữ “chơi” thay cho chữ khác. Trang nhã hơn. "Đỉnh mu rùa" chỉ là cách nói, nhiều ngụ ý, gợi liên tưởng hình ảnh khác. Lâu nay, vẫn nghĩ của vùng Thanh Nghệ. Ủa? Hóa ra câu này của quê mình? Lấy gì làm bằng chứng? Anh bạn bảo, đọc bài Hát xạo trong hò khoan xứ Quảng của Đinh Thị Hựu (tạp chí Non Nước số 12.2013) có câu kế tiếp. Rằng, khi nghe chàng kia ỡm ờ, tinh nghịch, cô nàng bèn đáp:
Trăng lên trên đỉnh núi rồi tề
Làm chi làm đại một cái để em về kẻo mẹ la
Đọc kỹ lại đi. Đúng là của Quảng Nam. Bằng chứng nằm ở chữ “tề”. Mà thật ra rất khó, thậm chí có thể đi vào ngõ cụt khi muốn xác định câu ca dao từng vùng miền cụ thể. Khi chọn các bài báo của Phan Khôi in thành tập, nhà nghiên cứu rất chu đáo, cẩn trọng là ông bạn Lại Nguyên Ân không giải thích được chữ “ngẳng”. Đơn giản, ông không phải người Quảng Nam nên không hiểu thổ âm, thổ ngữ vùng đất đó. Dù người Quảng Nam đi nữa, có những từ Quảng Nam cũng không giải thích nổi. Xét rộng ra, chắc gì người Việt đã hiểu hết ngữ nghĩa tiếng Việt? Sực nhớ câu “Đồng không mông quạnh”. Hỏi, “mông” là gì? Còn hằng hà sa số những từ mà ta chỉ cảm, chứ khó có thể giải thích rành mạch.
Trò chuyện lan man chuyện chữ nghĩa cũng một cách làm nhộn men rượu. Còn hơn cay cú bàn những chuyện gì đó, cuối cùng, đời thêm đáng chán. Đêm qua, không dám uống nhiều. Ngày mai còn tham gia chương trình Đấu trường 100. Chỉ uống cầm chừng. Vẫn những gương mặt thân thiết chí cốt của tình bạn. Lúc quay về, cảm thấy trời lành lạnh. Đâu đó đã có mùi Tết trên vòm xanh phố xá Sài Gòn. Bình yên lạ thường. Và nhớ một người.
Sáng nay, mọi việc tốt đẹp. Thức dậy sớm. Ủi cái áo. Đánh sira đôi giày. Đứng soi gương. Cười hơn hớn. Vẫn phở. Khi đến nơi đã thấy người chơi đông đủ. Đã thấy một mâm ngũ quả cúng ngay sàn diễn. Cúng lấy hên đầu năm. Trầm thơm. Lòng nhẹ nhàng. Ban Tổ chức thông báo vui vẻ những cái đầu tiên: Cuộc chơi đầu tiên mở màn cho chương trình này trong suốt năm 2014; đầu tiên có 100 thiếu nữ mặc áo dài cùng tham dự; đầu tiên có nhà thơ là nhân vật chính. Trước đây, họ cũng mời những “người của công chúng” nhưng hầu hết đều chối. Sợ thua. Còn y lại không. Đặt nặng thắng thua làm gì. Thắng chả sang hơn. Thua chẳng gì xấu hổ. Cuộc chơi nào không có thắng thua? Bình thường thôi. Khi đứng trước 100 “đối thủ” mặt ngọc xinh tươi, tự nhiên y thấy tự tin. Dẫn dắt cuộc chơi là MC Thái Tuấn.
Các câu hỏi như sau: Câu 1: Để sử dụng bếp từ chế biến thức ăn, nhà bếp cần có điều kiện gì? A. Có xoong nồi chuyên dụng; B. Có nguồn điện một chiều; C. Cả hai điều kiện trên. Câu 2: Loại sữa tươi nào có tác dụng dinh dưỡng tốt cho da hơn? A. Sữa bò; B. Sữa trâu; C. Sữa dê. Câu 3: Trong cả cuộc đời, một người phụ nữ bình thường có khả năng sản sinh ra bao nhiêu trứng hoàn chỉnh? A. Khoảng 50 trứng; B Khoảng 100 trứng; C.Khoảng 350 trứng; Câu 3: Trong ba người phụ nữ này, ai làm vua trong lịch sử nước ta? A.Lý Chiêu Hoàng; B.Dương Vân Nga; C. Ỷ Lan. Câu 4: Loài hoa nào được nhắc tới trong bài thơ “Chân quê” nổi tiếng của nhà thơ Nguyễn Bính? A. Hoa bưởi; B.Hoa chanh; C.Hoa cam; Câu 5: Bức tranh Leona de Vinci còn gọi bằng tên khác là? A. La Jocond; B. Nữ bá tước; C.The kiss; Câu 6: Pháp lệnh của Nhà nước về Bà mẹ Việt Nam anh hùng công bố năm nào? A. 1970. B.1980; C.1994.
Nhờ ơn Chúa, y đều trả lời trúng chóc.
Lâu nay cứ tự nghĩ hậu đậu, ngốc ngếch mà đâu ngờ y cũng thông minh ra phết đấy chứ? Chà, khó nhất là câu 3. Hú hồn, tự nhiên lúc ấy, lại nhớ đến huyền thoại bà Âu Cơ đẻ 100 trăm trứng. Suy ra, số trứng phải nhiều hơn chứ? Rõ ràng, chẳng dựa trên cơ sở khoa học. Chẳng hiểu biết gì về cấu tạo của người phụ nữ. Thế nhưng lại chọn đúng đáp án! Cú “ngáp phải ruồi” này ngon cơm quá. Lại tự sướng nữa rồi!
Hết câu 6 chỉ có còn 16 người chơi. 84 người kia, do trong quá trình chơi chọn đáp sai nên bị loại. Lúc này, số tiền thưởng của y đã lên 20 triệu. Chơi nữa không? Anh Thái Tuấn hỏi y. Y hỏi người chơi. Cả 100 người đồng thanh chơi tiếp. Chọn thế nào đây? Thật ra khi chơi, y chỉ nghĩ cho vui chứ không đặt nặng thắng thua. Thành thật mà nói, y có nghĩ trong đầu nếu được nhận số tiền thưởng lớn, sẽ chia lại cho người cùng chơi. Ừ, chơi nữa vậy. Y gật đầu. Chơi nữa, nếu thua, trả lời sai đáp án là mất sạch tiền thưởng. Hú vía, lúc ấy, chương trình báo hết giờ. Ở hiền gặp lành mà. Do chương trình đầu năm có nhiều điều đặc biệt đầu tiên nên cách chia tiền thưởng cũng “phá lệ”: Số tiền 20 triệu còn lại của các câu tiếp theo, dù không chơi nữa nhưng vẫn chia đều cho 16 những người chưa bị loại. Hợp lý quá. Vậy ai cũng có tiền thưởng. Những gương mặt thiếu nữ sáng láng, còn trẻ, họ vỗ tay vang trời. Tình người ấm áp. Cuộc chơi hòa đồng thân ái.
Nếu không gì thay đổi, chương trình này phát sóng lúc 20 g ngày 3.3.2014. Nhớ đón xem.
Sáng mai, đến Thảo Cầm viên với TTC. Chiều mai, trả lời VTV 9 về ý nghĩa của con ngựa trong văn hóa người Việt. Đã nhận lời VTV 6 sẽ tham gia chương trình nói về lòng nhân ái tại Nhà hát Hòa Bình vào 22 Tết, lúc 20g.
Ngày hôm nay vui. Vui vì có tiền. Thử nghĩ, tính đổ đồng mỗi bài báo y viết, 1 chữ tính 1 ngàn đồng. Nếu muốn có được 20 triệu đồng, y phải viết bao nhiêu chữ? Chỉ nghĩ thế là vui. Đôi khi niềm vui cũng đơn giản. Chúa bảo: “Con hãy sống bằng mồ hôi trán của con”. Lâu nay, y vẫn nguyện như thế.
Chiều nay làm gì? Chẳng lẽ, ngồi nhà viết Nhật ký nữa sao?
L.M.Q
Trang 43 trong tổng số 58