LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 14.12.2013

 

1nhat-ky-

Sơn dầu của Lê Minh Quốc

 

Mấy hôm này, xuống phố đã nghe nhạc giáng sinh. Rộn ràng. Tươi vui. Cảm giác, Tết đang đến gần. Âm nhạc đó đã trở thành nét văn hóa chung, chứ không chỉ riêng người có đạo. Nhà thơ Kiên Giang có câu thơ hay:

Lạy Chúa con là người ngoại đạo

Nhưng con tin có Chúa ngự trên trời

Bài thơ Tha La xóm đạo của Vũ Anh Khanh là bài thơ nổi tiếng. Đoạn kết:

Hãy về thăm xóm đạo,

Có trái ngọt cây lành.

Tha La dâng ngàn hoa gạo,

Và suối mát rừng xanh.

Xem đám chiên lành thương áo trắng.

Nghe mùa đổi gió nhớ quanh quanh.

Trong Nhà văn hiện đại, từ năm 1942, Vũ Ngọc Phan viết: “Thơ tôn giáo ra đời với Hàn Mặc Tử. Tôi dám chắc rồi đây có nhiều thi sĩ Việt Nam sẽ tìm cảm hứng trong đạo giáo và đưa thi ca vào con đường triết học, con đường rất mới, rất xa xăm mà đến năm chưa mấy nhà thơ dám bước tới”. Đến nay vẫn chưa thấy gì khác.

Đêm qua ngồi lai rai với Dương Công Đức, Đoàn Vị Thượng, Gia Hòa. Anh Dương Công Đức nhờ đọc lại bản thảo Trảng Bàng phương chí. Trên 1.000 trang, khổ A 4. Chữ vi tính chi chít. Thật đáng nể, còn trẻ, sinh năm 1974 đã dành 2 năm để viết về quê hương mình. Viết từ khảo sát thực địa, từ tài liệu, từ lời kể của nhân chứng. Cẩn trọng. Công phu. Đáng ghi nhận ở chỗ khách quan. Vùng đất nào cũng có những con người tâm huyết ấy thì hay quá.

Về bài thơ Tha la xóm đạo, anh viết: “Trong giai đoạn trước 1945, nhà văn Thẩm Thệ Hà kết thâm giao với nhà thơ Vũ Anh Khanh và trong một lần vào năm 1949 khi được anh bạn thi sĩ về thăm quê Trảng Bàng, có ghé sang làng An Hòa kế cận. Tại đây trước cảnh hoang tàn, vắng vẻ của giáo xứ Tha La do chiến tranh ly loạn, Vũ Anh Khanh đã sáng tác nên bài thơ bất hủ và sau đó đã trở nên nổi tiếng khắp miền Nam do được nhạc sĩ Dzũng Chinh và Sơn Thảo phổ nhạc thành bài Hận Tha La. Có lẽ đây là một trong những bài thơ hay nhất và nổi tiếng nhất viết về Trảng Bàng trong giai đoạn 1945 đến 1975. Điều thú vị, tác giả là người Bình Thuận”. Có những địa danh được nhiều người biết đến là do tài năng văn nghệ sĩ. Chẳng hạn, nhạc sĩ Xuân Hồng với Tiếng chày trên sóc Bom Bo, nhà văn Dương Hà với Bên dòng sông Trẹm... Rồi nhà văn Tô Hoài có làng Nghĩa Đô, Nguyễn Nhật Ánh có quán chợ Đo Đo... được đọc yêu mến bởi nó trở đi trở lại trong nhiều tác phẩm của họ. Ngay cả xứ Cà Bây Ngọp ở Nam bộ chẳng biết hư thật thế nào nhưng đã "chết tên" trong truyện ngắn Tình nghĩa giáo khoa thư của nhà văn Sơn Nam v.v...

Tập sách Trảng Bàng phương chí của Dương Công Đức thế nào? Chưa có thể nói, nhưng ít ra đây là tâm huyết của một người quá yêu quê hương Tây Ninh mà viết. Trước đây, qua tập Lược sử tộc Dương và sự hình thành làng Gia Bình, Trảng Bàng (Tây Ninh), anh đã chứng minh thuyết phục dòng họ Dương ở Tây Ninh có nguồn gốc từ Quảng Nam. Việc nghiên cứu này rất đáng ghi nhận. Thấy bạn trẻ làm được một việc tốt, cũng nên có thái độ ủng hộ. Sẽ đọc kỹ bản thảo này.

Chẳng hiểu do cái cơ chế gì mà lâu nay chỉ một nhóm cán bộ thuộc Viện này, Hội nọ đứng ra thầu làm sách địa phương chí một kiểu “làm ăn”. Họ tập hợp lực lượng “đánh” từ Nam chí Bắc, dù chẳng hề sinh ra tại nơi đó. Ấy mới kinh, ấy mới tài. Mà thật ra, dù không sinh ra nơi ấy cũng chẳng sao, ai cấm? Nhưng không có tình yêu máu thịt với vùng đất đó, làm sao có thể viết gì được? Nếu có chỉ là những con chữ vô hồn, những số liệu thống kê như bản báo cáo. Chán phèo.

Vấn đề này, trước đây, y từng suy nghĩ: “Lại có một khoảng thời gian rất dài, các công trình nghiên cứu về địa chí của tỉnh này, tỉnh nọ chỉ nằm trong tay một nhóm người. Tôi có thể liệt kê danh sách, nếu cần. Do có học hàm, học vị và đang công tác ở viện này, viện nọ nên những người này có uy tín, có điều kiện đặt vấn đề với UBND các tỉnh, huyện, thậm chí cả cấp xã để làm địa chí. Đây là một nhu cầu cần thiết để quảng bá địa phương nên đề nghị này thường được tán thành, thậm chí tán thành nhiệt liệt! Cứ nhìn hàng loạt địa chí đã công bố thì rõ. Nhiều người cho biết, trong năm chỉ cần ký được một hợp đồng làm địa chí cấp tỉnh là “sống khỏe”, bởi kinh phí cho mỗi công trình này không có quy định cụ thể nào mà tùy theo sự hào phóng của từng địa phương. Sau khi có kinh phí, “nhóm chủ biên” lại đặt hàng cho người khác viết để cuối cùng gom lại thành sách.

Điều đáng phàn nàn nhất là các tập địa chí trên đều được thực hiện theo một dàn bài y chang nhau, bất chấp tính đặc thù của từng địa phương. Lật bất kỳ tập địa chí nào, ta cũng gặp “cấu trúc”: Tự nhiên và dân cư; Lịch sử và truyền thống đấu tranh; Kinh tế; Văn hóa; Giáo dục; Nhân vật tiêu biểu… Trong đó, giống nhau nhất vẫn là các phần viết về thời chống Pháp và chống Mỹ vì đa phần sử dụng tài liệu chung của cả nước chứ không riêng gì của địa phương đó. Nếu có khác chăng chỉ là phần hình ảnh minh họa.

Với kiểu làm địa chí như trên, chất lượng chỉ là cưỡi ngựa xem hoa. Cả một đời sống gắn bó và nghiên cứu tận lực chưa chắc đã nên “cơm cháo” gì, thế mà có nhóm người cứ “đánh” hết địa phương này sang địa phương khác!

Cách làm “khoa học” như trên đã góp phần lý giải vì sao từ năm 1975 đến nay, chúng ta vẫn chưa có những địa phương chí đúng nghĩa. Thật ra, tính đến nay thì các nhà địa phương học của ta chỉ có thể đếm trên đầu ngón tay. Chẳng hạn, ông Nguyễn Vĩnh Phúc với Hà Nội; Nguyễn Văn Xuân với Quảng Nam; Quách Tấn với Bình Định; Toan Ánh với vùng Kinh Bắc; Nguyễn Khắc Xương với Vĩnh Phú; Sơn Nam với Sài Gòn… Trong khi đó, hầu như địa phương nào cũng có các tập địa chí đồ sộ!

Đã đến lúc, chúng ta phải nhìn nhận thực trạng này một cách công khai và minh bạch nếu thật sự muốn thay đổi chất lượng của việc nghiên cứu khoa học”.

Thật buồn cười, trưa nay, đọc tờ báo Người Hà Nội cuối tuần (15.12.2013) có bài Lạ lùng chuyện người chết “nuôi” người sống ở “vương quốc lăng mộ” xứ Huế.  Đề tài này không mới, đọc vẫn giật mình: "Vương quốc cõi âm" này thuộc làng An Bằng, xã Vĩnh An, huyện Phú Vang (Thừa Thiên Huế), diện tích, được khoanh làm bốn vùng rộng lớn gồm Bằng Thượng, Trung Hải, Định Hải và An Mỹ. Cả làng có 44 họ tộc với lịch sử gần 500 năm. “Ông Hồ Thiết (80 tuổi) người chuyên phụ trách các nghi lễ của làng cho hay, hiện nay làng Bằng An có khoảng 3.000 lăng mộ, mỗi ngôi mộ có chi phí trung bình khoảng 30.000 USD, trong đó khu mộ của dòng họ Trương được xem là đắt và đồ sộ nhất thành phố lăng này khi tổng chi phí tính đến thời điểm này khoảng 50.000 USD”.

Choáng chưa?

Ấy là thói xấu của người Việt. Cái thói “con gà tức nhau tiếng gáy”. Mộ dòng họ này to, cao thì dòng họ mình phải to, cao hơn. Pháo nhà này nổ dài thời gian thì pháo nhà mình phải hơn thế nữa. Chết là hết. Cần gì phải tốn kém như thế? Trong khi người chung quanh, bà con xóm giềng còn trú thân trong cái nhà ọp ẹp, lụp sụp nghèo nàn thì sự "khoe của" ấy rất đáng trách. Nếu không muốn nói là hợm hĩnh. Chết là hết. Cái chết chỉ có ý nghĩa khi sinh thời người đó đã làm gì cho cộng đồng chứ không phải cái mồ phải to, cao như cái lăng. Đem tiền xây lăng mộ vô bổ ấy mà xây trường học, làm cầu đường… mới là báo hiếu người đã khuất. Ném tiền vào việc xây dựng mê muội và hãnh tiến đó, nghĩ cho cùng đáng thương quá. Thương hại cho thói xấu của người Việt.

Ngày hôm qua, thứ Sáu ngày 13. Lại sực nhớ, thứ sáu ngày 13.11.2009. Ngày đó, lên Đà Lạt bằng máy bay. Lúc nhận hành lý, mới hay chai rượu đỏ mang theo bị vỡ. Rượu lênh láng. Điều này báo trước gì vậy? Chuyện này chỉ một người chứng kiến. Lần đầu tiên ra biển. Sóng của mùi hương thơ dại còn quấn quýt mãi trong âm vang của tình nhớ. Nhớ một người. Một cảm hứng mới của thơ. Lật lại sổ tay thơ, có bài thơ này:

CỎ DẠI

thông reo, hoa nở, chim hót

Đà Lạt rất Tự lực văn đoàn

gió cũng hát cải lương

rêu xanh, ngói xám Bà Huyện Thanh Quan

tâm thế tôi đang Chinh phụ ngâm

không hỉ nộ ái ố

không buồn không vui không sầu không khổ

muốn hóa thành mây bay lên vòm trời

dẫn người yêu đi chơi

bỗng giật mình bởi tiếng chuông điện thoại

lôi tuột tôi quay về hiện tại

những ghế bàn hội họp giao ban

công việc mỗi ngày như tơ nhện

ùn ùn kéo đến

những khuôn mặt mỗi ngày lại xám

lại trắng lại đen lại đỏ mỗi ngày

tiếng chuông điện thoại vừa qua đây

bỗng giật mình nhớ lại

cho tôi một ngày không điện thoại

tĩnh tâm như cỏ dại

lãng quên...

Sao lại ghi cuối bài thơ là ngày 18.XI.2009? Chẳng cần thiết lắm. Chỉ nhớ phiên phiến thôi. Thời gian? Nghĩ cho cùng chẳng ý nghĩa gì. Đời người cũng thế. Chẳng có ý nghĩa nếu một ngày, một đời chỉ là tháng ngày lê thê của một kiếp người. Rồi đến lúc xuôi tay nhắm mắt lại trở về cõi vô danh nào đó. Hầu hết con người ta sinh ra chỉ là sự vô danh. Khi mất đi, lại quay về với sự vô danh đời đời kiếp kiếp.


L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 11.12.2013

 

TRAO-GIAI-AO-TRANG

 

Một tuần trôi qua nhanh quá. Cuối tuần rồi, chiều thứ sáu nhậu lai rai do vài anh em báo TN và Công ty truyền thông báo TN đãi anh Nguyễn Đông Thức nghỉ hưu. Lão này tuyên bố “rửa tay gác kiếm” là liên tục có độ mời nhậu. Quá vui. Sáng thứ bảy, tham dự trao giải thưởng cuộc thi viết của tập san A.T. Gặp những gương mặt như lá xanh. Như mưa đầu mùa. Thương quá. Có những em từ Quảng Nam, Bình Dương, Biên Hòa… tham dự. Câu chuyện về văn chương vui vẻ, hào hứng, trong sáng, những mong lấy con chữ nuôi dưỡng tâm hồn.

Hôm kia sắp xếp tủ sách, tình cờ tìm thấy tạp chí Phổ Thông số 89 (1.10.1962) do nhà văn Nguyễn Vỹ chủ trương. Trong đó, nhà nghiên cứu Thiếu Sơn có bài Lập trường của nhà văn. Có đoạn: “Thật ra nhà cầm quyền nào khôn ngoan mà không muốn lôi kéo bọn nhà văn vì họ biết nhà văn đã sẳn có uy tín đối với người dân trong nước. Muốn tranh thủ nhân dân, họ phải o bế văn sĩ và cũng có một số nhà cầm bút đã vội vàng xung vô làm món “văn chương theo chánh quyền” (littérature officiellle) để kiếm miếng đĩnh chung”. Chuyện này thời nào cũng có. Ai cũng biết, sở dĩ ghi lại vì nhớ lại thời tuổi nhỏ. Ngày trước, ba của y rất mê sách. Hầu như trong nhà có đầy đủ các loại tạp chí, báo chí của miền Nam ấn hành. Nhờ vậy, thời trung học đã làm quen với Bách Khoa, Phổ Thông, Thời Nay…; rồi sau này Văn Học, Văn, Tuổi Hoa, Tuổi Ngọc, Thiếu Nhi… Thời trẻ nhỏ, có những nhà văn dù chưa gặp nhưng do đọc mà quý mến. Chính những trang viết của họ đã hun đúc sự yêu mến văn chương. Chỉ nghĩ thế, tự nhiên có cảm tình với biết bao nhà văn, nhà thơ thuở ấy.

Với nhà văn giữa tài năng và bản lĩnh sống, điều nào quan trọng hơn? Hỏi như thế là ngốc. Chẳng nên tự làm khó bằng những câu hỏi. Mấy ngày hôm nay, sau khi viết lai lai, viết quyết liệt để hoàn tất bộ chuyện kể danh tướng đời Trần cho thiếu nhi. Sau khi rời bàn phím là mệt ngất ngư. Trước đây, thường thư giản với những tạp chí cũ. Vớ đâu đọc đó. Giết thời gian theo thói quen trước lúc ngủ. Nay lại kè kè bộ Đại Việt sử ký toàn thư. Dừng lại một chút với nhân vật Trần Ích Tắc. Tắc nào có hèn kém gì: “Trần Ích Tắc thông minh, hiếu học, thông hiểu lịch sử lục nghệ, văn chương nhất đời. Dù nghề vặt như đá cầu, đánh cờ, không nghề gì không thông thạo; từng mở học đường ở bên hữu phủ đệ, tập hợp văn sĩ bốn phương cho học tập, cấp cho ăn mặc, đào tạo thành tài như bọn Mạc Đĩnh Chi ở Bàng Hà, Bùi Phóng ở Hồng Châu v.v... gồm 20 người, đều được dùng cho đời”. Đầu năm 1285, giặc Nguyên Mông tràn vào nước ta. Một số tôn thất nhà Trần vì khiếp sợ uy thế của giặc mà mang cả gia quyến sang trại giặc xin hàng như bọn Trần Kiện, Trần Ích Tắc, Trần Lộng, Trần Tú Viên…

Văn hay chữ tốt mà làm gì?

Sáng qua ăn phở tình cờ gặp Đ.T.H. Trước đây, anh là phóng viên chiến trường của báo chí Sài Gòn, sau đó, vì dính vào vụ án Hồ Con Rùa phải ngồi gỡ lịch đúng mười năm. Hỏi, ấn tượng nào trong tù khiến anh nhớ nhất? Anh kể, vào dịp Tết, cán bộ xuống tập trung mọi người lại thông báo, dịp này, các anh tự bầu ra mười người chấp hành nội quy, cải tạo tốt nhất để ưu tiên được gặp thân nhân, nhận quà thăm nuôi. Số còn lại thì không. Bao nhiêu ngày thiếu thốn, xa cách tất nhiên ai cũng mong mình được. Thế là anh em phê bình, miệt thị, vạch lá tìm sâu rất ráo riết. Cuối cùng, không thể bình chọn được ai. Vài ngày sau, cán bộ lại xuống và nói, vậy các anh hãy tự bình chọn mười người chậm tiến bộ nhất, những người này sẽ không được gặp thân nhân, nhận quà trong dịp tết. Số còn lại thì được. Vậy là anh em lại phê bình nhau ráo riết, đấu tố lẫn nhau không kém gì lần trước. Cuối cùng không thể bình chọn được ai. Toàn  bộ các cuộc phê và tự phê này đều có ghi biên bản hẳn hoi. Nào ngờ, đến dịp đó ai cũng như ai. Ai cũng được gặp thân nhân, nhận quà thăm nuôi. Chỉ có điều sau đó chẳng ai nhìn mặt ai. Cảnh giác lẫn nhau.

Tối qua, đi ăn với gia đình nhà thơ Thy Ngọc nhân phát hành tập Thy Ngọc - “Anh Bồ câu trắng vẫn còn bay” do NXB Kim Đồng ấn hành vào dịp giỗ đầu. Nhà thơ Thy Ngọc bằng tuổi với mẹ y. Trong bài viết nhớ về Thy Ngọc, y thích nhất khi viết câu này: “Nhớ đến ông, tự thâm tâm tôi biết rằng khó có thể còn gặp được một con người viết mà từ trang văn đến nhân cách sống là một sự nhất quán. Chính vì lẽ dó, sự tồn tại bản thân và tác phẩm của nhà thơ Thy Ngọc đã là một bài học cho thế hệ hậu sinh của chúng ta”. Bây giờ, khó có thể tìm được nhà văn nhân hậu, tử tế đến thế. Thời trước năm 1945, ông ký Thy Thy Tống Ngọc nhưng sau đó bút danh này “tiểu sư sản” quá nên đổi Thy Ngọc.

Tối qua, không thể lai rai với Đoàn Tuấn được cũng vì lý do trên. Sáng nay, phải cà phê với nhau một chút. 9 giờ sáng nay, NXB Kim Đồng ký hợp đồng bản quyền với gia đình nhà thơ Thy Ngọc, và Phan Hồn Nhiên nữa. 10 giờ, nhà sách Cá Chép của Công ty sách Đ.A khai trương. Thêm nhiều nhà sách, tốt quá. Chiều nay, họp với TTC về giải Trái cóc xanh. Đã nhận được thiệp chúc Tết của NXB Tổng hợp TP.HCM. Trong thiệp có câu đối:

Phúc thọ khang ninh cốt lấy nhân từ xây sự nghiệp;

Quý tài lợi lộc mỗi do trung hiếu dựng cơ đồ.

Ngày trước, hễ dịp Tết đến, Xuân về là nhà thơ Bảo Định Giang đều có câu đối Tết in đầy trên các báo. Sực nhớ, năm 2005, bạn y, nhà thơ Bùi Chí Vinh có làm câu đối Tết cho Công ty Vietcom. Thiệp vẽ hình con gà đang gáy và hình cậu Hoàng tử bé - một nhân vật nổi tiếng của  nhà văn Saint Éxupéry. Lật vào trong, có câu đối “hơi bị” dài:

Chào nhé Giáp Thân mang tiếng văn minh mà con người cô độc giữa hành tinh như con khỉ;

Bắt tay Ất Dậu tưởng rằng lạc hậu nhưng tiếng gáy truyền thông trên trái đất có tiếng gà.

Khi viết “tiếng gáy truyền thông” là anh “phản ánh” đúng chức năng của công ty đã “đặt hàng”. Lúc ấy, y nhận xét: Câu trên thì hay rồi, còn câu dưới, nếu mà đổi được chữ “có tiếng gà” thành “tựa tiếng gà” sẽ hợp lý hơn. Đứng về thủ pháp câu đối,  “như” đối với “tựa” - cùng là so sánh, mới đúng điệu chứ nhỉ? Mà truyền thống có “tựa tiếng gà” cũng đúng thôi, vì đường truyền đôi lúc cũng... “ò ó o” lắm! Bằng chứng là điện thoại cùi bắp của y đây, giá đến 500 ngàn nhưng đôi lúc chỉ nghe được tiếng đực tiếng cái. Mà làm sao, y có thể nhớ được câu đối của Bùi Chí Vinh? Chẳng qua, do biết cách làm tư liệu thôi. Làm tư liệu thuộc hạng thượng thừa của nước Việt Nam phải kể đến cụ Vương Hồng Sển. Quá siêu. Nghiêng mình bái phục.

Trưa qua, mở máy vi tính mới hay trên facebook của y có câu status: “Trúng tiếng sét ái tình rồi”. Có nhiều comment quá chừng chừng. Thiên hạ cứ tưởng y mê gái và đang ngất trên cành quất với một nhan sắc mới nên quan tâm quá mức. Hoảng quá. Bèn delete ngay tắp lự. Đơn giản, sức mấy y dám viết một câu hoành tráng, dũng cảm đến thế?Sáng nay, dậy sớm.

Đặt từng tình khúc lên môi

Tôi nghe tôi hát tôi ngồi lặng câm

Thưa rằng, nhìn xuống cõi trần

Con đường xa lắc bội phần nhớ em


L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 6.12.2013

 

but-quan-hoai

Bút quan hoài của Ái Nam Trần Tuấn Khải (Tư liệu: L.M.Q)

 

Hôm nay, có thông tin cần lưu ý: Trong Hội nghị Ủy ban Liên chính phủ lần 8 về bảo vệ văn hóa di sản phi vật thể, diễn ra tại thành phố Baku (Cộng hòa Azerbaijan) từ ngày 2 đến 8.12.2103, UNESCO chính thức công nhận Đờn ca tài tử được là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Như đến nay, thời điểm hiện tại, Việt Nam đã có 8 Di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO vinh danh: Nhã nhạc cung đình Huế, Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, Hội Gióng Hà Nội, Hát xoan, Ca trù, Quan họ Bắc Ninh, Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và Đờn ca tài tử Nam Bộ. Trong năm 2013, bộ hồ sơ về Dân ca ví dặm Nghệ Tĩnh cũng đã được nộp lên UNESCO và sẽ có kết quả trong năm 2014.

Chiều, ngồi ngó trời ngó đất. Chẳng biết làm gì. Ghi lại vài mẩu chuyện đã đọc. Thấy hay hay. Trong thời kháng chiến chống Pháp, Xuân Diệu đi thực tế sáng tác, ông được phân công ở trong gia đình một bác nông dân, trong nhà chỉ có đứa con gái nhỏ. Chiều nọ, ông đang ngồi làm thơ bỗng nghe tiếng khóc tấm tức. Thì ra, cô gái nhỏ vừa ngủ dậy ngồi khóc ngon lành. Ông bố đến hỏi tại sao thì em cũng không trả lời, cứ khóc thút thít mãi. Bực quá! Ông bố muốn phết cho vài roi. Nhưng Xuân Diệu can:

- Đừng đánh em. Tội nghiệp! Biết đâu trong giấc mơ chiều nay, em mơ thấy gì chăng?

Ngẫm cũng có lý, bác nông dân gặng hỏi thì em đáp vừa nằm mơ thấy mẹ. Thức dậy, không có mẹ nên nhớ quá mà khóc. Thật vậy, vợ của bác vừa mất trong một trận càn của giặc Pháp. Sự nhậy cảm của Xuân Diệu thật cảm động. Lúc trước mua được nhiều số báo Ngày Nay của nhóm Tự lực văn đoàn. Sau tặng lại cho L.K.Thơ. Bởi T sử dụng hiệu quả hơn, vì cô đang công tác ở Viên Văn học. Trong những số báo đó, có mẩu quảng cáo liên quan đến thi sĩ lừng danh Tản Đà. Vào cuối đời sống trong nghèo túng, ông xem “Hà Lạc lý số” kiếm sống qua ngày, bên cạnh việc dịch thơ Đường cho báo Ngày Nay, dạy Hán văn... Khác người ở chỗ không giấu giếm, ông cho quảng cáo trên báo Ngày Nay công việc của mình bằng... thơ! Bài "Quảng cáo Hà Lạc lý số" như sau: 

Nguyễn Khắc Hiếu Tản Đà

Nay mai sắp ở Hà

Hà Lạc đoán lý số

Đàn ông và đàn bà

Ai gần xin đến hỏi

Thư gửi người ở xa

Biết rõ năm cùng tháng

Ngày, giờ nào đẻ ta

Một cữ ước tuần lễ

Có thư mời khách qua

Quyển sổ đã lấy rõ

Xin cứ nói thật thà

Hán văn âm quốc ngữ

Quốc văn bày nghĩa ra

Còn như tiền đặt quẻ

Nhiều 5, ít có 3

Nhiều, ít tùy ở khách

Hậu, bạc kể chi mà

Kính cáo.

Mẩu quảng cáo này không thấy in trong các sách viết về giai thoại Tản Đà. Sau khi thi đậu Thành chung, năm 1936, ông Nguyễn Đổng Chi - bố của ông Nguyễn Huệ Chi trở về quê phân loại lại kho sách gia đình, mở Mộng Thương thư trai dành cho người dân trong làng đến đọc nâng cao tri thức. Điều ít người biết, ngôi nhà này, mặt cửa chính trông ra vườn và hồ sen, ông Chi cho làm một vòm mái hiên, trên có đắp hình một cuốn sách dang mở ra, có ghi câu của bố mình cụ Nguyễn Hiệt Chi: "Học tập làm lụng ta ngó lên, ăn mặc ta nhìn xuống". Và hai bên có một thanh kiếm và một quản bút giao nhau. Ông Nguyễn Thông, trước khi mất có ghi lại trong Di chúc: “Sách vở là gia truyền quý nhất, không được đem gửi người khác. Sau khi ta trăm tuổi mỗi khi gặp ngày giỗ thì lấy sách ra bày ở hai bên trên bàn thờ thay cho mâm cúng cơm”. Ở Sài Gòn hiện nay có đường Nguyễn Thông, chẳng thấy có nhà sách nào, chỉ toàn quán nhậu và nhiều tiệm bán rượu ngoại. Năm 1923, ông Tản Đà xuất bản tập Truyện thế gian (tập 1), trong đó có bài thơ:

Muốn ăn rau sắng chùa Hương

Tiền đò ngại tốn, con đường ngại xa

Mình đi ta ở lại nhà

Cái dưa thời khú, cái cà thời thâm

Không ngờ, ít lâu Tản Đà nhận được bưu kiện nho nhỏ từ Phủ Lý gửi lên, mở ra thấy có rau sắng chùa Hương xanh mơn mởn, nhưng không ghi tên người gửi. Ông ngạc nhiên lại thấy  có thêm mấy câu thơ gửi “Nguyễn tiên sinh nhã giám”:

Kính dâng rau sắng chùa Hương

Đỡ ai tiền tốn, con đường đỡ xa

Không đi thời gởi lại nhà

Thay cho dưa khú cùng là cà thâm

(Đỗ Tang Nữ bái tặng)

Nhà thơ rất xúc động và viết ngay bài thơ cảm tạ:

Mấy lời cảm tạ tri ân

Đồng bang là nghĩa, đồng tâm là tình

Đường xa rau hãy còn xanh

Tấm lòng thơm thảo bát canh ngọt ngào

Yêu nhau xa cách càng yêu

Dẫu rằng suông nhạt mà nhiều chứa chan

Nước non khuất nẻo ngư nhàn

Tạ lòng xin mượn thế gian đưa tình

Tác giả bài thơ này là nữ sĩ Song Khê, em ruột của nữ sĩ Tương Phố. Duyên thơ như vậy kể ra cũng thật đẹp và thật đáng quý đối với một thi sĩ được nhiều người ái mộ. Thời buổi này hiếm có. Nếu có, nói như nhà văn Nguyễn Quang Sáng thường tếu táo là "nhuận bút nhân dân", chỉ có thể là... rượu! Về chuyện riêng, dù Chế Lan Viên độ lượng muốn níu kéo lại với nhiều thua thiệt nhưng cũng không thể. Cuối cùng cả hai chọn giải pháp là nhờ tòa án phán xử. Theo L.K.Thơ - con gái nhà viết kịch Lưu Quang Thuận: Lúc ấy, cha cô cũng có mặt tại tòa với tư cách người đại diện cơ quan và cũng là bạn thân với gia đình Chế Lan Viên, có kể lại: “Suốt buổi đó, Chế Lan Viên ngồi im lặng. Sau khi đã xong hết mọi thủ tục, trước khi ra về, ông mới lặng lẽ đứng lên và đọc bài thơ, thay cho lời nói cuối cùng:

Đến chỗ đông người anh biệt em

Quay đi thôi chớ để anh nhìn

Mày em trăng mới in ngần thật

Cắt đứt lòng anh, trăng của em

Sự việc đó khiến mọi người vô cùng sững sốt. Đúng là có một không hai. Mấy hôm nay, đọc bài ca trù Nhân vong cầm tại của Tiến sĩ Dương Khuê. Nó hay chỗ nào mà đã đọc chẳng quên? Mà cứ ám ảnh mãi:

Mưỡu 1:

Lấy ai là kẻ đồng tâm

Lấy ai là kẻ tri âm với nàng?

Đêm khuya luống những bàng hoàng

Người đi đâu vắng mà đàn còn đây?

Mưỡi 2:

Nghe đàn nhớ lão Chung Kỳ

Vợ mi ở đó, mi đi mô chừ?

Sớm khuya xe tẩu phụng thờ

Goá chồng cũng thể như chưa có chồng.

Hát nói:

Nhân vong cầm tại

Nhớ chàng Hai mà gặp lại cô Hai

Tiện đây hỏi một đôi lời

Đàn bản ấy cùng ai so phím cũ?

Hồng phấn kỷ nhân vi quả phụ?

Bạch đầu nan lão Trác Văn Quân!

Thế thì khi gió gác, lúc trăng sân

Chừng "Bạch tuyết", "Dương xuân" còn tưởng nhớ?

Hãy ngồi lại hát chơi khúc nữa

Có trách chi tang trở xóm Bình Khang

Xưa nay nghề nghiệp thế thường

Cách đây mươi năm có dịp gặp Tiến sĩ khoa học giáo dục Dương Thiệu Tống - dòng họ Dương Khuê. Qua trò chuyện, ông bảo “Hồng hồng tuyết tuyết” là ngụ ý chuyện chính trị, chứ không hẳn tình riêng trai gái như nhiều người đã hiểu. Theo ông, Dương Khuê ra làm quan năm 1868 đến lúc triều nhà Nguyễn ký Hòa ước 1883 rồi Hòa ước 1884. Đây là giai đoạn 15 năm đầu tiên trong đòi làm quan của cụ. “Mười lăm năm thắm thoát có ra gì” là nói về giai đoạn này. Lúc ấy, cụ những muốn giúp nước nhưng vua Tự Đức phê: “bất thức thời vụ” nên mới có câu ẩn dụ:

Ngày xưa Tuyết muốn lấy ông

Ông chê Tuyết bé, Tuyết không biết gì

Sau Hòa ước năm 1884, cuộc đời làm qua của cụ đã bước sang một khúc ngoặt khác. Đại khái, nên hiểu bài thơ theo chiều hướng đó. Đọc Nắng được thì cứ nắng, ông Phan An Sa khẳng định chắc nịch rằng,  bài thơ này của Phan Khôi, dứt khoát không phải thơ tình:

Hồng nào hồng chẳng có gai

Miễn đừng là thứ hồng lài không hoa

Là hồng thì phải có hoa

Không hoa chỉ có gai mà ai chơi?

Ta yêu hồng lắm hồng ơi!

Có gai mà cũng có mùi hương thơm.

Thời trẻ, đọc những thông tin này ắt chịu khó tìm hiểu thêm. Nay đã ngại. Chỉ nhắc lại đôi dòng như gợi ý cho ai quan tâm. Nhân đây cũng ghi lại bài Hà Nội tức cảnh của Dương Khuê:

Phất phơ ngọn trúc trăng tà

Tiếng chuông Trấn Võ, canh gà Thọ Xương

Mịt mù khói tỏa ngàn sương

Nhịp chày An Thái, mặt gương Tây Hồ

Nhiều người nhầm là ca dao. Và nó cũng có vài dị bản.

Rủ nhau xuống bể mò cua

Đem về nấu quả mơ chua trên rừng

Em ơi! Chua ngọt đã từng

Non xanh nước bạc ta đừng quên nhau

Cũng không phải ca dao. Bốn câu trên của nhà thơ Á Nam Trần Tuấn Khải, đã in tập Duyên nợ phù sinh (1924). Tương tự, nhiều người vẫn nhầm ca dao như:

Anh đi anh nhớ quê nhà

Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương

Nhớ ai dãi nắng dầm sương

Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao

Đó là những câu đã in trong tập Bút quan hoài (1928) cũng của Á Nam Trần Tuấn Khải. Sự nhầm lẫn như thế vẫn còn nhiều. Nhiều người vẫn nhầm tưởng:

Hỡi cô tát nước bên đàng

Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi

là ca dao, nhưng thật ra đó là thơ của nhà thơ Bàng Bá Lân. Trường hợp này, còn thể thấy ở trường hợp nhà thơ Kiên Giang. Đã có những câu của ông, nhiều người vẫn tưởng ca dao Nam Bộ:

Đói lòng ăn nửa trái sim

Uống lưng bát nước đi tìm người thương

hoặc:

Ong bầu đậu đọt mù u

Lấy chồng càng sớm tiếng ru càng buồn


cũng của Kiên Giang. Chiều nay, lẩn thẩn chuyện thơ cũng là một cách giết cho hết buổi chiều.

Lại một ngày.

 

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 5.12.2013

 

TDAM_Toadam30namTTCRR

Đại biểu dự tọa đàm 30 năm báo Tuổi trẻ Cười chụp ảnh lưu niệm (Ảnh: Thanh Đạm)

 

Sáng nay, dậy sớm tham dự tọa đàm 30 năm báo Tuổi trẻ Cười. Gặp lại nhiều gương mặt quen. Có cả thẩy 20 bản tham luận của các đồng nghiệp, các nhà nghiên cứu, họa sĩ, nhà giáo: Nguyễn Sơn, Kim Hạnh, Huỳnh Dũng Nhân, TS Huỳnh Như Phương, TS Huỳnh Văn Thông, Th.S Nguyễn Hà, Hoàng Thiếu Phủ, Bích Ngân, Lý Trực Dũng, Lê Minh Quốc, Nop, Lại Nguyên An, GS-TS Nguyễn Đức Dân, Lê Chí Trung, Phạm Xuân Nguyên, Đồ Bì, Vương Huyền Cơ, Nam Đồng, Võ Văn Điểm, D.Duy.  Và nhiều khách mời khác.

Trưa ngủ dậy, leo lên facebook thấy anh Nguyễn Đông Thức nhận xét: “Sáng nay đi dự hội thảo 30 năm báo Tuổi Trẻ Cười, đành về giữa chừng vì lòng đã quyết k còn thì giờ để làm chuyện vô ích nữa. Chỉ mỗi Lê Minh Quốc nói đúng (lâu lắm mới thấy): "báo TTC chỉ hay nếu có tự do báo chí!". Ủa mà đâu phải chỉ TTC!”. Chuyện này, nếu bàn thì lắm chuyện lắm. Khi phát biểu, y nhấn mạnh: “Tôi không nhìn TTC ở góc độ riêng lẻ mà đặt trong sự vận động của nề báo chí nước nhà, vẫn  nhấn mạnh quan điểm: Một nền báo chí lành mạnh, trong đó có báo cười, TTC chỉ thật sự trở thành tiếng nói phản biện để góp phần hoàn thiện cơ sở pháp lý của một nhà nước khi nó được thông thoáng về mặt dân chủ, tự do báo chí”. Thật ra điều này không có gì mới. Có điều chẳng ai dám nói. Chẳng biết từ khi nào con người ta lại chọn sự an toàn này như chọn sự khôn ngoan trong xử thế: Trước một sự việc cụ thể, nếu nói giữa cuộc họp khác với nói bên bàn nhậu; nói bên bàn nhậu khác nới vợ; nói vợ khác với “mèo” v.v… Dù cái nói nào đi nữa cũng chưa chắc đúng với suy nghĩ mà mình không nói ra. Chỉ tự mình biết. Tự mình phải đóng nhiều gương mặt.

Quá mệt.

Quan điểm phát biểu của y, nhiều người chia sẻ. Chú Nguyễn Sơn trước công tác ở Ban Tuyên huấn Thành uỷ, con rể nhà yêu nước Nguyễn An Ninh cũng nhấn mạnh, đại khái, vấn đề là bản lĩnh của người quản lý báo chí như thế nào? Thời các ông Võ Văn Kiệt, Trần Bạch Đằng, Bảy Trấn… TTC xông xáo hơn nhiều. Lần nọ, y trò chuyện với nhà văn Văn Lê, anh thuộc biên chế của Hãng phim Giải phóng. Nhờ vậy anh được gặp khá nhiều lãnh đạo cấp cao khi làm phim tài liệu, anh nói: “Các cụ cởi mở hơn anh em trẻ nhiều lắm. Có những vấn đề các cụ nhìn rất thoáng. Trong khi đó, tự anh em mình lại trói buộc do cứ sợ bóng sợ vía”. Chuyện hội thảo nào, bàn luận nào nghĩ cho cùng cũng cho vui thôi. Đóng cửa lại, anh em trong nhà có dịp tâm tình. Nói này nói kia, tranh luận. Rồi về. Ai lại làm việc nấy. Tờ báo TTC sẽ thế nào cũng khó thể đoán trước điều gì. Ấy vậy sáng nay vẫn có người cứ nói này nọ, không thật chút nào. Để làm gì? Để đám đông nhìn thấy mình "quan điểm lập trường" như thế như thế, nhưng ác một nỗi lại quên, chẳng ai buồn cãi lại. Chẳng hạn, nói rằng báo chí ta không có “vùng cấm” (?!). Thời buổi này nói thế là không thật, là diễn, là ba xạo, ba que xỏ lá, đá cá lăn dưa. Ai tin? Ai có thể tin người không dám nói thật suy nghĩ của mình là người tốt? Nhiều lúc, các nhà lãnh đạo cũng cần nghe ý kiến này ý kiến kia. Khổ nổi, lúc ấy chẳng ai nói thật cả.

Vậy nghe là nghe cái gì? 

Cái điều tệ hại nhất của người viết hiện nay vẫn chính là tự mình biên tập lấy mình. Khi viết, nghĩ là thế nhưng khi đưa bài đi lại cân nhắc từng dòng, từng chữ. Chữ này, câu kia mà lọt ra ngoài ắt phiền. Bèn cắt luôn. Thiến gấp. Từ một hình hài có da, có thịt, có cá tính lại trở nên vô hồn. Nhạt như nước ốc. Cái nỗi sợ ấy vô hình mà người nào cũng tự ám ảnh. Tự mình làm “mềm” lại, “tròn” lại. Dù chỉnh chu hơn, an toàn hơn nhưng thật ra chỉ là cái xác. Chẳng hạn, bài báo này đã tự mình biên tập; nộp trưởng ban là qua tầng thứ hai; rồi phòng biên tập lại biên tập lần nữa; rồi nộp lên ban biên tập, nếu cần thiết lại biên tập lần nữa. Quy trình là thế. Bài viết còn gì? Đôi khi chuyện này chuyện nọ chả có “cấp trên”, “cấp dưới” nào chỉ thị, chỉ đạo nhưng rồi tự mình gọt dũa lấy mình. Rồi anh em với nhau, chơi thân với nhau chưa chắc đã tin nhau cũng tự có ý kiến này nọ. Mệt lắm cái nghề chữ nghĩa. Có đọc đâu đó giai thoại về hai nhà văn lão thành. Lần nọ, khi duyệt bản thảo cuốn “Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi”, ông  Tô Hoài “Dế mèn phiêu lưu ký” bảo với Nguyễn Tuân:

- Ông là lôi thôi lắm, cứ để cái tên Hà Nội đánh Mỹ là đầy đủ rồi, cần gì phải dài dòng như thế?

Nguyễn Tuân cà khịa:

- Ông thấy nó dài dòng chỗ nào?

Tô Hoài đáp: 

- Để Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi cứ thấy như mình đứng ở cái thế bề trên mà ban khen cho Hà Nội vậy!

Nguyễn Tuân nổi đóa lên:

- Đấy! Ba cái anh duyệt bài là chúa hay suy diễn. Tôi không có đứng trên đứng dưới gì sất, chỉ có điều là tôi không chịu được cái gì chung chung. Tôi nói “Hà Nội ta” là "Hà Nội của chúng ta" đây! Của ta đây! Tôi tự hào với cái Hà Nội của ta thế có được không? Thế còn “đánh Mỹ giỏi” phải nói rõ đánh Mỹ giỏi, chứ nói đánh Mỹ thì ai biết ta đánh Mỹ như thế nào? Một cái tên sách, nó cũng là cái tên sách của tôi, sao ông cứ bắt tôi phải giống mọi người? Nếu ông làm biên tập mà cứ muốn gọt tôi cho tròn vo như vậy, không có cá tính, không có cái gì của riêng tôi thì thôi, để sách đó, không in nữa!

Thấy bạn nổi nóng, Tô Hoài cười dàn hòa:

- Là tôi cũng gợi ý vậy, ông không đồng ý thì thôi, chứ có gì đâu mà ông đã giận!

Và cuối cùng như chúng ta đã biết, khi sách ra vẫn giữ y nguyên cái tựa mà Nguyễn Tuân đã đặt! Lại có chuyện rằng, nhà thơ Tô Hà làm biên tập ở một tờ báo nọ, hôm nọ ông nhận được bài thơ của tác giả nổi tiếng nọ gửi đến. Trong đó có câu mà ông rất thích và  bảo với tác giả:

-Cái câu: “Chiếc lá sen thơm cả tay cầm” theo mình là rất gợi. Lá sen xui người ta nhớ đến cốm vì người Hà Nội hay dùng lá sen gói cốm. Viết như thế này phải là người tinh tế lắm. Chao ôi! Cốm thơm, lá sen cũng thơm, hai mùi thơm ấy quyện vào tay mình thì thật tuyệt. Mình sẽ cho in ngay!

Nhưng chờ mãi, chẳng thấy bài thơ này xuất hiện trên mặt báo! Tại sao? Nhà thơ Tô Hà kể với tác giả:

-Tớ đưa lên, nhưng tay duyệt bài cuối cùng phê bên câu thơ của ông là: “Không khuyến khích làm cốm, có hại cho chính sách lương thực”. Vậy là toi bài thơ.

Mới đây thôi, y mail bài thơ cho tờ báo nọ cộng tác số Xuân 2013. Câu thơ này:

Một ngày nắng mới vừa lên

Dấu răng giữa ngực gọi em, em là...

Có là gì đâu, đúng không? Y viết như chơi. Đặt bút xuống là có thơ. Người bạn chọn thơ điện thoại bảo: “Báo của Đảng bộ mà in như thế này, các cụ hưu trí đọc soi từng chữ là mệt lắm”. “Tại sao?”. “Sex quá. Mà thơ xuân thì nhẹ nhàng hơn, tươi vui hơn. Để mình sửa lại nha”. “Khỏi sửa anh à, nếu ngại thì thôi”. “Nhưng mình thích bài này”. Chẳng lẽ rút lui bài thơ mà chỗ anh em cả. Nói thế nào bây giờ? Đành tặc lưỡi: “Tùy anh”. Cho nó xong. Lúc ấy nghĩ, “Đấy! Ba cái anh duyệt bài là chúa hay suy diễn” vẫn còn có ý nghĩa thời sự lắm. Sự suy diễn này nọ, đôi khi rất chủ quan chứ chẳng trên một “quan điểm lập trường” gì cả.

Sáng nay, theo phát biểu của anh Nguyễn văn Khanh - trưởng phòng quản lý báo chí của Sở văn hóa Thông tin Truyền thông, hiện nay cả nước có đến 1.084 ấn phẩm báo chí. Trong đó, chỉ có 4 tờ báo cười: Học trò cười (Thiếu niên tiền phong), Nhi đồng cười (Nhi Đồng), Làng cười (Nông thôn ngày nay) và TTC (Tuổi Trẻ). Nhìn chung, số lượng báo cười quá ít. Nếu nhìn rộng ra, ta sẽ thấy tác phẩm văn học trào phúng, hoạt kê cũng không nhiều. Thậm chí đọc nhiều tiểu thuyết, truyện ngắn chừng mươi năm trở lại đây, ta thấy các tình tiết humour cũng ít.

Trưa, TTC mời ăn. Thực đơn như sau: Gỏi củ hủ dừa tôm thịt, mực sa tế, cá chẽm sốt chua ngọt, cơm chiên sò điệp, gân bò tiềm thuốc bắc, trái cây thập cẩm, bia Sài Gòn. Lúc ấy, cũng bàn chuyện linh tinh, trên trời dưới biển. Hỏi anh Hoàng Thiếu Phủ về anh Hoàng Phủ Ngọc Tường? Anh Phan cho biết, sức khỏe anh Tường ngày một yếu, khi chuyện trò anh vẫn nghe, vẫn hiểu nhưng khổ nổi lại không trả lời, không diễn đạt được. Anh bị tai biến, nằm một chỗ mấy năm rồi. Hỏi, sao anh biết anh Tường có thể nhận biết mọi thông tin của người khác, phải có biểu hiện gì chứ? Anh Phan ngần một lúc, nói, mình biết chắc mà. Như vậy, mối liên hệ ruột rà giữa hai anh em ruột có gì đó rất thiêng liêng, tự họ nhận ra, người ngoài không thể biết được. Cũng như người mẹ có thể biết con mình đang như thế nào. Dù cách xa vạn dặm nhưng nó gặp sự cố gì thì bằng sự linh cảm của người mẹ sẽ biết ngay.  Rồi anh Phan phàn nàn về bộ Từ điển văn học (bộ mới) lại không có mục từ “Hoàng Phủ Ngọc Tường”. Kỳ lạ chưa? Chẳng thể hiểu nổi. Trước đây, khi bộ sách này lần đầu tiên ấn hành, y đã viết 2 bài in trên báo TN (số ra ngày 29.5 & 31.5.1998) phân tích sự thiếu sót của các cây bút miền Nam. Chà, nay đã tái bản mà vẫn còn thiếu. Đọc kỹ, vẫn còn thiếu nhiều người lắm. Thậm chí thế hệ cầm bút trưởng sau 1975 lẽ ra cũng phải được đề cập đến. Mà thôi, bàn chuyện này làm gì?

Lại một ngày.

 

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 4.12.2013

leminhquocnhau-R

Một cuộc nhậu gần 30 năm trước tại báo TT (ảnh: Nguyễn Công Thành)

 

“Thời buổi nay, làm ăn khó khăn quá”. Hôm kia ghé lại một quán ăn quen chung với bạn bè. Cô chủ quán thỏ thẻ, đại khái, mỗi ngày mở mắt ra việc đầu tiên phải nghĩ đến trong ngày phải thu về 20 triệu. Dù nắng, mưa, thiên tai, động đất, khủng bố, lễ tết gì gì đi nữa cũng phải có số tiền đó. Tiền nhà thuê 5 ngàn USD/ tháng; chưa kể tiền nhân viên phục vụ, quản lý, điện nước, tiền giữ xe, bảo kê… Mệt lắm anh à. Nghỉ quách đi em? Đâu có được, sau khi thuê nhà đã đầu tư sửa chửa lại hơn cả tỷ, nếu bỏ là mình mất trắng. Vì thế cứ phải gồng mình cầm cự. Đêm qua, mừng sinh nhật quán. Vậy là cô đã cầm cự được hai năm. Đã có lời lãi gì chưa? Chưa anh à. Mỗi tháng không phải bù thêm là mừng rồi.

Đoạn trường ai có qua cầu mới hay.

Những quán ăn, cà phê giải khát, dịch vụ ăn nên làm ra tại Sài Gòn, ở trên nhiều tuyến đường lớn, giữ xe cho khách không phải nhân viên của nhà hàng. Có một nhóm người đứng ra thầu. Đó là luật bất thành văn. Nếu không, nay công an khu vực đến phạt lấn chiếm vỉa hè; mai mất xe; mốt có người đến gây gổ... Chi bằng thuê bọn chúng. Mà chúng đứng chân là đâu vào đó. Quán có khách hay không, mặc kệ, cứ đều đặn mỗi tháng phải đóng một số tiền nhất định. Rồi phải “biết điều” với quan chức cấp bét nhất ở địa phương, nếu không, vài ba ngày lại có nhóm người hùng hùng hổ hổ đến kiểm tra, hoạnh họe này nọ. Đang ăn, đang uống, đang hát, đang hò bỗng nhiên thấy ầm ĩ cả lên. "Đầu trâu mặt ngựa ầm ầm như sôi" chỉ có nước mất khách. Đủ thứ phải lo. Ngày tết, ngày lễ phải quà cáp, nhét tiền vào bì thư gọi là tiền cà phê cà pháo, đến nơi trao tận tay một cách lễ phép. Tháng nào trễ, có điện thoại hỏi han ngay. Đủ thứ phải “biết điều”. Có những chỗ, sau khi đã thuê, làm ăn ổn định thì chủ nhà trở mặt đòi lại mặt bằng. Rồi lại tiếp tục mở quán, cũng kinh doanh mặt hàng đó. Quán phở góc đường Nguyễn Du, ban đầu chỗ này, phải dời về chỗ kia; quán gà ác tiềm ở góc Cao Thắng cũng vậy.

Quá mệt.

À, lúc ngà ngà say lại nghe kể câu chuyện buồn cười. Cô này có anh chồng người nước ngoài. Lúc ra mắt nhà vợ, anh từ Sài Gòn về Long An. Đến nơi, sau phần lễ theo đúng nghi thức của người Việt, anh bước ra sân chào hỏi mọi người. Chưa kịp ngồi xuống ghế, lập tức một ly rượu đế “trân trọng kính mời”. Chẳng lẽ từ chối? Vì phép lịch sự, anh nâng ly uống cạn cho phải phép xã giao. Vậy là xong? Không. Lần lượt hết người này đến người nọ luân phiên nhau mời. Anh không rành tiếng Việt. Họ không biết tiếng Anh. Từ chối thế nào cho đúng phép lịch sự? Thôi thì, đành uống. Xã giao một vài ly, chỉ nhấp môi có được không? Ai lại làm thế, phải trăm phần trăm cho đúng điệu. Thấy anh khổ sở, nhăn nhó quá, cô vợ chạy ra can anh em, bạn bè “tha” cho chồng mình. Mọi người mắng cho té tát. Thương nhau, quý nhau mới mời chứ có ai ép uổng gì đâu? Rượu quê mình là rượu ngon, rượu quê mình nhà nhất, chứ có phải thuốc độc đâu mà từ chối? Sự hiếu khách nhiệt tình ấy đã khiến anh lúc quay lên lại Sài Gòn vẫn chưa có gì bỏ vào trong bụng. Đã thế, anh lại bị nấc cụt liên tục. Từ đó, trở về sau, mỗi lúc nghe về quê vợ là anh xay xẩm mặt mày, mùi rượu vẫn còn xộc lên óc. Bèn tìm mọi cách thoái thác cho bằng được. Vợ thương chồng nên không nở ép. Mà đã xong đâu, không thấy anh theo vợ về, mọi người xì xào, bộ thằng chả ỷ người nước ngoài giàu có chê họ hàng, xóm giềng mình nghèo hèn nên không thèm về chứ gì?

Anh bạn thời bộ đội của y là dân Hà Nội chính hiệu nai vàng. Ngày nọ nhận thư mời lên vùng cao dự đám cưới của con trai đồng đội ngày trước. Chiến hữu sống chết ở chiến trường thuở đôi mươi, mười tám, nay sống sót trở về thì không thể vắng mặt trong ngày trọng đại này. Từ rạng sáng ở Hà Nội, anh bắt xe đò đi dự đám cưới, đến nơi trời đã ngọ. Ngồi vào bàn, chưa kịp cầm đũa là có ly rượu “tình thương mến thương” đưa đến. Anh uống cạn, trả lại ly, định cầm đũa thì một cánh tay chìa ra và bảo: “Uống xong phải bắt tay cho thân tình anh ạ”. Thì bắt tay. Buông tay ra, anh vừa cầm đũa lên thì người khác chìa ngay ly khác; lại uống; lại bắt tay. Cứ thế, cho đến lúc chết ngất trên cành quất, anh vẫn chưa ăn được gì.

Phép uống rượu của người Việt là gì?

Là cố ép người khác phải uống cho thật say. Say mềm như cọng bún. Say ngất ngư luôn càng hay, càng vui. Thật ra sự mời mọc ấy chẳng ác ý. Họ chỉ tỏ lòng mến khách, hiếu khách. Khổ nỗi, dù không thể uống được nữa nhưng rồi do nể nang, chẳng mấy ai từ chối thịnh tình, mời mọc quá hớp đó. Cuối cùng, cắn răng mà chịu. Gì nữa? Chán nhất trong tiệc cưới, tiệc tùng ngồi ăn chung nhau lại có người lại tỏ ra lịch sự quá mức cần thiết. Chẳng cần biết, người bên cạnh hoặc đối diện có hợp khẩu vị hay không, họ cứ thọc đũa vào món đó gắp cho người này, người kia làm ra vẻ ta đây, dù không quen nhưng vẫn quan tâm. Đi ăn kiểu này là cực hình.

Đêm qua, món ăn tự chọn. Ngồi với bè bạn thân tình. Vẫn những gương mặt của tình bạn. Chẳng ai ép ai phải uống. Vui càng thêm vui.

 

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 3.12.2013

LeLai1

Quang cảnh Đền thờ anh hùng dân tộc Lê Lai bị thiêu rụi ngày 1.12.2013, Bộ Công An đang điều tra (Ảnh:TTO)

 

Lại nói về tủ sách gia đình. Trước đây, sách còn ít, có thể sắp xếp đâu ra đó. Đã thế, còn thuê các em sinh viên đến tận nhà phân loại sách, làm thư mục hẳn hòi. Mỗi lần muốn tìm tài liệu gì cũng dễ. Nay, bó tay. Sách đã quá nhiều. Xếp từ sàn lên tận trần nhà cũng không còn đủ chỗ. Nhớ chắc như đinh đóng cột là có quyển sách đó nhưng nó nằm chỗ nào? Chịu. Không thể tim ra. Thay vì mấy thời gian tìm kiếm, cách tốt nhất ra tiệm sách mua luôn quyển sách mới.

Kinh nghiệm, lấy quyển sách đó tại đâu, khi đọc xong hãy đặt vào đúng vị trí cũ.

Lại nói về báo lá cải. Hôm qua, chị bán báo lại nói: “Đọc báo lá cải người ta nói mình “hạ cấp” nhưng vẫn thấy nó hấp dẫn. Có điều, đọc xong không dám đem về nhà, sợ con mình nó đọc”. Chữ “hạ cấp” là nhận xét của chị bán báo.

Kinh nghiệm, đừng bao giờ viết bài cho báo lá cải.

Lại nói về bạn bè. Có những người lúc nào cũng nói yêu, thương, quý mến mình nhưng chỉ một lần ghé thăm nhà, uống say quá, nói năng bậy bạ đôi câu. Lập tức, từ đó trở đi người đó không còn vốn vã, thân mật như trước nữa, cũng chẳng nói lý do tại sao. Lại có những người, lâu nay chẳng thích chơi, chẳng trò chuyện gì, dù gặp nhau vẫn như xa lạ. Vậy mà có lúc, khi mình gặp chuyện, người đó lại hỏi han ân cần, tỏ thái độ quan tâm. Lại có lúc:

Trên đường đời một lần tôi vấp ngã

Có cánh tay nâng đỡ giúp tôi ngồi

Tôi suýt soa. Quên cám ơn. Là lúc

Ngẩng mặt lên. Người ấy đã đi rồi

Tứ tuyệt ấy, y viết đã lâu rồi bởi luôn nghĩ rằng, chung quanh ta vẫn còn có nhiều người tốt. Họ giúp đỡ người khác như một lẽ tự nhiên, chẳng đòi hỏi mảy may điều gì.

Lại nói về, vụ cháy đền danh nhân không rõ nguyên nguyên nhân. Mấy tháng trước, sáng ngày 2.8.2013 người dân phát hiện đền Hai Bà Trưng ở xã Mê Linh, huyện Lâm Hà (Lâm Đồng) bị đốt cháy; nay, rạng sáng 1.12.2013, một vụ hỏa hoạn lớn xảy ra tại Đền thờ Trung túc vương Lê Lai (Đền Tép) tại làng Tép, xã Kiên Thọ, huyện Ngọc Lặc (Thanh Hóa) - vụ hỏa hoạn này khiến toàn bộ phần cấu kiện gỗ và các đồ thờ cúng của tòa Chính điện bị thiêu rụi. Chỉ trong mấy tháng mà hai đền thờ danh nhân có công đánh đuổi giặc Tàu lại bị đốt phá? Vẫn chưa tìm ra thủ phạm.

Đọc sử nước nhà nhiều lúc tức anh ách. Chẳng hạn, vào đời vua Trần Nhân Tông do ngài thoái thác không sang chầu, sai chú họ là Trần Di Ái đi thay. Khi sứ nhà Trần sang, vua Nguyên tức giận gửi chiếu thư cho nhà vua nước ta: “Khanh đã cáo bệnh mà không vào chầu thì ta cho khanh nghỉ ngơi mà thuốc thang điều dưỡng. Ta lập thúc phụ Khanh là Trần Di Ái  thay Khanh làm An Nam Quốc Vương để cai trị dân Khanh”. Ngang ngược chưa? Vua Nguyên còn lập bộ máy cai trị nước ta gọi là An Nam Tuyên úy ti do người của chúng đứng đầu. Rồi sai Thượng thư bộ Lễ Sai Thung cũng là phó nguyên soái của An Nam Tuyên úy ti đem 5.000 quân hộ tống bọn Trần Di Ái về nước. Láo chưa?

Kinh nghiệm, khi trong nước có suy yếu, không đoàn kết lập tức giặc phương Bắc tìm cớ lấn chiếm. Chuyện này đã lặp đi lặp lại nhiều lần và đã trở thành "công thức".

Lại nói về tên người, có những người khi về suối vàng, do công đức, sự nghiệp hiễn hách nên được đời sau đặt tên đường; tên trường hoặc tên thành phố... Chuyện này ai cũng rõ. Đọc quyển Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ mới rõ xã Ngọc Ổi sau đổi thành Nhị Khê là theo biệt hiệu của cụ Nguyễn Phi Khanh; làng Bối Khê là đặt theo biệt hiệu của Trạng nguyên Nguyễn Trực… Lại nghĩ xã Bình Định, huyện Yên Lạc quê hương của tác giả “khoán hộ” nếu đổi thành xã Kim Ngọc thì hợp lý quá. Mà nghĩ cho cùng, chuyện đổi tên làng, xã, quận, huyện, phân chia địa giới xoành xoạch thì về lâu dài chỉ gây khó khăn cho thế hệ sau. Chẳng hạn, năm 1843, lúc 21 tuổi, cụ Đồ Chiểu thi Hương ở trường thi Gia Định đậu Tú tài. Trường thi Gia Định ở đâu? Ít ai biết chính là... Nhà Văn hóa Thanh Niên hiện nay.

Đọc kịch Bệnh sĩ của Lưu Quang Vũ, dù hư cấu nhưng cũng cho biết vài sự việc phổ biến của một thời. Có thời không ít tên làng, xã ở ngoài Bắc được đổi tên rổn rảng mỹ từ. Nhân vật Nha - Chủ tịch xã kiêm Chủ tịch Hợp tác xã Cà hạ “đại diện dân chính đảng, các ban, ngành, tổ, đội, nhóm” phát biểu: “Từ hôm nay, cụ thể hơn là từ phút nay (xem đồng hồ) 14g30 phút ngày 1 tháng 4, lịch sử xã ta mở ra một trang mới. Xã Cà hạ của chúng ta được đổi tên thành xã Hùng Tâm, phố Cà - thủ phủ của xã ta, sẽ thành thị trấn Hùng Tâm. Chấm dứt cái tên Cà và Cà hạ nôm na của một quá khứ tối tăm, nghèo khổ. Là con cháu vua Hùng Vương, chúng ta đặt tên mới Hùng Tâm, ý nói lên cái tâm hào hùng của người dân xã ta”.

Kinh nghiệm, tìm hiểu địa danh, ranh giới làng, xã Việt Nam là việc làm không dễ dàng; muốn truy lại tên gốc của nó cũng không "dễ ăn".

Lại nói về Nhật ký 4.11.2013, trong đó có đoạn: “Tiệc cưới hôm đó, cao hứng bàn luận với Nguyễn Nhật Ánh về sự uyển chuyển, biến hóa, đa dạng, lắt léo của tiếng Việt. Theo anh, chỉ tiếng Việt, có những từ khi phát âm thì nghĩa từ đó thể hiện hình thù ngay trên miệng. Chẳng hạn, khi nói “chu” dứt khoác miệng ta chu lại; hoặc hãy quan sát miệng người đang nói “nhe răng”, “khép miệng”, “ho”, “khạc” v.v… Ví dụ này còn nhiều. Chỉ đưa ra như một gợi ý cho ai muốn tìm hiểu sâu, bài bản hơn”.

Sự hiểu biết này, anh Ánh cho biết là lúc còn đi học đã đọc từ một quyển sách nào đó. Lúc đó, tôi không thể trả lời nổi là quyển sách nào, ai đã viết. Mấy hôm nay ở nhà, ngẫu nhiên vớ quyển Việt Nam văn minh sử của nhà nghiên cứu Lê Văn Siêu, thì ra, chính ông Siêu là người trước nhất có phát hiện độc đáo này. Bộ sách này dày 1.120 trang, khổ 16x24 cm, trong đó ông đã tìm ra “âm tượng hình”  tiếng Việt và hệ thống cả thẩy 22 bộ. Chỉ liệt kê 1 bộ để thấy sự giàu đẹp lạ lùng của tiếng Việt:

“Bộ tròn:

a)  Với những âm gốc ong, ung, ông, chính khi nói cũng phải phồng má cho người đối thoại nhìn thấy hình cong. Bộ âm này dùng diễn tả những cái hình tròn, cong như: cái nong, cái võng, cái lọng, cầu vồng, quả bóng, cái vòng, thòng lọng, cái bụng, bong bóng v.v…

b) Với những âm gốc oăn, oan, uôn, uân, để diễn tả hình tròn nhiều lần, lại có thêm sức người làm cho tròn nữa như: quăn, ngoằn ngoèo, xoắn, quấn, khoan, xoăn xoe, băn khoăn, luẩn quẩn, uốn éo v.v… Khi nói miệng người ta cũng phải làm như đánh một vòng tròn từ trong ra.

c) Với những âm gốc oay, uây, oai, tả sự cử động theo chiều tròn của người hay vật như: quay, xoay, ngoai ngoái, ngoáy, khoáy, quây, loay hoay v.v… Khi nói miệng cũng tự hồ làm nhịp cho cử động ấy.

d) Với những âm gốc eo, ua, oa, ơ, ưa tả hình tròn nở lớn ra như xòa, nhòa, hoa, loe, xòe, lở, nở, chửa v.v… Chính miệng nói cũng nở tròn như động tác ấy.

e) Với những âm gốc om, ôm, um, tả vòng tròn hõm sâu xuống hay dưới một vòm của hang động như: thom lỏm, tõm, lổn ngổm, lùm tum, lom khom, dòm, nom, lồm cồm v.v… Khi nói môi cũng mím lại, và mắt mở chừng chừng như nom dòm cái gì phía dưới”.

Thú vị quá phải không? Càng đọc càng giật mình. Ngoài ra, ông Siêu còn liệt kê thêm các bộ khác như bộ dẹt, nhô, méo, nằm, ấp, vun, ấn, hất, vót, bố, cúi, co, to, béo, bé, dài, ướt, lạ, toang, bay, lạy. Chỉ chừng 13 trang viết, nhà nghiên cứu Lê Văn Siêu đã gợi mở một vấn đề lớn lao, có tính chất khai đường mở lối. Chắc rằng, sau này sẽ có nhà ngôn học vì yêu tiếng mẹ đẻ tiếp tục hoàn thiện một công trình ra tấm ra miếng. Chắc chắn là sẽ có.

Lại nói về thời gian. Chắc chắn đến một lúc nào đó, có người ngồi thừ ra và cảm thấy hối tiếc đã đánh mất thời gian cho nhiều việc vô bổ. Việc nào, cũng có thể châm chước, tặc lưỡi cho qua nhưng có cái không thể cho qua nếu đã mất thời gian vào những cuộc họp vô bổ. Maiacốpxki có viết bài thơ, đại ý, lần nọ ông vào hội trường cơ quan chỉ thấy thấy nửa người ngồi đó, nửa người còn lại đâu rồi? Hoảng quá, ông kêu to lên báo động cho thiên hạ biết nơi này vừa xẩy ra vụ “chém người”. “giết người”. Nhưng không:

Tôi rụng rời trước cảnh tượng kinh hoàng

Nhưng tiếng ai

nghe vô cùng bình thản:

Một ngày

             chúng tôi

                            họp hai chục bận

Họ phải đi hai cuộc họp một lần

Biết tính sao, đành cắt đôi thân

ở đây còn một nửa tới ngang hông

còn nửa kia

đi họp hành nơi khác”

Họp riết cũng thành nghiện. Nhà văn Lưu Trọng Văn có lần kể mẩu chuyện nhà phê bình văn học nổi tiếng nhất nước ta về Thơ mới, lúc về hưu, đơn độc một mình, đôi lần ông than thở: “Ước gì có người mời đi họp”. Ấy là ông thèm cảm giác nơi chốn đông người, lui tới, hỏi han, trò chuyện đôi câu cùng bạn bè…

Còn y, lúc này, chỉ ước: “Ngày hôm nay, chẳng có họp hành gì”.

 

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 29.11.2013

 

bia-sach-29.11.2013


Ngày nào cũng như ngày hôm nay, chuyện gì sẽ xẩy ra?

Sáng, chưa kịp cà phê, lướt web phải nhanh chóng rời ra khỏi nhà. Ăn sáng vội vàng. Bởi 9 g có cuộc họp cùng anh em trong Chi hội nhà báo. Gút lại công việc tổ chức đại hội. Đã sắp hết một nhiệm kỳ rồi. Sau đó, họp tiễn sếp Tổng nghỉ hưu. Vậy là năm tháng làm báo của y lại bắt đầu với đời Tổng biên tập thứ 5. Trước đó là chị Thế Thanh, Minh Nguyệt, Mai Hiền, Khánh Tâm. Các chị đáng yêu, là những người tốt. Một mái ấm của tháng ngày y sống bằng nghề viết báo. May mắn được làm việc trong một cơ quan như gia đình. Tình thân. Yêu thương và luôn quan tâm, bảo ban, che chở, giúp đỡ nhau. Ròng rã gần 30 năm kiếm sống lương thiện chỉ bằng các con chữ thể hiện trên mặt báo. Đâu riêng gì y, chắc chắn chẳng nhà báo nào có thể nhớ, trong đời đã viết, đã in bao nhiêu bài báo. Trưa nay, nhân dịp chia tay sếp Tổng, cơ quan tổ chức liên hoan thân mật. Tình thân vẫn đầy. Nỗi nhớ vẫn đầy. Lâu nay, đều như vắt chanh, ngày như mọi ngay dù mưa hay nắng, y phải về nhà ăn trưa và nghỉ ngơi một chút. Trưa nay không thể. Do đó, ăn vội vội vàng vàng và quay về nhà như thói quen mọi ngày. Đã thế, 14g30 phải có mặt ở Hội Nhà văn họp xét giải thưởng thơ thường niên; xét kết nạp hội viên mới. Đã có danh sách. Đã có kết quả. Họp xong, Lê Thị Kim mời anh em vào lẫu cá kèo. Đang ngon miệng mà phải vội rủ Trương Nam Hương đến chỗ hẹn. Hẹn với người bạn học cũ. Cô học trò người Hàn Quốc của bạn cần tư vấn một vài chuyện. Mà đã xong đâu. Rời khỏi quán cà phê, tranh thủ đi hớt tóc. Lúc quay về nhà lại vội vàng bởi mưa đang lấm tấm mưa. Thế là mất béng một ngày.

Ngày nào cũng thế này. Cũng phải vội vội vàng vàng là một cực hình.

Mấy hôm nay, vẫn mua vài ba tờ báo. Chị bán báo quen, biết y là nhà báo, tự nhiên hỏi: “Lâu nay tiền cứu trợ bão lụt có đến tay dân nghèo không?”. Chưa kịp trả lời, chị nói luôn: “Ai làm ác thì “đời cha ăn mặn, đời con khát nước”. Còn mình, dân trong một nước thì phải thương nhau thôi”. Quan chức nước nhà, tự ý thức được như chị bán báo thì may cho dân quá.

Dạo này đọc báo lá cải, dù nhảm nhí nhưng đỡ phải tức anh ách. Vì các báo chính thống đưa tin dẫu nhanh nhậy, nghiêm túc, đứng đắn, câu cú đàng hoàng, viết có trách nhiệm nhưng đọc kỹ thấy gì? Thấy  cuối cùng, trước những sự việc đang phản ánh chẳng rõ quan điểm người viết ra sao. Điều này cũng dễ hiểu, để an toàn, nhà báo chỉ đưa sự kiện đang xẩy ra. Và tự bạn đọc phải suy nghĩ để có câu kết luận cuối cùng. Đọc mà không thấy thái độ của nhà báo.  Ấy cũng làm báo. Có ai đó đã nói, báo chí cũng một cách “xả xú bắp” nhưng “xả” kiểu đó, có khi lại xì-trét hơn.

Ngày nọ, ngồi lai rai người bạn đang công tác ở một tờ báo lớn nhất nhì tại TP.HCM. Bạn tâm sự: “Điều em đau nhất là trong Ngày Nhà báo có bạn đọc nói “Dạo này báo của chị bênh vực nhà nước hơn bênh dân”. Nghĩ thế nào về câu nói đó? Có phải người dân không thấy những điều họ quan tâm, bức xúc được phản ánh trên trên mặt báo chăng? Hay chỉ thấy thể hiện nửa vời "lửng lơ con cá vàng"? Hay còn lý do gì khác? Hôm trước đọc trên báo TT cái tin thật buồn cười, lại ngay trang 2: “Chiều 23.11, Bộ trưởng Bộ GTVT Đinh La Thăng đã có chuyến công tác từ Hà Nội vào Đà Nẵng bằng máy bay giá rẻ của Hãng hàng không Jetstar Pacific. Đây là lần thứ 2 ông Thăng đi công tác bằng vé máy bay giá rẻ nhằm thực hiện chủ trương tiết kiệm của Bộ GTVT trong việc sử dụng kinh phí đi công tác. Trước đó, ông Thăng cùng Thứ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Hồng Trường đã đi công tác bằng vé máy bay hạng phổ thông của Hãng VietJet Air thay vì đi vé hạng thương gia theo tiêu chuẩn được hưởng”.

Ủa, vậy hóa ra mấy cái hãng máy bay đó chỉ dành cho người thu nhập thấp? Mà quan chức đi may bay giá rẻ thì có gì phải đáng quan tâm? Trong khi đó, với người dân chưa cần được đi máy bay giá rẻ, chỉ cần đi xe đò, đi xe lửa không bị ép ăn "cơm tù", không bị mua suất ăn với giá trên trời, không bị nhồi nhét, không phóng nhanh vượt ẩu... là đã mừng hết lớn rồi. May mắn lắm rồi. Hãy xem hàng ngàn chuyến xe tốc hành, tàu hỏa Bắc - Nam mỗi ngày mới biết người dân còn khốn khó thế nào. Với quan chức, người dân quan tâm không phải chuyện vặt như báo đã đưa tin. Họ chỉ quan tâm trên cương vị đang giữ, quan chức đó đã làm được gì cho dân? Nếu đi máy bay hạng sang, hạng VIP mà vẫn làm được việc còn hơn đi máy bay giá rẻ nhưng chẳng làm được gì. Thích người Mỹ ở tính thực dụng. Phải hiểu thực dụng ở đây là đạt đến kết quả cuối cùng. Hiệu quả cuối cùng của công việc. Chứ không phải mấy chiêu trò lòng vòng “hoa lá cành nặng phần trình diễn". Trước đây, trên TT có chuyên mục tiểu phẩm Chuyện như đùa do nhà văn trào phúng Lê Văn Nghĩa phụ trách. Còn nhớ một tiểu phẩm đại khái, tổ dân phổ nọ, ngày nọ quyết tâm phải bầu lại cán bộ. Dân đã chịu hết xiết quan tham này rồi. Bầu bán xong, quan tham đó vẫn yên vị, không gì thay đổi. Vũ như cẩn. Vẫn như cũ. Sao kỳ cục vậy? Hỏi ra, người dân đồng loạt cho biết, cứ để quan chức đó ngồi đó vì đã "ăn" nhiều rồi, "ăn" no rồi; nếu bầu người khác lên, nó bắt đầu mới "ăn" thì dân chịu làm sao xiết? Thời phong kiến, tùy thời đại, lại có cái hay. Nếu quan chức nhà nước tham ô, tham nhũng, ức hiếp dân thì dân hè nhau vác ông quan đó lên trả lại cho cấp cao hơn. Chiều qua, họp xong, bạn thơ Trương Nam Hương bảo: "Một xã hội mà trong dân gian thậm thò thậm thụt truyền miệng nhau thơ ca hò vè châm biếm, tiếu lâm chính trị là điều bất thường". Đúng quá. Tâm lý xã hội phản ánh chân thực nhất, đúng nguyện vọng, tâm tư, bức xúc của dân đen cũng chính từ kênh thông thông  dân dã, chợ búa, đầu đường xó chợ, khố rách áo ôm... Sở dĩ như thế, bởi nó chưa bị... "biên tập"!

Không rõ ai là người nghĩ ra cụm từ rất ác liệt: “trà chanh chém gió”?

Có một tập sách cái tựa chẳng hấp dẫn chút nào Sinh hoạt tư tưởng, dày 390 trang, in năm tại 2000, không rõ in bao nhiêu cuốn, chỉ biết in tại Nhà in Tạp chí Cộng sản (38 Bà Triệu - Hà Nội). Lời nói đầu cho biết: “Cuốn sách này tập hợp những bài viết trong mục Sinh học tư tưởng của Tạp chí Cộng sản suốt 10 năm, từ 1990 trở lại đây”. Đọc thú vị lắm, bởi các bài viết này thuộc loại tự chỉ trích. Thái độ dũng cảm này là phê phán. phân tích các việc làm, các hiện tượng trái khoáy của một bộ phận quan chức, cán bộ nhà nước. Nói cách khác là dám tự chỉ trích cái ấu trĩ, bất cập của một đảng cầm quyền. Con người ta chỉ trưởng thành khi dám tự chỉ trích chính mình. Thế nhưng chẳng hiểu tại sao, dù đã tự chỉ trích để Đổi mới nhưng sự vận hành trong xã hội hôm nay vẫn tồn tại y chang những gì đã có, đã xẩy ra từ thập niên 90 của thế kỷ trước? Chẳng thay đổi gì cả. Những vấn đề bức thiết vẫn còn còn ý nghĩa thời sự. Vậy hóa ra, sự thái hóa, biến chất, ấu trĩ của năm tháng đó kéo dài đến tận nay?

Khâm phục ông bạn già Lại Nguyên Ân quá, vừa công bố Phan Khôi - Tác phẩm đăng báo 1935 (NXB Tri Thức). Chạnh lòng khi nhìn lưu chiểu, số lượng in chỉ… 300 bản! Tính nhẩm nhuận báo rồi thở dài. Nếu không có những con người như ông, làm sao thế hệ hệ này có thể biết được di sản của thế hệ trước còn tản mác đâu đó, ít ra là của nhà văn hóa Phan Khôi. Mười năm nay, ông Ân đã cặm cụi gom góp các bài báo của Phan Khôi và in các tập từ 1928 đến 1935. Sức làm việc phi thường quá. Xin ngả mũ chào. Lật ngẫu hứng một trang. Trang 352: “Bộ Lại mới ra nghị định cấm những sách này không được lưu hành ở Trung Kỳ: Chuyện Đề Thám của Bảo Ngọc Văn Đoàn ở phố Cửa Nam Hà Nội; Những trận đổ máu hồi người Pháp mới sang taGiặc Bãi Sậy của Nhật Nam thư quán ở phố Hàng Gai, Hà Nội”. Đoạn tin này lấy từ “báo Tràng An, số 56 (10 Septembre 1935), tr.4”.  Hồi đó, những cuốn sách được phát hành ở Bắc Kỳ, Nam Kỳ nhưng Trung Kỳ lại không; hoặc ngược lại. Mà cũng có thế phát hành ở Nam Kỳ nhưng chớ hề béng mảnh tới Bắc Kỳ, Trung Kỳ  v.v...

Từ cái tin cỏn con đó, nhìn vào việc làm của bộ Lại Nam triều và liên tưởng đến thực tại, có nhiều điều phải suy nghĩ.

Mà thôi.

Em rằng: "thơ của em đâu?"
Hãy nhìn mây trắng ngàn lau dặm đường

Phố khuya rừng rực mù sương
Niềm vui ngây ngất ngoài vườn cỏ thơm

Chìm trong ký ức rạ rơm
Bông hoa đã tím hương thơm nồng nàn

Gối chăn ngày nọ còn ngoan
Đằm trong trí nhớ mơn man dấu tình

Hãy nhìn bóng tối yêu tinh
Dòng men rót xuống bóng hình đan nhau

Em rằng: "Thơ của em đâu?"
Mùa vui đang Tết ngàn sau còn bền

Một ngày nắng mới vừa lên
Dấu răng giữa ngực gọi em, em là...


L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 27.11.2013

 

moiemuongruou

Tập thơ Mời em uống rượu (NXB Hội Nhà văn) của CAO THOẠI CHÂU

 

Mấy hôm nay phờ phạc của người. Cứ lặng lẽ "cày" bài cho báo Xuân. Thì anh em cần thế. Y cần tiền thế. Thế là viết. Cũng vui. Thời gian trôi qua không đến nổi vô ích lắm. Có hôm viết đến khuya. Đã chín giờ sáng vẫn chìm trong mộng đẹp cùng tiếng ngáy khò khò. Bỗng nghe tiếng gọi cửa phòng: “Q ơi, sao giờ này chưa dậy?”. Thế đấy. Mẹ y gọi. Sướng chưa? Mẹ gọi dậy hoàn toàn khác với vợ gọi, có lẽ khó có lời trìu mến hơn. Sáng bừng. Chưa kịp làm gì đã hết một ngày. Càng già, con người ta càng thấy thời gian ngắn hơn nhiều. Loay hoay một chút đã thấy bạc trắng tóc. Nến lụn dần. Ngày vụt qua. Đời người tắt ngúm.

Chiều nay, đọc trên facebook của ông bạn thơ Từ Kế Tường:

“Những cuộc hội thảo văn học nghệ thuật để tìm ra tác phẩm đỉnh cao kiểu này đều không mang lại kết quả cụ thể, chỉ tốn tiền và tốn thời gian trong tình hình khốn khó của xã hội hiện tại. Nhìn những gương mặt được mời dự hội thảo, ngoài một số rất ít còn viết được (chứ không có nghĩa là viết được tác phẩm đỉnh cao) thì phần đông đã... hết xí quách, không viết nổi nữa. Thế thì hội thảo làm cái quái gì? Hay chỉ để tiêu tiền ngân sách Nhà nước rót cho lúc sắp hết năm và gặp gỡ tào lao, hiếu hỉ cho vui (mà chưa chắc đã vui)?

Theo tôi, để có tác phẩm thôi, chưa dám nói là đỉnh cao, hãy đầu tư tiền Nhà nước (tức của nhân dân) có trọng tâm, trọng điểm, đúng địa chỉ. Tức là, chọn ra một danh sách nhà văn, nhà thơ... viết được tác phẩm (bảo đảm vô tư, khách quan, không bè cánh) làm hợp đồng trách nhiệm gữa hai bên rồi ứng tiền (đủ để sống và viết, khỏi phải lo cơm áo gạo tiền gì nữa). Khỏi tổ chức trại sáng tác, tham quan thực tế làm gì cho rách việc. Đầu tư cho tác phẩm là bao nhiêu? tác phẩm đỉnh cao thì tiền phải cao, ứng trước bao nhiêu? đề cương thế nào? thời hạn giao tác phẩm và... tan hàng ai về nhà nấy cứ lo mà viết rồi đúng thời hạn quy định giao nộp. Nếu ai nhận tiền, ký hơp đồng trách nhiệm mà không giao được tác phẩm thì phải đền tiền lại. Danh sách tác giả mời viết, ký hợp đồng trách nhiệm không cần nhiều, mà chọn lọc, đặt hàng theo kiểu (chọn mặt gửi vàng). Tôi bảo đảm sẽ có tác phẩm. Nhuận bút 500 triệu - 1 tỉ sẽ có tác phẩm đỉnh cao chứ 15 - 20 triệu mà đòi tác phẩm đỉnh cao thì hơi bị.... hoang đường trong khi tham nhũng cả hàng trăm vụ, mỗi vụ hàng nghìn tỉ, Nhà nước lo dọn dẹp, cơ cấu lại kinh tế mệt xỉu. Cứ trả tôi nhuận bút 500 triệu, 1 tỉ và đừng ai dạy tôi phải viết thế này, viết thế kia tôi sẽ bảo đảm có tác phẩm đỉnh cao”.

Đọc một thông tin trên facebook đôi khi y không tin cậy. Bởi chẳng biết lúc ấy người ta viết thật hay đùa. Ngay cả like comment cũng thế thôi. Khó có thể biết được tâm ý của người ta thế nào. Thông tin của Từ Kế Tường đã nói đúng thực trạng của một thời và còn kéo dài đến bây giờ. Mà xin hỏi một cách nghiêm túc, có phải có tiền đầu tư thật nhiều, thật cao ắt có cái gọi là “tác phẩm đỉnh cao”? Tào lao hết sức.

Các ông tiền bối của 1930  - 1945 có nhận của ai một đồng xu nào mà vẫn có tác phẩm để đời? Họ nghèo sạt mặt, có người ho lao, đói cơm mà chết. Thậm chí, ông Ngô Tất Tố còn bảo rằng, “Trong các nhân vật làng văn hiện thời, ông Vũ Trọng Phụng là người nghèo lắm. Khắc hẳn những ông Trần Tế Xương và Nghiêm Phúc Đồng, cái nghèo của ông Phụng lại là thể “nghèo gia truyền”, không phải “nghèo lỏi”.“Hình như riêng ở phương Đông, cái nghèo cũng là cái trường đúc nên văn sĩ”. Thời đó, làm gì có chuyện nhà nước rót tiền, đầu tư kinh phí, mở trại sáng tác, tổ chức đi thực tế lấy cảm hứng để viết, vậy mà tác phẩm của họ vẫn sừng sững thời gian.  Bây giờ? Đừng trách người đọc. Có ai thừa thời gian, tốn tiền mua thứ hàng giả, nghĩa là khi viết đã tự “biên tập” lấy chính mình. À, cái này, cái kia thò ra là nó cắt béng ngay. Nghĩ thế, sợ quá, cho an toàn, cho suôn sẻ bèn tự mình thiến nó trước. Đôi lúc lại nghĩ một cách quả quyết nếu sống trong thời đại chúng ta, các ông tài danh trên văn đàn thuở ấy cũng khó có thể đẻ ra “tác phẩm đỉnh cao”. Vấn đề đặt ra không phải vì tiền. Vậy cái gì? Một cơ chế công bố tác phẩm phải thay đổi? Một quan niệm, ý thức về nghề phải thay đổi?

Ở Việt Nam, hiếm có nhà văn nào dám dành thời gian toàn tâm toàn ý viết một tác phẩm, cứ viết, dù lúc này chưa công bố được thì đợi thời gian sau. Thật ra, lâu nay chúng ta viết vì kiếm sống nên phải chiều theo ý của “đặt hàng”; viết để công bố nên khi viết đã không còn thật nữa, phải uốn éo đầu xuôi đuôi lọt. Viết để kiếm danh nên cắm mặt viết cái gì đó mà trong đầu mình không nghĩ thế. Nếu ông Đặng Trần Côn viết Chinh phụ ngâm theo kiểu ba rọi ấy, có lẽ hậu thế đã quên béng rồi. Đọc sử ta biết, bấy giờ, Uy Nam vương Trịnh Cương cấm đốt lửa trong kinh thành, nhưng không thể không viết, thế là ông Đặng đào hầm dưới đất đốt nến để viết. Viết hằng đêm. Viết từ một sự thôi thúc của chính mình, chứ không phải vì tiền. Dứt khoát không phải vì tiền. Ai lại không cần tiền để sống? Ai cũng cần. Viết đặng có tiền để sống khác với kiểu viết vì đã nhận tiền tài trợ.

Đọc loáng thoáng đâu đó, chỉ nhớ đại khái, Phật dạy khi ăn cơm mỗi ngày., chúng sinh hãy ăn như thể ngay sau đó không bao giờ còn được ăn nữa. Ăn như thế mới tận hưởng cái ngon. Thì viết cũng thế thôi. Viết như rút gan ruột ra mà viết, vì chỉ lần còn này. Chỉ lần này mà thôi. Hỡi ôi, mấy ai viết trong tâm thế đó hay chỉ múa may, ỏng ẹo trên trang giấy?

Mấy hôm nay, tờ báo V.N nọ ròng rã, bền bĩ, ráo riết, kiên nhẫn lôi các ông Nguyễn Huệ Chi, Nguyên Ngọc, Tương Lai… "đánh" tơi bời. Đao thủ một mình một chợ. Khiếp quá. Đao thủ múa bút. Mực cạn hụt hơi. Nhập vai kép độc. Đứt đầu như chơi. Chẳng buồn vỗ tay. Chơi trò độc diễn. Ngày ngày trôi qua. Vẫn còn bia miệng. Chẳng biết ra làm sao cho suy nghĩ của con người thời buổi này. Sợ thật. Trưa nay, ngồi ăn cơm mà muốn sặc bởi nguyên văn một câu chình ình trên mặt báo dành cho trí thức, văn nghệ sĩ: “Ông “giáo sư” Tương Lai (cái tên nghe thật “sến”)" (báo VN 28.11.2013). Người viết câu đó là “Luật gia - Nhà báo H.P”. Không bình luận nữa, Không đáng để bình luận. Dù chỉ một dòng. Chỉ nhắc lại để thấy thời buổi gì kỳ cục, kỳ quặt quá. Ngán ngẫm thật.

Vẫn còn nhiều nhà báo yêu nghề, cô Thu Trang lừng danh của báo PN vừa đi lên Sín Chải là một bản nhỏ xinh đẹp của người Hà Nhì, thuộc xã Nậm Pung, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai. Vùng đất này “nhiều đoàn cán bộ miền xuôi lên đây nghiên cứu, họ nói do đất bị nhiễm độc phóng xạ”.  Thế nhưng số phận người dân ở dây vẫn không thay đổi. Cô viết một câu không thể không nhắc lại: “Trong tay những cán bộ xã Nậm Pung không có bất cứ tài liệu nào để giải thích về những cái chết bất thường bao lâu nay ở Sín Chải. Họ cũng giống như Phú A Sì, chỉ biết trông đợi vào kết quả nghiên cứu được công bố của các cơ quan chức năng. Các nhà khoa học có lẽ... bận quá nhiều việc nên đã quên mất ở Sín Chải, có những con người đang ngày đêm khắc khoải chờ đợi một điều kỳ diệu xảy ra. Họ không muốn tiếp tục chết, khi chưa kịp đi hết nửa đời người” (PN 25.11.2013). Thương cảm. Bùi ngùi. Lại đọc thông tin trên tờ TT (25.11.2013) mà bàng hoàng, cứ tưởng bịa: “Thời gian qua, tại một số địa phương trên cả nước xuất hiện những công sở được đầu tư kinh phí lớn, trên những khu đất rộng hàng ha. Là nơi làm việc của các cơ quan địa phương và các cơ quan trung ương đóng tại địa phương, các công sở này được đầu tư tiền trăm tỉ”. Trăm tỉ là ít hay nhiều? Có một điều dễ nhận ra nhất là có đi về các vùng sâu vùng xa mới thấy đời sống bà con còn nghèo, nghèo lắm. Buồn quá đi chứ.

Ngẫm nghĩ thêm một chút để làm gì? Dù vẫn biết chẳng làm gì cả nhưng rồi đôi khi người ta vẫn nghĩ. Nghĩ riết, chẳng biết để làm gì nên dần dà lại thấy mọi chuyện trên đời chẳng còn gì để nghĩ nữa.

Sáng nay đã nhận được tập thơ của ông bạn thơ Cao Thoại Châu gửi tặng. Cám ơn ông bạn già sinh năm 1939 tại Nam Định, nay định cư ở Long An, hơn y đúng 20 tuổi, có thơ in báo từ lúc y còn mặc quần tà lỏn tắm mưa. Tập Mời em uống rượu (NXB Hội Nhà văn). Lật hú họa một trang:

Thơ của anh cũng như đời của anh

Cứ mỗi ngày buồn thêm một ít

Nụ cười hồn nhiên kể như đã hết

Anh biết lấy gì để tiễn đưa em

(Cao Thoại Châu, 1968)

Lại thơ. Ừ, thì thơ.

 

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 24.11.2013

 

Sáng hôm qua, y phải tự dỗ dành. Rủ y vào Dinh Độc Lập. Dũng cảm gác lại công việc. Ra khỏi nhà. À, nơi đó diễn ra Ngày hội sáng tạo vì khát vọng Việt lần II. Tổ chức chỉnh chu. Có cả hàng ngàn thanh niên tham dự. Khi trong khán phòng chính diễn ra hội thảo, các phòng khác hoặc ngay ngoài sân cỏ cũng đều có màn hình trực tiếp cho công chúng theo dõi. Người tham dự được tha hồ uống các loại cà phê Trung Nguyên, miễn phí; đã thế còn được tặng thêm tập sách Quốc gia khởi nghiệp - Câu chuyện về nền kinh tế thần kỳ của Israel.

Y ngồi trên sân cỏ và lắng nghe các phát biểu từ hội thảo Khởi nghiệp Kiến quốc - công thức thành công từ các cường quốc và bài học cho Việt Nam với sự tham dự của nhiều GS - TS, chuyên gia kinh tế hàng đầu trong vào ngoài nước. Điều hành buổi sáng, bà Tôn Nữ Thị Ninh - Phó Chủ tịch Quỹ Hòa bình Việt Nam; buổi chiều, bà Vũ Kim Hạnh - Giám đốc Trung tâm kinh doanh và hỗ trợ doanh nghiệp. Phải thành thật mà nói, các bài phát biểu rất lý thú, hấp dẫn, bổ ích. Chẳng hạn, GS - TS Trần Thị Vinh - giảng viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội thuyết trình Bài học thành công của Singapore. Theo bà, 3 bài học quan trọng nhất của Singapore đã đạt được: Khát vọng và ý chí vươn lên của người dân; nhà nước xây dựng được chiến lược giáo dục; bộ máy cầm quyền trong sạch, có tài, có tâm vì đất nước. Bà Vinh phân tích rất hay và nói năng khúc chiết, thuyết phục.

Chương trình này cần thiết cho giới trẻ, hơn ai hết chính họ phải trả lời; hoặc phải được nghe câu trả lời từ hội thảo: Từ hậu quả sau bom nguyên tử ở Hirosima, điều gì đã khiến Nhật Bản chỉ chưa đầy 20 năm trở thành siêu cường kinh tế? Điều gì đã khiến Israel từ một sa mạc tưởng như không có sự sống, giờ đây chỉ với 13 triệu dân đã kiểm soát hầu hết những lãnh vực then chốt của thế giới? Điều gì đã giúp Singapore từ một làng chài nhỏ bé nghèo nàn của Malaysia thành quốc đảo văn minh bậc nhất thế giới? Làm thế nào để Việt Nam trở thành quốc gia vĩ đại, hùng cường, có tầm ảnh hưởng? Người khác làm được sao ta chưa làm được? Người khác làm được sao nước ta chưa làm được? v.v…

Lúc trên đường về nhà, tự hỏi, Việt Nam mình có được 3 bài học như Singapore không? Vừa tự hỏi lại tự nhiên nhớ chừng mươi năm trước cùng nhà thơ Phạm Sỹ Sáu đi về Cần Thơ đọc thơ. Anh em hội VHNT đưa xe chở đến một trường trung học thuộc vùng sâu vùng xa. Xe đang lăn bánh qua cầu, nhà báo Vũ Châu, lúc ấy đang công tác tại báo Cần Thơ chỉ qua cồn Tân Lộc (huyện Thốt Nốt). Chị nói, nơi  này người dân địa phương quen gọi đảo Đài Loan vì hầu hết gia đình nào cũng có con gái làm dâu xứ người.

Sáng nay, xem lướt qua các tờ báo lớn, không thấy có được bài tường thuật nào đọc cho ra hồn, kể cả tờ báo đồng hành cùng chương trình này.

 

1458678_10151998749314869_68693070_n

Từ trái: Nguyễn Minh Nhựt - Giám đốc NXB Trẻ, nhà thơ Lê Minh Quốc, nhà văn Nguyễn Nhật Ánh (ảnh: nhà báo LAM ĐIỀN)

 

Sáng nay, cùng Trần Hoàng Nhân vào phở. Đã gọi. Cuối cùng phải xin lỗi, cả hai đứng dậy và phóng xe đến NVH Thanh Niên. Anh em gọi điện thoại liên tục vì đã đến giờ trao giải Cuộc thi Nguyễn Nhật Ánh và tôi. Có mấy nhận xét: Tổ chức chu đáo, thu hút được cả hàng trăm bạn trẻ đến tham dự. Nguyễn Nhật Ánh có sức hút mà không nhà văn nào có thể “hớp hồn” được các bạn trẻ nhiều đến thế. Các câu hỏi giao lưu của bạn đọc đều chất lượng, thể hiện được tinh thân yêu sách và yêu tác phẩm của anh Ánh. Giải Nhất trao cho bạn Lê Mạnh Tân qua bài viết Tác phẩm của chú đã giúp tôi vượt qua giai đoạn đen tối nhất của cuộc đời. Ngạc nhiên khi gặp cả hai bố con Tân từ Hà Nội vào dự.

Trong bài viết đó, cậu Tân kể lại: “Lúc ấy, tôi như bao đứa trẻ con khác mải ăn, mải chơi. Lên lớp 9 vì dốt quá nên thi trượt cấp 3. Bố tôi không nói lời nào, lôi tôi ra đánh một trận và nói: “Tại sao mày ngu thế”. Sau đó, ông bố mua cho 200 con gà Tam hoàng và 4 con lợn: “Loại như mày thì ở nhà mà nuôi gà, nuôi lợn thôi con ạ. Học làm gì”. Trong thời gian này, lần đầu tiên cậu bé đọc truyện dài Còn chút gì để nhớ và khóc thút thít một mình. Do sợ bố biết nên mỗi lần mua sách, đọc sách cậu phải giấu. Đây là một chi tiết cảm động: “Mua truyện về, tôi phải giấu thật kỹ, đợi nửa đêm thắp một cái nến vào trong tủ quần áo, mở cửa tủ he hé rồi thò đầu vào đọc. Nhiều hôm, trời mùa hè, đọc được mấy trang lại thò đầu ra để lau cái đầu ướt đẫm mồ hôi. Có mấy lần đang đọc truyện, bố tôi bắt gặp, xé hết và cho tôi một trận đòn”. Sao đó, cuộc đời cậu thay đổi thế nào? “Từ khi đọc truyện của chú, tôi lại muốn đi học giống như nhân vật trong truyện, được cắp sách tới trường, được yêu đương, được vui đùa…. Chứ không muốn mãi mãi ở nhà nuôi gà, nuôi lợn”.

Những tác phẩm văn chương có thể thay đổi số phận con người.

Thời trẻ, lúc học lớp tám, cuốn sách dầy đầu tiên đã làm y rưng rưng suốt mấy ngày liền chính là Chim hót trong lồng của nhà văn Nhật Tiến. Sau này, mới biết là anh ruột nhà văn Nhật Tuấn. Hai anh em cùng viết văn nhưng tính cách khác xa một trời một vực. Đã lâu không gặp Nhật Tuấn để rủ lên Suối Hoa ăn uống bia bọt mỗi chiều chủ nhật nữa.

Chiều nay trời mưa. Ngồi viết lai rai đỡ buồn. Lúc này, có ai rủ rê lai rai một chút thì vui quá. Chẳng có ai. Viết đi. Ừ, viết đi.

Thế có chán không chứ?

 

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 22.11.2013

 


ao_tarngRR

Tập san Áo Trắng sẽ trở thành Tuyển tập thơ văn phát hành vào ngày 15 mỗi tháng

 

Chiều qua, họp với NXB Trẻ về số phận tập san Áo trắng. Cuối cùng, “tổng tư lệnh” điều hành là nhà văn Đoàn Thạch Biền. Tất nhiên, vẫn còn nhà văn Nguyễn Đông Thức và y nữa. Y sẵn sàng làm mọi việc khi anh em yêu cầu. Từ đây, theo giám đốc Nguyễn Minh Nhựt,  A.T sẽ trở thành Tuyển tập thơ văn, dày chừng 100 trang, mỗi tháng phát hành một số. Từ sân chơi này, hơn hai mươi năm qua, “huấn luyện viên” tài ba Đoàn Thạch Biền đã giúp cho nhiều cây bút trẻ sự xác tín về tình yêu văn chương. Tình yêu ấy nhọc nhằn mà cũng tạo cảm hứng để thêm yêu cuộc đời này. Cuộc đời có quá nhiều điều mới lạ mà những ai mới lớn cũng muốn viết lại cảm nghĩ của mình. Rồi dần dà năm tháng đi qua, như câu thơ Huy Cận “Vậy đó bỗng nhiên mà họ lớn”. Ngoảnh lại, họ đã thành những cây bút chững chạc tự bao giờ rồi. Lúc ấy, họ lại nhớ đến một thời áo trắng. Như nhớ một vườn ươm yêu thương ngay từ lúc bước vào đời. Nhớ lại năm tháng tươi đẹp của đời người. Có thể, từ đó, họ đi không chệch hướng. Sứ mệnh của tờ A.T chính là đó. Chẳng một tham vọng gì lớn lao. Chẳng tuyên ngôn to tát. Chẳng việc gì phải ồn ào. Chỉ lặng lẽ những trang viết và một niềm say mê văn chương.

Đêm qua, sinh nhật nhà thơ Thanh Tùng. Cảm động với sự lo toan chu đáo của cô con gái dành cho bố bước vào tuổi 79. Có tấm hình chụp chung ba người tuổi Hợi. Thanh Tùng: Ất Hợi (1935); Trần Mạnh Hảo: Đinh Hợi (1947); và y: Kỷ Hợi (1959). Nhạc sĩ Trần Tiến cũng Đinh Hợi có lần bảo y: “Tuổi Hợi thường thành công trong những việc làm ngẫu hứng. Ngẫu hứng đến, nếu khoái, cứ làm ắt thành công. Còn mọi sự tính toán, có kế hoạch đàng hoàng tưởng “ngon ăn” nhưng cuối cùng lại hỏng bét”. Có đúng vậy không? Chắc gì. Trong cơn say ngất ngưỡng, chỉ một chút thôi, bạn thơ Đinh Thu Hiền bảo: “Em thấy con gái thường yêu bố hơn con trai anh à”. Tại sao không là con trai? Hiền cười: “Con trai nhiều lúc muốn thể tình yêu dành cho bố, chắc gì vợ đã ủng hộ? Khó lắm”. 

Đã xong bài viết P.R cho một sản phẩm mới. Nhắc lại để thấy rằng việc quảng cáo thời buổi này đã khác trước. Thời trước, một sản phẩm mới ra thị trường thường gắn liền với hình ảnh của giới showbiz. Một chàng ca sĩ nọ, một siêu mẫu chân dài kia, một diễn viên kìa v.v… sử dụng sản phẩm đó. Xưa rồi diễm. Bây giờ người ta cần những người trí thức viết bài liên quan đến hình ảnh của sản phẩm đó một cách khéo léo. Có thể nhìn từ góc độ văn chương, điển tích văn học, quan niệm văn hóa của Đông - Tây v.v… Những bài viết này có những “từ khóa” chung như một cách gợi ý cho người đọc liên tưởng đến điều mà người viết muốn gửi gắm.

Loại bài này khó ở chỗ tác giả phải hài lòng mà không xấu hổ những gì đã viết, ít ra sự tự trọng không cho phép họ đem cái tên của mình ra quảng cáo cho sản phẩm đó - dù thù lao cao gấp nhiều lần so với bài báo cũng chừng ấy chữ. Kế tiếp, bài viết này phải được công ty trung gian đặt hàng đồng ý thì mới đưa cho chủ doanh nghiệp “duyệt” lần nữa. Chủ sản phẩm đó mới là người quyết định số phận bài viết vì họ là người trả mọi chi phí liên quan. Vậy đã xong đâu, loại bài viết này không được phép lộ ra ý đồ quảng cáo quá lộ liễu, nếu như thế công chúng sẽ phát hiện ngay. Cách làm này nhằm tạo một “thương hiệu” có tính chất lâu dài. Chính các “từ khóa” trong bài viết dần dà đi vào tiềm thức của công chúng. "Mưa dầm thấm lâu". Công chúng sẽ có cảm tình với sản phẩm mang tên các “từ khóa” luôn được nhấn mạnh, lặp đi lặp lại nhiều lần.

Quảng bá và tạo dựng một thương hiệu như thế quá tinh tế, thông minh.

Nhắc lại để thấy rằng, mỗi một thời cách quảng cáo sản phẩm điều có chiêu riêng. Cách sử dụng thơ, vè phổ biến nhất trên báo chí Việt Nam là trong khoảng thời gian từ 1930 đến 1954. Trước đây các doanh nghiệp dùng thơ vì nó dễ đi vào trí nhớ người tiêu dùng. Ngay cả ông Bạch Thái Bưởi khi cạnh tranh trên đường thủy với các hãng Tây, Tàu cũng vậy. Thời ấy, trên các chuyến tàu, ông thuê các tay hát sẩm rỉ rả những bài thơ, vè cổ động tinh thần “người Việt dùng hàng Việt”. Nhờ đó, ông thành công rực rỡ. Còn nhớ lần đầu tiên, vài năm trước đây có một sản phẩm vật chất được quảng bá dưới hình thức sách. Sản phẩm đó là sơn. Trong tập sách đó, người viết không đề cập đến một nhãn hiệu sơn cụ thể, chỉ viết về sự an bình, thong dong, nghĩ ngơi... trong căn nhà của mình. Người đọc được sở hữu một tập sách văn học với chủ đề như vậy. Ngẫm lại mà xem, với một tập sách có giá trị văn học, người ta sẽ gìn giữ lâu dài chứ chẳng ai giữ các trang quáng cáo cụ thể, chỉ đơn thuần là thông tin có tính chất thời sự.

Khi đọc các tập sách đầu thế kỷ XX, chúng ta biết được nhiều nhãn hiệu, thương hiệu hàng hóa cách đây hàng trăm năm cũng là do người ta biết đến cách tiếp thị này. Chỉ xin đưa một vài thí dụ: Tập sách Thời sự cẩm nang in toàn bộ vấn đề thời sự Nam kỳ năm 1925, dày 600 trang - do nhà in Nguyễn Văn Của ấn hành năm 1926, ngoài bìa ghi rõ: “Các quan chủ tỉnh trong Nam kỳ có mua một ngàn cuốn đặng phát cho các làng dùng”. Ta hiểu tập sách này có tính chất tổng hợp các công văn, nghị định do thống đốc, toàn quyền...  ký và ban hành. Thế nhưng, trong đó vẫn có các trang quảng cáo đủ loại sản phẩm lúc bấy giờ; hoặc các tập sách khác của nhà văn ở Nam kỳ thời điểm đó cũng tương tự. Đừng nói đâu xa, chỉ mới trước 1975 thôi, hầu hết các tập sách viết về thú chơi cổ ngoạn, thú đọc truyện Tàu, chơi chim ca cảnh... của cụ Vương Hồng Sển đều ghi rõ do một công ty dược phẩm đứng ra in. Nhờ vậy đến nay ta vẫn còn nhớ đến thương hiệu công ty đó.

Khi một sản phẩm vật chất gắn liền với sách thì sự tồn tại của nó lâu dài với thời gian hơn bất kỳ hình thức nào khác. Và dù trong sách dù không có các trang quảng cáo, không phải viết về sản phẩm cụ thể đó... mà tác động của nó lớn hơn, bởi thông qua suy nghĩ, cảm xúc của nhà văn, nhà báo sẽ giúp người đọc có cảm tình với sản phẩm đó nhiều hơn.  Tiếp thị như thế này, nếu phân tích kỹ, ta sẽ thấy có khá nhiều điều lý thú về hiệu quả lâu dài của nó; và tác động của nó đối với người viết - thông qua những bài viết giàu chất văn học. Có thể do thời đại này quá nhiều thông tin, nhịp sống vội vã nên người ta nghĩ rằng đã P.R thì phải trực diện hơn chăng? Phải ồn ào hơn chăng? Có thể là vậy, nhưng chiến lược xây dựng thương hiệu cho một sản phẩm thì cách đó chưa phải là biện pháp hữu hiệu nhất.

Người đầu tiên có những sáng kiến thông minh trên chính là nữ doanh nhân Minh Hương - một nhân vật không xa lạ trên thương trường hiện nay.

Cuộc sống ngày mỗi mới. Vì thế, y thích làm báo để có thể luôn được tiếp cận với cái mới mỗi ngày.

Chiều này lại mưa. Ngày mai thứ bảy. Ngày mốt trao giải cuộc thi Nguyễn Nhật Ánh và tôi. Sáng nay, bạn thơ Phạm Hồng Danh đã đồng ý với chuyện “thỉnh” bức tượng GS - Viện sĩ Trần Đại Nghĩa về trung tâm luyện thi của anh. Ơn trời. Mọi việc suôn sẻ. Và ông bạn già nghệ sĩ Tô Sanh của y lại có một khoản tiền cần thiết cho tuổi già. À, qua tuần sau, phải bắt đầu công việc với sử cho thiếu nhi thôi. Thời gian trôi qua nhanh lắm. Đừng chần chừ. Đừng làm biếng. Phải vậy thôi.

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

Trang 45 trong tổng số 58