Tượng GS - Viện sĩ Trần Đại Nghĩa bằng đá hoa cương do nghệ sĩ, nhà điêu khắc Tô Sanh thực hiện năm 1992
Thủ bút GS - Viện sĩ Trần Đại Nghĩa gửi nhà điêu khắc Tô Sanh
Thủ bút nhà điêu khắc Tô Sanh gửi Lê Minh Quốc
Chiều qua, thực hiện lời hứa của hơn 20 năm trước: Đi thăm nghệ sĩ, nhà điêu khắc Tô Sanh. Suốt một đời, ông nặn rất nhiều tượng danh nhân và đã được Trung tâm Kỷ lục Việt Nam ghi nhận. Ngày ấy, y còn trẻ, ông có đến báo PN trò chuyện. Y hẹn sẽ đến thăm ông nhưng rồi từ đó, quên béng luôn. Hôm nọ lần đầu nhậu ở quán của nhà báo V.L.Hằng, nào ngờ đây là nhà của ông Tô Sanh cho thuê. Còn ông đã đơn thân độc mã vào Trung tâm Dưỡng lão Thị Nghè. Ôi! Ông bạn già. Phòng số 1. Bước vào phòng bề bộn như một nhà kho. Tự nhiên thấy tội nghiệp.
Hiện nay, tại nhà ông Tô Sanh, trước sân vẫn còn bức tượng bằng đá hoa cương khắc chân dung GS - Viện sĩ Trần Đại Nghĩa. Ai đời quán nhậu lại để bức tượng này? Tủi hổ vong linh người đã khuất quá. Nghe đâu hôm trước bạn thơ Phạm Hồng Danh, giám đốc một trung tâm luyện thi đại học muốn “thỉnh” tượng về đó. Hôm qua, trao đổi chuyện này, ông đồng ý và giao cho y toàn quyền quyết định. Tất nhiên nơi nhận phải có ít nhiều thù lao giúp ông dưỡng già. Để xem mọi việc ra sao. Cũng hôm qua, ngồi đọc lại những gì ông đã viết. Những tập giấy dán các bài báo, những chữ viết bằng bút bic. Thương quá, bèn điện thoại trao đổi nhà văn Bích Ngân của NXB Văn hóa Văn nghệ. Nếu được, hãy in cho ông. Chắc chắn những trang viết của ông có ích cho người trẻ. Ích nhất là một tinh thần lao động bền bĩ. Sáng nay, NXB đã lên lấy bản thảo. Hỏi, “con cái đâu mà phải vào đây?”. Ông bị điếc, phải nói to mới nghe được, “đi bộ đội chết hết rồi”. Ông là người Cà Mau, tập kết ra Bắc, đi đông đi tây và cuối cùng một nằm bệnh một mình. Bệnh phổi nên thở khò khè. Khi đã bước qua tuổi 90, khỏe cái nỗi gì nữa? Nếu mọi việc suôn sẻ, ông bạn già cũng có được ít tiền. Được vậy thì vui quá.
Đã nhận lời mời làm giám khảo cho cuộc thi sáng tác văn học nhân kỷ niệm 10 năm thành phố Cần Thơ trực thuộc Trung ương. Bên thơ có nhà thơ Nguyễn Đức Mậu, Lê Thị Kim và y; bên văn có Nguyễn Đông Thức, Đoàn Thạch Biền... Đã nhận 10 tập thơ do Hội Nhà văn TP.HCM chuyển để đọc xét giải thưởng thơ năm 2013. Nhiều tên tuổi lạ. Chất lượng không cao. Nếu thế, năm nay không có giải thưởng thơ cũng được chứ sao? Việc gì phải "đến hẹn lại lên"? Đã ký hợp đồng với Đông A về 10 danh nhân họ Trần. Bắt đầu bận rộn rồi đây.
Mấy hôm nay, hầu như chẳng có mấy tờ báo thông tin về kỷ niệm 40 năm ngày mất nữ sĩ Tương Phố (1973 - 2013) tại Đà Lạt. Bà tên thật Đỗ Thị Đàm, sinh năm 1896 tại Bắc Giang. Năm 1915 bà se duyên vợ chồng với ông Thái Văn Du, sinh người con là Thái Văn Châu. Cưới nhau được một thời gian, chồng mất, bà viết Giọt lệ thu (1923), Tái tiếu sầu ngâm (thơ 1930), Khúc thu hận (1931)... Bà có người em cũng làm thơ, ký tên Song Khê. Hiện nay, tại Đà Lạt có con đường mang tên Tương Phố. Về bút danh của bà, nhà văn Vũ Bằng giải thích là do lấy từ mấy câu thơ:
Ngã tại Tương giang đầu,
Quân tại Tương giang vĩ.
Tương tư bất tương kiến,
Đồng ẩm Tương giang thuỷ.
(Chàng ở đầu sông Tương
Thiếp ở cuối sông Tương
Nhớ nhau mà không thấy
Cùng uống nước sông Tương)
Giải thích như vậy có hợp lý không? Có lẽ là không. Như ta biết, bà Tương Phố sinh ở Bắc Giang. Địa danh này trải qua nhiều đời gắn liền với Hà Bắc, Bắc Ninh, do đó, bà lấy con sông Tương quê mình vẫn hợp lý hơn. Tương tự, “Ai có về bên bến sông Tương, nhắn người duyên dáng tôi thương, bao ngày ôm mối tơ vương. Tháng với ngày mờ nhuốm đau thương, tâm hồn mơ bóng em luôn, mong vài lời em ngập hương…”. Đừng lầm tưởng con sông nào đó bên Trung Quốc, thật ra nhạc sĩ Thông Đạt lấy cảm hứng từ con sông Tương ở một vùng quê Kinh Bắc - Bắc Ninh. Đó là vùng đất mà trong Địa dư chí, Phan Huy Chú viết: “Có mạch núi cao vót, nhiều sông quanh vòng, là mạn trên của nước ta. Phong cảnh thì phía Bắc Hà, Lạng Giang đẹp hơn. Văn học thì phủ Từ Sơn, phủ Thuận An nhiều hơn. Mạch đất tốt tụ vào đấy sinh ra nhiều danh thần, nên càng nhiều chỗ có dấu tích đẹp. Vì khí tốt tự nhiên ở phương Bắc phát ra nên khác với mọi nơi”.
Trước 1975, tạp chí Văn Học tại miền Nam có làm số báo đặc biệt về nữ sĩ Tương Phố, trong đó có thủ bút của bà:
Trời dài đất rộng bao la hận,
Năm tháng còn đây ngấn lệ châu.
Vì tình yêu với Trương Quỳnh Như, Phạm Thái có được áng văn bất hủ Sơ kính tân trang; vì khóc vợ, Đông Hồ có lệ ký Linh Phượng; vì khóc chồng, Tương Phố có Giọt lệ thu… Có lẽ thế hệ ngày nay không thể biết từ năm 1929, tại Hà Tiên, Đông Hồ có viết bài thơ gửi Tương Phố:
Giọt lệ thu kia vẫn đượm sầu,
Cánh chim Linh Phượng biết về đâu?
Đài gương bụi lấp pha đôi nét,
Viện sách tàn hương lạnh lẽo mầu.
Kẻ Bắc người Nam hai giọt lệ,
Đông Hồ, Tương Phố một dòng châu.
Đoạn trường gặp gỡ năm canh mộng,
Một hội thương tâm, một nhịp cầu.
Tình cảm người xưa dành cho nhau chân tình biết bao nhiêu. Cái sự cảm thông, chia sẻ bây giờ giữa người viết với nhau hầu như đã khác trước. Tác phẩm mới của bạn bè ra đời, cũng ít có lời nhắn tin cho nhau. Chỉ dưng dưng. Chờ tặng. Mà dẫu có tặng, chắc gì đã đọc. Chứ nói gì đến phát biểu cảm xúc về sách mới của bạn. Lật lại sổ tay thơ, có thấy ngày 25.6.2000 y viết bài thơ này, chưa đặt tựa:
Mỗi lần được tặng sách
Chẳng rõ vui hay buồn
Lật từng trang vội vã
Thấy nét mực còn run
Chao ôi là cảm hứng
Bạn viết lúc trăng mờ
Lúc ngày lên nắn nót
Vật vã một hồn thơ
Thơ hay không ai biết
Thời kinh tế thị trường
Nhện giăng qua trang sách
Ấy là chuyện văn chương
Tôi dặn tôi như vậy
Cầm quyển sách trên tay
Cố gắng đọc vài chữ
Như ngắm nhìn mây bay
Thương bạn đêm ngày viết
Thương mình viết ngày đêm
Chữ hao gầy trang giấy
Còn ai nhớ ai quên?
Hôm nay là Ngày Nhà giáo Việt Nam. Kêu gọi tinh thần tôn sư trọng đạo? Đúng rồi. Nhưng có lẽ điều quan trọng hơn là dịp này, nhà giáo cần nhìn nhận, đánh giá, kiểm điểm lại vai trò và trách nhiệm của mình. Có như thế mới tự trả lời được câu hỏi, vì sao thầy không ra ra thầy, trò không ra trò. Theo thông tin từ trang web Giáo dục thuộc Hiệp hội các Trường Đại học, Cao đẳng VN: “Từ năm 1976 đến năm 2013, sau 37 năm tổng số giáo sư, phó giáo sư đã được công nhận ở nước ta là 10.453, trong đó 1.569 giáo sư và hơn 8.000 phó giáo sư. Cũng theo thống kê, hiện nay chúng ta chỉ có xấp xỉ 1 giáo sư hoặc phó giáo sư/2 vạn dân, không quá 5% giảng viên đại học là giáo sư hoặc phó giáo sư, có 560 sinh viên/1 giáo sư hoặc phó giáo sư. Nhìn ra các nước phát triển như CHLB Đức thì 1 vạn dân có 3 giáo sư và cứ 59 sinh viên lại có 1 giáo sư.
Trước đó, Thủ tướng Chính phủ đã kí Nghị định số 141 quy định và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật GDĐH. Trong đó, giảng viên có chức danh giáo sư, phó giáo sư và giảng viên có trình độ tiến sĩ đang công tác ở các cơ sở giáo dục đại học được kéo dài thời gian làm việc (10 hoặc 7 hoặc 5 năm tương ứng) kể từ khi đủ tuổi nghỉ hưu để giảng dạy, nghiên cứu khoa học”.
Có lẽ, thông tin gây chấn động nhất thuộc lãnh vực giáo dục trong những ngày này là vụ ông Hoàng Xuân Quế - Phó Viện trưởng Viện Tài chính Ngân hàng (ĐH Kinh tế Quốc dân) đã nộp đơn ra TAND Thành phố Hà Nội khởi kiện Bộ trưởng Bộ Giáo dục Phạm Vũ Luận. Đọc báo thấy lằng nhằng cũng là cái vụ đạo công trình người này người nọ. Sư nói phải vãi nói hay. Chẳng ra làm sao cả. Không bình luận gì sự việc bi hài này. Mất thời gian. Vô ích. Đọc thông tin này vui hơn. Chẳng hạn, từ “tự sướng” vừa được đưa vào Từ điển Oxford là 'selfie'. Oxford Dictionaries - nhà xuất bản từ điển nổi tiếng thế giới của Anh - định nghĩa selfie là một bức ảnh tự chụp, đặc biệt là bằng điện thoại thông minh hoặc webcam, và đăng tải lên mạng xã hội.
Ngoài trời đang mưa. Đã chiều. Một ngày đi qua.
L.M.Q
Lại một ngày. Xay lúa thì khỏi bồng em. Đã viết tin, bài thì không Nhật ký. Từng ngày, ngày nào cũng có chuyện để ghi. Thông tin đầy ắp ra thế kia. Nhưng rồi, có lúc lại không muốn ghi nữa. Chỉ sợ những thế sự trong ngày ùa vào trang viết, trước hết tâm hồn người viết lãnh đủ. Lãnh đủ sự cay cú. Hằn học. Tội quái gì phải làm tình làm tội lấy mình? Sáng nay thôi, chỉ cần lướt web sẽ có những chuyện thời sự khiến không thể không suy nghĩ:
Tại TP.HCM, sáng 16/11, thấy Long khóc không chịu ăn cơm, Nhờ bế cháu bé lên dọa nhưng tuột tay làm bé té xuống nền nhà. Thấy bé khóc thét, Nhờ lại dùng chân đạp mạnh lên ngực và bụng cháu. Cô ta bỏ đi vệ sinh và hơn 20 phút quay ra thì thấy cháu bé nằm bất động dưới nền nhà nên nhờ người chở đi cấp cứu nhưng Long đã tử vong.
Ngày 8/11, Công an tỉnh Sóc Trăng ra lệnh tạm giam Hoàng Thị Lệ Hằng về hành vi chứa mại dâm. Bị can 41 tuổi này là giáo viên tiểu học ở TP Sóc Trăng. Trước đó, trưa 2/11, cảnh sát kiểm tra nhà trọ trên đường Dương Minh Quang (Sóc Trăng) do Hằng làm chủ và phát hiện 2 đôi nam nữ có hành vi mua bán dâm.
Thêm 8 người bị giam oan ở Bắc Giang. Tám công dân này bị giam oan cùng thời điểm xảy ra vụ án Nguyễn Thanh Chấn năm 2003-2004. Một người đã chết trước khi được tuyên vô tội.
Mưa lũ vượt đỉnh lịch sử tràn về đã cuốn phăng nhiều chiếc cầu, giật sập hàng loạt nhà cửa, làm sạt lở tan hoang các tuyến đường trên Quốc lộ 1A, Quốc lộ 24 gây thiệt hại nặng nề cho Quảng Ngãi. Cơn bão vừa qua, Văn phòng thường trực Ban chỉ đạo phòng chống lụt bão trung ương nêu thiệt hại về người lên đến con số 24 (Quảng Nam: 2, Quảng Ngãi: 8, Bình Định: 12, Gia Lai: 1, Kon Tum: 1). Số người mất tích: 10 người (Quảng Nam: 1, Quảng Ngãi: 4, Bình Định: 2, Phú Yên: 1, Khánh Hòa: 1, Gia Lai: 1).
Tại cuộc họp với lãnh đạo các ngành liên quan ngày 17.11, ông Hồ Quốc Dũng - phó chủ tịch thường trực UBND tỉnh Bình Định - yêu cầu lãnh đạo Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn tham mưu gấp cho UBND tỉnh để kiến nghị sớm có một đánh giá khoa học về thực trạng lũ lụt miền Trung. Ông Dũng bức xúc: “Tôi xuống dưới dân, người ta nói họ sống cả ngàn đời, mưa thế này là không gì hết. Lâu nay mình sống ở quê mình biết, mưa 200 - 300mm là thường thôi. Nhưng những năm gần đây, ở miền Trung hễ có mưa là có lũ lớn và rất lớn. Do đó, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn phải tham gia để đánh giá vì sao chuyện đó xảy ra, chứ bây giờ chẳng ai nói được hết. Hễ có lũ lớn, ông thì đổ cho thủy điện, ông đổ cho thủy lợi, ông thì đổ mưa to, ông thì đổ do phá rừng, đủ thứ, cuối cùng không biết đổ đâu thì nói là do biến đổi khí hậu. Nếu cứ để thế này thì đời sống của người miền Trung ngàn đời nữa còn cơ cực, không cách chi mà ngóc đầu lên nổi”.
Không đọc nữa.
Thôi đi.
Mà những nhố nhăng, những cù nhầy, những buồn nôn nhan nhản trên mặt báo. Từng ngày, những thứ ấy ghim vào óc khiến một ngày mất vui. Đôi khi, nhắm mắt, bịt tai, ngậm miệng lại hay. Sống trong cõi riêng biệt của thú vui mà mình cảm nhận được sự hài lòng. Buổi sáng, bước ra sân nhìn xuống hồ cá thấy vui khi bèo đã xanh li ti, từng chấm xanh đang biếc. Bước xuống phố, một chỗ ngồi với phở. Trưa, về nhà ăn cơm và lăn dài trên gường với giấc ngủ không mộng mị. Chiều, lại đi đâu đó tìm món ăn mà mình ưa thích. Đời sống trôi qua nhẹ nhàng. Có thật vậy không? Thật ra, đó chỉ là sự ảo tưởng. Tự ru ngủ chính mình. Làm sao có thể thoát ra ngoài sự vận động của đời sống? thôi thì, hãy chọn lấy những mầm nhân ái đang có, đang xanh nhú chung quanh để yêu thêm cuộc đời, yêu thêm con người.
Mấy hôm nay nhẹ nhàng khi đọc những cảm nhận Nguyễn Nhật Ánh và tôi do NXB Trẻ tổ chức. Không ngờ những bài viết của các bạn sinh viên, học sinh lại chỉnh chu và giàu cảm xúc đến thế. Nhận xét, cảm nhận của nhà văn giống nhau ghê. Khi chọn ra 10 bài hay nhất, xếp theo thứ tự, nào ngờ lúc họp Ban Giám khảo thì y, Trần Quốc Toàn và Nguyễn Trí Công đều có “đáp án” giống hệt nhau. Đã chọn ra Giải Nhất, Nhì, Ba. Vậy là xong, không phải tranh luận nhiều. Kết quả sẽ công bố vào sáng ngày Chủ nhật 24.11.2013 tại Nhà văn hóa Thanh Niên. Y nhận lời làm MC cho chương trình này. Với bạn bè, chẳng gì phải nề hà. Lại đọc thông tin đạo diễn Việt Linh chuyển thể tiểu thuyết Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh của anh Ánh thành kịch bản phim điện ảnh. Chị nhận xét, tác phẩm này: “Hội đủ điều kiện đưa lên màn ảnh: cốt truyện khá ly kỳ, nhân vật lý thú, sâu sắc; không gian, không khí quyến rũ… Và chúng tôi tin đó sẽ là một phim hay”.
Vậy là vui quá.
Lại vui nữa, hôm qua, bạn thơ Đinh Thu Hiền cho biết: “Khoảng vài tháng nay, nhà thơ Thanh Tùng sức khỏe bắt đầu giảm sút. Do đó, cô con gái của nhà thơ muốn tổ chức bữa tiệc mừng sinh nhật và ra mắt tập thơ Thời Hoa Đỏ của Thanh Tùng. Tổ chức vào lúc 17g30 thứ Năm ngày 21.11.2013, tại Nhà hàng Đồng”. Y nhận lời làm MC của chương trình này nha. . Với bạn bè, chẳng gì phải nề hà. Ai cũng có một thời như Thanh Tùng viết:
Em hát một câu thơ cũ
Cái say mê một thời thiếu nữ
Mỗi mùa hoa đỏ về
Hoa như mưa rơi rơi
Cánh mỏng manh tan tác đỏ tươi
Như máu ứa một thời trai trẻ
Hoa như mưa rơi rơi
Như tháng ngày xưa ta dại khờ
Ta nhìn sâu vào mắt nhau
Mà thấy lòng đau xót
Trong câu thơ của em
Anh không có mặt
Câu thơ hát về một thời yêu đương tha thiết
Anh đâu buồn mà chỉ tiếc
Em không đi hết những ngày đắm say
Hoa cứ rơi ồn ào như tuổi trẻ
Không cho ai có thể lạnh tanh
Hoa đặt vào lòng chúng ta một vệt đỏ
Như vết xước của trái tim
Sau bài hát rồi em lặng im
Cái lặng im rực màu hoa đỏ
Anh biết mình vô nghĩa đi bên em
Sau bài hát rồi em như thể
Em của thời hoa đỏ ngày xưa
Nhạc sĩ Nguyễn Đình Bảng đã phổ nhạc. Trong đời thường, Thanh Tùng thân thiết với Lê Thiếu Nhơn. Cặp kè như hình với bóng. Một già một trẻ như cặp bài trùng.
Vì sao có những ngày không Nhật ký? Câu hỏi này đã trả lời phần trên rồi. Tuy nhiên, thỉnh thoảng bạn bè lại hỏi. Chẳng hạn, bạn thơ Trần Hoàng Nhân không chỉ hỏi mà còn cảm hứng viết bài thơ Những ngày không Nhật ký với lời ghi “Tặng anh Lê Minh Quốc và giải trình những ngày không nhật ký của anh”. Hai chữ "giải trình", thoáng đọc thấy buồn cười và tự nhiên bật lên tiếng cười. Bài thơ như sau:
Chân dung nhà thơ, nhà báo Trần Hoàng Nhân
Có những ngày đời ta không nhật ký
Là những ngày trống vắng của đời ta
Bạn bè ngậm cay, người tình nuốt đắng
Ngẫm lại mình còn nhiều nỗi xót xa
Mình đã vậy thì chẳng cần phải viết
Dù lời buồn căm giận thấu cô đơn
Ta ngồi vẽ mười ngón tay mình vậy
Thấy hay hay trên bảy giọt cầu vồng
Rồi lại nhật với từng hồi ký ấy
Gặp lung linh trên những sắc và không
Vui hớn hở nhưng chưa từng sát hại
Một cành hoa mê cỏ giữa cánh đồng...
Cám ơn Trần Hoàng Nhân. Chép lại như một lời chia sẻ chung với bạn bè. Những ngày này, lại bắt đầu với báo Xuân, báo Tết rồi. Vẫn chiều 30 Tết về quê. Lòng nôn nao với mùi Tết từ trong trí nhớ. Tết sắp rồi. Đã sắp Tết. Vui chưa Q ơi?
Thưa rằng, ngày lại đang vui
Thời gian sắc cỏ ngậm ngùi đã xa
Tôi đi trong cõi người ta
Bàn chân lại đếm đường xa nẻo gần
Ven trời rơi tiếng chim ngân
Xòe bàn tay đón một lần sẻ chia
Ngày xuân mùa Tết ô kìa
Cần chi tính toán nhân, chia đời mình
Lòng tôi - trang giấy trắng tinh
Mời em đặt một nụ tình thơm tho
Đời tôi - lửa giấu trong tro
Trang thơ ngày nọ hẹn hò xưa sau
L.M.Q
Từ trái: Trương Nam Hương, Thu Thủy, Ái Linh, thầy Võ Văn Nhơn, Ngô Thu An, Quốc Hương, Lê Minh Quốc
Ngày hôm qua đáng nhớ. Kỷ niệm 30 năm ngày vào học Khoa Ngữ văn Đại học Tổng hợp TP.HCM. Niên khóa 1983-1987. Cụ thể, ngày đó là ngày nào? Một bạn cho biết, đó là ngày 3.10.1983 các tân sinh viên họp mặt tại làng Đại học. Thời đó, 2 năm đầu học tại đây; 2 năm sau chuyển về cơ sở Đinh Tiên Hoàng. Thời gian thấm thoát như bóng ngựa vụt ngoài cửa sổ, cứ nghĩ, chỉ một giấc ngủ trưa. Bừng con mắt dậy. 30 năm trôi qua cái vèo. 30 năm nhìn lại, bạn bè đã chồng/ vợ đề huề, sinh con đẻ cái, thậm chí có người đã lên chức nội/ ngoại.
Khiếp, thế mới biết thời gian chẳng chờ đợi một ai. Cứ lừng lững đi qua và nghiến nát tất cả chúng ta.
Khiếp, các gương mặt chẳng hề xa lạ chút nào, lúc gặp nhau vẫn nhớ như in, chẳng ai thay đổi gì. Có lẽ, hình ảnh bạn bè đọng trong trí nhớ là thế nên gặp nhau chỉ thấy như thuở nào.
Khiếp, cứ như cái thời trai trẻ mới vào trường bởi cũng là những câu chuyện vừa rôm rã lại vừa thân thiết của kỷ niệm.
Bạn bè từ Tiền Giang, Tây Ninh, Đồng Nai… có mặt. Thầy chủ nhiệm Võ Văn Nhơn cũng về dự.
Có thể nói, niên khóa 1983 - 1987 là thế hệ vàng, thế hệ lãng mạn cuối cùng của sinh viên thế kỷ XX.
Bởi sau đó, cả nước đã bắt đầu Đổi mới. Đời sống sinh viên cũng khác. Làm sao quên những đêm khuya đốt lửa giữa sân trường, vùi trong lửa là những củ khoai, củ sắn ăn đỡ đói mà bàn chuyện văn chương. Làm sao quên những lúc đang học, vài ba sinh viên lẻn ra khỏi giảng đường, chạy tọt xuống nhà bếp chờ xin cơm cháy. Do cơm nấu trong nồi quân dụng nên miếng cháy to đùng. Quý lắm. Có được “chiến lợi phẩm” là đem về chia nhau cho bạn bè. Nhai ngấu nghiến. Thèm thuồng. Làm sao quên những buổi trưa tan học, uể oãi bước vào nhà ăn tập thể. Khi cửa phòng mở ra, sinh viên ùa vào là cả binh đoàn ruồi từ các thau cơm bay tán loạn, sà luôn vào tô canh không người lái. Làm sao quên những ngày đạp xe từ Thủ Đức về Sài Gòn tìm mua những quyển sách hay. Muốn mua sách phải chìa tấm thẻ sinh viên ra và đứng xếp hàng chầu chực cả mấy tiếng đồng hồ.
Lại nhớ những ngày lăn lê bò toài học quân sự. Nằm dài trên cỏ nhìn trời xanh mây trắng mà làm thơ, viết văn. Những bài thơ tình của biết bao mối tình đơn phương. Mồi tình trong tưởng tượng. Ngày hôm qua bạn bè còn nhắc lại bài thơ này, bài thơ kia. “Tiếc quá, nếu hồi đó bọn em giữ lại thì quý quá anh nhỉ?”. Chỉ cười khì khì với nhau. Rồi nhớ những ngày cuối tuần đạp xe về Sài Gòn, lang thang chán chê và đến trưa láu cá vào trong chùa xin cơm, nếu không, chỉ cái bụng đói meo quay ngược lại trường. Thời đó thơ mộng, nhiều mơ mộng nhưng khốn khổ quá. Nghèo quá. Cả đất nước còn nghèo. Còn nhớ, mỗi dịp cuối năm mua vé về quê là một cực hình. Phải thức cả đêm xếp hàng, đến lúc rạng sáng, đến lượt mình là hết vé! Mỗi sáng bước vào giảng đường là cái bụng đói meo. Lúc nào cũng thấy đói. Thời bộ đội còn khá hơn, bởi có lúc còn săn bắn được thú rừng cải thiện bữa ăn. Thời sinh viên thì chịu chết. "Chữ ký đẹp bởi nhiều lần ký nợ” là rất thật. Hầu như các quán dọc ký túc xá đều nhẵn mặt các sinh viên ký sổ. Ước mơ lớn nhất vẫn là tô phở, là bữa cơm sườn. Vậy mà trong câu chuyện lúc nào cũng bàn về những chân trời xa vời vợi. Chân trời của niềm say mê văn chương lúc nào cũng thôi thúc trong lòng. Có lần, y nhớ lại:
Có những đêm khuya cô độc một chỗ ngồi
Cúi gằm vào trang sách
Chữ chạy lên trời còn chúng tôi thấy bóng mình lênh đênh trên vách
Mà cười chua chát như không
Có đêm khuya với mơ ước viễn vông
Được lội ngược dòng văn chương cổ điển
Để gặp một Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến...
Cũng từng lều chõng
Cũng từng có nhiều đêm lạnh cóng
Mượn sách thánh hiền sưởi ấm giấc mơ
Chúng tôi học văn và liều lĩnh làm thơ
Còn nhớ ngày ra trường, Trương Nam Hương bảo: “Sau này gặp lại, đứa nào còn đi xe đạp, còn mua thuốc lá lẻ từng điếu là nhục lắm”. Chuyện này, giờ nghĩ lại cỏn con nhưng lúc ấy là cả một thử thách. Chính vì thế, thời sinh viên y cùng bạn bè viết nhiều lắm, chỉ mong sáng tác được in để có nhuận bút. Trường ca Bài hát giữa sân trường, y viết trong thời gian này. Viết khi nằm trên giường sắt hai tầng chung phòng số 6 với Trương Nam Hương, Nguyễn Quốc Chánh, Lê Đại Anh Kiệt. Thi sĩ Đinh Hùng có câu thơ hay: “làm học trò không sách vở cầm tay/ có tâm sự đi nói cùng cây cỏ” là đúng hình ảnh của y, bạn bè y ngày đó.
Ngày hôm qua, bạn bè gặp nhau lại đọc cho nhau nghe. Những bài thơ viết thời sinh viên. Tự khúc cho em là bài thơ, Trương Nam Hương tỏ tình thời xa lắc xa lơ:
Có con đường gió ngang qua buổi chiều
Có em ngồi nhớ dọc miền thương yêu
Có bông cúc dại phù du nắng vàng
Có cơn mưa nhỏ nhọc nhằn đa mang
Có lời hẹn hò xốn xang xa lắc
Có cuộc tình ngoài mây trôi bèo dạt
Có đôi mắt nâu nhìn ta thăm thẳm
Có nụ hôn nồng môi sao chát đắng
Có nửa giấc mơ ngập tràn sông suối
Có nửa cuộc đời tỉnh trơ đá cuội
Có câu thơ lặng sóng treo giữa lòng
Có trong cái có vô vàn cái không!
Lúc ấy, có một ánh mắt nhìn buồn rười rượi. Rồi lại cười. Có câu chuyện chẳng nhớ nữa, nghe bạn bè kể, y tưởng bịa rằng thì là mà lúc ấy, có lần giữa khuya, y bước sang dãy phòng nữ đập cửa ầm ầm: “Y ơi anh yêu em!” khiến cả các bạn nữ náo loạn vì không ngờ trên đời này có kiểu tỏ tình quá hớp đến thế. “Làm gi có chuyện đó?”, y cười lỏn lẻn hỏi lại. “Không, chuyện có thật một trăm phần trăm thế mới ấn tượng chứ”. Hỏi “đương sự” thì bạn gật đầu và còn thòng thêm một câu: “Em không yêu anh là may mắn cho anh quá rồi còn gì?”. Bạn bè cười vang. Rồi Trương Nam Hương lại đọc thơ H. thiên thần, ngày xưa viết tặng H. Bạn bè sực nhớ đến cô bạn ngày đó học khoa ngoại ngữ là nhân vật chính trong bài thơ này:
Hôn lên giấc mơ em - gặp tuổi mình trong trẻo
Nắng qua mưa òa ập đến hoang đường
Câu thơ viết đầu tiên cho em đấy
H. thiên thần đâu biết có anh thương
Thuở hoa cúc vu vơ - thời cánh me ngơ ngác
Em nhìn ai xanh biếc lá sân trường
Ta đứng lẫn giữa bao nhiêu bè bạn
H. thiên thần đâu biết có anh thương
Những mảnh vụn câu thơ - áo Mỹ Châu lông ngỗng
Hai mươi năm tắc giấy dọc vun buồn
Ôi quầng mắt hai mươi mùa nhớ lặng
H. thiên thần đau biết mãi anh thương
Vài năm trước, y và Trương Nam Hương có gặp lại, cô nàng H trêu: “Bây giờ anh Hương còn dám làm thơ tặng em nữa không anh?”. Trong cuộc vui, Ngô Thị Thu An cũng đọc thơ. Chà, cô bạn tiết lộ là “họa” lại bài thơ của y từ thời sinh viên. Chuyện này, nghe cảm động quá. Thời đó, y viết bài thơ lấy câu thơ Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương của Chế Lan Viên đặt tựa:
“Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương”
Câu thơ vỗ vể lúc tôi cay đắng
Dù không thể gừng cay muối mặn
Để tôi về làm rể ở quê em
Không yêu được người thì yêu đất, yêu tên
Từ buổi chia tay tôi còn ám ảnh
Giọng nói ngọt như nước dừa xiêm sóng sánh
Tôi uống ngập hồn mà muôn thuở chát chua
Nhưng em ơi tôi không thể vào chùa
Cạo trọc đầu đi tu như ngày trước
Chỉ nhủ lòng cám ơn em hạnh phúc
Như khi yêu em tôi hạnh phúc lạ lùng
Đừng ví tôi như sỏi đá miền Trung
Tình yêu đến ai không nghe cỏ hát?
Tôi vội vã vì trong ruột đất
Mẹ tôi gieo hạt lúa phải còng lưng
Tình yêu làm nắng hạ hóa mưa xuân
Có phải tôi về nên mùa này mưa vội?
Qua kênh Chợ Gạo một chiều bão nổi
Đôi mắt tôi chìm trong đôi mắt của em
Cám ơn Tiền Giang cái nhớ thênh thênh
Sông Thu Bồn hóa thành sông Bảo Định
Cũng tiếng chim rót qua vườn trái chín
Đất nước cưu mang ta lớn từng ngày
Tôi chọn về mình chua xót để chia tay
Tình yêu lứa đôi muôn đời khó hiểu
Tôi uống nước Tiền Giang, Cửa Tiểu
Vẫn ngọt lành như lúc mới yêu em
Không yêu được người thì yêu đất, yêu tên
Bài thơ này viết năm 1986 là tỏ tình với L.T.M.H. Thời đó, H mới là tốt nghiệp đại học, được giữ lại trường và nhà trường phân công hướng dẫn tổ của y đi sưu tầm văn hóa dân gian. Còn nhớ, lúc đó, y và Nguyễn Quốc Chánh đạp xe đến nhà H ở trọ trên đường P.V.C và y trao tận tay bài thơ này. Sau đó, cô H có gặp và bảo: “H. đã đính hôn rồi anh à”. Nghe buồn mấy ngày liền. Khi đọc bài thơ ở lớp cho bạn bè nghe, không ngờ từ ngày đó Ngô Thị Thu An đã âm thầm họa lại với tựa Không yêu được người thì yêu đất, yêu tên:
Buổi chia tay tưởng còn nghe anh nói
Không yêu được người thì yêu đất, yêu tên
Sông Thu Bồn nỗi nhớ không quên
Sao cứ muốn hóa thành sông Bảo Định
Chia tay nhau trong mùa trái chín
Tình yêu anh mãnh liệt đến ngỡ ngàng
Tôi muốn về uống lại nước Tiền Giang
Xem sông mẹ có ngọt ngào quá thể
Hay tình yêu ngàn đời là như thế
Như buổi đầu cha mẹ đến tìm nhau
Sông Thu Bồn có ngào ngạt hương cau
Như Cửa Tiểu mỗi lần tôi trở lại
Quả chín nuôi tôi một thời con gái
Chắc cũng ngọt lành như cây trái quê anh
Cứ ngỡ anh là viên sỏi của miền Trung
Qua cay đắng lại càng thêm rắn rỏi
Thêm óng ánh sắc màu sau cơn bão nổi
Như nhọc nhằn - cây lúa vẫn oằn bông
Tình yêu làm nắng hạ hóa mưa xuân
Mưa tắm mát ruộng đồng hoa cỏ
Tôi ưa nụ cười anh yêu đời vậy đó
Dù nước dừa còn lẫn vị chát chua
Dù cho lòng đất hạn cứ mong mưa
Tình yêu lứa đôi vẫn muôn đời khó hiểu
Anh đã đến với sông Tiền, Cửa Tiểu
Không yêu được người thì yêu đất, yêu tên
Nước sông nào chẳng ấm vị quê hương
Như sữa mẹ nuôi đời ta khôn lớn
Buổi chia tay bông bần rụng trắng
Không thể nào muối mặn gừng cay
Nên âm thầm giọt nắng chia hai
Anh một nửa gửi sông Tiền một nữa
Ôi tình yêu, muôn đời là ngọn lửa
Bài thơ giấu kín gần 30 năm mới đọc công khai cho bạn bè và :người trong cuộc" cùng nghe. Xao xuyến và cảm động quá chừng. Thời đó đi học vui thật. Đeo đuổi An là C - sinh viên Trường Đại học Nông lâm, sát Trường Đại học Tổng hợp nên mỗi lúc không có tiết học là C chui vào trong lớp ngồi chung luôn. Riết rồi anh em xem như lớp có thêm thành viên mới. Mới đây, An và C mời đi dự đám cưới của con gái. Thế đó, mới đó mà ai cũng đã lên ông lên bà cả rồi. 30 năm gặp lại, nghĩ cũng lạ. Có những cặp cưới nhau, nay đã chia tay nhau, hoặc hạnh phúc thì hôm gặp lại vẫn ríu rít như thuở nào. Trong cuộc vui, Đào Ngọc Lai có đọc bài thơ Tình xưa:
Hai nhà thơ gộp lại bằng em
Bình Dương ngà ngọc, Tiền Giang mãi tìm
Ngót ba mươi năm ngỡ ngủ yên
Cuối thu tỉnh giấc tình rung chuyển thầm
Hai nhà thơ là Quốc và Hương, gộp lại là tên bạn gái học chung lớp. Thì ra là thế! Lúc Lai đọc thơ, cô vợ Lai liếc nhìn bạn gái mình mà… cười! Thời gian 30 năm rồi còn gì. Cuộc vui nhộn nhạo, đầy ắp tâm sự. Có bạn gái bảo: “Anh Hương với anh Quốc chụp chung ảnh với em đi. Chụp càng nhiều càng tốt”. Bèn đùa: “Đem về khoe với chồng à”. “Không, em khoe con gái em. Nó nhất định tin là mẹ nó học chúng với những người nổi tiếng như hai anh”. Chà, nổi tiếng cái quái quỷ gì. Gặp lại nhau, vui nhất là bạn bè thành đạt, cuộc sống ổn định là mừng cho nhau rồi. Mà bạn bè thì ai cũng thành đạt. Chỉ điều đó là quý nhất. Cuộc họp ngày hôm qua, cả lớp có tặng thầy Võ Văn Nhơn món quà của tình thầy trò. Và cả lớp cũng bầu ra Ban liên lạc: Lê Minh Quốc (Báo Phụ Nữ TP.HCM), Trương Nam Hương, Đào Ngọc Lai, Ngô Thu An (Báo Tuổi Trẻ), Trần Thị Phong Lan (Báo Sài Gòn Giải phóng).
Một ngày của 30 năm. Tình bạn vẫn đầy. Nắng ngoài đường lúc ấy đang xanh. Bạn bè à, nhớ lắm. Rất thương. Và rất nhớ.
L.M.Q
VÀI HÌNH ẢNH KỶ NIỆM 30 NĂM HỌP LỚP NGỮ VĂN NIÊN KHÓA 1983 - 1987
Thu thủy, Ái Linh, thầy Võ Văn Nhơn, Quốc Hương
Thầy Võ Văn Nhơn, nhà thơ Trương Nam Hương, Lê Minh Quốc
Đứng: Hồ Thị Phượng, Trương Nam Hương, Lê Minh Quốc, Quốc Hương, Phạm Văn Thanh
ngồi: Thu Thủy, Phạm Thị Hà, Hoàng Yến, Phạm Thị Hằng... và Mộng Thu
Hồ Thị Phượng, Thu Thủy, Phạm Thị Hà, Quốc Hương, Mộng Thu, Hoàng Yến, Trương Nam Hương
Phuong Khanh, Hồ Văn Chừng, Nguyễn Thị Hạnh, Trương Nam Hương, Phạm Văn Thanh
Phương Khanh, Phạm Thị Hà, Kiều Kim Loan, Ái Linh, Thanh Hà
Phong Lan, Lê Minh Quốc, Ngô Thị Thu An, Trần Việt Dũng
Hồ Thị Phượng
Phạm Thị Hằng
Thủy Triều
Ái Linh
Nhà báo Hồ Văn Chừng (Báo Đồng Nai)
Vợ chồng nhà báo Đào Ngọc Lai & Thu Tâm (Báo Pháp luật TP.HCM)
Nhà báo Phạm Văn Thanh (Đài Truyền hình Đồng Nai)
Nhà báo Quốc Hương (Báo Sài Gòn Giải phóng)
Nhà báo Ngô Thị Thu An (Báo Tuổi Trẻ)
Hoàng Yến
Đứng: Phương Khanh, Thu Tâm, Ái Linh; ngồi; Phạm Thị Hà, Thu Thủy, Hoàng Yến
Đứng: Phong Lan, Phương Hoa, Nguyễn Thị Thủy, Kim Thủy, Thu Thủy; ngồi: Thủy Triều và con gái bạn học trong lớp
Vợ chồng (cũ) Trần Việt Dũng, Phong Lan và con gái
Đứng: Hồ Thị Phượng, Trương Nam Hương, Lê Minh Quốc, Quốc Hương, Phạm Văn Thanh; ngồi: Thủy Triều, Hoàng Yến, Phạm Thị Hằng, Mộng Thu
Hồ Thị Phượng, Thu Thủy, Phạm Thị Hà, Phạm Thị Hằng, Quốc Hương, Mộng Thu, Hoàng Yến, Trương Nam Hương
Kiều Kim Loan, Nguyễn Thị Hạnh, Hồ Văn Chừng, Ái Linh, Thu Tâm, Thanh Hà, Phương Khanh, Đào Ngọc Lai
Đứng: Thanh Hà, Nguyễn Thị Thủy, Ái Linh, Kim Thủy, Hồ Thị Phượng, Thanh Hoa, Thu Thủy; ngồi: Phạm Văn Thanh, Kiều Kim Loan, Thủy Triều...
Ngồi: Kiều Kim Loan; đứng: Nguyễn Thị Hạnh, Thu Tâm, Kim Thủy, Nguyễn Thị Thủy, Phương Khanh, Ái Linh, Dương Hồng Lâm, thầy Võ Văn Nhơn, Trương Nam Hương, Hồ Văn Chừng, Thu An, Phạm Văn Thanh
Nhà thơ Trương Nam Hương
Phạm Thị Hà, Phương Khanh, Nguyễn Thị Hạnh, Ái Linh, Thanh Hà, Kiều Kim Loan, Hoàng Yến, Thu Tâm
Phong Lan, Lê Minh Quốc
Lê Minh Quốc & Trương Nam Hương
Viết gì bây giờ? Ngày nào cũng viết. Kiếm sống bằng nghề viết có gì thú vị không? Thôi thì, viết để sống nhưng nếu có nhiều tiền thì vẫn tốt hơn. Không phải viết những thứ ba lăng nhăng. Đỡ mất thời gian. Mà nào có thể nhăng cuội được đâu. Viết cái gì cũng toàn tâm toàn ý. Vì thế, không thể núp dưới một cái tên cha căng chú kiết nào đó để có thể viết tầm phào. Mới ngày nào chập chững vào nghề, còn hào hứng thấy bài mình trên báo, đọc thấy vui cả ngày. Nay, niềm vui đó đã không còn. Nhìn qua ngoảnh lại, vài anh em cùng thời đã nghỉ hưu. Thì ra, 60 năm cuộc đời nào có lâu lắc gì. Chỉ như khép, mở bàn tay.
Tự nhiên, chiều nay ngồi nhớ những gương mặt quen, thân quen, thân thiết và chí cốt. Dù có lúc yêu thương, giận hờn nhưng rồi cũng không thể không nhớ đến nhau. Thì ra, đời người chỉ vỏn vẹn vài người bạn chứ không nhiều. Hơn ba mươi năm trước, y đã gặp và bây giờ vẫn gặp. Tình bạn gắn bó như một lẽ tự nhiên. Lần đầu tiên gặp anh Nguyễn Đông Thức tại NVH Thanh Niên. Lúc bấy giờ, đang học năm thứ 2 khoa Ngữ văn trường Đại học Tổng hợp thì hay tin nhà văn Ngọc trong đá có buổi trò chuyện về sáng tác với anh em thuộc CLB Sáng tác trẻ Thành đoàn.
Thời đó, giấc mộng văn chương còn sáng lòa trong giấc ngủ. Mỗi lúc gặp nhau chỉ bàn về văn chương chứ không gì khác. Đêm nằm dài trên giường sắt hai tầng, phòng số 6, anh em thi đua nhau viết lách dưới ánh đèn vàng vọt tù mù, đọc cho nghe. Rồi gửi đi các báo. Thấp thỏm từng ngày chờ bài thơ của mình có được chọn in hay không? Một phần vì oách, hãnh diện với bạn bè khi cái tên mình xuất hiện trên báo, một phần cũng vì nhuận bút nữa. Có một ít tiền để cải thiện bữa ăn khốn khó ở ký túc xá. Giấc mộng văn chương còn tươi tốt. Chao ơi, ngày tháng sinh viên. Vì thế, khi hay tin có cuộc nói chuyện của nhà văn Nguyễn Đông Thức là buổi chiều đó tranh thủ ăn cơm sớm.
Rồi anh em rủ nhau đạp xe về Sài Gòn.
Có y, Trương Nam Hương, Nguyễn Quốc Chánh, Lê Đại Anh Kiệt và vài anh em khác nữa. Tất cả thong thả trên những con ngựa sắt cà tàng. Đi đoạn đường dài hơn 15 cây số mà chẳng hề mỏi mệt chút tẹo nào. Lúc ấy, cả gian phòng ở NVH Thanh Niên chật kín người. Nếu nhớ không nhầm, lúc đó nhà báo Trần Nhật Vy hoặc nhạc sĩ Nguyễn Văn Hiên làm chủ nhiệm thì phải. Còn nhớ, trong phần bạn đọc đặt câu hỏi, y hỏi rằng: “Thưa anh, đặt tên nhân vật có góp phần làm nên sự thành công của một truyện ngắn hay không? Nếu nhân vật của Nam Cao không đặt tên Chí Phèo mà cái tên khác, thì liệu truyện ngắn đó có nổi tiếng như đã có hay không?”. Thú thật, không nhớ anh Thức trả lời thế nào, chỉ nhớ một cách khiêm tốn là câu hỏi ấy… anh em vỗ tay quá xá! Câu chuyện chưa dừng lại dó, lúc tan cuộc, mấy anh em sinh viên còn đi cùng anh Thức một đoạn dài, vẫn tiếp tục câu chuyện văn chương. Lúc ấy, anh Thức đi xe 67 màu đen thì phải. Không còn nhớ rõ lắm.
Vậy mà vèo một cái, đã đến ngày anh Thức về hưu. Nghe đâu chiều nay báo TT chiêu đãi thì phải. Biết vậy. Tự nhiên, lòng buồn buồn dù vẫn biết, đã anh em thì còn gặp nhau dài dài…
Còn nhớ lúc đầu tiên gặp anh Nguyễn Thái Dương là tại báo Khăn Quàng Đỏ. Do chữ viết láu, chữ Q viết như chữ Z nên bài lần đầu của y in trên báo này sai tên. Nguyễn Thái Dương hầu như lúc bia bọt không hé răng nói lời nào. Chẳng bù cho Đoàn Vị Thượng và y, lúc nào cũng có thể ồn ào thâu đêm đến suốt sáng. Còn nhớ, lúc ra mắt tập thơ Nguyễn Thái Dương tại NVH Lao Động, đêm đó, y và Thượng về ngủ tại nhà anh Dương ở đường Võ Văn Tần. Chuyện đi chơi qua đêm, ngủ lang bạt thời ấy sao mà dễ dàng đến thế. Thoáng đó, anh Nguyễn Thái Dương cũng nghỉ hưu. Anh vừa ra mắt tập thơ Hạt bụi thơ bầu trời thơ là đánh dấu thời điểm này.
Gặp anh Nguyễn Nhật Ánh lần đầu tiên ở đâu? Có phải tại một chương trình đọc thơ tại NVH Thanh Niên? Khách mời là nhà thơ Chim Trắng, Nguyễn Nhật Ánh và y. Thời đó, anh Ánh còn chọn thơ giúp cho báo TN hàng tuần. Những bài thơ đầu tiên của y in TN là qua “kênh” của anh Ánh. Với anh Đoàn Thạch Biền thời gian gặp thường xuyên nhất vẫn là lúc anh làm tờ AT. "Tòa soạn" lưu động, chủ yếu là ngay lề đường Alexan de Rhode, lúc ấy NXB Trẻ còn đóng tại Thành đoàn. Lật quyển sổ thơ năm 2003 vẫn còn bài thơ viết dở dang: “Học thầy không tày học bạn”:
Học Nguyễn Thái Dương thái độ trầm tĩnh
Nghe chuyện tiếu lâm, hai giờ sau mới há miệng cười khì
Biết lắng nghe. Nghe nhiều hơn. Nói ít
Uốn lưỡi bảy lần trước lúc nói điều chi
Học Đoàn Thạch Biền ở chỗ dám sân si
Áo trắng quần đen cũng quay quần chiến hữu
Uống rượu say là gục ngủ trên bàn
Không mượn rượu nói năng nhăng cuội
Học Đỗ Trung Quân tự mê mình đắm đuối
Tự khen mình như thiệt lại như chơi
Lại lý luận lượn lờ lên láu lưỡi
Để làm vui cho tất cả mọi người
Học Nguyễn Đông Thức như ông lão chín mươi
Một câu đùa lại nói như cóc cắn
Tuân thủ châm ngôn chọn bạn mà chơi
Không xuề xòa lẫn lộn rồng với rắn
Không nhớ vì sao, bài thơ này không viết thêm nữa. Lẽ ra phải còn nhiều gương mặt bạn bè khác... Danh sách bạn bè còn có thể kể dài dài nữa. Mà nhìn đi nhìn lại đã thấy vài anh em nghỉ hưu. Thời gian trôi qua cái vèo cứ như câu thơ của Tản Đà: “Cái hạc bay lên vút tận trời”. Chỉ nháy mắt. Sáng nay đi làm tình cờ gặp lại anh Vũ Ân Thy. Vẫn nụ cười tươi rói rói. Vài năm trước, ngày nghỉ hưu, anh về nhà bố mẹ ở Vũng Tàu nghỉ ngơi. Vào chiều đẹp trời, cao hứng leo lên mái nhà sửa sang gì đó. Cứ tưởng còn trẻ. Nào ngở, xẩy chân, té cái đụi và anh nằm bệnh viện mấy tháng liền. Sáng nay, anh cười khà khà: “Tau vẫn làm thơ đó nghe mậy”. Nghe thấy thương bạn bè. Hầu như với người viết lách, chẳng ai chịu già đi, lúc nào cũng thấy họ còn trẻ. Hôm kia, ngồi với bạn bè, y nói thật lòng: “Chẳng bao giờ Q nghĩ là mình đã già. Lạ chưa?”. Mà thật như thế, lúc nào y cũng nghĩ y như cái thuở mười lăm, mười bảy. Cũng trẻ con. Cũng nhìn cuộc đời hồn nhiên. Bạn bè y cũng thế thôi. Có thế, dù nghỉ hưu hay không thì vẫn viết mỗi ngày.
Chiều nay, tự nhiên lại nhớ đến những gương mặt bạn bè. Tình bạn đã lên men. Một thứ rượu đã say. Đã nhớ. Đã là những gương mặt của năm tháng đời người. Làm sao có thể quên?
L.M.Q
Vài hình ảnh bạn bè:
Nhà văn Nguyễn Đông Thức thời còn đi học
Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Hiên, nhà văn Đoàn Thạch Biền
Nhà văn Nguyễn Đông Thức, Bảo Ninh, Đoàn Thạch Biền (tại Hà Nội)
Nhà thơ Đỗ Trung Quân
Đoàn Thạch Biền và các cây bút Áo Trắng
Ngồi: Nguyễn Đông Thức, Lê Minh Quốc, Hồ Tĩnh Tâm; đứng: Trần Thanh Giao, Nguyễn Thái Dương, Trần Thị Khánh Hội (tại ĐH nhà văn VN)
Lê Minh Quốc, Vũ Ân Thy, Nguyễn Khắc Phục, Lưu Khánh Thơ
Mấy hôm nay không vui. Chuyện cũng chẳng có gì. Chỉ biết rằng, thời buổi này không gì còn có thể riêng tư nữa. Một cuộc trò chuyện bù khú, bạn bè, không cảnh giác, “xả láng sáng về sớm” cũng không yên thân. Than ôi, chỉ ngay một phút sau cả thế giới đều biết. Đều có thể nhảy vào bình phẩm. Đều chõ mũi vào khen chê. Tại sao lại cho kẻ khác có cái quyền đó?
Ấy cũng do cái thói hào hứng post hình ảnh lên facebook.
Ăn nhậu thì hay ho cái gì mà phải khoe? Mà khoe tấm hình đó, người ngoài chỉ nhìn thấy hình, không thể biết nội dung của câu chuyện, ngữ cảnh cuộc lai rai thì sẽ có cái nhìn không chính xác. Kìa, gã kia cởi trần; kìa, lão nọ úp mặt xuống bàn ngáy khò khò. Nọ, ly chén ngổn ngang; này, ghế bàn xộc xệch. Hình ảnh đó chẳng ra làm sao. Mà có làm sao thì cũng chẳng chết thằng Tây đen nào. Bởi cuộc chơi này hoàn toàn riêng tư và không làm phiền gì đến trật tự của thế giới, hòa bình của nhân loại.
Vấn đề đặt ra là post hình ảnh đó lên mạng xã hội để làm cái quái gì?
Chẳng lẽ, từ đây trong chốn đông người phải rà soát các dụng cụ máy móc như lúc người ta đi máy bay chăng? Bất kỳ cái gì có thể thu được hình ảnh thì vui lòng bỏ ngoài cửa. Có như thế mới có thể yên tâm ngồi với nhau. Chán lắm rồi. Sau cuộc vui, ngay lập tức, một giấc ngủ dậy, y đã trở thành một con người khác. Thế rồi, những hình ảnh đó cứ neo y trở lại với con người của y ngày hôm qua. Thế chán quá đi chứ. Ngày trước có nhà phê bình nếu muốn phê bình ai, chỉ việc cắt lấy một câu văn, xóa ngữ cảnh và đem ra bình luận. Thiên hạ chỉ căn cứ vào câu văn trơ trọi đó cho rằng đúng, chính xác nhưng ai biết rằng, trước và sau câu đó còn có câu khác nữa. Sự cắt xén này cũng tựa như trong một chuỗi sự kiện chọn một vài tấm ảnh thì làm sao người xem không nhìn vấn đề lệch lạc?
Nghĩ cho cùng, mạng xã hội sẽ còn phát triển dài dài bởi nó đáp ứng được tâm lý đơn giản của con người ta, đại loại rằng, khi ta làm bất kỳ một việc gì thì ngay lập tức của thế giới biết đến. Biết để làm gì? Trả lời câu hỏi này không dễ dàng, bởi chẳng ai buồn lòng trả lời mà chỉ cần thỏa mãn nhu cầu của mình ngay lúc đó là được. Nếu tấm hình đó, chỉ mỗi mình thì không sao nhưng nếu có thêm những người khác nữa thì biết đâu sẽ là phiền toái cho người đó. Mệt thật.
Nếu thương y, xin đừng post bất kỳ tấm ảnh nào liên quan đến y lên mạng xã hội. Bởi hình đó, lúc đó, y sống đúng bản chất con người của y, con người trong quan hệ bạn bè chứ không phải con người của xã hội. Khi đưa một tấm hình lên mạng xã hội thì thiên hạ bao giờ cũng nhìn nó từ quan hệ xã hội, do đó, làm sao tránh được những lời bình phẩm này nọ? Cũng tấm ảnh đó, nếu nhìn từ góc độ bạn bè thì có gì đáng phàn nàn? Đúng, bởi lúc đó, bạn bè y cũng đang sống trong tâm thế như y. Tâm thế chung của một nhóm bạn riêng tư chứ không phải đang sống trong tổng hòa các mối quan hệ của cộng đồng. Thế thì, có cần phải post để khoe trên mạng xã hội hay không?
Dứt khoát là không.
Mà thật ra, khi dạo chơi trên faebook chẳng bao giờ y quan tâm đến những hình ảnh lăng nhăng đó. Đại loại có người khoe một đồi giày mới, một quyển sách hay, một tấm hình vừa chụp v.v… nghĩ cho cùng là quyền tự do của mỗi người. Nhưng đừng quên rằng, những riêng tự vặt vảnh này chẳng ai buồn phải quan tâm đến. Cuộc đời này còn quá nhiều việc cần thiết hơn, thời gian đâu để ý đến những cớ sự linh tinh đó? Ô hô! Bất chấp điều đó, con người ta vẫn cứ tiếp tục post hình ảnh riêng tư dài dài lên trang facebook của mình. Chấp nhận cuộc chơi này, đã đến lúc phiền toái chứ chẳng đùa. Mà thôi, tiên trách kỷ hậu trách nhân. Trước hết hãy trách chính mình. Cuộc vui đã không vui nữa, nếu cứ bù khú với nhau là hình ảnh lại “bắn” tràn lan lên facebook. Cái điệu này còn tiếp diễn, những lần sau, cách tốt nhất là hãy tự giữ lấy mình. Cách tốt nhất là đừng nên xuất hiện ở những nơi đó nữa. Nếu xuất hiện, hãy nghĩ là đang quan hệ xã hội chứ không phải quan hệ của tình bạn. Bởi, không gì còn có thể riêng tư của nhau được nữa rồi.
Do đó, mấy hôm nay không vui.
L.M.Q
Chân dung nhà thơ Tam nguyên Yên Đỗ Nguyễn Khuyến
Mấy hôm nay vẫn lai rai cảm cúm. Bỏ hẳn chuyến đi chơi xa, dù đã có kế hoạch. Nằm nhà đọc sách. Đọc chán chê, quay sang đọc báo. Rồi nghĩ ngợi linh tinh. Ngày y vào làm báo TT, Hoàng Linh còn là giáo viên ở Thạnh Lộc (Hóc Môn). Sau này Linh trở về TT và trở thành cây bút viết phóng sự thuộc loại ác chiến, cuối cùng bị tù trong vụ án Nam Cam. Sau nhiều năm nằm xế hộp, ra tù và bắt đầu đi tìm việc làm, Linh kể lúc ấy, “Đang suy nghĩ xem phải làm gì để kiếm sống thì nhà báo Xuân Lộc ở Bình Dương điện thoại: "Ông mới về hả, lên Bình Dương chơi, ông Dũng kêu tôi kêu ông". Tất cả gặp nhau ở Đại Nam, anh Huỳnh Uy Dũng, chủ đầu tư khu du lịch Đại Nam dẫn tôi qua khu đền và bảo tôi thắp hương sám hối. Tôi thấy nhiều người, nhiều người quan trọng lắm, đang xì xụp khấn vái, tôi cũng thắp hương. Ngẩng đầu lên thì thấy mình đang lạy cái tên… Huỳnh Uy Dũng. Những câu nói của Huỳnh Uy Dũng được khắc lên ở những vị trí khéo léo khiến người ta lạy Phật thì phải lạy luôn nó”.
Chuyện này có thật hay không?
Báo TN sáng nay có thông tin ông Thích Minh Phượng - trụ trì chùa Chân Long - làng Chàng Sơn, Thạch Thất (Hà Nội) đưa tượng mới vào chùa. Theo nhân dân địa phương, tượng Phật đó có gương mặt y chang mặt ông Phượng! Ô hô! Cái sự đời nó tréo cẳng ngỗng đến thế là cùng. Nghĩ cho cùng, do cái thói háo danh mà ra. Có những chuyện tương tự khiến người phải bịt mũi, chẳng hạn, cách đây không lâu nhiều ngôi chùa cổ ở tỉnh Trà Vinh sau khi được ông Trầm Bê đóng góp để trùng tu, sửa chữa thì cổng chùa lập tức mang tên ông, thậm chí hình ảnh gia đình ông còn tràn ngập nơi chánh điện! Tại huyện Trà Cú, có ít nhất ba ngôi chùa cổ là Vàm Ray, Ba Sát và Phnô-đung được nhiều bà con gọi là “chùa ông Trầm Bê” do trước cổng chùa và quanh chánh điện có ghi tên, hình ảnh, tranh vẽ, tượng của ông Trầm Bê và dòng họ của ông.
Điên rồ đến thế ư?
Sử sách còn bia miệng bọn trọc phú háo danh, chẳng hạn, Nguyễn Hữu Độ (1813 - 1888) đậu tiến sĩ năm 1883, làm quan từ Thượng thư đến Phụ Chính đại thần, Cơ mật viện đại thần… Lúc ngất ngưỡng trên danh vọng, Độ đã dùng uy quyền xây dựng Sinh Từ đền nhằm thờ sống mình, đoạn đường này được gọi phố Sinh Từ. Theo Đại Nam thực lục, việc xây dựng diễn ra trong khoảng thời gian 1882 - 1884, lúc Độ làm Tổng đốc Hà Ninh (Hà Nội-Ninh Bình) tốn hơn một vạn quan tiền. Lúc ấy, nhiều người đến xin nhà thơ Yên Đỗ mấy chữ vàng ngọc để làm hoành phi mừng. Khi người ta đang lên voi, thiên hạ bấu vào là lẽ thường tình. Cụ Yên Đỗ cho 3 chữ “Sinh sự chi”. Ai nấy đều khen hay, bởi 3 chữ này rút từ câu “Sinh, sự chi dĩ lễ; tử, táng chi dĩ lễ; tế, chi dĩ lễ” trong Thiên vi chính của sách Luận Ngữ - có nghĩa khi cha mẹ sống thì theo lễ mà phụng sự cha mẹ, khi cha mẹ chết thì theo lễ mà an táng, khi cúng tế cũng phải theo đúng lễ. Nghe thì hay lắm, nhưng đây là thâm ý của bậc đại khoa. “Sinh sự chi” như lời mắng thẳng vào cái mặt háo danh hợm hĩnh kia! Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ. Nay người ta nhớ gì đến xú danh Nguyễn Hữu Độ?
Đền miếu thờ ai lộng lẫy thay!
Thờ ông "thứ nhất quận công" đây.
Ông còn, mũ áo hàng năm họp,
Không được dự buồn, được dự may.
Ông mất, mũ áo không họp nữa,
Lửa hương lạnh ngắt, lúa mọc đầy.
Có ông "thứ nhì không tên" đến
Sớm hôm chống gậy vào chốn này.
Trên đời suy thịnh thường như vậy,
Biết nay chín suối ông theo ai?
Đây bài thơ chữ Hán Quá quận công Hữu Độ Sinh Từ hữu cảm (Cảm nghĩ lúc qua Sinh Từ Quận công Nguyễn Hữu Độ) của cụ Yên Đỗ, Nguyễn Văn Tú dịch. Đọc bài thơ này, lại nhớ câu tục ngữ quen thuộc. "Thứ nhất quận công, thứ nhì ỉa đồng". Không phải giải thích gì thêm. Mà cuộc đời cũng lạ. Có những con người cứ tưởng mình là bề trên thiên hạ. Ngược lại cũng có những kẻ hạ mình quá đáng. Vừa ghé xe vào quán ăn, lập tức một tiếng hô dõng dạc: "Đá chân chống, sư phụ cứ để xe đó cho con". Nhìn cái mặt già khú đế lại xưng con, lại tự thấy xấu hổ giùm. Có lần đi taxi, hỏi chuyện linh tinh thì gã tài xế nhủn như con chi chi, cứ một câu "dạ", hai câu "thưa", xưng con ngọt sớt! Hỏi tuổi ra chênh lệch không bao nhiêu, nên đề nghị đổi cách xưng hô. Nào ngờ, tài xế vẫn 'con" với "cháu", bực quá, bảo dừng xe xuống gấp! Chẳng việc gì phải trò chuyện, đi chuyến xe của một người tự hạ mình đến thế. Biết rằng, có thể cách xưng hô ấy chẳng qua vì miếng cơm manh áo. Chứ chẳng ai điên rồ, ngốc ngếch đến thế. Qua sông đấm buồi vào sóng ngay thôi. Lễ phép gì. Thói đời, khó có thể tin cậy một người mà lúc sơ ngộ người đó vồn vã quá, dù chưa biết gì về nhau mà đã như tri kỷ trăm năm; hoặc người đó nhún mình hèn hạ quá mức cần thiết.
Những ngày này, bạn bè đều đi chơi xa. Người đến Sơn La, người ra Hà Nội, người xuống Đồng Tháp, y lại nằm khèo ở nhà. Và đọc sách báo. Y quan tâm đến chuyện ông Nguyễn Thanh Chấn - sinh năm 1961 ngụ thôn Me, xã Nghĩa Trung, huyện Việt Yên, (Bắc Giang) vừa được thả tự do sau mười năm ngồi tù. Trường hợp của ông Chấn xem như tin vui cho nhiều người. Cái tốt, cái thiện phải thắng thế. Cái ác phải đền tội. Thời cởi truồng tắm mưa, đọc chuyện cổ tích ai lại không thấm nhuần điều này? Do bị kết án tội giết người nên khi vào tù, ông Chấn kể: “cán bộ còn dạy tôi tập đâm, tôi phải đâm bên nọ đâm bên kia. Họ cho một tù nhân giả làm cô H., cán bộ đưa tôi cái thìa, cái lược để làm hung khí. Tôi phải tập nhiều lần cho thành thạo, làm đi làm lại đúng ý họ. Sau đó, họ mượn nhà dân, bắt tôi diễn lại và quay phim thực nghiệm hiện trường” (báo ĐS&PL 8.11.2013). Rùng mình. Choáng váng. Còn báo TT ngày 7.11.2013 cũng có thêm thông tin cũng do ông Chấn kể: “cán bộ L. bắt tôi vẽ dao cả đêm, vì tôi không biết vẽ dao gì lại đe dọa là đập cho mày cái búa vào đầu”. Kết án oan, sai thời nào cũng có. Thế nhưng, qua những hành động trên rõ ràng, người lương thiện đã bị đẩy vào tình thế phải tập làm phải kẻ ác, nhập vai kẻ ác. Đây mới chính sự tha hóa cùng cực của người đối với người.
“Miếng ngon nhớ lâu, lời đau nhớ đời” là vậy. Nhiều người bảo, nguyên si của câu tục ngữ phải là “đòn đau” mới đúng. Nếu thế, rất xoàng. Vết thương cụ thể không là gì, sẽ lành lặn theo thời gian, chỉ có nỗi ám ảnh từ lời nói mới đeo bám dai dẳng trong trí nhớ đến lúc vùi sâu ba tấc đất vẫn chưa quên. “Lời nói đọi máu” trong tình huống này không sai chút tẹo nào. Trong một xã hội, nếu giữa cán bộ quản giáo và người tù đối xử với nhau những người có học, tôn trọng nhau thì đó cũng là một biểu hiện của chế độ văn minh.
Mà trời cao có mắt không? Ông bà ta nói. Quả báo nhãn tiền sờ sờ ra đó. Thật lạ, trong vụ ông Chấn có những người “gieo gió” đã lần lượt “gặt bão”. Nói có cách mách có chứng, “Theo thông tin PV báo ĐS&PL tìm hiểu tại địa phương, không lâu sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, ông Chấn bị đưa đi cải tạo tại trại giam Vĩnh Quang (Vĩnh Phúc), đã có ít nhất hai trường hợp phải gánh họa. Trong đó điều tra viên chính của vụ án năm 2003, ông Nguyễn Hữu T., người được ông Chấn nói rằng đã đánh ông nhiều nhất đã chết không toàn thây vì tai nạn giao thông khi đang trên đường về nhà. Người còn lại, thẩm phán Nguyễn Minh N., chủ phiên toàn xét xử sơ thẩm cũng bị tai nạn giao thông vào năm 2010. Tuy may mắn thoát chết nhưng cho đến thời điểm hiện tại, ông N. vẫn đang phải điều trị những vấn đề về não” (ĐS&PL 8.11.2013).
Một sự trùng hợp ngẫu nhiên?
L.M.Q
Mấy hôm nay cảm cúm. Nóng lạnh thất thường. Miệng khô. Sổ mũi. Đã mua thuốc uống nhưng vẫn xìu xìu ểnh ểnh. Chằng ra làm sao. Chiều nay, vào chợ mua lá xông. Trời đất, một bó lá xông chỉ 5 ngàn đồng. Rẻ như bèo. Đôi khi do giá rẻ, mẫu mã không đẹp nên người tiêu dùng xem thường sản phẩm đó. Ngược lại, có những thứ không ra gì nhưng nhờ P.R, gía hô trên trời, giá cao ngất nhưng thiên hạ vẫn nháo nhào tìm cho bằng được. Thuốc Nam là thuốc của con nhà nghèo. Như thế nào gọi là nghèo? Trả lời câu hỏi này không dễ. Đành mượn ca dao:
Đĩa Bát Tràng con tôm càng dựng đứng
Phận anh nghèo, "chỉ cứng" nửa con
Tôn trọng người đọc nên hai từ trong ngoặc khép đã "biên tập". Nguyên văn thế nào, tự nghĩ sẽ ra thôi. Còn phụ nữ than nghèo thì sao?
Gió nam non thổi lòn hang cóc
Phận em nghèo mồng đốc khô rang
Còn có cách nói nào ấn tượng hơn không? Làm nên giá trị của văn học hiện thực phê phán Việt Nam trước 1945 chính là sự miêu tả cái nghèo. Thời buổi này, cứ tưởng chẳng ai còn nghèo nhưng không phải vậy. Còn có những cảnh đời, những số phận quá bi thảm, thậm chí thiếu ăn. Những quán cơm chỉ 2 ngàn đồng một suất đã cho thấy một xã hội không bình thường. Kẻ ăn không hết người lần không ra. Đôi khi, ngẫm nghĩ những gì đã thấy, con người ta chẳng còn có thể tin cậy vào đâu nữa. Khó quá. Dù cố gắng tìm ra một cái gì đó để tin. Nhưng rồi cũng không thể. Lại hỏi, cây nhà lá vườn hiệu quả không? Có câu dao nghịch ngợm:
Thấy người, chết vợ mà ham
Vợ mình, bệnh nặng uống thuốc Nam cũng lành
Đểu nhất chữ “cũng”. Thôi kệ cứ nghĩ rằng:
Phen cảm cúm phải lui
Nồi xông nghi ngút ắt đứt đuôi con chuồn chuồn
Hy vọng là thế. Sáng nay, báo chí đưa tin Tổng lãnh sự quán Pháp tại TP.HCM tổ chức lễ giới thiệu bức tranh Đám rước của danh họa Nguyễn Gia Trí (1908 - 1993) - sáng tác vào tháng 11.1939. Họa sĩ Nguyễn Lâm đã phục chế thành công, cho biết: “Tôi cùng 3 họa sĩ cử nhân chuyên về sơn mài đã làm việc tỉ mỉ trong 1 tháng để phục hồi tối đa nguyên trạng bức tranh qua các công đoạn lau sạch bụi, cạo sạch phần bong tróc, xử lý mối mọt cho khung gỗ trước khi hom, bó, lót và vẽ tỉa lại màu sắc cho thật chính xác. Trong quá trình này, chúng tôi luôn chú ý tôn trọng tuyệt đối màu sắc, đường nét của họa sĩ Nguyễn Gia Trí, kể cả “màu” của thời gian”.
Trước đây, nếu nhớ không lầm vào năm 1992, UBND TP.HCM quyết định mua bức tranh Vườn xuân Trung Nam Bắc của danh họa Nguyễn Gia Trí tặng Bảo tàng Mỹ thuật TPHCM. Giá tiền mua 600 triệu đồng (thời điểm ấy tương đương 100.000 USD). Lập tức, có nhiều ý kiến không đồng tình, cho rằng như thế là lãng phí, trong khi đó số tiền còn phải làm nhiều việc khác hữu ích hơn. Người phê phán hung hăng nhất là bác sĩ N.V.Q. Mọi việc chỉ lắng xuống khi Ban giám đốc Bảo tàng Mỹ thuật chính thức thông tin, một nhà sưu tập người Bỉ có ý mua lại bức tranh này với giá 1 triệu USD!
Nguyễn Gia Trí có vẽ bức tranh sơn dầu chân dung Nhất Linh Nguyễn Tường Tam. Bức tranh này chưa hoàn thành, ông Trí muốn vẽ hoàn thành nhưng ông Tam bảo, đời tôi cũng vậy do đó bức tranh không cần gia cố gì thêm nữa.Lại nữa, tầm cỡ như cụ Phan Bội Châu vào lúc cuối đời, đã “tự phán”: “Than ôi! Lịch sử của tôi là lich sử của trăm thất bại mà không có một thành công”. Đành rằng khiêm tốn, tưởng bình thường nhưng chỉ có thể phát ra từ vĩ nhân. Lũ chúng ta, bất quá cũng chỉ có chút ít danh vọng hão, cần gì phải khoe khoan, lớn lối, ồn ào?
Trên đời cũng có nhiều người lạ lùng, mê Phan Bội Châu nhất chỉ có thể là nhà nghiên cứu Chương Thâu, nói lái “Châu Thương”. Và từ đó, ông toàn tâm toàn ý nghiên cứu về cụ Phan. Mê danh họa Vincent Van Gogh chính là em trai của ông - Theo Van Gogh. Toàn bộ thư từ trao đổi giữa hai anh em ông, đó là những quan niệm về nghệ thuật của họa sĩ phi thường của nhân loại: Van Gogh. Nếu không có sự phát hiện, vun trồng, động viên, chia sẻ của Theo có lẽ Van Gogh đã không vĩ đại như chúng ta đã biết. Mê Nguyễn Gia Trí nhất có lẽ là họa sĩ Nguyễn Xuân Việt. Mỗi lần, có dịp trò chuyện với danh họa là ông ghi lại. Và hoàn thành tập sách Nguyễn Gia Trí nói về sáng tạo. Mở đầu là ghi chép ngày 1.6.1975:
“Cứ vẽ, gặp cái gì vẽ cái ấy. Vẽ cho nhanh, cho kịp cảm xúc của mình.
Phải luyện mắt để nhìn thấy cái đẹp. Vẽ làm sao phải tạo được cuộc sống, cuộc sống xanh tươi như hoa cỏ.
Nếu tự mình không cảm xúc, không sáng tạo, thì không ai có thể giúp mình sáng tạo được”.
Ghi chép cuối cùng là ngày 6.5.192:
“Phải tìm chỗ nối của tất cả.
Làm tranh lớn mới phá được thói quen cũ.
Có gì vướng trong bút pháp không? Nếu khô thì trơn hơn. Thanh tịnh cũng chỉ là danh từ.
Khi đi nét thấy thực hay huyễn?
Hỏi: Cái gì cũng xả, đam mê cũng xả thì lấy lực ở đâu?
Đáp: Phải tìn nguồn lực.
Vẽ sơn lúc nó cho nghỉ là lúc mình suy ngẫm.
Phải thấy thì mới làm được cái đẹp”.
Viết dưới ánh đèn dầu do chính danh họa Bùi Xuân Phái ghi chú về nghệ thuật cũng là tập sách hay. Có khi đọc những tập sách này, con người ta vỡ ra nhiều điều cần thiết hơn là đọc những sách ề à lý luận. Nhìn chung, với người sáng tạo chỉ có một quan tâm duy nhất là toàn tâm toàn ý cho công việc. Năm xưa lên Đà Lạt vào tham quan cơ sở thêu tay nổi tiếng. Tác phẩm thêu của cơ sở này có bán ngay tại phòng đợi sân bay; và tại chi nhánh nhiều nơi. Thật lạ, khi thấy có nhiều cô gái trẻ măng, mơn mởn lại có thể từng ngày chỉ biết đến đường kim mũi chỉ. Mặc kệ khách tham quan đi qua, họ không buồn ngẩng mặt lên nhìn. Ta có cảm giác, họ chỉ biết chúi mũi vào công việc đang làm. Tại sao họ lại có được phong cách này? Một cô thổ lộ, khi nhận vào đây, sau khi học thành nghề, bọn em ai cũng như ai phải tự tay thêu cho mình hai sản phẩm đầu tiên. Sản phẩm gì? Một cô ngước nhìn, từ tốn: "Đó là thêu áo cưới cho ngày tân hôn và thêu áo gối sẽ nằm khi về chín suối". Chuyện lớn đời người, họ đã làm xong. Vậy thì, chỉ còn trút hết năng lực công việc để kiếm sống mỗi ngày.
Sáng nay, đã tranh thủ họp với anh em bàn việc kỷ niệm họp lớp. Khoa Ngữ văn Đại học Tổng hợp (niên khóa 1983 - 1987). Nhìn con số 30 năm (1983-2013) chợt rùng mình. Thời gian trôi qua nhanh vèo. Chẳng mấy chốc “leo lên nóc tủ ngắm gà khỏa thân". Vậy thôi. Hôm qua có bàn với mẹ về việc đứa em gần út ở nước ngoài về tổ chức mừng thọ. Mẹ y bảo: “Già thì chết, chết sớm là khỏe cái thân, chứ mừng thọ cái gì hả con?”. Đến một lúc nào đó, chắc chắn con người ta chẳng ham hố gì với cõi tạm nữa. Từng ngày trôi qua. Từng ngày nhọc nhằn. Không phải yêu đời để sống. Mà ông trời buộc phải sống. Ngày anh bạn vong niên là nhà thơ nằm bệnh viện đã chìm vào hôn mê, lúc tỉnh lúc mê, đớn đau tột cùng trong bệnh tật. Có nhiều bạn bè đến an ủi, thăm nom. Khi người bệnh vừa mở mắt nhìn, ai nấy cùng vốn vã, mừng rỡ và chúc anh mau lành bệnh, gắng sống cho vợ con vui. Trong khi đó anh có ý nguyện muốn "ra đi" nhanh bởi không thể chịu đựng nữa. Vậy mà vợ con òa lên khóc lóc, van nài anh cố sống. Ngẫm lại lấy bất nhẫn. Y học đã đầu hàng, không thể chữa trị được nhưng vẫn buộc người bệnh phải cố gắng sống. Sống khổ ải từng giây. Đày đọa từng giờ. Vậy mà cũng phải sống. Sống để làm gì? Để vui lòng người khác? Có phải đòi hỏi ấy thể hiện sự ích kỷ không?
L.M.Q
Chiều thứ bảy vừa rồi, dự đám cưới. Đã lâu rất ngại những đến nơi này. Tâm lý nhiều người Việt đôi khi cũng rất cà chớn, cứ sợ vía của ai đó đã từng nhiều lần tân hôn, gẫy đổ, chia tay, ly dị… Lại sợ ngày đó, có ai đó cao hứng lên sân khấu hát, đọc thơ, ò è ca khúc về ly tan, ly hôn, ly biệt… Tầm phào hết sức. Mê tín hết sức. Mọi người chỉ đến với vai trò chứng kiến ngày vui đó. Và họ cũng chẳng phải có một trách nhiệm gì về hạnh phúc hoặc bất hạnh của hai kẻ quyết tâm nhập làm một. Có lẽ, câu chúc hay nhất, không phải “trăm năm hạnh phúc” sáo mòn, trung tính kia mà đại khái, chúc cả hai sau này, dù chung sống hay chia tay cũng giữ được tình cảm như lúc rượu hồng đã rót. Vậy thôi. Làm sao có thể biết, cả hai có thể răng long tóc bạc đời đời kiếp kiếp? Chung sống mà từng ngày cấu xé, đay nghiến, nghi ngờ, nghi kỵ… chi bằng chia tay vẫn tốt hơn. Đến với một người. Chia tay với một người. Chẳng gì trầm trọng. Vấn đề đặt ra sau đó, không có thù hận chen vào mà chỉ là sự yêu thương dù biệt ly nghìn trùng thăm thẳm. Lật lại sổ tay thơ, từ tháng 8.1996 có viết bài thơ Đùa trong tiệc cưới:
Nếu đi dự đám cưới
Đừng dẫn theo vợ mình
Yểu điệu nào cũng đẹp
Thiếu nữ rồi vẫn xinh
Tôi chợt thương tôi lắm
Tuổi trẻ thất lạc rồi
Bỗng bây giờ tìm được
Thuở mười bảy xa xôi
Nâng ly chạm vào môi
Thấy lạnh tê đầu lưỡi
Tôi chợt nhận ra tôi
Ngày chưa hề cưới hỏi
Tôi thấy tôi tươi rói
Máu nóng bốc lên đầu
Tay chân còn khỏe mạnh
Đủ bẻ gẫy sừng trâu
Tôi thấy tôi bẽn lẽn
Lúc nhìn con mắt ai
Dậy thì đang rón rén
Ve vuốt sợi tóc mây
Tôi ngồi gần một chốc
Đắm đuối hoài hương trinh
Ước chi chưa có vợ
Để bâng quơ tỏ tình
Tôi chợt thương tôi lắm
Rượu ngọt môi đã mềm
Mỗi lần dự đám cưới
Về muốn… cưới vợ thêm
Đọc lại, buồn cười. Chà, lúc đó ham hố quá. Trẻ con quá. Trên đời này, một chồng một vợ mới khó. Đã vợ lại kèm thêm nhiều nhân ngãi thì hay ho gì mà ngoác mồm ra khoe? Tiệc cưới hôm đó, cao hứng bàn luận với Nguyễn Nhật Ánh về sự uyển chuyển, biến hóa, đa dạng, lắt léo của tiếng Việt. Theo anh, chỉ tiếng Việt, có những từ khi phát âm thì nghĩa từ đó thể hiện hình thù ngay trên miệng. Chẳng hạn, khi nói “chu” dứt khoác miệng ta chu lại; hoặc hãy quan sát miệng người đang nói “nhe răng”, “khép miệng”, “ho”, “khạc” v.v… Ví dụ này còn nhiều. Chỉ đưa ra như một gợi ý cho ai muốn tìm hiểu sâu, bài bản hơn. Lúc ấy, sực nghĩ lại có những từ ghép đẳng lập, ghép chính phụ; hoặc âm của tiếng Việt không chỉ đơn thuần âm thanh mà còn gợi mở hình ảnh khác… Mỗi nhà thơ, tự bản thân dù không phải nhà ngôn ngữ học, nhưng họ cũng có cách cảm riêng biệt về ngôn từ tiếng Việt. Chẳng hạn, câu thơ của Tú Xương: “Ậm ọe quan trường miệng thét loa”, Xuân Diệu cảm nhận: “Thét là oai phong lẫm lẫm, loa thì đưa tiếng đi rất xa, tiếng gì? Tiếng ậm ọe, đồng thanh với “dậm dọa” nhưng ậm là “ậm ừ”, ọe là “nôn ọe”, nói như là mửa, hách lắm, mà chẳng ai nghe rõ gì". Thời nhỏ, lúc còn học tiểu học, có lần cô giáo đố tìm hai từ mà khi nói lái sẽ là hai động vật khác. Lục tìm trong trí nhớ, đọc chơi:
Báo - sò / bò - sáo
Cò - báo / cáo - bò
Rùa - công/ rồng - cua
Cò - sóc / cóc - sò
Cóc - sáo / cáo - sóc
Trùng - sâu / trâu - sùng
Cọp - vắt / cắt - vọp
Hạc - ve / he - vạc
Rồng - nhái/ Rái - nhồng
Cuốc - rầy / cầy - ruốc
Sói - bò/ sò - lóc
Cú - sâu / câu - sú
Còn nữa không? Chắc còn nhiều. Cũng là một cách yêu tiếng Việt. Ai biết bổ sung giùm. Cho đến nay, chỉ mới có một người làm từ điển về một từ trong tiếng Việt. Đó là nhà nghiên cứu Bằng Giang với quyển Tiếng Việt phong phú, trong đó, chỉ liệt kê, dẫn chứng về một từ có nghĩa “chết”! Vì thế, tít nhỏ là Ăn xôi nghe kèn. Trong đó, ông chứng minh các mẫu tự A đến Y đều có các từ chỉ cái chết. Cả hàng ngàn từ chứ không ít. Thú vị chưa? Thử đọc chơi: An giấc ngàn thu, Ăn xôi nghe kèn, Bóng khuất suối vàng, Cách mặt, Chơi cõi Phật, Cọp tha ma bắt, Diêm Vương cắt hộ khẩu, Đắm ngọc trầm châu, Đi đời nhà ma, Đi tàu suốt, được Chúa gọi về, Gác bút ngàn thu, Hóa kiếp, Hụi nhị tì, Mặc áo "ba đời suy" gỗ v.v… và v.v… Lúc nhà nghiên cứu Bắng Giang mất, đọc báo mới hay kho sách của ông, gia đình tặng cho Viện Khoa học xã hội nào đó, chẳng rõ nay số phận ra sao?
Có những từ tiếng Việt không phải vay mượn Tây, Tàu mà do nhà văn tạo ra. Từ đó lắm khi hài hước, đọc lên, ta bật ra tiếng cười khoái trá! “Oẳn tà rroằn” là một thí dụ. Trong truyện ngắn cùng tên, nhân vật Nguyệt chì chiết, đay nghiến người yêu tên Phong, dọa sẽ tự tử chết nếu chàng có ý định “quất mã truy phong”. Chao ôi! Mang tiếng chửa hoang, còn gì phẩm hạnh người con gái, đạo đức gia đình... Kịch tính của câu chuyện khiến ta hồi hộp vì thương cho Nguyệt, sợ cho Nguyệt lúc quẫn trí sẽ làm liều. Và đây là lúc Phong vào thăm con: “Té ra thằng bé con chàng nước da lại đen như cái cột nhà cháy. Vậy nó không phải là con Rồng cháu Tiên. Nó là “Oẳn tà rroằn” không biết chống gậy”!
Vậy “Oẳn tà rroằn” là gì nhỉ? Người đọc cứ ngẫm nghĩ và tự cười một mình vậy. Cười xong, bèn ngẫm nghĩ thêm về sự biến hóa, linh động của tiếng Việt. Chẳng hạn, nhà thơ Khương Hữu Dụng vốn là tay cự phách trong làng dịch thơ. Với hai câu thơ nổi tiếng "Trường hận ca" của Bạch Cư Dị:
Trì trì chung cổ sơ trường dạ
Cảnh cảnh tinh hà dục thự thiên
Ông phải lao tâm khổ tứ suy nghĩ rất nhiều. Nếu trước đó Tản Đà đã dịch thành bốn câu, riêng hai câu sau tuyệt diệu:
Sông Ngân lấp lánh sao thưa
Trời chưa muốn sáng sao chưa sáng trời
Ông cho biết: "Ba mươi năm trước tôi đã học theo cách láy của Tản Đà mà chỉ đổi từ 'lấp lánh' ra 'lấp lóa:
Sông Ngân lấp lóa trời chưa sáng
Muốn sáng mà sao chửa sáng trời
Sau đọc lại, ông thấy từ "chửa" nặng nề nên thêm vào... cái dấu phẩy làm nổi lên tâm sự của Đường Minh Hoàng buồn cho cái đêm cứ kéo dài, trời không chịu sáng:
Sông Ngân lấp lóa trời chưa sáng
Muốn sáng mà sao chẳng sáng, Trời?
Muốn thêm một cái dấu phẩy vào câu thơ dịch, ông Khương phải mất... ba mươi năm! Chuyện chữ nghĩa nó thế. Nhọc nhằn chưa? Có giai thoại, khi đọc hai câu thơ của Tú Xương:
Tế đổi làm Cao mà chó thế
Kiện trông ra Tiệp, ối giời ơi!
Cụ Nguyễn Khuyến “phê bình” ngay:
Rằng hay thì thật là hay
Giời đem đối chó lão này không ưa!
Dù vậy, với văn tài của Tú Xương, cụ từng khen:
Kìa ai chín suối xương không nát
Ắt hẳn nghìn thu tiếng vẫn còn.
Lời tiên tri của cụ quả chính xác. Tuy nhiên cũng có “dị bản” giai thoại này là khi đọc hai câu thơ của Chu Manh Trinh:
Làng nho người cũng coi ra vẻ
Bợm xỏ ai ngờ mắc phải tay
Và cụ “phê” rằng:
Rằng hay thì thật là hay
Đem nho đối xỏ lão này không ưa!
Lửa thiêng là tập thơ đầu tay của Huy Cận, trong đó có bài thơ nổi tiếng Tràng giang, được đưa vào sách giáo khoa. Câu thơ cuối trong khổ thơ đầu “Củi một cành khô lạc mấy dòng” giàu hình ảnh, rất tài hoa, nhiều người nhớ mãi. Nhưng ít ai biết rằng để có được câu thơ đó, ông đã thể nghiệm qua nhiều câu thơ khác nhau: “Một cánh bèo trôi đã lạc dòng; Một cánh bèo đơn lạnh giữa dòng; Một chút bèo đơn lạnh giữa dòng; Một cánh bèo đơn lạc giữa dòng; Một gót bèo xanh lạc mấy dòng; Gỗ lạc rừng xa cuộn xiết dòng; Củi một cành xuôi lạc mấy dòng”. Và cuối cùng, ông mới chọn được câu thơ như ta đã biết. Trong bài Nhạc sầu, có câu thơ mà ban đầu ông viết:
Ai chết đó? Nhạc buồn chi lắm thế
Chiều đìu hiu, đời rét mướt ngoài đường
Sau, ông sửa thành “Chiều hắt hiu...”, cũng chưa ưng ý lắm, ông lại sửa “Chiều mồ côi, đời rét mướt ngoài đường”. Quả thật, hai chữ “mồ côi” mới đắc giá hơn nhiều vì nó vẽ lên được cảnh hắt hiu và ảm đạm của buổi chiều buồn. Trong bài Chiều xưa, có câu:
Ngàn năm sực tỉnh lê thê
Trên thành son nhạt chiều mê mải sầu
đã là câu thơ hay, nhưng sau đó Huy Cận sửa cho hay hơn nữa “Trên thành son nhạt chiều tê tái sầu”. Những tưởng đã sửa như vậy đã là ổn, nhưng không, nghe bạn đọc xong, nhà thơ Xuân Diệu mới góp ý nên sửa là: “Trên thành son nhạt chiều tê cúi đầu”. Rõ ràng, câu thơ này không chỉ âm vang hơn mà chứa đựng cả “chiều tê tái sầu”...
Chuyện chữ nghĩa nhọc nhắn chưa? Mấy hôm nay liên tục nhận tin nhắn, điện thoại mời viết bài này bài kia nhưng chẳng ai nói đến nhuận bút cả. Chỉ bàn đề tài, thời hạn giao bài… Lạ nhỉ? Có lẽ họ nghĩ, nhà văn, nhà thơ, nhà thơ không cần tiền nong ư? Những người đó cần gì? Họ cần danh ư? Nhầm. Họ viết để sống, vậy phải sòng phẳng tiền thù lao, nhuận bút chứ? Nếu không, mỗi ngày cứ Nhật ký vẫn thong dong hơn, dù chẳng có một xu nào. Định viết thêm nữa, bổng có điện thoại rủ đến quán Đo Đo bàn công việc. Nhận lời làm giám khảo cuộc thi Nguyễn Nhật Ánh và tôi của NXB Trẻ. Đi thôi. Trời cũng đã chiều. "Chiều tê cúi đầu". Một ngày đã qua.
L.M.Q
Nỗi buồn tốc ký (NXB Hội Nhà văn) - tuyển thơ của nhà thơ Hồng Thanh Quang
Phải đấu tranh tư tưởng. Phải nỗ lực phấn đấu. Phải hạ quyết tâm. Phải vượt lên chính mình. Bởi trưa hôm qua không về nhà ăn cơm. Một “phá lệ” của thời khóa biểu hằng ngày. Phải vậy thôi. Chẳng lẽ, bạn từ Hà Nội vào đây ra mắt tập thơ mà mình lại vắng mặt? Có thể từ chối nhiều lời mời. Nhưng lần này không thể. Chơi vậy, chơi với ai? Trưa qua, nhớ đến những câu thơ đã viết, từ năm 1998:
Đừng dắt tôi vào cõi của đám đông
Bia rót đầy sông, rượu tràn ngập suối
Tôi làm thơ cô đơn như hạt muối
Sẽ hòa tan khi va chạm đám đông
Dễ tính hơn một chút đi. Có quái gì phải tự dặn dò đến vậy? Đến tuổi nào đó, sẽ nhìn cuộc đời nhẹ nhàng hơn. Lá rụng. Lá lại xanh. Ngày đi qua. Ngày lại đến. Từng ngày sống là từng ngày vui. Sáng hôm qua, báo chí đồng loạt đưa tin: Lúc 5 giờ 45 phút sáng nay 1.11.2013, tiến sĩ, Trưởng khoa Đẻ, Phó giám đốc Bệnh viện Phụ sản Trung ương Lê Thiện Thái đã công bố tên công dân thứ 90 triệu của Việt Nam. Đó là bé Nguyễn Thị Thùy Dung, chào đời lúc 2 giờ 45 phút sáng 1.11, nặng 3,2 kg. Cháu Dung là con của chị Lê Thị Duyên và anh Nguyễn Văn Dũng (xã Nam Chính, H.Nam Sách, tỉnh Hải Dương). Tự nhiên lại nghĩ, tập thơ mới nhất trong xuất bản sách hiện nay: Nỗi buồn tốc ký của Hồng Thanh Quang đã là tập thơ thứ bao nhiêu của nền thơ Việt Nam hiện đại? Trưa qua, đám đông của tình thân đem lại nhiều ấm áp. Đám đông không cần đeo mặt nạ. Không cảnh giác. Không phải thốt ra câu thơ cay đắng:
Nhìn mặt nạ, nhận ra nhau
Miệng cười mủm mỉm, mà đau quá chừng...
Thơ của Hồng Thanh Quang đó. Vừa ngà ngà say vừa đọc thơ của bạn, cả ngàn bài thơ, có thể xem như tổng kết của một đời thơ. Cầm tập thơ trên tay. Nâng niu. Khẽ lật từng tờ. Thích nhất tờ giấy lót bên trong. Nhìn kỹ, tưởng tượng đến những sợi tóc mỹ nhân đã góp phần làm nên thăng hoa cho từng câu thơ. Từng sợi tóc là từng câu thơ. Dệt lại thành thơ. Thời buổi này, có còn ai đọc thơ nữa không? Dù chẳng còn ai thắp nến đêm đêm đắm đuối mộng mị với thơ, nhà thơ vẫn viết. Những câu thơ ra đời như lá rụng trên đường. Lặng lẽ và mất hút trong dòng đời. Những tự sự lơ đễnh, suy tư trằn trọc trút qua trang giấy cũng tựa như viên sỏi kia ném lên trời. Không một tiếng vọng. Ngày trước, để chép thơ, phải chọn lấy phơ-luy hồng, trắng hoặc xanh và chép nắn nót từng dòng, từng chữ. Giữa tập thơ còn ép thêm phượng hồng, cánh bướm... Trang nhã. Thánh thiện. Lúc đọc thơ, sang trọng và quý phái vẫn là lờ mờ một không gian thoang thoảng trầm thơm, nến sáng. Có lẽ phong cách thi sĩ cuối cùng đọc thơ kiểu ấy thuộc về Đông Hồ. Nay đã mất. Không còn nữa. Đừng hoài cổ. Có gì bất động trong dòng chảy của đời sống mỗi ngày?
Nhìn sang lãnh vực y đang kiếm cơm xem sao. Ngay cả, thông tin trong thời buổi này cũng không còn độc quyền của báo chí nữa. Theo báo TT: “Đó là khẳng định của ông Hoàng Hữu Lượng, cục trưởng Cục Báo chí Bộ Thông tin - truyền thông, tại hội thảo quốc tế “Báo chí trong quá trình toàn cầu hóa: cơ hội, thách thức và triển vọng” diễn ra tại Hà Nội ngày 29.10.2013. Các trang mạng xã hội đang phát triển rất nhanh. Một cá nhân có thể làm trang thông tin của mình không chỉ thu hút công chúng trong nước mà cả toàn cầu. Chúng ta không xem đó là báo chí, nhưng không thể phủ nhận rằng các trang blog đang tác động mạnh mẽ đến đời sống thông tin” - ông Lượng nhấn mạnh. Ông Lượng cũng thông tin hiện tại báo chí VN đang phát triển rất đa dạng với hơn 852 cơ quan báo in (cung cấp hơn 1.000 ấn phẩm), 67 đài phát thanh - truyền hình (100 kênh phát thanh, 118 kênh truyền hình) cùng 250 báo điện tử, trang tin điện tử và hơn 300 trang mạng xã hội”. Giữa trùng trùng điệp điệp thông tin. Có quãng dừng nào của con mắt dành cho thơ? Trưa qua, ngồi giữa đám đông. Ồn ào. Náo nhiệt. Chém gió. Men say. Vẫn lặng lẽ trên từng trang thơ. Đọc thoáng qua. Đọc vội vã. Đọc ngẫu hứng. Rượu vẫn rót. Hãy xem Hồng Thanh Quang Bái vợ:
Mấy thứ lăng nhăng đều vướng cả,
Lệ làng, rất khó được dung tha.
Nhưng em lòng rộng như giời ấy,
Cuối cùng mọi sự vẫn nương ta.
Em lo con bé, thương chồng dại,
Thật thà mê đắm, lắm ngu ngơ.
Cho ta gửi nhé, muôn nghìn vái,
Vợ mà như mẹ của nhà thơ...
Câu thơ cuối đọng lại trí nhớ. Thành kính. Trang trọng. Cảm động. Dù lang thang bốn phương tám hướng, cuối cùng vẫn chốn cũ quay về:
Bất ngờ gặp phút thu sang
Rưng rưng thấy nắng tím dần ngoài song
Không cần ai hẹn mà mong
Bỗng dưng đôi mắt rất trong hiện về
(Ngồi nhìn vào đám lá thu)
Trong đời, ai cũng có nỗi ám ảnh không cùng ấy. Một đôi mắt rất trong từ dĩ vãng đau đáu nhìn mình. Cái nhìn ấy là của chính mình đấy thôi, từ ký ức. Như lửa đỏ cứ âm ỉ cháy từ thăm thẳm ngàn trùng cõi nhớ. Đôi mắt của thơ. Đôi mắt của tình non giấy trắng đã vời xa thời gian cát bụi. Thỉnh thoảng lại nhớ. Rồi lại quên. Rồi lại tiếp tục bước đi lẻ loi trên đường xa của kiếp người chông chênh không định hướng. Để hiểu một người, chỉ có thể tìm qua thơ của họ, chứ không là các thể loại khác. Sực nhớ mấy câu thơ của Nguyễn Nhật Ánh:
Tuyển văn xuôi tôi lấy thơ
Tuyển thơ tôi lấy những bờ cỏ non
Những là khe lạch con con
Bãi xa nắng nhuộm,đầu nguồn sương phơi
Tuyển đời, tôi lấy em thôi
Tuyển em, tôi lấy những lời ngày xưa
Còn như cay đắng bây giờ
Cầm bằng gió thổi hững hờ bên tai....
(Tuyển)
Trưa qua, gật gù với mấy câu này của Quang:
Em bây giờ xa quá
Như không là kiếp này
Đã hết buồn năm cũ
Nhớ em toàn nét hay
(Chợt nhớ)
Tín hiệu cuối cùng của một tình xa hun hút chân trời vẫn là những “nét hay” của một người. Nhớ như đã nhớ. Còn lại những đắng cay, gẫy đổ, dằn vặt, chì chiết từ trong quá khứ cũng đã quên. Kỷ niệm cũ êm đềm quá, thành thiện quá khiến con người ta càng khó sống với hiện tại. Lúc ấy, ngoài trời đã mưa. Sầm sập mưa. Ngồi trong phòng máy lạnh đọc thơ, mở toang cửa, nghe tiếng mưa vọng vào cũng là cái thú. Câu chuyện ồn ào và cũng như mọi lần, lại quay về với bolero. Có kẻ say quá, ngã lăn quay trên ghế, úp mặt xuống bàn. Ngáy khò khò. May quá, y vẫn tỉnh bơ. Nhờ đọc thơ chăng? Chừng mươi năm trước có đến nhà riêng của nhà văn Huỳnh Phan Anh nhậu chơi. Chà, cứ như đang ngồi họp. Anh bắt buộc mọi người, phải ngồi thẳng lưng, không nghiêng ngửa, không tì tay lên mặt bàn. Khác với hôm qua. Hôm qua, có thể nhậu ồn ào, té ngả lăn cù, nói cười rổn rảng. Rót rượu từ tóc tràn xuống chân. Để say. Rồi lại đọc thơ. Những câu thơ ẩn hiện đâu đó, chợt nhớ chợt quên ai thích thì cứ đọc. Không bị phạt như mọi lần, vì từ lâu anh em đã có quy ước đã rượu đừng thơ. Oái ăm chưa? Hôm qua bỏ lệ ấy. Đồng nghiệp Lam Điền đọc bài thơ của Ơi cánh đồng quê của Trịnh Hoài Giang:
Bây giờ ruộng đã bê-tông
Cây đa đã cụt, dòng sông đã què
Mái đình đã phẳng đường xe
Còn đâu cánh võng mà nghe chuông chùa
Hội làng thì đã ngày xưa
Thôi anh đừng có tiễn đưa làm gì
Em chào thầy mẹ em đi
Làm ô-sin chả biết khi nào về
Heo may thổi dọc triền đê
Nghe câu dự án mà tê tái lòng
Người đi thì đã ngàn trùng
Người về, đất có còn không mà về
Giật mình nửa tỉnh nửa mê
Cánh đồng quê, cánh đồng quê, cánh đồng.
Câu thơ cuối khiến nhớ đến thi sĩ chân quê Nguyễn Bính:
Anh đi đấy, anh về đâu?
Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm…
Đang phân vân về lời mời ra Hà Nội tham dự chương trình thơ nhạc Tôi đã quên mình chỉ để nghĩ về em của Hồng Thanh Quang. Tổ chức tại Nhà hát Thành phố Hà Nội lúc 19 g ngày 7.11.2013, có sự tham gia của nhạc sĩ Phú Quang, NSND Lê Khanh, NSƯT Quang Lý, Thanh Lam, Ngọc Khang, Nguyệt Thu và ca sĩ Đàm Vĩnh Hưng, Tấn Minh, Phương Anh, Tuấn Hiệp… Phía sau Thiệp mời là bài thơ Anh sẽ không nhường em cho ai cả của Hồng Thanh Quang. Trong đó, có đoạn:
Em vĩ đại bởi vì em trung thực,
Em vô tư theo tiếng gọi tim mình.
Anh sẽ không nhường em cho ai cả,
Nếu chết đi anh vẫn cứ chung tình.
Ngoài trời đã cạn mưa. Chia tay nhau. Trên đường về, cùng Đức béo tạt vào quán phở. Ăn và khen ngon. Chúc mừng tập thơ mới của bạn mình. Mừng công dân thứ 90 triệu của nước ta vừa mới ra đời. Mừng một chiều không phải cắm cúi với công việc. Quay về nhà, lại đọc tập Nỗi buồn tốc ký. Thèm nghe tiếng mưa đêm. Đã một ngày. Thương nhớ online.
L.M.Q
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Từ trong tiềm thức, ngày hôm qua, câu thơ Kiều vụt hiện trong trí nhớ khi đứng trước nghĩa trang Hòa Sơn (Đà Nẵng). Đã giỗ đầu người chị. Thời gian trôi qua chỉ nháy mắt. Đã hết một đời. Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy. Đã hết một ngày. Có cõi âm không? Chẳng thể biết. Hư hư thật thật. Mơ hồ. Chỉ mấy chữ “hiu hiu gió”, lập tức, đã gợi lên một cõi âm. Hắt hiu. Đìu hiu. Quạnh quẽ. Lẻ loi. Khi ông Hồ Dzếnh than thở: “Trời không nắng cũng không mưa/ Chỉ hiu hiu rét cho vừa nhớ nhung” chỉ là cảm giác của một người. Khi đã yêu, bất kỳ thời tiết nào cũng gợi lên da diết nhớ. Não nùng thương. Nhớ nhung triền miên. Tương tư dằng dặc. Chẳng cần phải đợi “hiu hiu rét”. Với “hiu hiu gió” lại khác. Gợi mở một nỗi niềm bơ vơ, cô đơn, lạnh lẽo đến nao lòng. Trước mặt là những mộ phần đơn độc trên một ngọn đồi. Bát ngát xa trông chỉ một cảnh ảm đạm của chiều thu vừa gượng dậy sau lũ lụt. Lòng trống rỗng như nhịp chuông chùa vừa buông thõng sau mưa.
Đêm qua về đến sân bay, lại tiễn một người rời khỏi sân bay. Thời tiết nóng bức, nhưng lòng lại “hiu hiu rét”. Lại những ngày thật dài. Những ngày thương nhớ online.
Người đời thử ngẫm mà hay
Trăm năm là ngắn, một ngày dài ghê!
(Tản Đà)
Những ngày này, báo chí rộ lên nhiều thông tin về chuyện ngoại cảm, nhập vong đi tìm mồ mả, hài cốt liệt sĩ. Ông Hoàng Công Thái - cục trưởng Cục Người có công (Bộ LĐ - TB&XH), nhấn mạnh: “Chủ trương tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ là rất nhân văn” (TT 30.10.2013). Rất nhân văn. Tuy nhiên sẽ nhân văn hơn, nếu có chủ trương tìm kiếm cả người lính của “phía bên kia”. Cuộc chiến giải phóng dân tộc đã khép lại. Hơn nửa đời người rồi còn gì. Giang sơn thu về một mối. Trong tinh thần hòa hợp, hòa giải dân tộc nếu có tầm nhìn sâu xa hơn, cái tâm khoan dung hơn thì không nên có sự phân biệt cái chết ngay trên đất nước mình, dẫu lúc sống họ đứng về phía bên nào. Cuộc chiến lạ lùng, trên bàn thờ của một gia đình có cả di ảnh người “chết trận” lẫn người “hy sinh”. Nhang khói, giổ quẩy như nhau, không phân biệt, vậy mà chủ trương, chính sách chung lại khác nhau.
Đã đọc một truyện ngắn, rất ngắn của nhà văn nổi tiếng từ thời chống Mỹ nhưng chưa tìm lại được văn bản nên không tiện nêu tên tác giả. Truyện như thế này, cô giáo tiểu học mới ra trường được phân công về dạy ở vùng sâu, vùng xa. Thời chiến tranh đây là vùng “xôi đậu” nghĩa là ngày “quốc gia”, đêm “Việt cộng”. Sắp đến ngày Thương binh - liệt sĩ, cô giáo bảo học sinh, đại khái, em nào có cha, anh đi lính chết thì đưa tay lên để nhà trường chuẩn bị quà tặng. Lập tức, hầu như cả lớp đều đồng loạt đưa tay. Cô giáo ngạc nhiên quá chừng, chẳng lẽ vùng đất này nhiều liệt sĩ đến thế ư? Hỏi ra, cô giật mình, học trò của cô đều là con em người lính của cả hai chiến tuyến. Vậy cho quà như thế nào?
Thì ra, trẻ con không phân biệt như người lớn. Đứa trẻ nào mất cha, dù người cha chiến đấu vì “ý thức hệ” nào cũng đớn đau như nhau. Bà mẹ nào cũng thế. Dù có là Bà mẹ Việt Nam anh hùng hay không thì nổi đau nào cũng bao la trời biển. Người đã chết, phân biệt họ làm chi nữa? Họ chết, dù ở chiến tuyến nào cũng là nỗi đau chung của một dân tộc hơn bốn ngàn năm máu đỏ da vàng. Sự phân biệt ấy chỉ tạo ra ngăn cách từ trong lòng người. Hố thẳm ấy cần khỏa lấp. Điều cốt lõi sau chiến tranh vẫn là sự hòa hợp lòng người. Ý nghĩa này cao cả nhất, thấm đẫm tính nhân văn nhất và là mục tiêu cuối cùng để sau đó, mới có thể lật sang một trang sử mới.
Trước đây, có lần nghĩ, ngay sau ngày thống nhất đất nước năm 1975 tại sao các văn nghệ sĩ không sáng tác được áng văn bất hủ như Bình Ngô đại cáo (Nguyễn Trãi), Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (Nguyễn Đình Chiểu), Văn tế trận vong tướng sĩ (Nguyễn Văn Thành)… để đời sau muôn đời tự hào ghi nhớ? Nay đã nghĩ khác. Thời điểm 30.4.1975, không có được những áng văn bất hủ như thuở cha ông, âu cũng là cơ duyên của dân tộc trong thế kỷ này.
Thái bình tu trí lực
Vạn cổ cựu giang san
(Trần Quang Khải)
“Thái bình nên gắng sức, non nước ấy ngàn thu”. Ai gắng sức? Cả dân tộc Bắc Nam đoàn kết một khối từ ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau, chứ nào phải riêng ai. Đại Việt sử ký toàn thư chép về đời Trần: Triều vua Trần Nhân Hoàng đế, năm 1289, tháng 3, ngày mồng 1, có nhật thực; mùa hạ, tháng 4, bàn xét công dẹp giặc Nguyên; tháng 5, trị tội những người hàng giặc: “Trước kia quân Nguyên sang lấn, các vương hầu, quan liêu nhiều người đến doanh trại giặc xin hàng. Đến khi giặc thua, bắt được cả một hòm tờ biểu của những người hàng giặc. Thượng hoàng sai đốt hết đi để yên lòng những kẻ phản trắc. Chỉ kẻ nào trước đây đầu hàng giặc thì dẫu bản thân ở triều đình giặc cũng kết án vắng mặt, xử tội đi đày hoặc tử hình, tịch thu điền sản, sung công, tước bỏ quốc tính. Như Trần Kiện là con của Tĩnh Quốc thì đổi làm họ Mai. Người khác cứ theo lệ ấy mà đổi, như bọn Mai Lộng. Ích Tắc là chỗ tình thân cốt nhục, tuy trị tội cũng thế, nhưng không nỡ đổi họ xóa tên, chỉ gọi là Ả Trần, có ý chê hắn hèn nhát như đàn bà vậy. Vì thế, những ghi chép đương thời đều gọi là Ả Trần, Mai Kiện...”. Chi tiết "Thượng hoàng sai đốt hết đi để yên lòng những kẻ phản trắc" đáng giá ngàn vàng. Dẫu có ngàn vàng cũng không thể sánh được mảy may lòng khoan dung của cha ông. Lòng khoan dung ấy thấu hiểu lẽ hòa hợp của lòng người sau chiến tranh. Chuyện ai thắng, ai thua nay còn đem ra thảo luận, tranh cãi, phản biện, ngợi ca, lên án thì quả lẩm cẩm, ngớ ngẩn... dù với bất kỳ động cơ gì.
Do khoái đọc sách báo, tạp chí cũ nên trong nhà y hầm bà lằn các loại. Gặp đâu xâu đó. Thỉnh thoảng, đọc lại những trang giấy cũ, mốc, ẩm, vàng ố cũng là lạc thú ở đời. Nay chép lại bài thơ của góa phụ miền Nam khóc chồng chết trận. Loại thơ này, hầu như văn học cách mạng, hiện thực xã hội chủ nghĩa không có. Đã cố ý tìm lại thơ Đường, vẫn không thấy bài thơ nào viết về đề tài này. Bất quá, sự nhớ nhung da diết chỉ dừng lại lúc chồng ngoài biên ải. Bài thơ này lại khác, in trên tuần báo Tiền Phong, số 554 (tuần lễ từ 7.5.1970 đến 13.5.1970). Thơ sử dụng thể loại ngũ ngôn, gieo vần có lúc chỉnh chu, có khi trật nhịp nhưng tình cảm chân thật, không lên gân giả tạo.
Không bao giờ em quên
(Viết cho chồng tôi tử trận 30.7.1969 tại Rạch Giá)
Không bao giờ em quên
Đường hai trăm cây số
Em đi tìm xác anh
Với muôn vàn đau khổ
Không bao giờ em quên
Chiếc quan tài màu vàng
Lá cờ ba sọc đỏ
Anh nằm im lìm đó
Chẳng một lời sau cùng
Không bao giờ em quên
Mắt môi anh ngày ấy
Mắt em nhìn đắm đuối
Môi còn ấm tình say
Không bao giờ em quên
Trái tim anh lãng mạn
Chỉ một bóng hình em
Giờ nhận thêm mảnh đạn
Không bao giờ em quên
Trại lính nghèo xơ xác
Nến thắp trên quan tài
Nước mắt em mặn chát
Không bao giờ em quên
Mẹ già đầu nhuốm bạc
Người anh trai đau xót
Thương thân mình ngày mai
Không bao giờ em quên
Nghĩa trang ngày hôm đó
Nắm đất vun cuối cùng
Anh đã nằm trong mộ
Tình yêu mình còn đó
Hình hài em còn đây
Dư hương ngày ân ái
Bỗng về trong phút giây
Em làm thân con gái
Yêu lính lấy làm chồng
Những ngày phép ngắn ngủi
Chưa kịp ấm gối chăn
Anh đi không trở lại
Nỗi sầu này ai hay
Em còn trong tuổi dại
Lệ đã khô cạn rồi
Tình đôi ta ngắn ngủi
Nên em giờ đơn côi
Trăm năm duyên không vẹn
Buồn biết thuở nào nguôi
(Mộng Tú)
“Buồn biết thuở nào nguôi”. Thân phận đàn bà mất chồng, mất con dù thời nào, chiến tuyến nào cũng là nỗi đau xé ruột. Dù chồng, con mình bỏ mình vì lý tưởng nào, tâm thế của họ vẫn không khác. Vẫn mang nặng đẻ đau. Vẫn rứt ruột sinh ra. Vẫn đêm đêm đắng lệ khóc thầm. Vẫn máu đỏ một dòng. Vẫn quặn lòng bi thảm ứa ra từ hố mắt.
Buổi chiến trận mạng người như rác
Phận đã đành đạn lạc tên rơi
Lập lòe ngọn lửa ma trơi
Tiếng oan văng vẳng, tối trời càng thương
(Nguyễn Du - Chiêu hồn thập loại chúng sinh)
Sau chiến tranh, đã có những người “Mẹ già lên núi tìm xương con mình” và không ít nhà ngoại cảm đã xuất hiện. Tất nhiên cũng có kẻ lưu manh lợi dụng vào lòng tin của người khác. Vụ "nhà ngoại cảm cậu Thủy” vừa bị lật mặt là một ví dụ điển hình. Trên đời này, không có sự khốn nạn, vô lương tâm nào tồi tệ bằng lợi dụng nổi đau, tuyệt vọng của người khác để trục lợi. Về năng lực các nhà ngoại cảm nên suy nghĩ thế nào? Theo thạc sĩ Nguyễn Mạnh Quân - thành viên Hội Giáo dục khoa học Việt Nam kiêm giám đốc Trung tâm UNESCO nghiên cứu và ứng dụng khoa thôi miên Việt Nam, nếu các nhà ngoại cảm sử dụng thuật “áp vong” để trò chuyện với người cõi âm thì khoa học hiện đại gọi “thôi miên” và sự kết hợp ba yếu tố: “lòng tin, ám thị lạ và tự ám thị”. Dù giải thích thế nào, chắc chắn ý kiến của trung tướng Trần văn Độ - Phó Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao, Chánh án Tòa án Quân sự Trung ương, Bộ Quốc phòng Việt Nam vẫn được nhiều người đồng tình: “Bản thân tôi thì cho rằng giả sử có tìm được hài cốt thật thì cũng nên sử dụng phương pháp khoa học là giám định ADN. Việc này chắc chắn phải làm để đảm bảo rằng gia đình yên tâm trong việc thờ cúng. Tôi hiểu rằng về mặt tâm lý gia đình nào cũng mong muốn tìm cho được hài cốt hay là một vật dụng của thân nhân mình, song cũng không nên vì thế mà tin vào bất cứ những gì nhà ngoại cảm nói”. Và cũng theo ông, "Hiện còn khoảng 500.000 liệt sĩ chưa được tìm thấy hoặc chưa xác định được danh tính là mối quan tâm chung của cả xã hội" (báo HNGĐ 31.10.2013 - phụ trương của báo Gia đình Việt Nam)
Trong hồi ký Kể chuyện đời mình, Bà mẹ Việt Nam anh hùng Bùi Thị Mè có chi tiết cảm động. Có lúc, bà đi tìm hài cốt của con là Nguyễn Huỳnh Đại. Theo tin của đồng đội con bà, liệt sĩ Đại được chôn ở nghĩa trang xã Mỹ Lộc, huyện Tam Bình (Vĩnh Long). Lúc ấy, nhà ngoại cảm đứng trước hàng loạt mộ vô danh và xác định mộ chôn con bà. Lúc bốc mộ, chỉ có một khúc xương bằng lóng tay, dài độ 2 tấc, bà đưa về an táng. Tuy nhiên, trong lòng bà vẫn chưa an. Vài năm sau có người giúp đỡ bà gặp nhà ngoại cảm khác là ông Liên. Bà suy nghĩ, nếu ông Liên tìm ra một hài cốt khác, còn hài cốt lâu nay mình đã nhang khói thì sao? Bà suy nghĩ: “Nếu xương đó không phải của con tôi mà của liệt sĩ nào đó thì tôi xem như con tôi”. Vì thế, bà không đi tìm nữa. Thái độ và cách ứng xử của bà rất nhân văn gợi cho ta nhiều suy nghĩ.
Lại nghĩ, khi con người còn sân, si, ham hố, lục tặc tam bành thì hãy thanh lọc tâm hồn bằng cách một mình đứng trước nghĩa trang. Lúc ấy, ngước nhìn mây trắng phiêu du mới hay "trăm năm là ngắn". Ủa vậy à? Sao lâu nay mình cứ mải mê lao theo dòng đời để cuối cùng bị cuốn theo một dòng chảy xiết?
L.M.Q
Trang 46 trong tổng số 58