Biểu tình chống Trung Quốc trước Nhà hát lớn TP.HCM ngày 11.5.2014
Hôm nay, Ngày của mẹ.
Trước đó, tòa soạn đã tạm gác tạp bút của Trần Nhã Thụy để kịp in Mẹ - điều thiêng liêng của y. Làm báo, dù cảm hứng riêng tư cũng phải gắn với thời sự. Có như thể mới thỏa mãn nhu cầu bạn đọc. Tạp bút Dưới bóng vườn chùa của Thụy dành cho tuần này vậy. Anh em trong nghề, chẳng nề hà gì chuyện này. Thử hỏi, Ngày của mẹ có từ lúc nào? Trên báo TT sáng nay có bài giải thích: “Ngày của mẹ (tên tiếng Anh: Mother’s Day) được cho là bắt nguồn từ thành phố Grafton (tiểu bang West Virginia, Hoa Kỳ) vào năm 1908. Vào thời điểm này, bà Anna Jarvis (1864-1948, một nhà hoạt động xã hội) cho rằng cần có ngày để tôn vinh vai trò, tầm quan trọng của những người mẹ nên không ngừng quảng bá ngày lễ này khắp nơi. Năm 1914, Ngày của mẹ chính thức trở thành ngày lễ tại Mỹ sau khi được Quốc hội và Tổng thống Hoa Kỳ Woodrow Wilson thông qua. Ngày của mẹ được tổ chức tại nhiều nơi trên thế giới vào những mốc thời gian khác nhau tùy mỗi quốc gia. Hai mốc thời gian được xem là phổ biến nhất: ngày chủ nhật thứ nhì của tháng 5 (theo Hoa Kỳ) và ngày chủ nhật thứ tư của Mùa chay (theo Anh)”.
Sáng nay, y ra khỏi nhà sớm. Mẹ cẩn thận gấp lại áo mưa, đặt trên yên xe và hỏi: “Trưa có về ăn cơm không, mẹ nấu?”.
Quái đản thật, mẹ mang nặng để đau, nhọc nhằn nuôi dạy từng ngày thế mà khi lớn khôn lũ đàn ông như y “vai năm tấc rộng, thân mười thước cao” lại nhủn như con chi chi và cam tâm ngoan ngoãn, tự nguyện vâng lời “mệnh lệnh” của gái đẹp. Có những lúc đêm hôm khuya khoắt, mẹ già yếu có nhờ vả gì đó cũng tìm cớ tránh né, nhưng gái đẹp “sai khiến” dù biết vô lý nhưng vẫn vui vẻ ưỡn ngực xung phong dẫu phải lao vào hang cọp. Thế nào là “sai khiến” vô lý? Chẳng hạn, đêm mưa gió não nùng, ngoài trời rét buốt xương, nàng than thở anh ơi anh à, tự nhiên em thèm ly kem lạnh quá. Thèm gì ác nhơn vậy trời? Dù tặc lưỡi thở ngắn than dài nhưng rồi cũng chấp hành ngay. Đố dám phản đối. Hèn ơi là hèn.
Ra khỏi nhà, đến Nhà hát lớn. Từ tám giờ sáng đã thấy đông thanh niên tập trung. Theo lệ thường, mỗi sáng chủ nhật nơi đây có chương trình văn nghệ miễn phí. Ai muốn thưởng thức, cứ việc dừng xe lại. Y ngồi ngoài vỉa hè khách sạn Continental uống cà phê và nhìn sang. Sáng nay, mọi người tụ tập đông hơn bởi nghe đâu sẽ có cuộc mít tinh, tuần hành phản đối việc Trung Quốc đặt giàn khoan Hải Dương - 981 trái phép trong lãnh hải Việt Nam. Chiều hôm qua, y cũng đến Nhà văn hoá Thanh Niên, tham dự mít-tinh do Hội Luật gia TP.HCM tổ chức cũng phản đối việc này. Có cả hàng ngàn người đã đến dự, chật kín cả hội trường.
Sáng nay, ngay phía trước sảnh Nhà hát lớn, các bạn thanh niên đội ngũ chỉnh tề... nghe nhạc. Sát bên cạnh là một nhóm già trẻ lớn bé khác cũng tập hợp nhưng họ đồng loạt hô vang các khẩu hiệu phản đối Trung Quốc. Đáng chú ý là ấn bản đặc biệt 4 trang về vấn đề biển Đông của báo TT phát hành sáng nay, in giấy couche, bốn màu đã được nhiều người biểu tình sử dụng như một cách bày tỏ thái độ. Làm báo giỏi quá. Do bài thơ Lời mẹ dặn của y cũng in trên số báo này nên nhiều người đọc hơn và tất nhiên... khen hay. Lâu lắm rồi mới gặp lại bạn văn Nguyễn Thành Nhân, cùng chiến đấu ở chiến trường K, tác giả tiểu thuyết Mùa xa nhà. Một cuốn sách nhiều sóng gió. Lại gặp nhà thơ Bùi Minh Quốc, rủ anh ngồi chung bàn. Chiếc áo anh mặc có ghi những dòng chữ đỏ như “Tổ quốc trên hết”. Anh vẫn không khác trước. Râu tóc đã bạc phơ. Phong trần. Mới từ Đà Lạt xuống. Anh tặng tập thơ Trinh thiêng (NXB Hội Nhà văn). Một tập thơ tình. Lật tình cờ trang 7, thích bài thơ này:
Ôi đóa tường vi nở ngát hương
Lẫn trong bờ bụi giữa vô thường
Anh đi không mỏi đường muôn dặm
Em nở lặng thầm tan gió sương
(Ôi đóa tường vi)
Anh lớn hơn y đúng 19 tuổi, ngày trước con gái anh - Dương Hương Ly làm chung cơ quan nên đã có mối thân tình từ xưa. Lúc ấy, nhìn quanh đã thấy những gương mặt anh em văn nghệ lẫn bạn bè đang giữ trọng trách này nọ. Ai nấy tay bắt mặt mừng. Cùng quan tâm đến cuộc biểu tình, xuống đường. Trên cộng đồng facebook đã tường thuật và có khá nhiều hình ảnh. Không nhắc lại nữa. Nhiều anh em đi theo đoàn biểu tình qua nhiều ngã đường, lúc quay về vẫn thấy y ngồi tại cà phê vỉa hè, anh Huỳnh Ngọc Chênh bèn trêu: “Trước khi đi biểu tình thấy người đẹp cũng xáp vào làm một tấm... Sau khi đi biểu tình toát mồ hôi, trở về lại vẫn thấy lão mê gái Lê Minh Quốc vẫn còn ngồi y tại đây. Lão nầy chỉ biết mê gái, đếch yêu nước”. Hehe. Y chỉ cười.
Có lẽ, nhà văn Thiếu Sơn là người đầu tiên sử dụng cụm từ “tháp ngà văn chương”? Trên báo Đối diện số 65 (8.10.1974), quay ronéo có bài Từ tháp ngà vào nhà lao của ông. Cuối bài có in ký họa ông của họa sĩ Bửu Chỉ và ghi ngày 19.6.1973. Hôm nọ lai rai chung, nhà văn Lê Văn Nghĩa “khoe” từng ở tù chung với nhà văn Thiếu Sơn tại khám Chí Hòa. Mở đầu, Thiếu Sơn viết: “Tôi viết văn từ hồi trên dưới 20 tuổi. Cuốn sách đầu tay của tôi xuất bản năm 1933 và đã được thiên hạ để ý tới. Tôi tiếp tục sự nghiệp văn chương và tự mãn tự kiêu là mình sống trong Tháp Ngà để tài bồi cho văn hóa”. Kế tiếp, ông cho biết vì sao đã thoát khỏi tháp ngà để dấn thân? “Sống trong Tháp Ngà vẫn sung sướng hơn sống trong nhà lao. Nhưng Tháp Ngà còn đâu nữa và trong lúc đất nước nghiêng ngửa, liệu mình có thể sống riêng rẽ được không?”.
Tất nhiên là không.
L.M.Q
Thời trước năm 1975, y chỉ là đứa trẻ con, thò lò mũi xanh và tập tễnh làm thơ. Bài thơ cuối cùng, in trước giải phóng là bài thơ Đêm xuân hồng tuổi thơ, in trên báo Thiếu Nhi số 136 phát hành ngày 15.3.1975 với bút danh Thiên Bất Hủ. Chà, thời đó, y làm thơ cũng mướt quá đi chứ?
Trong vòng tay mẹ ngủ vùi
Đêm ba mươi Tết ngậm ngùi tháng năm
Lửa reo nồi bánh tình thâm
Con nghe sung sướng nhang trầm thơm sao
Chị Kim ửng má hồng đào
Ngồi bên chân ngoại thì thào nửa đêm
Con nằm trên cỏ ấm êm
Nhìn trăng mơ tưởng cánh chim bay về
Pháo hồng rộn rã đam mê
Vòm trời thơ ấu đêm khuya rực hồng
Cuối năm hát khúc ca lòng
Nghe hồn nhung nhớ tháng cùng đã qua
Đêm ba mươi nhớ xót xa
Vàng son dĩ vãng bướm hoa thiên đường
Trồng cây nêu nhớ vô thường
Dưa hành, thịt mỡ, mai vàng nghinh xuân
Đêm ba mươi nấu bánh chưng
Trầm hương thơm ngát lòng bừng nở bông
Con say sưa giấc mơ hồng
Vùi trong thơ ấu bềnh bồng yêu thương
Nhớ lại năm tháng đó, thỉnh thoảng đôi ba ngày lại có các cuộc biểu tình, xuống đường của các anh chị SVHS, các nhà sư, giới phu xe xích lô, xe lam, thương phế binh… Nhà y gần ngay chùa Tỉnh Hội, mỗi lần lên ngoại, có lúc đi ngang qua thấy những tấm biểu ngữ giăng ngang; hoặc dây kẽm gai chắn ngang ngoài đường. Trước cổng chùa, trong sân chùa mọi người tụ tập hát hò, biểu tình, đả đảo, chuyền tay nhau truyền đơn quay ronéo, tha hồ bàn chuyện quốc sự. Thỉnh thoảng, học trò lại nghỉ học vì trường lớp trở thành nơi tạm trú của bà con từ Quảng Trị, Huế, Đông Hà… tị nạn chiến tranh. Ca từ “Đại bác đêm đêm dội vào thành phố” của Trịnh Công Sơn là chứng tích một thời. Ngày đó, hầu như nhà nào cũng nghe nhạc phản chiến ấy từ loại máy cassette…
Những hình ảnh đó, bây giờ hầu như đã không còn. Nếu có, cũng chỉ là cuộc tập họp của một nhóm người chứ không tạo ra sự cộng hưởng của toàn xã hội như trước. Ngẫm nghĩ một lúc rồi tự hỏi, có phải ngày trước từng cá thể gắn kết với nhau hơn chăng? Những ngày đã qua, có lúc, đi ngang qua đường Võ Thị Sáu, Hồ Văn Huệ, Lê Duẩn, chợ Bến Thành… thấy nhiều biểu ngữ giăng lên, những thông tin này nọ được viết bằng chữ to trên giấy, trên vải của một nhóm người. Ở đường này, thấy một nhóm người dứng ngồi vật vạ; ở đường kia, thấy một đoàn người đang nhốn nháo, bất bình kêu gọi v.v... Có điều lạ, dù thế nào chăng nữa, các đoàn biểu tình ấy đều có trưng ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thế rồi, chỉ một vài tiếng đồng sau, có khi vài ngày sau lại “đâu vào đó”. Dòng chảy cuộc đời trở lại như trước. Ban đầu nhìn hình ảnh bất thường ấy, tò mò ngước nhìn, ai cũng thế, nhưng rồi chẳng ai dừng lại hỏi han, tìm hiểu. Dòng xe tấp nập lướt qua nhanh. Có lẽ, ai cũng nghĩ “không phải chuyện của mình”. Nghĩ thế, đi qua và không phân vân gì.
Rồi có những thông tin đã diễn ra sờ sờ trước mắt nhưng cụ thể thế nào, chẳng rõ. Phải dăm ba ngày sau, hôm sau tình cờ đọc thông tin trên mạng mới biết. À, thì ra thế này, thì ra thế nọ. Bởi báo chí “chính thống” không đề cập đến. Đi ngoài phố, thấy một vụ đánh ghen, va quẹt xe, tạt axít, diễu hành… mặc kệ họ, “không phải chuyện của mình”, va vào biết đâu mang họa vào thân. Chẳng dại. Thế là phóng xe chạy thật nhanh khỏi nơi chốn đó. Chuyện ai, người đó làm, chẳng buồn quan tâm đến. Con người bây giờ đã khác trước rồi chăng? Sự gắn kết đã không còn?
Lâu nay, thường nghe nói đến cộng đồng mạng. Lên đó, thấy gì? Hầu như những vấn đề thời sự nếu ai đó nêu ra cũng chẳng tạo ra một diễn đàn chung. Kỳ quặc ghê gớm, có những chuyện chẳng là gì, chẳng hạn nghệ sĩ nọ vỡ nợ, đoàn làm phim kia nghe đâu để quay vài thước phim đã có mấy con mèo phải ngỏm củ tỏi; hoặc chuyện ấm ớ gì gì đó, người ta bình phẩm loạn xà ngầu, ai cũng cho mình có quyền phát ngôn. Nghĩ cho cùng. Được thôi. Thế nhưng có những chuyện lớn lao hơn, chẳng có ý kiến gì nhiều. Chẳng có ý kiến nào phân tích, suy nghĩ nghiêm túc và trình bày quan điểm chỉnh chu.
Mỗi ngày lướt facebook, quái thật, hình ảnh phổ biến nhất vẫn là sự thể hiện “cái tôi” đến bội thực. Mẫu số chung của mỗi cá thể vẫn là trong ngày đó vừa ăn gì, chơi gì, đi đâu, ngồi với ai, mua sắm gì, vừa nhăng cuội những gì… Đôi khi đọc được những status, entry nào đó, chỉ là những câu viết vội, chẳng có một nội dung gì; hoặc nếu có bàn một chuyện nào đó nhưng ali5 ngoa ngôn như “múa gậy vườn hoang”. Hàng loạt thông tin vô thưởng vô phạt, riêng tư đó, chẳng rõ có ai cần phải biết không? Y thì không. Dứt khoát không. Vậy mà vẫn có like ào ào. Chẳng biết, ấy là thật sự bày tỏ sự thích hay chỉ là thói quen nhấn phím? Buồn cười thật. Thật ra, chẳng buồn cười gì, nghĩ rốt ráo cũng là một cách thư giản của nhiều người. Cách thư giản phổ biến nhất của cộng đồng mạng cho đến nay vẫn là post cái mặt của mình lên đó. Nếu có một nghiên cứu xã hội học, chắc chắn sẽ tìm ra câu trả lời thú vị, đại loại, tại sao con người ta luôn thích khoe cái mặt mình trong thế giới ảo?
Đến nay, từ selfie đã đi vào từ điển Oxford, từ năm 2013 và đã trở thành trào lưu. Sáng hôm qua, ăn phở và tình cờ đọc báo Tiền Phong (7.5.2014), có thông tin: “Theo các nhà biên tập viên của Oxford, mật độ sử dụng từ “selfie” đã tăng vọt lên 17.000 % chỉ trong một năm. Một nghiên cứu của Pew Research Center năm 2013, đăng tải trên Teen Vogue cho thấy 91% teen từng post ảnh tự sướng lên mạng”. Trào lưu này nói lên điều gì? Có phải “tự sướng là tự tin” như bài báo trên TP khẳng định? Các nhà làm điện thoại di động chắn chắc ủng hộ quan điểm này. Trái lại, tạp chí Nghề báo của Hội Nhà báo TP.HCM (số 30.4.2014) lại đặt câu hỏi khác “Nghiện chụp ảnh tự sướng là dấu hiệu ‘tâm thần?’”. Tha hồ tranh luận. Dù có tranh luận thế nào đi nữa, chắc chắn con người ta cũng không thể không mỗi ngày tự khai ra tất tần tật những gì mình đã làm trong ngày; và dứt khoát bên cạnh thông tin đó phải có cái bổn mặt của mình. Cái bổn mặt của mình mới quan trọng nhất, còn các chuyện khác chỉ xếp đằng sau!
Những ngày này, vụ Tổng công ty dầu khí Hải Dương Trung Quốc đã đưa giàn khoan Hải Dương HD-981 vào định vị khoan tại vị trí có tọa độ 15 độ 29’ vĩ độ bắc, 111 độ 12’ độ kinh đông, cách đảo Lý Sơn, bờ biển Việt Nam khoảng 120 hải lý (tương đương khoảng 221 km), nằm trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam đang gây ồn ào dư luận. Có nhiều ý kiến lưu tâm bày tỏ trên facebook không? Vẫn có đấy chứ. Tất nhiên. Nhưng lại không dấy lên một mối quan tâm chung của cộng đồng mạng. Lại hỏi, con người bây giờ đã khác trước rồi chăng? Sự gắn kết đã không còn hay vẫn còn nhưng nó thể hiện dưới một độ khác?
Trong lịch sử nước nhà, có một điều đã trở thành “nguyên tắc” mà đứa trẻ học mẫu giáo cũng thừa sức biết: khi nước nhà suy yếu, nội bộ không đoàn kết, lòng dân bất an thì dứt khoát triều đình từ phương Bắc lại xua quân vượt sang biên giới nước ta. Đọc sử, khoái trá nhất vẫn là triều Trần - một triều đại có công lớn nhất trong việc đánh ngoại xâm phương Bắc. Các ông vua Trần từ cha đến con đều không thèm sang chầu, bằng mọi cách thoái thác. Đời vua Trần Nhân Tông, bị thúc ép quá nên ngài cho chú họ Trần Di Ái và bọn Lê Mục, Lê Tuân sang chầu thay mình. Khi sứ nhà Trần sang, vua Nguyên ngang ngược phong Trần Di Ái thay làm An Nam Quốc Vương, đã thế còn lập bộ máy cai trị nước ta gọi là An Nam Tuyên úy ti do người của chúng đứng đầu. Rồi sai Thượng thư bộ Lễ Sai Thung cũng là phó nguyên soái của An Nam Tuyên úy ti đem 5.000 quân hộ tống bọn Trần Di Ái về nước.
Chuyện gì đã xẩy ra? Học sử, đọc sử khi biết được những tình tiết này, đứa trẻ nào lại không rộn trong lòng sự hồi họp, lo lắng cho vận mệnh nước nhà? Học sử là “ôn cố trí tân”, thế nhưng hàng loạt báo chí ngày hôm qua cho biết, ngày 7.4.2014, ngày kết thúc đăng ký môn thi tốt nghiệp phổ thông 2014, "có trường không học sinh nào chọn môn sử". Đau đớn chưa? Trở lại đời nhà Trần. Sau khi biết việc làm ngang ngược của triều đình phương Bắc, vua Trần ngầm cho quân lên tận biên giới đón đánh, Sài Thung bị tên bắn mù một mắt phải trốn chạy; còn bọn Trần Di Ái bị bắt đem về Thăng Long trị tội. Chính sử nước nhà chỉ viết gọn vài câu, đọc xong, hả hê, sung sướng lạ lùng và có thể thở phào, tự hào khí phách cha ông mình.
Khí phách là thế, anh hùng là thế nhưng sao đời chúng ta thì sao? Tất nhiên, mỗi thời đại đều có cách giữ nước của thời đại đó. Sử chép, mùa đông năm 1282 vua Trần Nhân Tông triệu tập hội nghị Bình Than nhằm tổ chức bộ máy chỉ huy; bàn kế hoạch phòng ngự, tấn công, bày binh bố trận nơi hiểm yếu. Không những thế, qua năm sau đích thân nhà vua tổ chức thao dợt thủy chiến tại bến Đông Bộ Đầu, cả thảy có 20 vạn quân. Mọi việc chuẩn bị đã xong nhưng lực lượng vẫn còn yếu, do đó, vua Trần Nhân Tông sai sứ sang xin nhà Nguyên hoãn binh để thương nghị lại. Vua Nguyên không đồng ý. Lập tức Thượng hoàng Trần Thánh Tông cho gọi các phụ lão trong nước về họp ở thềm điện Diên Hồng, ban yến và hỏi kế đánh giặc. Ai nấy cũng đều đồng lòng đánh giặc giữ nước.
Nếu thời đại chúng ta có một Hội nghị Diên Hồng? Chắc chắn, sử thời nay lại viết một câu giống hệt sử thần Ngô Sĩ Liên đã viết: “Muôn người như một miệng thốt ra: Quyết đánh” chăng?
Sang hôm quan điện thoại cho anh Mỹ (Lửa Việt Tours) trao đổi về bài báo “Chớ để người ta khinh” in báo NLĐ (7.5.2014), anh viết: “Chuyện người Việt bị kỳ thị, xem thường khi ra nước ngoài không phải mới. Năm 1987, khi sang tu nghiệp ở CHDC Đức, các “thủ lĩnh Đoàn” của Việt Nam, trong đó có tôi, đã bị hải quan bạn lấy dây thừng khoanh vùng để kiểm tra, cứ như sợ lây dịch. Nhìn qua đoàn Lào, nghiêm túc với complet, cravat, samsonite. Ngó lại Việt Nam, áo quần xốc xếch, ai cũng mặc 3-4 bộ và xách thùng giấy cho nhẹ để mang đồ qua bán thay vì vali. Đi nước ngoài thời đó là “đại tu kinh tế, trung tu sức khỏe, tiểu tu kiến thức” thì thiên hạ khinh là phải. Sau này, có dịp đi nước ngoài nhiều, càng cảm nhận rõ sự coi thường đó.
Khi ông chủ các tập đoàn Hyundai, Samsung, Daewoo... đang đi làm thuê vào cuối những năm 1960 thì Sài Gòn đã lắp ráp xe La Dalat. Vậy mà bây giờ, người Việt, nhất là các tỉnh phía Bắc, xin visa đi Hàn luôn bị làm khó. Với người Việt, xin visa khó và đắt nhất là đi Nga, chứ không phải Mỹ và châu Âu. Các nước Nhật, Singapore, Hàn Quốc... còn có bảng cảnh báo bằng tiếng Việt về những thói xấu của người Việt. Mọi việc đều có nguyên nhân, không phải tự nhiên mà họ hành xử với mình như vậy, vì đó là quyền của họ. Những người Việt chân chính chỉ cảm thấy buồn và xấu hổ khi nước mình bị liệt vào danh sách đen “những dân tộc xấu xí””.
Anh viết đúng. Ai cũng có nỗi đau lòng ấy. Nhưng có lẽ, trước thông tin hắc ám ấy phải nên tự nhìn lại mình. Có ý kiến xem ra “trái chiều” như y đồng tình, đọc trên mạng VietNamnet, nguồn “chính thống” đấy nhá: “Tóm lại là, tiên trách kỷ, hậu trách nhân. Người Thái vốn nổi tiếng là hiền hòa hiếu khách cũng có những động thái như thế này thì ta phải xem lại mình trước đã. Mọi người đừng nên vội vàng tát nước theo mưa, mới nghe qua đã sồn sồn lên án này nọ mà phải tìm hiểu cho kỹ. Hành khách đi đường hàng không cũng không đến nỗi bị hành kiểu đó đâu. Chỉ một vài trường hợp họ nghi vấn thì mới hỏi kỹ hơn thôi. Tôi cho rằng việc Hải quan Thái bắt trình 700 đô hay 20.000 bạt mà ngăn chặn được những trường hợp vào Thái rồi làm xấu hình ảnh người Việt trên đất Thái thì cũng đáng lắm. Tôi ủng hộ.
Các công ty du lịch nên giải thích cặn kẽ cho du khách hiểu và hợp tác. Trong khi các cấp cao hơn cần làm việc với bên Thái Lan để họ có chính sách riêng cho khách du lịch theo đoàn hoặc những người mang theo thẻ thanh toán quốc tế. Có nghiêm khắc với bản thân mình thì hình ảnh của người Việt trong con mắt bạn bè quốc tế mới khá lên được, đi ra nước ngoài mới có tâm thế đàng hoàng không bị săm soi, xét nét. Đừng để phải tủi nhục khi xưng là người Việt trên đất khách”. Khi bàn về thói xấu người Việt, không phải hạ thấp, tự bôi mặt, vạch áo cho người xem lưng mà cần thiết để tự sửa mình. Rất cần thiết. Lỗ Tấn vĩ đại còn ở chỗ ông dám thẳng thắn chỉ ra thói xấu của người Trung Quốc, rồi sau này còn có Bá Dương với Người Trung Quốc xấu lậu. Không phải họ không yêu dân tộc họ mà ngược lại là khác.
À, có chuyện này nghe xong thấy vui, ghi lại kẻo quên. Hôm nọ gặp Vũ Hoàng Minh Nhật - người bạn vai em quen trên mạng. Nhật sinh năm 1977, đúng năm y đi bộ đội. Nhật bảo, em muốn được một lần lai rai với nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Nguyên cớ thế này, Nhật kể:
Trong thập niên 1980, Nhật mới học lớp Tư có thầy Hoàng dạy môn Toán từ Hố Nai về quê em dạy học. Lúc ấy, các thầy cô chưa có nhà tập thể nên phải tạm trú trong nhà dân. “Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy”, ba mẹ Nhật mời thầy về ở chung nhà. Thời đó, các tiệm cho thuê truyện còn nhiều, thầy Hoàng - giáo viên dạy môn toán nhưng lại mê văn thơ nên cũng thường thuê truyện. Mỗi đêm, khoảng chừng bảy giờ tối, sau khi cơm nước xong, thày cho gọi các cô cậu nhóc học trò tụ tập trước sân nhà và đọc truyện cho nghe. Mỗi đêm đọc vài trang, rồi đêm sau lại đọc tiếp. Tình thầy trò cảm động quá. Nhật nhớ lại, cuốn sách đầu tiên trong đời em được nghe thầy đọc là quyển Còn chút gì để nhớ của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Mà cũng lạ, thầy chỉ chọn truyện của Nguyễn Nhật Ánh. Từ dạo đó, Nhật đã mê Nguyễn Nhật Ánh, mê văn chương là vậy. Thì ra, sự giáo dục của người thầy từ năm tháng ấu thơ hết sức quan trọng. Thầy Hoàng dạy ở làng Phước Tân của Nhật khoảng bốn năm, sau đó chuyển về Biên Hòa làm công tác giáo dục… Không rõ thầy Hoàng có gặp nhà văn Nguyễn Nhật Ánh chưa, chứ Nhật đã gặp và vui mừng khi được gặp nhà văn đã tạo được ấn tượng trong ký ức tuổi thơ.
Nghe Nhật kể, trong lòng y cũng dạt dào một niềm vui và nhớ lại cái thuở học trò của mình, thời còn sinh hoạt cộng đồng: Khoảng năm 1973, từ Sài Gòn, nhà văn Nhật Tiến đã gửi tặng Gia đình Thiếu Nhi ở Đà Nẵng - một bút nhóm, thi văn đoàn trực thuộc báo Thiếu Nhi do nhà văn Nhật Tiến chủ bút, ông Khai Trí Nguyễn Hùng Trương chủ nhiệm - các tác phẩm của ông. Anh em thay nhau đọc. Sau này, những Chim hót trong lồng, Thềm hoang… luôn gợi trong tâm trí y một tình cảm quý mến về nhà văn đi trước. Ôi, văn chương đôi khi lại lưu lại trong lòng con người ta những yêu dấu khó xóa nhòa.
Trưa qua trên đường về, ghé qua chùa Xá Lợi xem triển lãm Thạch thiền - bộ sưu tập của anh Hàn Tấn Quang, người thực hiện tạp chí Kiến thức ngày nay mà tủ sách của y còn đóng bộ từ số 01 đến số 500. Trước đây, y đã xem Thạch thiền tại nhà riêng của anh, có ngẫu hứng viết tặng mấy câu thơ. Bài thơ này đã in trong tập sách Thạch thiền (NXB Phương Đông) như catalogue tặng người đến xem triển lãm của anh. Thơ rằng:
Ngẫu cảm
Từng phiến đá có linh hồn
Ngàn năm nay vẫn sinh tồn an nhiên
Sao không rũ bỏ ưu phiền
Học từ nếp đá dáng thiền vô ưu?
Y hỏi y đó thôi, bởi thừa biết chẳng bao giờ có thể làm học được điều đó.
L.M.Q
Cơm bình dân thế nào? Đã lâu lắm, trưa nào cũng về nhà, chứ nào dám béng mảng vào quán cơm bình dân, mà dẫu có là nhà hàng sang trọng đi nữa cũng không. Về nhà, ăn cơm mẹ nấu vẫn ngon nhất. Vậy mà, trưa nay y lại tạt vào. Một dĩa cơm chỉ đủ “bò chét nhét nhét miệng hùm”, phía trên có thêm rải vài cọng rau muống luộc đã sẫm màu đen, một chén canh lỏng bỏng vài miếng bí bầu xắt nhỏ và một con cá hồng chiên cỡ nửa gang tay, cả thẩy giá 20 ngàn đồng. Lúc ăn ngẫm ngợi, không rõ quán cơm Nụ cười giá bán chỉ 2.000 đồng, người ta có no không? Đôi khi cũng chẳng phải đạo đức gì, có lẽ nhiều người cũng cảm thấy áy náy, tự nhiên mang lấy mặc cảm “mang tội” khi được mời ăn chiêu đãi nhân dịp gì đó. Trời, trên bàn “tràng giang đại hải” thức ăn, muốn gì thì gọi, nhà hàng bưng ra ê hề, ăn không hết bỏ mặc và lúc về hiên ngang đứng dậy, đơn giản chẳng phải mình trả tiền. Sực nhớ, ngày còn nhỏ, mỗi lần ăn, chỉ một vài hạt cơm rớt xuống bàn mà không nhặt lên chén; hoặc ăn không hết, bỏ bứa ra đó ắt bà ngoại nhắc nhở ngay “Ăn uống tèm nhem là "mang tội" đó con”. Ơ hay, thức ăn của mình, mình ăn không hết, bỏ phứa là cái quyền của mình sao lại “mang tội”? Chẳng phải đâu, thời buổi gạo cao thóc kém, thắt lưng buộc bụng nhiều người còn đói khát mà mình lại lãng phí quá là điều không nên.
Trong lúc ăn, nhìn qua bên kia kia đường, góc Nguyễn Bỉnh Khiêm - Nguyễn Đình Chiểu lại nhớ đến anh bạn nhà báo Phạm Phú Túc. Khu nhà anh trú ngụ, sát vách với nhà của Hồ Thi Ca là do Đài Phát thanh cấp cho những hộ gia đình cán bộ, công nhân viên của Đài, nay đã giải tỏa và đang xây cao ốc. Mấy chục năm rồi, chẳng biết xây thế nào mà trưa nay chỉ thấy mới có mấy vách tường gạch cao lêu nghêu. Cái thời đó sao mà vui. Nửa đêm đi chơi, thay vì về nhà trọ, lại tấp vào nhà Túc ngủ nghê, gọi bia bọt, ca hát ầm ĩ suốt đêm. Chủ nhà không một lời phiền trách. Đi ngủ lang thời đó vẫn thường cặp kè với Đoàn Vị Thượng. Có những lúc khuya khoắt lại phóng xe qua quận tư ngủ lại nhà Nguyễn An Dương; qua quận Tám ngủ nhà Ngô Nguyên Nghiễm; xuống quận 1 ngủ lại căn hộ nhỏ như hộp diêm của Nguyễn Quốc Chánh; về Q.3 ngủ nhà Nguyễn Thái Dương… Tuổi trẻ mà. Cả đêm lại bia bọt rồi tán ngẫu chuyện văn chương ầm ĩ cả đêm. Vậy mà rạng sáng lại tỉnh như sáo, lại bắt đầu công việc mỗi ngày.
Thời gian qua nhanh quá. Lúc ngoảnh lại, bao giờ cũng cảm tưởng như chỉ vừa hôm qua. Hôm qua, đọc lại tập sách Tự học Quốc tế ngữ Esperanto in tại Hà Nội (NXB Phổ Thông - 1957) do Đào Anh Kha - Nguyễn Hải Trừng biên soạn. Esperanto là công trình vĩ đại của bác sĩ Ba Lan Ludwik Lejzer Zamenhof (1859 -1917), ông sáng tạo năm 1887. Thời còn ở bộ đội, anh bạn thơ Mừng Hoang Vu đã dạy y học Esperanto, tất nhiên qua thư từ. Nhớ lại tự nhiên thấy bùi ngùi, chà, nhớ thời ở rừng, thèm đọc ghê gớm. Lật tập sách này, thấy có in câu nói của nhà văn Rô-manh Rô-lăng: “Muốn cho các dân tộc thân thiện với nhau, trước hết họ phải nghe được tiếng nói của nhau. Esperanto đem lại thính giác cho con người điếc từ bao thế kỷ nay bị giam hãm trong bốn bức tường ngôn ngữ”. Lần đầu tiên mới biết được bài thơ La Espsro (Hy vọng) của cha đẻ của Esperanto, bài thơ có 6 khổ, thích khổ thơ thứ 5:
Sur neŭtrala lingva fundamento,
komprenante unu la alian,
la popoloj faros en konsento
unu grandan rondon familian.
Hồ Xanh Nguyễn Thượng Cát dịch:
Tiếng quốc tế hòa bình chủ nghĩa
Khiến cho người bốn biển hiểu nhau
Nhân dân trên khắp hoàn cầu
Cùng nhau liên hiệp yêu nhau một nhà
Ai muốn tìm hiểu hoặc học Quốc tế ngữ nên tìm đọc tập sách này. Ít ai biết, người Việt Nam đầu tiên đạt ba bằng Quốc tế ngữ Esperanto là ông Ngô Chân Lý. Ngày nay ít nghe nói đến Quốc tế ngữ nữa. Tại sao? Có lẽ, do chữ viết, tiếng nói của bất kỳ dân tộc nào cũng gắn liền với tâm hồn, tâm linh sâu thẳm của họ mà Esperanto dù tiện lợi có thể giúp “liên hiệp mọi người trên thế giới” (Lỗ Tấn) nhưng lại không đáp ứng được sự cốt lõi ấy chăng? Thì tìm đâu xa, cứ nghĩ rằng khi quan hệ chăn gối nếu bên tai chỉ nghe ù ù cạc cạc tiếng tây tiếng u như vịt nghe sấm liệu nó có đem lại cảm giác nghe bằng tiếng Việt không? Hiểu như thế, để thấy rằng tại sao các cuộc cải cách chữ Quốc ngữ lại không thành công, bởi chữ ấy trong con mắt nhìn ấy đã ngấm vào máu thịt, do đó, con người ta không dễ dàng gì chấp nhận một cách viết khác, dù nó hợp lý hơn.
Thời gian này đang đọc di cảo Tạp bút năm Giáp Tuất 1994 của cụ Vương Hồng Sển. Đặc biệt về địa danh, cụ Sển cũng cung cấp khá nhiều điều mà ai cũng cần biết để “ôn cố tri tân”. Với địa danh “Chắc Cà Đao” cụ giải thích nếu đọc đúng phải là “Cháp Pà Đao. “Cháp” là chụp, với bắt, nắm, còn “pà đao” là dây mây, nghĩa là "ngày xưa đến chỗ ấy dày mịt dây mây, phải tay vịn chơn trèo mới đi qua được”. Lâu nay, ta vẫn gọi “Sóc Trăng”, theo cụ “sóc là ngày mồng một, làm sao có trăng?” mà phải gọi đúng là Sốc Trăng theo phiên âm Sroock - khléang v.v… Tìm hiểu về nguồn gốc địa danh là điều cực kỳ khó khăn. Còn nhớ, trên báo Sài Gòn Giải phóng tuần san số 758 (1.10.2005), ở mục “Bạn đọc đặt câu hỏi” có người hỏi như sau: “Xin nói rõ hơn nguồn gốc và ý nghĩa của địa danh Bà Nà (Quảng Nam)”. Lúc đó, PGS.TS Lê Trung Hoa đã trả lời như sau (nguyên văn): “Âm gốc của địa danh này là Ba Na vì các bằng chứng sau đây: 1. Trong cuốn Sổ tay địa danh Việt Nam (1995), Định Xuân Vịnh không ghi Bà Nà mà ghi Ba Na (hay Bà Na), 2. Trong tác phẩm Cộng đồng quốc gia dân tộc Việt Nam (NXB Đại học Quốc gia TP.HCM, 2003, tr. 255) GS. Đặng Nghiêm Vạn khẳng định cư dân Bà Nà Bắc (?) có sinh sống ở Quảng Nam, Quảng Ngãi; 3. Trong cuốn Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt (NXB Giáo dục,1995) GS. Nguyễn Tài Cẩn thường viết Bà Nà (tr. 13, 317, 321...) để chỉ tộc Ba Na; 4. Hai thanh ngang và huyền có nhiều tiền lệ chuyển đổi với nhau (ngày) nào - nào, (nhà) ngươi - người, (bao) nhiêu - nhiều... Vậy địa danh Bà Nà bắt nguồn từ tên tộc người Ba Na từng sống nơi đây”.
Cách giải thích này có thể chấp nhận được không?
Ta thử xét, địa danh “Bà Nà” đã xuất hiện cả trăm năm nay, ít ra từ năm 1900. Đó là năm mà Toàn quyền Đông Dương Doumer giao cho đại úy bộ binh Marine Debay khảo sát dãy núi Trường Sơn nhằm tìm nơi nghỉ mát, dưỡng sức, chữa bệnh tại chỗ thay vì phải về phép hàng năm tại chính quốc vừa khó khăn vừa tốn kém. Doumer xác định bán kính khảo sát khoảng 150 km kể từ Đà Nẵng ra Huế. Phụ tá cho đại úy Debay có các trung úy Baulmont, Duhamel, Vairel và thượng sĩ Thirion thuộc quân thủy đánh bộ để từ đó họ tìm ra Bà Nà. Hoặc ít ra địa danh này cũng xuất hiện vào tháng 2.1921 là năm mà thương gia Đà Nẵng Emile Morin cho xây khách sạn 22 phòng đầy đủ tiện nghi đưa vào kinh doanh. Ngôi nhà bề thế này nằm trên một sườn núi mà du khách có thể phóng tầm mắt nhìn bao quát một vùng rộng lớn kỳ vỹ như một bức tranh toàn bích. Đây cũng là thời điểm nhà hàng Morin đầu tiên có mặt tại Bà Nà.
Thế thì với các thông tin như trên, nếu muốn chứng minh: “địa danh Bà Nà bắt nguồn từ tên tộc người Ba Na từng sống nơi đây” thì nó chỉ thuyết phục khi tìm ra văn bản xuất hiện trước đó, hoặc trong thời gian đó. Văn bản này có thể là văn bản chữ viết đáng tin tin cậy xét dưới nhiều góc độ, hoặc trong các câu chuyện kể được lưu truyền từ đời này qua đời khác v.v... Chứ không thể căn cứ vài ba cuốn sách mà vội kết luận. Hơn nữa, có một điều quan trọng không kém, nếu người Ba Na từng sống ở đây thì giới khảo cổ đã phát hiện ra những gì để chứng minh? Để có một kết luận cuối cùng về sự ra đời của một địa danh, thật ra không đơn giản căn cứ vào mấy cái dấu biến âm của “hai thanh ngang và huyền” một cách đơn giản như vậy được. Hơn nữa, cho đến thời điểm này lấy gì để chứng minh người Ba Na từng sống tại Bà Nà để dẫn đến biến âm như trên? Quả thật công việc này khó nhọc. Xưa kia, người Quảng Nam có câu cửa miệng: “Nói dốc như dốc Bà Nà”; nay có câu:
Không đi không biết Bà Nà
Đi rồi mới biết ở nhà còn hơn
Cụm từ "không đi không biết" chỉ là mô-tip cách nói quen thuộc dân gian, chỉ tếu táo, bông lơn thậm chí có lúc còn nhảm nhí như "Không đ không biết Đồ Sơn..." v.v... chứ không ác ý. Trở lại với Tạp bút năm Giáp Tuất 1994. Nhờ sở hữu bản Lục Vân Tiên in năm 1883, năm cụ Đồ Chiểu còn sống, cụ Sển quả quyết câu thơ:
Hỡi ai! Lẳng lặng mà nghe
Giữ răn việc trước, lánh dè thân sau
là đúng, chứ không phải “Dữ răn việc trước, lành dè thân sau”, vì “bốn chữ bình liên tiếp trật họng không thể hát được”. Lời bình ngắn mà thuyết phục, thế mới biết gừng càng già càng cay. Ở tập sách này, lớp hậu sinh chúng ta còn được chia sẻ với cụ Sển tình yêu dành cho sách: “Nay sách đã về tay tôi gìn giữ, thú thật, đổi vàng không đổi, một lượng hay nhiều hơn nữa thiếu chi người có, mà sách này không dễ gì có…”. Qua tự bạch này ta thấy rằng, sở dĩ các tập sách của cụ Sển có giá trị nhất định, bởi lẽ cụ biết tiếp thu kiến thức từ sách. Hầu hết các tạp bút đều không dài, chỉ dăm trang nhưng gợi mở nhiều điều mà chưa chắc ai cũng tỏ tường; rồi thỉnh thoảng lại có chêm vào những câu thơ hay. Ngay cả tác giả lúc ngẫu hứng cũng có thơ như:
Chầu chực đợi cơm rơi nước mắt
Mong chờ tiếp bạn rụng lông nheo
Rõ ràng là có cái hóm hỉnh của ông cụ lúc ngoại 90 xuân xanh vẫn còn lắng đọng như đang tâm tình cùng bạn đọc trẻ. Sách nhiều, thời gian đâu đọc hết? Ngày hôm nay, nàng vẫn đi cà nhắc nhưng quyết không chịu lên Chợ Lớn mua thuốc thoa bong gân.
Cứng đầu đến thế là cùng.
L.M.Q
Tối ngày 29.4, trời đất bức bối quá. Không thể mưa. Hầm hập nóng. Vã mồ hôi. Cổ khát đắng. Ngồi quán ngoài Hồ Con Rùa. Vài người bạn. Thèm một cơn mưa. Cầu được ước thấy. Đột ngột mưa. Đã lâu lắm mới mát mẻ thế này. Hào hứng nâng bia, cụng ly cùng bạn, lắng tai nghe câu này chuyện nọ nhưng lúc ấy trong đầu đang nhẩm nhớ lại câu văn “há chẳng sướng sao” của Kim Thánh Thán. Sau khi đọc xong chương Khảo hoa trong Mái tây, Kim Thánh Thán viết cả thảy 33 lời bình. Lời bình đầu tiên, nhớ lại mà khoái: “Mùa hè qua tháng bảy, mặt trời đỏ ngang trời. Gió cũng không. Mây cũng không. Sân trước, sân sau nắng chói như lò lửa. Không một con chim nào dám bay. Mồ hôi ra khắp mình, ngang dọc thành rãnh nước. Cơm để trước mặt không sao nuốt được. Trải chiếu muốn nằm xuống đất thì đất ướt như mỡ. Ruồi xanh lại xúm đến leo lên cổ, đuổi mãi chẳng buồn đi. Đương lúc không biêt làm thế nào được, bỗng dưng mây đen kéo kín, rầm rầm rộ rộ nghe có trăm, vạn chiêng, trống… Mái tranh chảy như thác! Mồ hôi trên mình biến mất. Đất rào như lau. Ruồi bay hết. Cơm ăn thấy ngon miệng. Há chẳng sướng sao?”. Nếu không có lời bình của Kim Thánh Thán, Mái tây cũng chẳng được mấy ai để mắt đến. Nếu không có Hoài Thanh, chắc chắn vị trí của Thơ mới cũng tương tự. Tìm được tri âm tri kỷ chia sẻ những gì đã viết, không dễ dàng chút nào.
Trong lúc ăn nhậu lai rai, y thường có cảm giác vui vẻ, hào hứng, ăn to nói lớn, rổn rảng nhưng sau đó lại cảm thấy ray rứt một điều gì. Chẳng rõ. Lúc nửa tỉnh nửa say, trên đường quay về nhà, luôn có cảm giác vừa diễn xong một vai tuồng nhố nhăng nào đó. Ồn ào. Phô trương. Khoác lác. Nhăng nhố. Rồi tự đay nghiến đã ngốn thời gian vào những việc vô tích sự. Những tưởng sau đó sẽ “rút kinh nghiệm”. Nhưng không. Ngựa lại quen đường cũ. Bằng chứng, ngày hôm qua, cả một ngày lai rai với biết bao bạn bè. Thậm chí, khuya qua, vẫn ngồi ở Hàm Nghi. Uống bia và ngắm nhìn thiên hạ kẹt xe chen chúc xem bắn pháo hoa. Những lúc ấy, lại câu chuyện văn chương chữ nghĩa. Không đá động gì đến thời sự. Cũng là một cách né tránh, tìm quên, chẳng hề quan tâm đến những tranh luận này nọ.
Những ngày này, nhìn mặt báo đã thấy cách làm báo có khác trước. Thông thường, trước đây, những ngày lễ lớn quan sát trên mặt báo chỉ thấy “hồ hởi, phần khởi”. Nay đã khác. Bên cạnh các tin thời sự, ôn lại truyền thống, nhắc nhở tự hào v.v…. thì vẫn còn có những thông tin tiêu cực khác. Đáng chú ý nhất vẫn là phát ngôn của bà Bộ trưởng Y tế: “Tôi không nghĩ đến từ chức lúc này”. Nếu bà Bộ trưởng tuyên bố từ chức thì sao? Có lẽ, sẽ được dư luận dành cho ít nhiều thiện cảm hơn chăng? Chuyện tiền tỷ vô lý của đề án đổi mới sách giáo khoa vẫn còn được nhắc đến. Nhìn mặt báo đã thấy nhiều gam màu hơn, dù là số báo phát hàng vào các ngày “cúng cụ” mà trước đây không hề.
Có lẽ, chuyện dạy sử cho học trò vẫn đang là điều nhiều người quan tâm. Cái khó ở đây là đã đến lúc cần có sự phân biệt rạch ròi, dạy các em sử của một dân tộc hay sử của một chính đảng? Đành rằng, đảng ấy gắn liền với vận mệnh của dân tộc từ 1930 đến nay nhưng dân tộc lại có hơn 4.000 năm lịch sử. Đã thế, khi viết lại né tránh thì làm sao có thể thuyết phục. Chỉ nhắc lại một chi tiết mà y đã nêu trong bài Vài góp ý về sách giao khoa môn Lịch sử: “Lịch sử là sự vận động, một sự tiếp nối không ngừng, chứ không phải những “lát cắt” biệt lập. Tương tự, trong phần học về “Thực hiện kế hoạch nhà nước 5 năm 1976- 1980”, SGK 10 đã không phân tích sự hạn chế, sai lầm khi chúng ta thực hiện công cuộc cải tạo công thương nghiệp trong quá trình xây dựng XHCN. Trong khi đó, Văn kiện ĐH đại biểu toàn quốc lần VI đã nêu rõ “sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện” thì SGK lại né tránh. Như thế khi học đến học về công cuộc Đổi mới từ Đại Hội VI, làm sao HS có thể thấy hết ý nghĩa quyết tâm Đổi mới của Đảng để nâng cao nhận thức của mình?”. Đừng trách các em chán môn lịch sử, trước hết hãy tự trách và biết chán chính mình. Chán ở chỗ, cái gì cũng né tránh thì làm sao có thể phản ánh được sự việc một cách trung thực? Câu hỏi này, đôi khi y tự nhủ chứ nào có ám chỉ gì ai. Điều tệ hại nhất, có những điều nghĩ một đàng lại viết một nẻo.
Lại thêm một chuyện, có lẽ cũng có nhiều người đang quan tâm. Rằng, làm sao có thể lý giải được sự kỳ quặc, rất kỳ quặc: Có kẻ háo danh giết chết Truyện Kiều bằng cách tùy tiện sửa thơ của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du bằng những từ ấm ớ, vớ vẩn, thô kệch thì Giáo sư Vũ Khiêu lại hết lời bốc thơm? Xin nhắc lại, ông là người được Thủ tướng Chính phủ tặng câu đối “Triết gia trong cách mạng - Nghệ sĩ giữa Anh hùng”. Vậy mà, khi đọc tập sách của kẻ đã sửa be bét câu chữ trong Truyện Kiều, Giáo sư Vũ Khiêu lại tung hê: “Với một tinh thần khoa học rất nghiêm túc, ông tìm lại hầu hết các bản Truyện Kiều từ trước đến nay, so sánh các dị bản, tìm đọc hầu hết các bài đã bình luận, phân tích tác phẩm và tác giả Truyện Kiều. Từ đó, ông đã có ý tưởng lớn là làm thế nào để phổ cập hóa Truyện Kiều cho quảng đại công chúng, ông gạt bỏ những câu chữ khó hiểu từ tiếng Hán để thay bằng ngôn ngữ thuần Việt trong Truyện Kiều… Tôi hoan nghênh công phu nghiên cứu của ông Đỗ Minh Xuân và tin rằng cuốn sách này của ông là một đóng góp đáng kể vào việc nghiên cứu Truyện Kiều…”. Tục ngữ có câu: “Nối giáo cho giặc” có thể áp dụng trong trường hợp này chăng? Tại cớ làm sao vị giáo sư đạo mạo, khả kính, uyên bác Vũ Khiêu lại có thể gán những câu vàng ngọc ấy cho cái thứ âm binh, giẻ rách, thổ tả có tên là Truyện Kiều Nguyễn Du với tiếng Việt hiện đại, phổ thông, đại chúng và trong sáng do Đỗ Minh Xuân khảo dịch (NXB Văn hóa - Thông tin - 2012). Dư luận đã phản ứng ầm ầm, không nhắc lại nữa. Chỉ ngạc nhiên, vì sao một trí thức đã gần đất xa trời, đạo cao đức trọng ấy lại có thể “bảo kê” cho kẻ xấu trong việc xúc phạm tiền nhân, bôi nhọ một kiệt tác của nhân loại? Lý giải thế nào đây hở trời? Sực nhớ đến câu thơ của anh bạn Nguyễn Trọng Tạo:
Thời tôi sống có bao nhiêu câu hỏi
Câu trả lời thật không dễ dàng chi!
Đừng lo, sau này, thế hệ sau sẽ có cách tìm ra câu trả lời. Cứ tin là vậy. Mấy hôm nay, đường phố Sài Gòn vắng tênh người. Thiên hạ tranh thủ mấy ngày nghỉ lễ để ngao du đâu đó hết rồi. Phố vắng. Đi thong dong và có cảm giác bình yên. Chẳng rõ, những ngày này Hội An thế nào? Có đông du khách không? Hỏi như thế vì sáng ngày 29.4, lúc đang ngủ bỗng giật mình nhận được cú điện thoại từ Hội An: “Q còn ở Hội An không? Đi uống cà phê?”. Nghe giọng nói âm vang tiếng Quảng tự nhiên có cảm tình. Người gọi là anh Nguyễn Sự - Bí thư Thành ủy Hội An. Sau khi đọc Nhật ký 28.4.2014, anh điện thoại trao đổi thêm một vài thông tin. Câu chuyện rôm rã, hài lòng bởi cùng có một điểm chung là tình yêu dành cho Hội An. Chắc nhiều người còn nhớ, năm 2012, Giải thưởng Văn hóa Phan Châu Trinh (thuộc Quỹ Văn hóa Phan Châu Trinh - một tổ chức xã hội thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam) đã vinh danh anh Nguyễn Sự ở hạng mục Vì sự nghiệp văn hóa và giáo dục. Đây cũng là lần đầu tiên một quan chức cấp thành phố được vinh danh ở giải thưởng này. Đành hẹn với anh, Tết này gặp nhau ở Hội An vậy. Nơi đó, năm 1988 còn ghi dấu một tình cảm trong trẻo đầu đời. Y vẫn nhớ. Vẫn còn lưu dấu đâu đó. Nơi đó, nhà thơ Chế Lan Viên viết những câu thơ thật bay bướm:
Yêu ở đâu thì yêu
Về Hội An xin chớ
Hôn một lần ở đó
Một đời vang thủy triều
Chiều đã đến. Chiều qua, vẫn góc ngồi trên ban - công nhìn xuống dòng đời ở ngoài Đồng Khởi và nàng đã hát: “Em có thấy không nắng chiều rực rỡ/ Em có thấy không nắng đẹp còn đó/ Nắng còn nắng lê thê thì đêm ơi vội gì/ Nắng còn nắng bao la thì xin đêm đợi chờ”. Nắng chiều nay vẫn đang rực rỡ như màu rượu đỏ của chiều qua đã đi qua nến thơm gối chăn mộng mị và chìm dần trong ca từ “Nắng còn nắng lê thê thì đêm ơi vội gì”...
Lê Minh Quốc (ảnh: Lương Đình Khoa)
L.M.Q
Anh LÊ MINH TÂM tại phố cổ Hội An chiều ngày 27.4.2014 (ảnh: An May)
Nhật ký? Ai cũng có thể viết, nhằm ghi lại những gì đáng nhớ trong một ngày. Nếu chỉ quanh quẩn câu chuyện riêng tư thì chẳng ma nào thèm ghé mắt đến. Câu chuyện mỗi ngày của kẻ tầm thường như y chẳng có ý nghĩa gì cả. Đọc làm gì, nếu nó không gắn với dòng chảy thời sự đang diễn ra. Nhật ký của ai cũng vậy thôi. Phải phản ánh thời gian đang sống. Có như thế, sau này, qua nhật ký của một người, thế hệ sau mới có thể tìm thấy cái gọi là, tạm gọi dấu tích của một thời. Vẫn biết thế, khổ nổi, y là kẻ yếu bóng vía nên đôi lúc đã bỏ qua nhiều thông tin lẽ ra phải ghi lại.
Chẳng hạn, những thông tin này:
Bây giờ không phải là lúc bàn đến việc Hội An thu tiền vào tham quan là đúng hay sai nữa. Nhật ký 25.4. 2014 đã đề cập đến. Có điều chiều hôm qua, lúc 16 g ngày 27.4.2014, y có mặt tại phố cổ Hội An và tự nhiên trong lòng có cảm giác như lạc vào cõi xa lạ nào đó. Một cảm giác lạnh lẽo chạy dọc theo xương sống. Đường phố chết. Đường phố vắng hoe. Những gương mặt thẫn thờ. Nhìn vào quán, chỉ thấy bàn ghế trống trơn chứ không thấy người. Đâu rồi những tấp nập, những du khách, những lời rao, tiếng gọi ấm áp và thân mật của thuở nào?
Đừng quên, Hội An trở nên đẹp, hấp dẫn chính là nhờ du khách. Du khách đến tạo nên nguồn sống cho nó. Ngược lại, lâu nay Hội An đã làm được một điều mà nhiều nơi khác chưa làm được: du khách đến không nghĩ mình là khách mà họ hòa nhập và sống thân thiện cùng thiên nhiên, cảnh vật nơi ấy. Vì thế, khi đi xa họ lưu luyến, thấy nhớ và tìm cách quay trở lại. Người ta chỉ quay trở lại nhà mình, chứ tha thiết gì cái nơi đến mà mình chỉ là khách? Làm gì có chuyện trở về nhà mà trước mắt là các tấm bảng to đùng: “Khu vực yêu cầu có vé tham quan”; lại thỉnh thoảng loa phóng thanh nhắc nhở phải mua vé tham quan vì “thì là mà” góp phần trùng tu di tích v.v…
Sòng phẳng quá.
Lâu nay, Hội An tạo nên sự thân thiện chỉ vì nó không lộ ra cái sự sòng phẳng đó. Muốn sòng phẳng ư? Quá dễ. Du khách đến chỉ là kẻ đi qua chứ không còn cảm giác trở về nhà nữa. Sự mất mát ấy mới là lớn. Mà thôi chẳng nên nói nữa. Chỉ biết rằng, phải mất một thời gian nữa, lâu hoặc mau còn tùy thuộc vào nhận thức của người ban hành chính sách thì Hội An mới có thể lấy lại được tình cảm như trước. Muốn thay đổi, muốn gì đi nữa thì vẫn có cách làm tốt hơn nếu con người ta thật sự nghĩ rằng, làm nên nét đẹp của Hội An chính là từ du khách. Nghĩ như thế, sẽ có những biện pháp “trong ấm ngoài êm” chứ đâu phải tạo ra một cảnh tượng như lúc tan chợ chính y đã chứng kiến chiều qua. Bài học của Hội An là gì? Một chính sách ban hành nếu bất cẩn thì chính dân trực tiếp lãnh đủ. Muốn sửa sai, phải trả giá.
Những ngày này vụ niêm phong 559 SJC, tạm giữ gần 15.000 USD của tiệm vàng Hoàng Mai (Bình Thạnh) thật quá hớp. Nhiều báo chí cho rằng, CA quận BT có dấu hiệu lạm quyền. Đáng phàn nàn nhất là ở chỗ dư luận cho rằng cơ quan chức năng đã “gài bẫy” người dân chăng? Nếu không, giải thích thế nào về quyết định khám xét ban hành vào ngày 23.4, thời điểm chưa có nghi vấn mua bán ngoại tệ trái phép diễn ra, mà diễn ra vào ngày 24.4? Rồi nhiều chi tiết vô lý khác mà báo chí đã phân tích. Nếu đúng như thế, phải suy nghĩ thế nào đây?
Sực nhớ đến các phóng sự, bài báo viết thời Pháp thuộc, ngày đó, muốn vu cáo, hãm hại ai chỉ cần ném thuốc phiện, truyền đơn cộng sản vào nhà người ta hoặc chôn rượu lậu ngoài vườn của họ… rồi đến khám xét là gia chủ tù mọt gông! Kêu oan thế nào? Sự vu cáo này bẩn thỉu quá. Một doanh nhân bảo y, làm ăn thời buổi này khó lắm, phải chung chi đủ mọi cửa, kể cả bảo kê của bọn lưu manh xã hội đen. Rồi phải “biết điều” với cơ quan chức năng đóng trên địa bàn, ngày Tết ngày lễ phải có quà cáp; lúc họ vận động tiền này, tiền nọ cũng phải vui vẻ “cho nó xong”… Nếu không, nay kiểm tra này, mốt kiểm tra kia thì chỉ có nước húp cháo.
Một xã hội tốt còn là có chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện doanh nhân làm ăn đúng luật pháp, chứ không thể “gài bẫy” khiến họ nản chí làm giàu. Dân không giàu, làm sao nước mạnh? Vụ việc ở Bình Thạnh tác hại lớn nhất là gì? Là trong lúc chính quyền đang nỗ lực từng ngày xây dựng hình ảnh nhân viên công lực, công quyền đẹp dần trong mắt người dân thì cú làm vừa rồi đã khiến thiên hạ “kêu trời không thấu”.
Nghĩ mà buồn.
Đọc các bài báo đau đớn về vụ tiệm vàng Hoàng Mai, mừng ở chi tiết là bà chủ tiệm vàng quyết không cho cơ quan chức năng mang số vàng ấy đi. Nếu họ mang đi, bà sẽ chết ngay lập tức. Đồng tiền liền khúc ruột. Ai cũng thế thôi. Đọc mà nhớ lại thời của gia đình y. Ai đời, một gia đình “Việt cộng nằm vùng”, gia chủ từng bị chính quyền Sài Gòn tống giam ở tù Côn Đảo nhưng khi có chủ trương đánh tư sản sau năm 1975, lập tức người ta lại đẩy đồng chí một thời về phía thù nghịch. Ngày đó, y đi bộ đội. Lúc về mới nghe mẹ y kể lại là thời điểm đó người ta tràn vào nhà để cùng ăn, cùng ở và bằng mọi cách tìm cho ra vàng còn giấu ở đâu? Giấu trong tường chăng? Đục tường. Giấu dưới giếng à? Cho máy hút cạn nước giếng rồi thả người xuống mò v.v…. Đi đâu thì cũng có người đi theo, kiểm tra có lén lút giấu vàng ở đâu nữa không? Đi ra phố, dù láng giềng hàng xóm không ai dám chào hỏi, sợ liên lụy.
Đỉnh điểm của “cuộc đấu tranh chống gia cấp tư sản” là lúc người ta buộc gia đình y phải rời khỏi nhà đi kinh tế mới. Giao nhà lại cho cơ quan nhà nước quản lý giùm. Ba của y hoạt động nằm vùng, từng vào tù ra khám nhưng lại chần chừ. Không dám phản đối quyết liệt. Có lẽ ông nghĩ rằng các đồng chí mình hiểu nhầm chăng? Chứ làm gì có chuyện trở mặt, lá mặt lá trái như lật bàn tay? Vô lý quá, dù gì cũng còn có tình người nữa chứ? Vì thế ba y làm đơn kêu cứu khắp nơi. Nhưng rồi, chẳng ai dám chìa bàn tay như thuở trước, có lẽ họ cũng sợ cấp trên đánh giá về tư tưởng, lập trường nên né tránh chăng?
Từ một người buôn bán hàng rong, bán cá ở chợ Hàn, làm ăn lương thiện, tằn tiện để rồi trở thành chủ tiệm vàng ở chợ Cồn giàu có một thời bỗng dưng trở thành vô gia cư. Thử hỏi ai không uất ức? Trong phút dầu sôi lửa bỏng ấy, mẹ y - người đàn bà Quảng Nam đã từng nuôi cán bộ kháng chiến trong nhà, chồng cũng vì “nằm vùng” mà tù tội tự dưng trở nên mạnh mẽ, cứng rắn lạ thường. Nếu cúi đầu chấp nhận là mất hết, đường nào cũng đã mất, đã trở thành kẻ trắng tay, cuối cùng chỉ còn cái nhà, bằng mọi cách phải giữ. Phải giữ đến cùng. Nghĩ thế, mẹ y cương quyết cố thủ, nếu cần thiết mạng đổi mạng. Cuối cùng, người ta phải chùn tay. Nhờ thế, ngày nay mới còn cái nhà mà anh em y đang ở, đang thờ phụng gia tộc.
Thời gian đi qua. Thời ấu trĩ ấy đi qua. Dần dà, các đồng chí của ngày nào mới quay trở lại và bày tỏ sự thân thiện. Sau đó, người ta có trả lại chút đỉnh những gì đã tịch thu, chỉ trả “gọi là” như một cách xin lỗi và sửa sai. Tuy nhiên, điều cực kỳ quan trọng là lòng tin, người ta đã trả lại lòng tin thế nào? Mẹ y đã già rồi. Bà không muốn nhắc lại nữa. Y cũng chẳng muốn nhắc lại nữa.
Nay viết đôi dòng chỉ vì thương cho chủ tiệm vàng Hoàng Mai. Thời buổi này, đã sau bao nhiêu năm thống nhất rồi lẽ nào vẫn còn những sự cố đau lòng ấy tái diễn ư?
Nghĩ thêm chỉ mệt đầu.
Nghĩ về sự kiện này vui hơn. Đêm 16.4.2014, UBND Q.1 tổ chức kỷ niệm chợ Bến Thành tròn 100 tuổi. Vài thông tin đáng lưu ý: Năm 1860, sau khi chiếm được Gia Định, người Pháp đã xây dựng chợ Bến Thành tại khu vực đường Hàm Nghi, Nguyễn Huệ, bến Bạch Đằng hiện nay. Chợ Bến Thành mới tại địa điểm ngày nay xây dựng từ năm 1912 đến 1914 thì hoàn tất. Cuối tháng 1-2012, chợ Bến Thành được tạp chí ẩm thực Food and Wine chọn là 1 trong 10 điểm đến có món ăn đường phố hấp dẫn nhất hành tinh. Rõ ràng, chợ Bến Thành “trẻ” hơn chợ Đồng Xuân - do người Pháp xây dựng từ năm 1889 và đã đi vào thơ ca hò vè thì chợ Bến Thành cũng không thua kém gì. Lược ghi vài câu:
Chợ Bến Thành dời đổi
Người sao khỏi hợp tan
Xa gần giữ nghĩa tao khang
Chớ ham nơi quyền quí mà đá vàng phụ nhau
Chợ Bến Thành mới
Kẻ lui người tới
Xem tứ diện rất xinh
Thấy em tốt dáng tốt hình
Chẳng hay em có chốn duyên tình hay chưa ?
Mười giờ tàu lại Bến Thành
Xúp lê vội thổi, bộ hành lao xao
Anh ngồi quạt quán Bến Thành
Nghe em có chốn anh đành quăng om
Anh ngồi quạt quán bà Hom
Hành khách chẳng có, đá om quăng lò
Chợ Bến Thành đèn xanh đèn đỏ
Anh nhìn cho tỏ thấy rõ đèn màu
Lấy em anh đâu kể sang giàu,
Rau dưa mắm muối có nơi nào hơn em!
Đã chiều rồi. Tiếng kinh bên chùa đã vọng sang. Lẽ ra, nghe lòng thanh tịnh lại nhưng không, y lại khoái nhậu bởi đã đến giờ với cuộc hẹn bạn bè.
L.M.Q
Nghề viết nhọc nhằn chỗ nào? Chính là lúc người ta không còn hứng thú để viết nữa. Thời trẻ, viết như điên. Vì cần tiền. Cần khẳng định nghề. Và nhất là ngọn lửa ảo tưởng hừng hực mỗi ngày. Ai lại không ảo tưởng rằng, bài viết của mình sẽ góp phần giúp đời sống tốt đẹp hơn? Bao nhiêu nhọc nhằn tác nghiệp tan biến hết, chỉ cần nghĩ tác động đến nhân quần xã hội là đã mê tơi sung sướng. Đã nghĩ mình làm một công việc có ích. Dần dà, mới biết rằng đã "ăn dưa bở" hơi bị lâu. Khi ảo tưởng mất đi cũng có nghĩa sự hăm hở, tin yêu của tuổi trẻ đã phai nhạt nhiều lắm. Đến một lúc nào đó, viết chỉ để mà viết. Bởi ngay lúc viết đã thừa biết tỏng cuối cùng thế nào rồi. Chỉ là viên sỏi ném xuống ao bèo. Không một tiếng vang. Rồi ngày mai, mọi chuyện lại đâu vào đó. Chẳng mảy may thay đổi gì. Dòng đời cứ thế trôi qua. Không còn một chút sinh khí nào. Và từ trong tâm tưởng không còn vọng lên tiếng réo gọi. Giục giã. Hăm hở. Như thuở nào:
Ồ những người ta đi hóng xuân;
Cho tôi theo với, kéo tôi gần!
Rộn ràng bước nhịp hương vương gót,
Nhựa mạnh tuôn trào tưởng dính chân.
(Huy Cận)
Không thèm quan tâm, để tâm để tứ đến bất kỳ chuyện gì nữa có nghĩa lúc đó người ta đã già. Sực nhớ câu thơ này:
Thâu qua cái ngáp dài vô tận
Hình ảnh lung linh vũ trụ tàn...
Thơ Huy Cận, lâu nay cứ nghĩ của Vũ Hoàng Chương. Những ngày này, nhận được nhiều thơ. Đã nhận những bài thơ vào chung khảo của Hội học Nghệ thuật Cần Thơ. Sẽ đọc. Đã nhận nhiều tập thơ mới của bạn bè. Công bằng mà nói, tập Những tấm ván trên cầu Hiền Lương (NXB Trẻ) của Ngô Liêm Khoan là khá hơn cả. Đã đọc. Có thể dẫn chứng vài câu thơ hay:
... Lên chùa mượn một quả chuông
Lật ngược làm nồi nấu thịt
Rồi quỳ dâng lên cúng dường
Lòng thành khói hương nghi ngút:
- Thịt này con nấu nồi chuông
Không đem nồi da nấu thịt
Lửa vui thịt cũng không buồn
Sao mắt Phật mờ hơi nước...
Thơ hay, thơ dở cũng chẳng ý nghĩa gì. Hôm Khoan ra mắt thơ ở Hội Nhà văn TP.HCM, có đến một chút. Rồi về. Nhìn quanh cũng là những gương mặt đã cũ. Đã ngấy. Tịnh không một bạn đọc nào. Chỉ người viết với nhau. Mà có ai đọc của ai đâu. Vì thế, chẳng cảm hứng gì. Nguyễn Hữu Hồng Minh tường thuật lại trên mạng Một thế giới, có đoạn: “Và thật bất ngờ khi cả khách lẫn chủ buổi hội thảo đang hứng khởi, tuôn trào phấn khích, đột nhiên một phát hiện của nhà văn Trần Nhã Thụy khiến mọi người chựng lại: “Tôi nhận thấy các anh ở đây chỉ nói những lời hoa mỹ, đẩy đưa giả dối. Những lời nói có cánh đó liệu sẽ đưa thơ đi đến đâu? Và bao lâu nữa các nhà thơ sẽ xuống đất?
Theo tôi biết, tập thơ in 3.400 cuốn theo tác giả Ngô Liêm Khoan là ý nghĩa của con số 30.4 gì đó tôi không biết. Nhưng thực tế là thơ anh đang chất đầy nhà trọ mà chưa biết chỗ đi đâu cả!...
Cũng theo chỗ tôi đọc trên facebook của nhà thơ Ngô Liêm Khoan, anh rất hy vọng vào tổng công ty Fahasa sẽ nhận phát hành giúp mình một ít nhưng thật đắng cay sau nhiều thủ tục vòng vèo giấy tờ rắc rối, Fahasa chỉ nhận cho anh ký gửi đúng… 10 cuốn!
Và sáng nay, tôi theo bạn tôi đến đây từ sớm với hy vọng khấp khởi rằng sẽ có nhiều người đến chia vui và mua thơ giúp bạn tôi. Nhưng sự thật là người đến thơ thớt và thơ từ sáng đến giờ không bán được cuốn nào! Và tôi đang chứng kiến các nhà thơ đang nhào lộn trên mây xanh… Sao không nhìn thẳng vào sự thật đi: Ai sẽ mua thơ? Các nhà thơ sẽ sống ra sao?...”.
Câu hỏi ấy đã vang vọng từ lâu lắm rồi. Nghĩ mà chán. Chán nhưng vẫn làm thơ và đọc thơ, ấy là nghiệp chướng vậy. Sáng nay, như mọi ngày, tình cờ vào facebook và đọc được bài thơ mới của Trần Hoàng Nhân vừa post, có câu hay: “Ngàn vạn đao binh trên cửa miệng”. Đọc, tự nhiên lại nhớ đến một ca từ của Trịnh Công Sơn: “Bạn bè ngồi quanh/ tuốt sáng giáo gươm/ Từng ngày đảo điên/ Giết chết linh hồn”. Lướt web. Nhì nhằng viết gì đó. Rồi, tất nhiên là phở. Trao đổi với Ngô Kinh Luân về những gì liên quan đến Đời, thế mà vui. Chưa kể với ai khác. Chỉ biết rằng, từ 1992, thời điểm viết tiểu thuyết hoạt kê này, đến nay sự tình về văn hóa văn nghệ có thoáng hơn trước nhiều. Lúc vừa đứng dậy, nghe điện thoại hẹn hò cà phê với người bạn văn từ Thái Bình. Lần đầu tiên gặp nhà văn Võ Bá Cường, tác giả Chuyện Tướng Độ (NXB Quân đội nhân dân) và vài tập sách khác. Cũng câu chuyện văn chương. Anh kể cho nghe nhiều chuyện thú vị, đại khái nhà viết chèo Tào Mạt phút cuối đời có viết câu thơ:
Sọ đầu mới vỡ lẽ đời
Trăm năm tròn một vành chơi thì về
Trong lúc ông bạn mới quen tha hồ chuyện nọ xọ chuyện kia, y chỉ quan tâm đến chữ “vành”. Truyện Kiều có câu:
Thiếp như hoa đã lìa cành
Chàng như con bướm liệng vành mà chơi
Từ trái: Nhà văn Võ Bá Cường, nhà sưu tập sách Phạm Thế Cường, nhà thơ Lê Minh Quốc & nhà thơ Trần Hoàng Nhân
"Vành" là gì? Nghĩ thế cho nhẹ đầu. Còn chuyện "thâm cung bí sử" ông này, ông nọ, ông kia dù có biết thêm góc khuất của họ, với y, chỉ trà dư tửu hậu, chẳng việc gì phải quan tâm đến. Sinh thời, ông Sơn Nam tâm tình, chán nhất ngao du với mấy ông hưu trí vì lúc đó cứ nói thánh nói tướng, nói vung tí mẹt; nếu không cũng thở ra một giọng chán đời, rủa đời mà lúc còn quyền chức họ im thin thít như thịt nấu đông. Lúc già nên quan hệ với người trẻ để còn tìm ở họ sức trẻ, nhiệt tình tuổi trẻ. Nghĩ là nghĩ thế, chứ nhà văn già cũng có cái hay. Bằng chứng, đồng nghiệp Võ Bá Cường cho biết sẽ tiếp tục in ấn những quyển sách khác nữa. Còn viết được là vui rồi. Chia tay nhau, vào cơ quan. Trên đường đi, sực nhớ câu thơ của Nguyễn Đình Chiểu: “Một trận mưa nhuần rửa núi sông”. Lại nhớ đến vụ đắm tàu tàu Sewol đang chấn động Hàn Quốc nên nối thêm vài câu vừa chợt đến:
“Một trận mưa nhuần rửa núi sông”
Bốn phương nam bắc cũng tây đông
Lẽ thường muôn hướng chung một hướng
Giọt loãng nào không tựa máu hồng?
Đêm qua, giao lưu Talk show Người trẻ viết gì - Giới trẻ đọc gì ngày 24.4.2014 tại NVH Thanh Niên. May quá, vẫn có chừng trên dưới một trăm bạn đọc trẻ. Hào hứng. Thú vị. Chân tình. Chẳng lẽ ngồi đây tường thuật lại? Không, chiều rồi. Chỉ biết chắc chắn rằng, đêm qua, y có đưa ra một câu đố nhưng không một bạn trẻ nào trả lời được. Câu đố: “Bạn cho biết thời gian gần đây, một nhà văn lớn của thế kỷ này vừa qua đời. Nhà văn đó là ai?”. Y hỏi đến lần thứ ba nhưng vẫn không. Bèn cho thêm vài dữ kiện: "Nhằm bày tỏ lòng thương tiếc nhà văn đó, tổng thống Colombi tuyên bố đất nước họ để quốc tang 3 ngày. Nhà văn đó là ai?". Vậy mà cũng chẳng nhận được câu trả lời. Người trẻ còn đọc sách đấy chứ? Tất nhiên là còn, nhưng họ đọc sách gì? Phải có một cuộc điều tra xã hội học thì mới có thể kết luận.
Thời gian qua nhanh quá. Mới bắt gặp thông tin này, chưa kịp suy nghĩ thấu đáo đã nhận thông tin khác. Hôm trước, nàng phàn nàn về vụ Hội An đưa ra nhiều phương án chấn chỉnh việc kiểm soát vé khi du khách tham quan phố cổ. Cụ thể, giá vé cho người Việt Nam là 80.000 đồng/người và người nước ngoài là 120.000 đồng/người. Các trang mạng xã hội trong và ngoài nước như vitalkforum on Facebook phản đối ầm ầm: “Tại sao tôi lại phải bỏ ra 120k chỉ để ăn một bát Mì Quảng ở trong chợ với giá 20k?”; hoặc: "Câu hỏi lại được đặt ra: Việt Nam có muốn khách du lịch hay không? Hiện tại, Việt Nam có khoảng 5.5 triệu khách du lịch. Các nước hàng xóm như Thailand có 57 triệu, Malaysia là 24 triệu, Campuchia có 7 triệu và Singapore có 35 triệu. Là một trong những nước có giá visa cao nhất châu Á hoặc bất cứ đâu, bây giờ lại thu cả phí để bước chân vào một khu phố” v.v… và v.v…
Vì quá yêu quê nhà, y phớt lờ. Cứ như không thèm quan tâm. Thật ra, y suy nghĩ lung lắm. Bằng cảm tính, y biết làm của Hội An là bất cập. Ông Nguyễn Sự - Bí thư Thành ủy Hội An (Quảng Nam) cho rằng: “Miễn phí thì tiền đâu để tôn tạo di tích”? Dù vậy, vẫn có cách làm khác hiệu quả hơn chứ? Tại sao một ly cà phê giá phổ biến 20.000 đồng/ ly nhưng tại trung tâm quận 1 lại 200.000 đồng/ ly mà chẳng ai phàn nàn gì, thậm chí còn chen chúc tìm đến? Tại sao các khu resort do tư nhân đầu tư giá vài triệu đồng/ đêm vẫn “cháy” phòng, trong khi đó các khu du lịch của ta, Bạch Mã chẳng hạn giá rẻ như bèo lại vắng tanh như chùa Bà Đanh mà ai đến đó cũng rùng mình buông một câu “thề không quay lại”?
Sự việc ở Hội An vừa qua gây khó chịu cho du khách, trước hết phải kể đến thái độ các nhân viên soát vé. Ông Sự cũng thừa nhận điều này. Theo y, cho đến nay các nhân viên thi hành phận sự ở nhiều cơ quan, công sở vẫn chưa được hướng dẫn, giáo dục, đào tạo bài bản về phận sự, quyền hạn của họ. Do đó, khi họ trực tiếp làm việc với người dân ắt nẩy sinh nhiều chuyện không hay ho chút nào. Ai cũng cho mình một cái quyền dù chức vụ bé tẹo tèo teo. Đội mũ bảo hiểm là đúng nhưng bao nhiêu vụ ai oán xẩy ra vì quên; hoặc không làm theo? Vào cơ quan nhà nước, công sở đừng dại gây sự, làm gì mắc lòng với nhân viên giữ xe. Họ bảo gì, cứ im lặng răm rắp làm theo, dù đến đó chẳng cầu cạnh gì. Bằng không lúc lấy xe, méo mặt ngay v.v… Biết như thế nên dễ dàng nhận ra thái độ của người thừa hành phận sự khi họ được giao một quyền hạn nào đó. Đi đến đâu mà gặp những "ca" va chạm này là cụt hứng ngay. Đừng quên rằng, “lỗ nhỏ đắm thuyền”. Kiếm tiền tôn tạo di tích là đúng nhưng tại sao không nghĩ ra một cách “móc tiền” tinh tế hơn, văn minh hơn, kín đáo hơn mà du khách vẫn hài lòng chấp nhận?
Thật ra, vấn đề Hội An nhìn xa hơn chỉ là phản ánh tư duy “ăn xổi ở thì” của người Việt, mong muốn kết quả phải nhanh chóng, chấp nhận “đi tắt” hơn là có một chiến lược lâu dài. Một quán phở ngon, khách đông thay vì tiếp tục giữ khách, "cải tiến" phong cách giữ khách và phát triển thêm nhiều chi nhánh thì nay tăng giá, mai lại tăng giá; nếu không, cũng giá đó nhưng chất lượng từ tô phở đến cung cách phục vụ kém hẵn. Khó có thể tìm thấy một đơn vị kinh doanh nào đã tạo ra thương hiệu mà vẫn duy trì được lâu dài. Đừng nhìn đâu xa. Thử liệt kê chừng trăm năm trở lại đây thôi, có thương hiệu nào đáng lưu ý?
Chà, ông bà ta có câu thật hay “hết khôn dồn đến dại”. Bàn thêm chuyện này làm gì cho mệt.
Hôm trước, Đoàn Tuấn bảo, đọc Nhật ký của Q đau đầu quá. Rút kinh nghiệm đây. Bèn kể chuyện phòng the chơi. Chuyện rằng, ngay lúc mây mưa "xông trận", anh chồng đổi "tư thế" liền bị vợ cằn nhằn, cáu quá, mắng vợ luôn: “Lâu nay, làm được nhiều cũng không ai khen ngợi hết, điều chỉnh một tí đã rùm beng cả lên”. Ơ hay! Câu này nghe quen quen? Trước vụ đội giá 300 triệu USD của dự án đường sắt đô thị Cát Linh - Hà Đông (Hà Nội), nhiều chuyên gia lĩnh vực đường sắt cho rằng, đây là mức tăng quá cao và thiết kế chưa sát với thực tế. Lập tức, ông Cục trưởng Cục Đường sắt Việt Nam Nguyễn Hữu Thắng - Đại diện Cục Đường sắt, Bộ GTVT (chủ đầu tư) gào lên: “Chúng tôi làm được nhiều cũng không ai khen ngợi hết, điều chỉnh một tý đã rùm beng cả lên” (báo Tiền Phong 24.4). Chà chuyện quốc gia đại sự mà quan chức nhà ta phát ngôn trước dân tình, bá quan văn võ cứ như chồng đang làm mình làm mẩy, hờn mát, giận dỗi trong... phòng the với vợ!
Khôi hài thật.
L.M.Q
Trong đời thường với quá nhiều bận rộn, lo toan rồi đôi lúc nhìn lại ai cũng tự thấy mình nhỏ nhen, vụn vặt, tầm thường. Chỉ là ràng buộc của những cơm áo gạo tiền, những sở thích, những khát vọng, những danh tiếng, những địa vị xã hội, những này những nọ mà thật ra cũng thấp lè tè dưới mặt đất. Thế mà lâu nay cứ nghĩ đang phấn đấu cho một điều gì cao sang lắm. Tất cả chỉ ảo tưởng. Ảo giác. Rồi một lúc nào đó bình tâm nhìn lại, giật mình khi thấy thời gian vùn vụt kéo đến, khoảng khắc ào ào trôi qua mới hay đã ngoài ngũ thập. Mà đã nên cơm cháo gì. Chán là thế. Cuộc sống tẻ nhạt quá. Từng ngày mòn. Từng ngày không một hơi hám gì. Không gì vui. Chỉ phận sự của một công chức mẫn cán. Những cuộc nhậu nhẹt quanh đi quẩn lại cũng dăm gương mặt cũ. Câu chuyện cũ. Ngày tháng cũ. Đường phố cũ. Trang báo cũ. Cảm xúc cũ. Tiếng than van đầu làng cuối xóm cũng cũ nốt. Chẳng có một tín hiệu gì mới mẻ để thấy gân lá vẫn xanh, máu vẫn rừng rực, tim vẫn cựa quậy và chân bước vẫn hăm hở lên đường.
Thế rồi, chỉ một nháy mắt sẽ ngốn xong một kiếp đời. Guồng máy vẫn quay. Bánh răng cưa vẫn thừa sức nghiến hết. Chẳng còn gì. Còn chăng chỉ một bãi hoang mộ chí. Một hắt hiu mưa phùn nghĩa trang lạnh lẽo. Rồi một sự Vô Danh tiếp nối từng thế hệ. Đời, thế mà vui. Nghĩ thế, để tự ý thức đôi khi phải thoát ra ngoài sự tẻ nhạt của mỗi ngày dù chẳng dễ dàng gì.
Hầu hết kiếp người, trong đó có y cúi gằm mặt xuống với những trò vặt vãnh, lụn vụn thì đáng kính phục thay lại có những con người lại có một tầm nhìn khác. Một tầm nhìn vượt ra ngoài trái đất. Tối qua nằm đọc báo, tự nhiên thích thú với thông tin có hay không sự sống ngoài trái đất? Còn nhớ lúc học tiểu học, đọc tờ Thằng Bờm của Nguyễn Vỹ trong đó có câu chuyện cổ tích Nhật Bản. Đọc và nhớ mãi đến giờ. Lúc ấy, y còn quá trẻ con để hiểu đoạn kết thúc.
Rằng, ngày nọ có người đánh cá lạc vào một đảo thần tiên, như Lưu Nguyễn lạc thiên thai. Nơi bồng lai tiên cảnh, anh ta khoái lắm. Dù vậy, đến một ngày nào đó anh ta cảm thấy nhớ nhà và đòi về. Ông tiên bảo, nếu về thì sẽ không còn cơ hội quay trở lại. Anh ta vẫn nằng nặc. Không thể giữ chân, ông tiên cho anh ta một cái lọ và bảo khi nào về đến trần gian thì hãy mở ra. Bịn rịn chia tay, anh ta về lại trần thế. Khi đến nơi, lại thay cảnh vật làng chài ngày xưa đã không còn một vết tích gì. Hỏi han lần dò, chẳng ai biết anh ta dù nói rõ ràng tên tuổi, gốc tích… Mãi sau có người bảo có nghe nói đến tên người này nhưng đã mất tích hàng trăm năm rồi. Anh kinh ngạc quá bởi mình còn sống sờ sờ đây. Chẳng ai có thể tin. Anh buồn bã mở nắp cái lọ mà ông tiên đã trao. Lúc ấy một làn khói trắng bốc lên, lập tức anh ta đã trở thành một người già khú đế và ngã xuống bãi biển.
Vài trăm năm chỉ một khoảnh khắc. Câu chuyện này nói lên điều gì? Lúc còn bé, chỉ biết nó hay và kết thúc bất ngờ quá. Nói thật, y chưa hề đọc truyện kiếm hiệp, dù một dòng. Trong khi đó bạn bè y rất rành, có những người kể vanh vách truyện kiếm hiệp Kim Dung là Đồ Bì, Nguyễn Nhật Ánh, Hoàng Hải Vân… Nhắc lại vì nhớ ông bạn Vương Trí Nhàn có tập sách Ngoài trời lại có trời và nhấn mạnh: “Đó là một trong ý tưởng xuyên suốt các bộ chưởng của Kim Dung, và càng ngày nó càng được nhiều người cho là có lý”.Lan man một chút để quay lại với bài báo Săn tìm ngoại hành tinh của Hàm Châu in trên TT ngày 20.4.2014. Có đoạn:
“Nhà vật lý thiên văn gốc Việt nổi tiếng Trịnh Xuân Thuận nhắc chúng ta nhớ lại: giữa thập niên 1970, con tàu thăm dò Pioneer 10 được phóng lên từ Trái đất, đã rời khỏi Hệ Mặt trời, bay vào khoảng không bao la của dải Ngân hà, mang theo tấm kim loại khắc hình một người đàn ông và một người đàn bà, với một bản đồ thiên văn chỉ rõ vị trí của Hệ Mặt trời trong dải Ngân hà. Lúc bấy giờ một số người đã phản đối gay gắt, bởi lẽ họ cho rằng làm như thế là bất cẩn, để lộ “địa chỉ” của chúng ta cho “người” ngoài Trái đất biết - những kẻ mà ta chưa hiểu rõ khuynh hướng của họ là yêu chuộng hòa bình, hữu nghị hay khát khao chiếm thuộc địa!
Không lâu sau đó, các tàu thăm dò Voyager 1 và Voyager 2 liên tiếp được phóng lên, cũng bay ra ngoài Hệ Mặt trời, mang theo một đĩa nén ghi nhiều âm thanh khác nhau trên Trái đất. Hai tiếng “xin chào!” được phát âm bằng 60 ngôn ngữ khác nhau, rồi tiếng kêu của loài cá voi, rồi âm nhạc của nhiều nền văn hóa, trong đó có một bản giao hưởng của Beethoven và một khúc hát của nhóm Beatles....
Proxima, ngôi sao gần Trái đất nhất, nằm trong chòm sao Nhân mã, cách chúng ta bốn năm ánh sáng. Với vận tốc tối đa mà các tàu thăm dò hiện nay đạt được 50km/giây, thì còn lâu lắm bức “thông điệp” kia của Trái đất mới tới nơi cần tới, bởi lẽ một năm ánh sáng, tức khoảng cách ánh sáng đi được sau một năm, tương đương 9.400 tỉ kilômet!
Mặc dù “địa chỉ” của loài người đã bị “tiết lộ” một cách “bất cẩn” gần 40 năm về trước, nhưng đến nay ta vẫn chưa nhận được một bức thông điệp phản hồi nào dù ngắn ngủi từ những nền văn minh khác!”.
Lần đâu tiên biết thông tin thú vị này nên đưa vào Nhật ký vậy.
Tiện tay lật quyển Phạm Tuân - người thanh niên Việt Nam bay vào vũ trụ. Quyển này là phụ san của báo TT ấn hành ngay sau khi Phạm Tuân quay về trái đất, dày 54 trang cả bìa, khổ 13x19, đọc kỹ vẫn không thấy tên tác giả, số lượng in, chỉ biết giá bán 2 đồng, chịu trach nhiệm xuất bản là BBT báo TT. Lúc ấy, Phạm Tuân đã mang theo những gì khi bước lên con tàu Liên hợp 37? “Nhiều lá quốc kỳ bằng lụa, nhiều quốc huy bằng vàng, chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh, bản Tuyên ngôn độc lập và bản Di chúc in trên giấy đặc biệt, một gói đất lịch sử lấy tại quảng trường Ba Đình, chân dung đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn, huy hiệu và cờ của Tổng Công đoàn Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, những bộ tem, phong bì con dấu vũ trụ…” (tr.41). Những chi tiết này chắc chẳng ai nhớ nữa. À, nhân vật dự bị cùng chuyến bay với Phạm Tuân lúc ấy là Bùi Thanh Liêm, nay chẳng nghe ai nhắc đến nữa. Số phận ra sao? Không biết mấy câu thơ này của Tố Hữu, nay còn ai nhớ không?
Bữa cơm khoai, ít cá nhiều rau
Mà ngăn sông làm điện, khoan biển tìm dầu
Chân dép lốp mà lên tàu vũ trụ
Câu thơ cuối cũng gây nhiều tranh cãi một thời, do đó, Xuân Sách đưa luôn vào tập Chân dung nhà văn khi viết về Tố Hữu, có đoạn:
Ta đi tới đỉnh cao muôn trượng
Mắt trông về tám hướng phía trời xa
Chân dép lốp bay vào vũ trụ
Khi trở về ta lại là ta.
Nhà thơ Việt Nam có cảm hứng về vũ trụ sớm nhất và làm thơ đề tai này nhiều nhất vẫn là Huy Cận. Từ những năm 1949, ông đã có tập Vũ trụ ca. Còn nhớ loáng thoáng:
Hồn xa hỡi! Ta tù trái đất
Dây buồn thương buộc uất tim đau
Đêm dài vời vợi canh thâu
Vui chung vũ trụ, nguôi sầu nhân gian
Không phải ngẫu nhiên có nhà thơ nổi tiếng nọ đinh ninh rằng hai câu này không phải của Xuân Diệu:
Trái đất ba phần tư nước mắt
Đi như giọt lệ giữa không trung
mà do Huy Cận tặng Xuân Diệu. Y không tin thế và chừng mươi năm trước đã viết bài tranh luận in PN. Ôi, chuyện văn chương chữ nghĩa. Có là gì không? Ủa? Có ai lấy trái đất, quả địa cầu này làm quà sính lễ? Có chứ. Đó là nhà thơ Nguyễn Ngu Í lúc... nằm ở nhà thương điên. Nhân vật này lạ lùng, cậu ruột của bác sĩ nhà thơ Đỗ Hồng Ngọc. Bài thơ Sính lễ, Nguyễn Ngu Í viết năm 1969:
Tặng em một quả địa cầu
Có điên có đói có đầu ngỗn ngang
Tặng em một dải giang san
Có thù có hận có đần độn ngu
Tặng em một hoa mùa thu
Có sâu có nhặng có đừ lẫn hư
Tặng em một khối óc bư +
một tim sắt đá = một lư hương tàn
Sáng nay đi họp với NXB Kim Đồng. Trao đổi vài ý kiến: Tại sao nhiều tác phẩm hay, đoạt giải từ Cuộc vận động sáng tác cho thiếu nhi do Hội Nhà văn Đan Mạch & NXB Kim Đồng tổ chức lại ít người biết đến? Thật đáng tiếc. Nhà thơ Trần Quốc Toàn khái quát bằng câu “Áo gấm đi đêm”. Đúng quá. Ở đây vai trò của báo chí cực kỳ quan trọng. Sực nhớ, bài Tình già của Phan Khôi đã in Phụ Nữ tân văn, nếu Phong Hóa không in lại chắc chắn không tạo ra một dư luận ghê gớm. Tương tự, nếu thập niên 1980 Tuổi trẻ không in lại Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp; rồi sau này Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư thì sẽ không tạo nên những hiện tượng lúc bấy giờ. Các tác phẩm đó đã in trên báo Văn Nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam, ai đọc cũng khen hay nhưng phải khi in trên TT với số lượng lớn, nhiều đối tượng người đọc nên lập tức dậy sóng…
Thì ra một tác phẩm ra đời cũng cần có thêm sự may mắn nữa. Chuyện này còn dài. Loáng thoáng đôi dòng trong Nhật ký đặng giết thời gian vậy. Nàng đã đi Hội An sáng nay. Chiều thứ 6 về Đà Nẵng nghỉ ngơi. Bãi biển. Sóng gió. Nắng vàng. Cuối tuần thư giản. Và rượu đỏ.
L.M.Q
Sống trên đời, lúc nào cũng săm soi, soi mói, chăm bẳm, tìm kiếm khiếm khuyết người khác để phê phán, y nghĩ, hạng ấy chẳng ra gì. Có điều, thời buổi này, tìm lời khen chân tình giữa người với người sao mà khó. Cứ vào facebook và các trang mạng xã hội khác, nếu ai đó chịu khó thống kê sẽ thấy tầng số “ném đá” nhiều gấp bội phần những lời khen tử tế. Đáng trách những ý kiến này à? Không, hoàn toàn không nếu sự bực bội, tức giận, chê bai ấy thật lòng chứ không phải do bôi nhọ kẻ khác. Ghét nhất cái thói dè bỉu người này đặng "nâng bi" kẻ khác, té nước theo mưa, theo đóm ăn tàn, giậu đổ bìm leo... Mọi sự khen chê thật lòng đều quý.
Nói như thế vì đôi khi y rất muốn tìm lấy ưu điểm của quan chức nhà mình, khen lấy một tiếng nhưng thấy khó quá. Khen quan chức để làm gì? Họ có nghe đâu mà khen. Có mà điên rồ, ngớ ngẩn. Y chẳng hề ảo tưởng. Nhưng nếu thấy được, cảm nhận được điều tốt đẹp của họ và có thể khen thật lòng thì vẫn thấy đời sống đáng yêu hơn một chút. Nói một lời tốt đẹp cho nhau vẫn quý hơn, cần thiết hơn triệu lần lời nguyền rủa thô tục.
Biết thế, vẫn thấy khó. Không thể bình tâm nên đành phải buột miệng ném ra một câu cho bõ bực bội. Nói câu gì trước thái độ, cách ứng xử của Bộ trưởng Y tế trong dịch sởi? Rồi Bộ trưởng Văn hóa - Thông tin - Du lịch trong vụ đăng cai Asiad 18? Đã thế, tiếng Việt vừa có thêm cụm từ mới “đường cong mềm mại” nhằm lấp liếm vụ tự ý bẻ cong đường Trường Chinh (Hà Nội) v.v. và v.v… Ai đó ngồi liệt kê đầy đủ những vụ việc trái khoáy trong thời gian gần đây, nếu không “ngộ độc” cũng “tâm thần”. Tại sao? Bởi lẽ khi gánh lấy biết bao thông tin hắc ám ấy thì sống làm sao nổi? Sống trên đời, tiếp cận các loại thông tin ấy khiến con người ta xuôi tay ngao ngán nhưng rồi, làm sao có thể trách né?
Mấy hôm nay sáng dậy sớm, chưa kịp đọc báo nhưng từ các trang mạng biết vụ Asiad 18 đã dừng lại; nhà văn người Colombia Gabriel García Márquez - một trong những nhà văn có ảnh hưởng nhất thế kỷ 20 vừa qua đời ở tuổi 87 tại nhà riêng của ông ở Mexico. Nhân đây, chép lại một vài câu nói trứ danh của Márquez do báo TT&VH tổng hợp:
“Không ai dám chắc chắn về ngày mai cả, dù trẻ hay già. Hôm nay có thể là lần cuối cùng bạn được nhìn thấy những người thân yêu; vì vậy, đừng chờ đợi, hãy làm vào hôm nay, kẻo lỡ ngày mai không tới. Tôi chắc chắn rằng bạn sẽ tiếc nếu bỏ phí cơ hội để trao cho ai đó một nụ cười, một cái ôm, một nụ hôn vào ngày hôm nay, chỉ bởi vì bạn quá bận rộn”.
“Không ai xứng đáng với những giọt nước mắt của bạn, nhưng nếu có người xứng đáng, anh ta sẽ không làm bạn khóc”. (Nobody deserves your tears, but whoever deserves them will not make you cry - trích Trăm năm cô đơn).
“Con người không chết khi nên chết mà khi có thể chết”. (A person doesn't die when he should but when he can – trích Trăm năm cô đơn).
“Hãy luôn nhớ rằng điều quan trọng nhất trong một cuộc hôn nhân tốt đẹp không phải là hạnh phúc mà là sự ổn định”. (Always remember that the most important thing in a good marriage is not happiness, but stability – trích Trăm năm cô đơn).
“Không phải người ta ngừng theo đuổi giấc mơ vì mình già đi, người ta già đi vì ngừng theo đuổi giấc mơ”. (It is not true that people stop pursuing dreams because they grow old, they grow old because they stop pursuing dreams).
“Nếu Chúa không nghỉ vào Chủ Nhật, Người đã có đủ thời gian để hoàn thiện thế giới rồi”. (If God hadn't rested on Sunday, He would have had time to finish the world).
“Trí nhớ của trái tim xóa đi những điều xấu và phóng đại những điều tốt đẹp”. (The heart's memory eliminates the bad and magnifies the good).
“Cuối cùng văn chương cũng chính là nghề mộc. Anh đều làm việc với hiện thực, một vật liệu cũng cứng như gỗ”. (Ultimately, literature is nothing but carpentry. With both you are working with reality, a material just as hard as wood).
“Không, không giàu có. Tôi là người nghèo có tiền, hoàn toàn không giống nhau”. (No, not rich. I am a poor man with money, which is not the same thing).
“Vấn đề của hôn nhân là nó kết thúc vào mỗi đêm sau khi làm tình, và phải xây dựng lại nó mỗi buổi sớm trước khi ăn sáng”. (The problem with marriage is that it ends every night after making love, and it must be rebuilt every morning before breakfast).
“Văn chương hư cấu được phát minh vào ngày Jonas về nhà và nói với vợ mình muộn ba ngày vì bị cá voi nuốt”. (Fiction was invented the day Jonas arrived home and told his wife that he was three days late because he had been swallowed by a whale).
“Những điều có ý nghĩa trong cuộc sống không phải là điều gì xảy đến với bạn mà là bạn nhớ gì và bạn nhớ nó như thế nào”. (What matters in life is not what happens to you but what you remember and how you remember it).
“Người ta biết tuổi già đến đi khi bắt đầu trông giống như bố mình”. (A man knows when he is growing old because he begins to look like his father).
“Hãy hưởng thụ cuộc đời. Nó không phải là buổi diễn tập.”
“Nước mắt là những ngôn từ trái tim, không thể diễn tả”.
Tổng thống Colombia Manuel Santos tuyên bố để quốc tang 3 ngày trước sự ra đi của nhà văn Gabriel Márquez.
Nay, liệu ai tin đã có thời ở nước ta, tiểu thuyết của Márquez bị xay thành bột giấy? Nguyễn Trọng Tạo có câu thơ: “Tin thì tin không tin thì thôi”. Nếu ai không tin, cứ việc tìm đọc quyển Tản mản về đời (NXB Văn Học -2012) của nhà báo Trần Quốc Toàn. Trong bài Sách của Márquez thành bột giấy, anh Toàn cho biết, năm 1986 nhà văn Tô Nhuận Vỹ - Tổng Biên tập tạp chí Sông Hương cùng nhà báo Trần Quang Huy - Tổng Biên tập báo Vũng Tàu - Côn Đảo bàn việc in tiểu thuyết Tình yêu thời thổ tả của Márquez qua bản dịch của Nguyễn Trung Đức. Sông Hương chịu trách nhiệm nội dung bản thảo; tiền giấy, tiền công in do Xí nghiệp In báo Vũng Tàu - Côn Đảo lo. Hai bên cùng lo phát hành. Lời ăn lỗ chịu. Sách dày 600 trang, in làm 2 tập, số lượng in 10.000 bản. Do Xí nghiệp In báo Vũng Tàu - Côn Đảo in không kịp tiến độ nên 1 tập đem in tại Xí nghiệp in 4 (TP.HCM). Nhà báo Trần Quốc Toàn cho biết:
“Mọi rắc rối bắt đầu từ đây. Sách in xong phần ruột, đang vào bìa tại TP.HCM thì bị niêm phong, chờ hội đồng thẩm định, kết luận do có tố giác “Tạp chí Sông Hương in sách lậu,sách đồi trụy” (tr.168). Lúc ấy, ngay lập tức, từ Huế, Tô Nhuận Vỹ vào TP.HCM cùng Thế Thanh - Tổng biên tập báo Phụ Nữ, Phạm Quốc Toàn - Phó TBT báo Vũng Tàu - Côn Đảo tìm đến bà Đỗ Duy Liên - Phó Chủ tịch UBNB TP.HCM, phụ trách khối văn hóa - xã hội - báo chí xin được giải trình. Nhưng rồi cũng không đâu vào đâu. Có bệnh thì vái tứ phương. Anh Toàn viết tiếp: "Có thông tin - không biết thực hư ra sao, "lệnh niêm phong sách" được phát ra từ bộ chủ quản và "nút tháo gỡ" là ở đây. Tổng Biên tập Tô Nhuận Vỹ tự tin: "Vậy để tôi ra Hà Nội xem sao!". Thế rồi từ Hà Nội, anh điện thoại cho tôi: "Gay lắm, một số chuyên viên của bộ cho rằng, Tình yêu thời thổ tả không thích hợp với thuần phong mỹ thuật, văn hoa Việt Nam". Thế là hết đường" (tr.169). Cuối cùng, “Điều khiến chúng tôi buồn là không có cấp nào nghe chúng tôi trần tình, giải bày vụ việc, không có ai thẩm định, xem xét nội dung tác phẩm. Sách in có giấy phép hợp pháp. Sao nói in lậu. Tại sao, cùng một tác giả, Trăm năm cô đơn trước đó được xuất bản trong sự đón đợi của hàng vạn độc giả mà Tình yêu thời thổ tả lại bị ách lại? Không một lời giải thích ngọn ngành. Họ chỉ nói sách đó hay thì thật là hay nhưng không hợp với độc giả Việt Nam - hết”.
Tục ngữ Việt Nam có câu: “Để lâu phân trâu hóa bùn”. Thì đây, “Một thời gian sau, sách của nhà văn Gabriel García Márquez bị nghiền thành bột giấy. Chúng tôi không được thông báo chính thức và cũng không ai bị xử lý hành chính; hoặc xử lý pháp luật” (tr.169).
Chuyện cũ đã qua rồi. Nhắc chuyện này để thấy sự ấu trĩ của môt thời. Có điều, sự ấu trĩ đó đã thật sự chấm dứt chưa?
Chiều ngày thứ sáu (18.4.2014), anh em chương trình Chào buổi sáng của HTV đến nhà quay những thước phim về tủ sách của y. Hào hứng vì biết nhằm phục vụ Ngày sách Việt nam lần đầu tiên được tổ chức - ngày 21.4.2014. Đang hào hứng bỗng cụt hứng như xe lăn tụt dốc. Lúc quay phim.MC khi cầm quyển đại Việt sử ký toàn thư (NXB Tân Việt) bản in vào tháng 1.1945 và hỏi: “Quyển sử này in lần đầu tiên hả anh?”. Hỏi một câu như thế, biết nói gì nữa hả trời?
Sáng hôm qua đã viết xong bài về tập sách sắp in của nhà văn Lê Văn Nghĩa. Đọc lại hài lòng. Chiều qua, vẫn ngồi góc phố Đồng Khởi - Mạc Thị Bưởi. Chiều gió nhiều. Rượu đỏ. Hai người. Một chút say. Lúc ấy, đang vui nên nhận lời trong chương trình giao lưu với bạn đọc trẻ về văn hóa đọc tại NVH Thanh Niên vào lúc 19 giờ ngày 23.4. Y hỏi qua điện thoại: “Thù lao thế nào?”, giây lát sau nghe vọng lại ngập ngừng từng giọng nói oanh vàng thỏ thẻ. Đang vui nên gật đầu đồng ý.
Sáng nay, vẫn viết nhì nhằng. Đã trả lời xong phỏng vấn của bạn thơ Trần Hoàng Thiên Kim bài. Trả lời thật lòng với câu này: “Tôi sống bằng nghề viết, ngoài ra không có thêm bất kỳ một thu nhập nào khác. Do đó, phải “văn ôn võ luyện” mỗi ngày. Kiếm sống bằng nghề mà không giỏi nghề chỉ có nước “bị gậy”. Vì thế, mỗi ngày là viết. À, câu “văn ôn võ luyện”, lúc bia bọt lai rai, nhà văn Nguyễn Đông Thức cũng hay nói đến. Hôm qua, lên faebook của anh thấy dòng chữ: “Kết thúc "công trình thế kỷ" 1.300 trang! Ngày mai tôi ĐI CHƠI!”. Đây là kịch bản phim vài chục tập do anh chuyển thể từ tiểu thuyết Không có gì & không một ai của anh. Mỹ Hà đạo diễn và phát sóng trên HTV dịp 30.4 năm tới. Tập sách Sài Gòn mùa trứng rụng của Chị Đẹp cũng viết sắp xong rồi. Sẽ đọc kỹ. Phân đoạn và viết đôi lời đầu sách.
Trở lại với nhà văn García Márquez, thích câu này: “Cuối cùng văn chương cũng chính là nghề mộc. Anh đều làm việc với hiện thực, một vật liệu cũng cứng như gỗ”.
Câu này, hay quá ta.
L.M.Q
Khách mời chương trình Tạp chí 360 HTV thu hình sáng 16.4.2104. Từ trái: Nhà thơ Lê Minh Quốc, diễn viên Cát Tường, đạo diễn Lê Hoàng
Ham hố cho lắm. Đáng đời chưa? Sáng nay, 7g30 đã phải ra khỏi nhà. Có hẹn lịch thu chương trình HTV 360 lúc 8 giờ. Lại gặp đạo diễn Lê Hoàng và diễn viên Cát Tường. Cùng là khách mời. Trước lúc vào quay, Lê Hoàng hồ hởi phấn khởi cho biết đã viết xong truyện dài về tuổi học trò. Sức viết đáng nể quá. Hỏi: "Làm sao anh có thể viết đều dặn tiểu phẩm cho TNCN hằng tuần; và chưa kể phải viết bài cố định cho các báo khác?". Trả lời: "Lúc nào rảnh rỗi, tớ viết một mạch dăm ba bài. Đừng đợi đến hạn nộp bài mới ngồi viết, như thế tự làm khổ mình, nhở lúc đó mình bận công việc thì sao?". Đúng quá, các "bài nằm" thuộc hạng "thực phẩm dự trữ" đều có thể viết theo cách này. Ấy là phong cách nhà báo chuyên nghiệp. Có những nhà báo sống bằng nghề nhưng họ viết khổ sở quá. Đánh vật vài chữ cũng không xong. Có kẻ viết báo như sắp sửa "đấu khẩu" với vợ/ người tình. Bặm môi. Nhíu mắt. Căng thẳng. Thở hồng hộc. Mà vẫn không thể thốt ra lời. Còn y? Y viết với tâm thế "nịnh đầm" nên chẳng khó khăn. Ngồi là viết, dù bất kỳ không gian nào, thời gian nào. Về truyện dài sắp in của Lê Hoàng, anh sẽ xuất hiện dưới một bút danh khác. “Có thể tiết lộ tựa truyện dài và bút danh không?”. Anh lắc đầu. Tranh thủ đọc lướt qua vài trang trên Ipad của anh. Vẫn phong cách của Lê Hoàng:
“Các bạn thân mến của tôi, chắc các bạn đều hiểu bikini đối với con gái phức tạp như thế nào.
Không ai buồn nói tới quần đùi của bọn con trai. Dù chúng may bằng lụa, bằng sa tanh hay dệt bằng bao tải. Thậm chí, nếu con trai có mặc quần đùi dây, hoặc thêu lên đấy chim Công, chim Phượng, chim Hoạ Mi, chim Chích Choè thì cũng chả có báo nào đăng hay bàn tán.
Nhưng con gái thì khác. Con gái có thể mặc một nghìn thứ chả ai để ý, nhưng hễ mặc bikini là thiên hạ nháo lên. Thiên hạ toát mồ hôi hoặc xanh tái mặt mày.
Bikini là gì? Là hai mảnh vải bé, bé đến mức nếu dùng để lau nhà thì không khi nào sạch. Trên bikini không có in văn học, in lịch sử hay in địa lý gì cả. Rõ ràng nó không chứa đựng kiến thức. Vậy tại sao phải quan tâm nhiều như thế? Phải lo lắng và lên án nhiều như thế? Thiếu gì những đứa con gái hư cả đời chưa hề mặc bikini và thiếu gì gái ngoan chưa mặc bikini mà vẫn sáng như trăng rằm như Ly Cún này chẳng hạn...”
Thật tệ hại khi đổ lên đầu Bikini những tội lỗi mà nó không có, và cũng quá bất công khi giao cho bikini nhiều trách nhiệm nặng nề, kiểu như làm thế nào vừa mặc bikini vừa là con gái e lệ. Tôi, Ly Cún, xin tuyên bố với cả thế giới là tôi không đa tài đến mức đó. Tôi hứa lúc mặc áo dài tôi e ấp còn lúc mặc bikini tôi hấp dẫn. Tôi không thể nào pha trộn cả hai. Mai và những kẻ như Mai căm thù bikini đơn giản vì một cái bánh mỳ không thể mặc bikini. Mai quá mập tròn. Theo như tôi đánh giá, để may một bộ Bikini cho nó, phải tốn ít nhất mười mét vải, hoặc hai chục mét dây” v.v…
Trước hào quang chói lòa của Nguyễn Nhật Ánh, có một vài nhà văn cũng đang muốn thử sức với đối tượng trẻ con. Mỗi người một phong cách. Càng vui. Các em sẽ có thêm nhiều sự chọn lựa. Tuy nhiên, có trở thành hiện tượng như N.N.A hay không thì chưa có thể nói trước điều gì.
Chương trình HTV 360 sáng nay, đại khái, bàn về chiến dịch vận động hiến máu nhân dạo do Viện Huyết học Trung ương phát động. Năm qua, chiến dịch này đã thu được 12.000 đơn vị máu. Tuy nhiên có điều đáng lưu ý tỷ lệ người hiến máu tình nguyện chưa đến 1% dân số. Bên cạnh đó là chuyện khi giới trẻ chơi ngông: Giữa đêm tối một anh chàng nọ ngẫu hứng bơi ra tháp rùa Hồ Gươm chỉ vì “muốn thử cho biết”; một anh chàng kia “hùng dũng” cưỡi ngựa giữa phố, bất chấp đèn đỏ; rồi một vài bạn trẻ vượt hàng rào bảo vệ… xỉa răng cọp. Kịch bản của chương trình này, đưa ra những cặp “đẹp” và “chưa đẹp” để khách mời bình luận. Kế tiếp là chuyện dạy nhảy cho người khuyết tật của Trung tâm Khuyết tật và Phát triển phối hợp với Công ty Bước Nhảy Xanh tổ chức. Bên cạnh đó là chuyện chăn gia súc trên đường băng sân bay ở tỉnh Điện Biên. Những cánh đồng rộng hàng hecta bao quanh đường băng chính do không có hàng rào cách ngăn nên lâu nay trở thành nơi… người dân chăn thả gia súc! Rồi tiếp đến, các khách mời bàn về đề tài biếm họa Việt Nam và chuyện làm mẹ đơn thân.
Ý kiến của y thế nào?
Thì hãy chờ xem chương trình này phát sóng vào lúc 16g30 ngày 26.4.2014. Lâu nay, quan điểm của y khi bàn về một vấn đề cụ thể nào là không thể tách rời nó ra ngoài mối quan hệ, sự chuyển động chung xã hội. Vừa kết thúc chương trình xong, xem đồng hồ đã 10 giờ rồi. Thế là bay chân bốn cẳng phóng xe chạy qua phim trường HTV 3 ở đại lộ Nguyễn văn Linh, quay tiếp Nhịp cầu tuổi trẻ về đề tài Tính đố kỵ của người Việt.
Trên đường đi trong trí nhớ không hề nhớ đến một ngõ hẻm trên đường Nguyễn Tất Thành. Không hề nhớ chút tẹo nào. Chừng mươi năm trước, ở đó có ngôi nhà mà y đã đến và lên bờ xuống ruộng. Trày vi tróc vẩy. Trần ai khoai củ. Có những khuya đơn độc chạy về Nhà Bè, đập cửa nhà bạn Trần Đào Hiền Nhân. Gọi bạn ra quán, năn nỉ bạn ra quán. Chỉ vì y đang rơi xuống hố thẳm. Bạn chìa tay vỗ về. Hai chiến hữu từng ngủ chung chiến hào ở chiến trường K đã ngồi ngay vỉa hè phố xá. Đêm lạnh buốt từ xương. Bia rượu cứ rót. Bạn an ủi nỗi niềm. Cứ uống. Uống mãi đến lúc gục xuống bàn thiếp đi. Chẳng rõ, tỉnh lại lúc nào. Rồi buồn bả phóng xe quay về nhà. Đường phố vắng ngắt. Lạnh từ xương. Bước vào nhà tối đen chỉ có con chó vẩy đuôi mừng rỡ. Đêm vẫn tối đen. Cũng từ ngôi nhà đó, có những lúc 1, 2 giờ sáng chạy về nhà trọ của Bùi Thanh Tuấn ở tít Tô Hiến Thành. Những cơn say của hai gã đàn ông độc thân chẳng thể khỏa lấp sự đơn độc. Đêm dài rống rỗng. Tình đời hoang vu. Tâm hồn khô cằn. Làm thơ mỏi mệt. Ngày tháng ấy tưởng không đủ sức bước qua dòng đời. Nhiều bài thơ đã viết. Đã thất lạc. Đã tự xóa hết. Mộng mị đã xa. Đã xóa hết những lời thở than từ muôn trùng xa lắc:
Cuồng điên mộng mị đêm qua
Tôi chìm đắm đuối mưa sa xuống trần
Dịu dàng thôi nhé bàn chân
Giẫm lên trên ngực tím bầm quả tim
Không còn một phút bình yên
Tìm đâu nhân quả nhân duyên nhân tình?
Ngôi sao ngày ấy lung linh
Đêm qua nhọn hoắt dấu đinh trong đầu
Tôi đau tôi đau tôi đau
Không lời than vãn nát nhầu đêm đen
Chỉ là cỏ dại hoa hèn
Mọc trên mặt đất bon chen về trời
Này em, em có cho tôi
Một đời được hát những lời yêu thương?
Cõi trần đã lắm tai ương
Tôi tìm về chốn thiên đường là em
Từng ngày bướm trắng bay lên
Nắng thơm áo mới từng đêm hẹn hò
Vẫn em, em vẫn thơm tho
Vẫn tôi, tôi vẫn nằm co đêm dài
Bao giờ níu được nắng mai
Dẫn tôi đi hết đường dài trăm năm?
Không một câu trả lời. Bài thơ này viết ngày 11.6.2005. Đã chấm dứt. Đã vô vọng. Đã khép lại ngày tháng của tai ương. Chẳng ai muốn quay lại tai ương dẫu đã phủ lên nhung lụa hoa hồng. Lâu nay và sáng nay chẳng hề còn đọng lại một chút nào tâm tưởng nữa. Đã quên. Mừng quá. Y là kẻ chóng quên. Con người ta chỉ có thể sống được khi biết quên. Chóng quên. Nếu trí nhớ lúc nào cũng ám ảnh về quá khứ làm sao có thể sống? Sống là quên. Quên để sống. Trang đời đã lật. Trang tình đã đến. Và đang có. Hãy giữ gìn. Y tự nhắn nhủ chính mình.
Trên đường đi chỉ quán sát đường phố. Đi hết cầu Ông Lớn, đi nữa, bao giờ gặp cầu Bà Lớn, quẹo phải là đến trường quay. Thử hỏi, Ông Lớn / Bà Lớn là ai mà có tên cầu này? Cây cầu chỉ mới xây dăm năm thôi nhưng tìm câu trả lời cũng không dễ. Trên đường đi lại nghĩ đến trường hợp cháu bé học trò vì lấy trộm hai quyển truyện tranh bị người lớn, cụ thể là người lớn của siêu thị Siêu thị Vĩ Yên ở huyện Chư Sê (Gia Lai) làm nhục bằng cách chụp hình phát tán trên facebook. Đứa bé chỉ xấu hổ, còn người lớn có hành vi ứng xử ấy mới nhục. Cái nhục của người lớn mà cư xử tàn bạo như kẻ vô hoc, vô cảm. Ngày càng có nhiều chuyện oái oăm, trái khoáy không thể tưởng tượng nổi vẫn cứ xẩy ra. Tại sao? Phải thừa nhận rằng, trước sự việc đó, báo TT chọn in lại một đoạn văn trong Mùa hè Pestrus ký của nhà văn Lê Văn Nghĩa là khéo lắm. Hay lắm. Cũng đứa trẻ ăn cắp sách nhưng ông Nguyễn Hùng Trương - chủ nhà sách Khai Trí đã ứng xử hết sức nhân văn. Cảm động. Có dịp sẽ kể lại vài kỷ niệm với ông Khái Trí. Chuyện anh Nghĩa viết không hư cấu mà có thật. Y biết một vài người quen như nhân vật ăn cắp sách ấy, nhờ ông Khai Trí mà sau này lên danh phận. Sẽ kể sau.
Bước vào phong quay, ngay lúc bắt đầu thu hình nhà đài thông báo đề tài phải thay đổi. Vì lý do gì? Chà, lại sợ bóng sợ vía rồi. Thế là y cùng ca sĩ Lan Trinh bàn về tính sáng tạo của người trẻ. Cho an toàn. Dễ dàng phát sóng. Quay xong là đã gần 13 giờ. Đói meo. Anh em nhà đài rủ lại ăn trưa nhưng từ chối. Không thể bỏ cơm mỗi trưa. Phải về nhà. Tựa như hôm nọ mấy chị ở Hội văn học nghệ thuật Cần Thơ lên cơ quan y gửi tận tay Thư mời, Quy chế chấm thi, Thông báo cuộc thi, Quyết định thành lập Ban Giám khảo cuộc thi sáng tác kỷ niệm 10 năm Cần Thơ trực thuộc Trung ương. Mời ăn trưa. Cũng từ chối. Biết từ chối ấy là không nên vì giữa y - thành viên ban giám khảo và các chị còn có nhiều chuyện cần bàn. Vẫn biết. Đôi khi có những nguyên tắc, dù thế nào cũng không thể vượt qua.
MC chương trình Nhịp cầu tuổi trẻ cùng nhà thơ Lê Minh Quốc, ca sĩ Lan Trinh quay hình sáng ngày 16.4.2014 chủ đề "Bàn về tính sáng tạo của giới trẻ hiện nay"
Tối nay đi ăn quán Nhật Bản với nàng. Câu chuyện lại xoay quanh những gì vừa viết. Đặc biệt nàng có kể thêm thông tin về “cuộc chiến” của những người yêu chó mèo với đạo diễn nọ. Chuyện tào lao xịt bộp mà cũng ầm ĩ trên cộng đồng mạng. Lạ quá. Chuyện này sẽ kể sau. Mấy hôm nay nhận nhiều cuộc điện thoại, tin nhắn khen ngợi hai tập sách của y vừa in. Chỉ cười. Y luôn suy nghĩ: Lời khen của người này dành cho người kia, chỉ phổ biến trong vòng hai người, người khen và người được khen biết với nhau thì lời khen ấy không đáng tin cậy. Ai làm chứng cho lời khen đó là thành thật? Nếu thật sự và thành thật khen ai đó, phải khen công khai ngay giữa đám đông. Ấy mới là sự thành thật đáng tin cậy. Lời chê của người này dành cho người kia, chỉ hai người biết với nhau là đáng tin cậy. Đáng tin cậy ở sự thành thật. Vì quý vì trọng mà chê. Chê người khác mà oang oang đầu làng cuối xóm cùng nghe, đâu còn là chê nữa mà đó là sự phỉ báng.
Lại nghĩ thêm rằng, kẻ phát ngôn trong lúc uống rượu khác với lúc tỉnh táo và ngược lại thì đừng bao giờ tin cậy. Tuyệt đối không tin cậy. Sống trên đời có một người để hoàn toàn tin cậy, trao gửi những tâm sự tâm kín nhất là một điều may mắn. Không phải ai cũng có được may mắn ấy. Kiểm chứng như thế nào nhỉ? Có phải lúc sa vào hố thẳm, tai ương khốc liệt nhất giữa sống và chết, lập tức như một phản xạ tự nhiên ta nhớ đến ai, phải cầu cứu đến ai đầu tiên thì người ấy là ta đáng tin cậy nhất?
Người đầu tiên ấy, lúc ấy, với y là ai?
L.M.Q
Hình bìa tập sách Sài Gòn mùa trứng rụng của Chị Đẹp (sắp xuất bản)
Chúc một ngày tốt lành. Tựa truyện dài của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh như dành cho ngày hôm nay. 13.4.2014. Ngày giao lưu và tặng chữ ký trên hai tập mới Khi tổ ấm nhảy Lambada & Đời, thế mà vui tại Tiệm sách Kính Vạn Hoa. Cảm động trước bó hoa lys của nhà văn Lê Văn Nghĩa. Hoa lys còn đang nụ. Sẽ nở những cánh trắng. Một vẻ đẹp giản dị mà sang trọng. Lúc trao tặng hoa, anh ghé tai nói nhỏ. Nói gì? Nói rằng… Rồi bạn đọc vây quanh đặt câu hỏi và những tiếng cười rôm rã, thân tình và ấm áp. Tiệm sách Kính Vạn Hoa có thể trở thành nơi lý tưởng cho các cuộc ra mắt sách bởi một phong cách chuyên nghiệp và nhất là tình yêu dành cho sách. Chỉ tiếc nơi ấy không gian hẹp, nếu rộng hơn thật lý tưởng. Những gương mặt bạn đọc trẻ trong sáng, hồn nhiên đã khiến y nhớ lại ngày mới tập tểnh viết lách. Vui được quen thêm vài người bạn mới.
Niềm vui đôi khi không cần tìm đâu xa, hãy biết rằng chung quanh mình vẫn còn những tâm hồn đồng điệu dù cách nhau vài thế hệ. Mọi người gặp nhau do cùng mê sách. Những con chữ lặng lẽ trong sách, nếu đọc sẽ thấy sự tri âm ở đó. Cần gì phải ồn ào, huênh hoang, lộng ngôn trong các cuộc nhậu rồi trang giấy vẫn không một dòng chữ nào. Đáng kính phục thay những thế hệ nhà văn lặng lẽ đi qua thời gian bằng ngón tay gõ phím. Cứ thế. Cứ leo dốc mỗi ngày. Nhẫn nại. Thanh thản. Và không nôn nóng với bất cứ điều gì.
Sáng nay, đã nghe nhà văn Lê Văn Nghĩa gút lại tập truyện dài sắp in của anh. Anh ghi rõ ràng tựa như vầy: “Chú chiếu bóng thùng, nhà ảo thuật, tay đánh bài & tụi con nít xóm nhỏ Sài Gòn năm 1966”. Chưa hết, phía dưới còn chua thêm dòng chữ nhỏ: “Truyện dài dành cho thiếu nhi, người lớn đọc cũng hổng sao”. Cả thẩy bao nhiêu chữ? Lâu lắm mới gặp chị T.T, chị vừa qua cơn tai biến. Chị kể rằng, oải nhất là những lúc đi ngân hàng, không thể nào ký lại chữ ký giống như trước được nữa. Do đó, nhân viên ngân hàng từ chối cho rút tiền. Trò chuyện loanh quanh, nhận thấy chị đã bình phục như trước. Vậy là mừng. Thoáng đó, quán Đo Đo đã luân chuyển vài nơi rồi. Nay mới trụ lại được nơi này. Ngồi chung với bạn bè đến chung vui, tự nhiên trong câu chuyện lại "đá giò lái" qua món ăn Quảng Nam bởi lúc ấy trên bàn vừa có món mít trộn. Anh bạn mới quen nhờ đọc lại câu ca dao quen thuộc:
Nhón chân kêu bớ nậu nguồn
Mít non gửi xuống, cá chuồn gửi lên
Trong Người Quảng Nam, y đã giải thích. Anh Ánh và Đoàn Xuân Hải cũng góp thêm ý kiến giải thích nữa. Tự nhiên, lúc lai rai cảm thấy các món ăn khác đã ngon thì nay lại ý vị hơn. Cũng như trưa nay, mua phần cơm của quán Đo Đo về nhà nàng. Thấy bày biện thức ăn khéo quá, bèn đọc:
Cá nục nấu với dưa hồng
Lơ mơ có kẻ mất chồng như chơi
Nàng chăm chú lắng nghe, khen ngon quá xá là ngon. Có lẽ cho đến nay chưa ai viết về món ăn mà đọc lên tự dưng ta thèm ăn món ấy một cách lạ lùng như nhà văn Vũ Bằng. Món ngon Hà Nội. Món lạ miền Nam. Và nhất là Thương nhớ mười hai. Ông tả món ăn tuyệt khéo. Mà một người rất rành công thức chế biến thức ăn, chắc gì đã nấu ngon lành món ăn đó? Ngược lại nhà đầu bếp giỏi cũng không có nghĩa khi viết những trang văn về món ăn sẽ khiến thiên hạ phải thèm thuồng. Phải tìm ăn cho bằng được. Nhắc lại bởi sáng nay có những câu hỏi từ bạn đọc, đại khái, anh vốn thất bại trong hôn nhân thì làm sao có thể giúp người khác hạnh phúc? Nếu vậy chẳng lẽ, khi viết về giới cờ bạc, cơm thầy cơm cô, cặm bẫy người thì Vũ Trọng Phụng phải là con người của giới ấy chăng? Không. Đã trả lời thỏa đáng cho bạn đọc lúc giao lưu. Nhiều câu hỏi thú vị và tất nhiên cách trả lời của y cũng thú vị. Đôi khi mèo khen mèo dài đuôi cũng chẳng hại gì. Nhà văn Vũ Bằng viết về món ăn tuyệt hay, ấy mà trong Món ngon Hà Nội, ông vẫn chưa hài lòng: “Làm cái kiếp văn nhân, lắm lúc rầu muốn chết. Một người đẹp soi vào gương có thể bằng lòng nhan sắc của mình. Một bà từ mẫu có thể tự mãn vì thấy mình hoàn thành nhiệm vụ. Riêng có người viết văn là không bao giờ được vừa ý - vì vừa ý làm sao được khi mà trong óc mình sôi nổi bao nhiêu ý nghĩ hay, bao nhiêu hình ảnh đẹp, mà làm cách nào đi nữa cũng không thể phô diễn được hết cả ra cho người ta cùng cảm thấy?”.
Một câu văn đơn giản nhưng đã khái quát được tâm lý của người cầm bút. Thời gian viết sách chẳng kể làm gi nhưng lúc gần ra sách, biên tập, xem lại bản "bon"dàn trang, bìa sách... lòng nôn nao, chờ đợi. Khi sách in ấn xong, hồi hộp lật từng trang. Đọc ngấu nghiến. Một cảm giác sung sướng như người ra khơi thu về một mẻ cá tươi ngon. Như người trồng vườn nhón chân hái quả. Như cậu học trò nghe tiếng kẻng báo hiệu đã đến giây phút nghỉ hè. Rồi cảm giác ấy cũng đi qua. Một sáng mai kia thức dậy, lại thấy những gì mình viết đã trở thành một phần tài sản của mình, đã quen thuộc. Thế rồi lại hăm hở lao vào những trang viết mới. Không ngoái lại đàng sau nữa. Cứ lặng lẽ, đi tới. Chỉ nháy mắt, đã sắp hết một đời người...
Quay về nhà, ăn trưa xong, ngủ khèo một giấc. Chiều, đi ra Sài Gòn hóng gió. Rồi đi hớt tóc. Lại xem bìa tập sách Sài Gòn mùa trứng rụng của Chị Đẹp. Đã chỉnh sửa. Nhìn thấy hài lòng.
Chúc một ngày tốt lành.
L.M.Q
Trang 40 trong tổng số 58