Lâu nay thấy trên các báo chí có nhiều tác giả hay dùng đến hai chữ “phong kiến”. Đại khái như trong câu nầy: “Người mình chịu áp bách dưới chế độ phong kiến mấy ngàn năm”, hay như trong câu nầy: “Ngày nay chúng ta bắt đầu thoát ly khỏi chế độ phong kiến”.
Dụng ngữ ĐẠO trong triết luận nhị nguyên phương Đông
KINH DỊCH là bộ sách triết học của "Đông phuơng học", được coi là "kỳ thư" của thế giới. Người châu Á trong thực tế cuộc sống (xưa & nay) đã vận dụng kỳ thư (bộ sách hấp dẫn lạ lùng) này cho nhiều lãnh vực, như: xây dựng nhà cửa (phong thủy), canh tác (nông lịch tiết khí), nhận diện con nguời (linh khu mệnh lý), phòng và chữa bệnh (thời lệnh bệnh học), dự báo thời tiết (địa lý thiên văn) .... đồng thời cũng bộ sách này là "đầu mối thói mê tín dị đoan" của một số người hành nghề "bói toán", chỉ vì hiểu sai nội dung KINH DỊCH (hoặc không đủ tri thức thấu cảm dụng ngữ trong KINH DỊCH).
(Ảnh: Internet)
HÈ VUI
Hè đến là cháu vui
Ông tặng chùm phượng vĩ
Thời gian thật tuyệt vời
Nhạc ve chưa hết ý:
Hè ơi,mùa hè ơi !
HÈ KHỎE
Hè đến là lạc quan
Và cháu thêm tuổi khỏe
Thể thao bên tiếng đàn
Ông - cháu ta: tuơi trẻ
Hè ơi, chào hân hoan
HÈ TRẺ
Hè đến là tuổi son
Tay trong tay đoàn - đội
Tim óc càng lớn khôn
Việc làm hơn lời nói
Hè soi sáng tâm hồn
HÈ ĐẸP
Hè đến là ước mong,
Cháu con làm ích thiện
Thơ ngây như chùm hồng
Cháu vươn lên cầu tiến
Hè xanh, mát non sông
(Mùa hè 2014)
LH VKD
(Ông già 76 tuổi rất thèm còn tuổi thơ)
Dạ! Là cháu đây
Hồi nhỏ, nhà thơ Yến Lan được nhiều người biết đến là nhờ có truyện ngắn và thơ đăng thường xuyên trên tạp chí Tiểu Thuyết Thứ Năm, Tiểu thuyết thứ Bảy . Trên những tạp chí đó, ông lấy bút danh Xuân Khai.
Nhà thơ YẾN LAN thời trẻ (ảnh tư liệu Lâm Bích Thủy)
Sắp đến ngày trùng ngũ (ngày 5 tháng 5 âm lịch hàng năm), các thầy thuốc cổ truyền Việt Nam thuờng chọn làm ngày "hái thuốc giết sâu bọ", tức thời điểm thâu hoạch thuốc đầu mùa hạ (chứ không phải như nguời Tàu ăn tết đoan ngọ, họ kỷ niệm ông Khuất Nguyên bị thiêu chết, vì chống đối vua quan bất công, tàn bạo....), vì dòng họ Lê Lã / Hưng Yên của tôi cũng làm thuốc, nên không thể không nghĩ & nhớ tới cụ tổ đông y Hải Thượng Lãn Ông LÊ HỮU TRÁC (1724-1791) cũng người Hưng Yên, huyện Yên Mỹ bây giờ.
Không hiểu vì sao mà câu chuyện này lại ám ảnh tôi mãi không dứt. Nhất là vào lúc này, khi bè lũ lãnh đạo của Trung Quốc, ngang nhiên đặt gian khoan Hải dương 981 trên thềm lục địa của ta, gợi tôi nhớ lại câu chuyện mà cha tôi - nhà thơ Yến Lan đã kể đi kể lại nhiều lần cho chúng tôi nghe. Hồi ấy, mỗi lần kể xong, ông lại ngâm nga: “Con ơi chớ vội làm giàu/ Thằng Tây nó cút thì thằng Tàu nó sang”. Quả là như vậy! Giờ, tôi mới hiểu, ý cha muốn thông qua chuyện đời mình để dạy con tinh thần dân tộc, tình yêu nước, ý chí tự chủ, sự kiên nhẫn và lòng tự trọng. Bất kỳ ở đâu, trong hoàn cảnh nào cũng cần bình tĩnh mà suy xét kỷ trước khi hành động. Nhất là với những tình huống xấu nhất, khi đối mặt với kẻ thù “Biết mình, biết ta trăm trận trăm thắng”.
Từ trái: Nhà văn Nguyễn Khải, nhà thơ Yến Lan & nhà thơ Hoàng Minh Châu
Nhà nghiên cứu Quách Giao là con trai thi sĩ Quách Tấn. Ông đã có nhiều tập sách, trong đó có những tập viết chung với Quách Tấn. Sau khi thân phụ mất, ông đã làm một nghĩa cử cảm động là tìm kiếm, sắp xếp thứ tự thời gian và công bố thư từ trao đổi giữa Quách Tấn và Nguyễn Hiến Lê: Những bức thư đầm ấm (NXB TH TP.HCM -2010). Qua trên 200 lá thư trao đổi của hai nhà văn hóa nước Việt từ năm 1966 đến năm 1984, dù thư riêng nhưng công chúng tìm thấy ở đó quan niệm sáng tác, cảm nhận văn học, thậm chí cả thời cuộc lúc ấy...
Thôi đành ôm ấp giấc mơ hoa
Dẫu biết tình kia đã nhạt nhòa
Cánh buồm ân ái chừ viễn xứ
Tình cũng theo thuyền trôi mãi xa...
Đ.D.X
Cùng một tác giả:
Tác giả ĐOÀN DUY XUYÊN
Cánh hồng vương vấn (thơ)
Nhớ một người (thơ)
Cõi sầu riêng em (thơ)
Tên người và số phận (tạp bút)
Công tử Ả Rập (phóng sự)
Nhật Bản vui hay buồn? (bút ký)
Tình yêu không có tội (phóng sự)
Các vị thần vẫy gọi (bút ký)
Năm xưa khi viết 4 tập Hỏi đáp Non nước xứ Quảng (NXB Trẻ), tôi có nhắc đến nhân vật Nguyễn Duy - em ruột Nguyễn Tri Phương. Như ta đã biết, Nguyễn Duy (1809- 1861) tự Nhữ Hiền, là em ruột cụ Nguyễn Tri Phương. Sinh ngày 21 tháng Chạp năm Kỷ Tỵ (1809) tại làng Đường Long, tức Chí Long, huyện Hương Điền (cũ Phong Điền) và mất ngày 16 tháng Giêng năm Tân Dậu (25/2/1861) tại trận Kỳ Hoà tức Chí Hoà.
Đền thờ Trung Hiếu - nơi thờ Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Duy, phò mã Nguyễn Lâm, công chúa Đồng Xuân... (ảnh tư liệu của hệ tộc Nguyễn Tri)
Muốn trả lại tên dịu dàng cho tháng Năm
Khi mọi nẻo đường hoa bằng lăng nở tím
Dẫu không là vợ hay người yêu của lính
Thương thật nhiều khi nghĩ đến biển xa
Ở nơi ấy chỉ có hoa phong ba
Biển không còn dịu êm dưới chân anh đứng gác
Sóng cồn cào ôm dải đất hình cánh bay hồng hạc
Những con tầu làm thành lũy ngoài khơi
Bình yên nhé, bằng lăng tháng Năm ơi
Mọi yêu thương cứ hướng về phía biển
Gửi nỗi nhớ của đất liền xao xuyến
Để sắc tím hoà cùng màu biển biếc trời xanh…
(17.05.2014)
T.H
Trang 71 trong tổng số 92