LÊ HƯNG VKD: Mạn đàm về tâm linh

 

imagesle-hungR

Lương y, nhà giáo, nhà nghiên cứu Lê Hưng VKD

 

1/ Sân khấu trí tuệ:

Về phuơng diện y học "sân khấu" của trí tuệ gồm các định khu thuộc hai hợp phần bán cầu đại não (y học cổ truyền gọi là "phủ kỳ hằng"):

- hợp phần bán cầu não phải là thổ cư của "cái tin" (croyance)

- hợp phần bán cầu não trái là lãnh địa của "cái biết"(connaissance).

Bất kỳ mọi diễn biến tư duy nào cũng đều có sự can dự của niềm tin & hiểu biết (croyance avec connaissance) và chất luợng sự kiện vừa nêu đuợc định danh: TRÍ TUỆ (esprit).

Về phuơng diện triết học: khi trí tuệ nghiêng nhiều hơn về phần tin tuởng (tùy thuộc môi trường sống và trình độ nhận thức cá nhân), vuợt trội hơn phần hiểu biết đang có, mà hưng phấn dự cảm truớc một tiến trình sẽ đến ..... quá trình tư duy ảo biến này, gọi là TÂM LINH (prémonition). Theo sách "Nouveau petit Larousse illustré" - NXB Paris VI -1952, nguời Pháp định nghĩa thuật ngữ Tâm Linh như sau: "sensation précédant un fait et l' annocant” - cảm giác riêng như báo trước sự việc sẽ đến cho mình. Học giả Đào Duy Anh cũng giới thiệu: Tâm linh là cái trí tuệ tự có trong lòng nguời, là dự giác điều mặc giới về tuơng lai... (Hán - Việt từ điển - quyển hạ tr. 243, NXB Truờng Thi - Saigon 1957, và Pháp - Việt từ điển tr. 1362, NXB Minh Tân - 1952).

2- Phân loại hình thái tâm linh:

Trong thực tế cuộc sống đời thuờng, ngành tâm lý học đã phân lập 3 hình thái tâm linh (morphotypologie prémonitoire):

- tâm linh khoa học (prémonition scientifique)

- tâm linh tín nguỡng tôn giáo( prémonition religieuse)

- tâm linh thế tục (prémonition du culte)

* 2.1/ Tâm linh khoa học: khoa học kỹ thuật dựa trên thực nghiệm định luợng bền vững và lôgic toán học, giúp ta có đuợc "cái BIẾT khoa học" thuờng gọi là tri thức ! Còn khi ta tự thân trải nghiệm rồi trực giác những định tính dị thuờng (bất khả tri luận = chưa thể giải thích cụ thể) thì phân tâm học (psychanalyse) gọi là "cái tin siêu hình-croyance ferme et métaphysique" và đây chính là tâm linh khoa học! Năm xưa nhà khoa học ALBERT EINSTEIN đã dự cảm trước hai sản phẩm trí tuệ: thuyết tuơng đối hẹp bàn về vật chất vận động sinh ra năng luợng (1905) và thuyết tuơng đối rộng bàn về cân bằng vũ trụ (1915) ....  nói chung thì tâm linh khoa học rất cần thiết cho mọi bộ môn khoa học! là cửa ngõ cho năng lực SÁNG TẠO!

* 2.2/ Tâm linh tín nguỡng tôn giáo: Trong triết học,"cái ta biết" là tri thức lý thuyết, "cái ta làm" là tri thức ứng dụng Riêng "cái ta tin" là tri thức giải thoát, mục đích hoàn thiện quá trình sống bản thân về nhân cách, đồng thời thôi thúc-động viên những ai "chưa đuợc tốt" sẽ trở thành nguời tốt ! Đây là tâm linh tôn giáo, là dòng chảy trí tuệ tinh mẫn giải phóng bản thân giảm thiểu khổ đau, huớng về điều thiện bằng cách phát huy 3 tâm thức "lòng trắc ẩn + thái độ khoan dung + kiên trì bền bỉ ", để tiến đến phát triển đuợc tình yêu thuơng nhân loại..... trong mỗi cá thể!

* 2.3/ Tâm linh thế tục: Cũng gọi là tâm linh theo phong tục - tập quán (prémonition des moeurs,des us& coutumes). Mọi hình thái tâm linh đều khởi nguồn từ trực giác (force d' intuition), nhưng khi "vốn liếng cái ta biết" không đầy đủ (tức là tri thức khoa học còn yếu kém, kiến thức nhân văn còn bấp bênh....) thì nguy cơ  "cái ta tin" rất dễ sa lầy vào vùng trũng "mê tín-dị đoan" (mê tín = niềm tin mù quáng, dị đoan = tin tuởng điều lạ lùng, sách Hán - Việt từ điển của học giả Đào Duy Anh, tr. 206 & tr. 554).Tại nuớc ta, là xứ sở nông nghiệp truyền thống , tất cả sự việc - sự kiện phụ thuộc vào các biến động của khí hậu - khí tuợng phức hợp vùng châu Á nhiệt đới - gió mùa xảy ra hàng năm .... đã sản sinh ra rất nhiều lễ hội cầu xin "tha lực" (sức mạnh ở ngoài năng lực của con nguời nông nghiệp) giúp đỡ để an cư lạc nghiệp! lâu dần trở thành phong tục - tập quán mỗi vùng miền.... những tha lực ấy đuợc trí tuởng tuợng loài nguời nhân cách hóa là "thần linh"..... Một cám dỗ  khó tránh là "tính vị kỷ" (bản năng sinh tồn của con người: dành ưu tiên cho lợi ích riêng mình truớc!)  mà nhiều cá thể  đã mưu cầu thái quá (lòng tham lam) trục lợi "thần linh" để làm giàu cho mình hoặc cho nhóm lợi ích của mình.... bất chấp  qui luật phát triển của xã hội văn minh đuơng đại:

- vừa tôn trọng nhân cách tính;

- vừa tăng cuờng nhân đạo tính.

Mọi "biến tuớng" của tâm linh thế tục còn rải rác ở nơi này nơi kia...sẽ dần dần bị triệt tiêu, khi nhịp sống chung của cộng đồng đuợc nâng lên (xóa đói giảm nghèo,gíáo dục -y tế đầy đủ số luợng và chất luợng...). TÂM LINH luôn luôn là giá trị ĐẸP của biểu tuợng "thăng hoa tri thức huớng thiện" cho chúng ta khi còn sống!  

          

LÊ HƯNG VKD
(Mùa lễ hội THANH MINH -2014)

 

indexl_hung


Bừng cảm bát nhã tâm kinh


Hành thiền bát nhã ngộ chân như

Ngũ uẩn vô thuờng hẹp lối tu

Hành giả minh tâm và trực giải

Gíúp đời vuợt thoát chuyện sầu tư

 

***

 

Nguồn thiền duy thức huớng dung thông

Phật tánh muôn nơi vốn dặn lòng

Ảo ngã do tham - cầu - vọng - tuởng

Lẽ đời khi CÓ lúc là KHÔNG...


***

 

An trú sân thiền đọng - trữ  TÂM

Xả buông danh lợi cõi thăng trầm

Như lai sự vật không thêm bớt

Kiến tánh người ơi: ẩn - lặng - thầm...

 

***

 

Lão - tử... hàm sâu nỗi xót xa

Lục căn - trần - thức.... choán hồn ta

Vô minh vô trí...vô sinh - diệt

Nguồn sáng huyền KHÔNG nó - vốn- là !


***


Tịnh độ nơi về... đuốc TUỆ cao

Xóa tan mê - vọng chốn lao xao

Chúng sanh vuợt khổ tìm an lạc

Hồi huớng bình yên mở lối vào!

 

***

 

Ba đời TRÍ-HUỆ vuợt ngăn - che

Đích thực bản nhiên rõ bến về

Chư Phật hiện tiền đang mỗi lúc!

Đỉnh thiền ưu việt xóa nguồn mê...

 

***

Chân tánh bờ xa bỗng hóa gần

Tiêu trừ ách nạn cứu nhân thân

Niệm trang mật ngữ lời siêu thực

Lấp lánh kỳ ngôn minh triết răn...

 

***


Từ- Bi - Hỉ  - Xả, gốc hồn nhiên

Sắc - Tuớng vuợt qua rồi vuợt lên

Giác thức Tự Tri làm bến đậu

Ngộ KHÔNG vô luợng! Vĩnh tâm thiền...


Lê Hưng VKD

(Tiết Thanh Minh - 2014)

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÂM BÍCH THỦY: Nhớ cụ PHAN KHÔI

 

phankhoi

Học giả Phan Khôi (1956)

 

Cứ mỗi lần nghe đến tên Phan Khôi thì trong đầu tôi lại hiện về một quá khứ không lấy gì làm vui cho lắm; hình ảnh một ông già; người cao cao, gầy yếu, nước da men mét, râu tóc bạc phơ rõ dần trong đầu tôi. Ấn tượng về cụ in đậm trong lòng tôi hơn ½ thế kỷ. Nhưng bấy giờ, tôi còn nhỏ, độ 12-13 tuổi, đang học lớp 4 tại Trường Học sinh Miền Nam, ở Hải Phòng. Cái tuổi chưa hiểu gì lắm về thế thái nhân sinh.

Người ta kể lại sự việc khi cụ Phan Khôi mất, lúc bấy giờ cả Hội nhà văn có hàng trăm người ít ai đến thắp cho cụ một nén nhang, chỉ có ba tôi - nhà thơ Yến Lan - là “người bạn thơ độc nhất đi sau linh cữu cụ Phan Khôi đến nơi an nghỉ cuối cùng ở vào giai đoạn đấu tranh gay gắt của cuộc cách mạng văn học vào năm 1959”.

Nói lại chuyện này giờ đây dễ dàng và bình thường nhưng lúc bấy giờ, khi tất cả mọi người xung quanh đều lo sợ liên lụy đến người bị xem liên quan đến Nhân văn giai phẩm thì giữ được cái tình cái nghĩa không dễ chút nào. Mỗi lần nhắc đến chuyện này, tôi lại thấy xót xa nơi con tim mình. Hình ảnh ba tôi đi sau linh cữu cụ Khôi ngày ấy chắc những người đã có tuổi vẫn còn nhớ. Thế tại sao cái đều rất bình thường ấy lại gây xôn xao trong dư luận tại Hà Nội một thời như vậy?

Ngược dòng thời gian về lại những năm của thập niên 50, thế kỷ trước. Năm 1956, gia đình tôi chuyển từ  51 Trần Hưng Đạo về 73 Phố Thuốc Bắc. Cùng chuyển về đây còn có các bác, cô, chú trong cơ quan của Hội Nhà Văn. Nhà 73 phố Thuốc Bắc có chiều dài khoảng 50 m, chiều ngang 5 m. Suốt chiều dài người ta chừa 1 m để làm lối đi chung, rồi ngăn bằng ván làm cho mỗi gia đình một gian để ở. Tầng dưới nhà có 7 gia đình, trên gác chỉ có 3. Những căn hộ ở trên gác thì rộng rãi, biệt lập, có cầu thang riêng, không chung đụng với người xung quanh - dành cho các gia đình cán bộ Hành chính. Toàn bộ các hộ đều dùng chung nhà tắm, nhà bếp, nhà vệ sinh đều nằm ở cuối nhà. Vì vậy, hàng ngày dù muốn hay không mọi người đều gặp nhau, khi thì nấu ăn, khi tắm giặt  v.v…

Gia đình tôi ở phía dưới, giữa 6 gia đình khác; kề vách là gia đình cụ Khôi. Phía ngoài cụ là chân cầu thang của hộ bà Cán, đến bể nước công cộng. Căn dành cho gia đình cụ Khôi là một cái buồng khép kín, rộng chừng 9m vuông, bằng 3/4 gian nhà tôi. Có thể đây là nơi thờ cúng của chủ trước. Giữa nhà tôi và nhà cụ là một cửa sổ nhỏ, to bằng bàn cờ tướng. Tôi thường ngồi bên bể nước công cộng, cạnh cửa sổ nhà cụ để giặt giũ.

Ban đầu mới dọn về, tôi thấy ba và các chú nhà thơ hay vào phòng cụ Khôi uống trà, bàn chuyện thời sự, bình luận những bài thơ, những từ ngữ của bài thơ trên Báo. Bọn trẻ chúng tôi chạy vô chạy ra nhà cụ để chơi với các anh các chị con cụ; mọi người đều thân thiện, cởi mở. Thế rồi, dần dần tôi thấy có một điều gì đó, lung lắm. Các cô, các chú không xởi lởi như trước nữa. Trong cư xử mọi người tỏ ra dè dặt, dò xét. Nhà cụ Khôi cứ vắng dần bóng người lớn, không còn trẻ chạy ra vô nhà cụ nữa! Không khí trong ngôi nhà nặng nề, xét nét, và xa lạ. Thấy khác thường, tôi hỏi má: “Má ơi tại sao các bác, các chú không chơi với cụ Khôi nữa?” Vẻ lo lắng bà kề sát tai tôi, nói nhỏ như sợ người khác nghe được: “Ông Khôi bị coi là người cầm đầu nhóm Nhân văn giai phẩm. Con cũng đừng vào nhà cụ nữa, người ta đang theo dõi ba mình đó.”

Thật sự lúc bấy giờ tôi không hiểu Nhân văn giai phẩm là tội gì, nặng đến mức nào mà ai cũng sợ bị dính líu đến cụ Khôi như thế?! Tuy không nói ra nhưng ai cũng muốn chứng minh rằng mình không hề có quan hệ thân mật với cụ Khôi nữa. Họ tránh nhà cụ như thể nhà có dịch hạch lây lang. Với những điều nghe và thấy, tôi không biết sẽ đối xử với mấy anh chị con cụ như thế nào, không lẽ hai nhà liền nhau chung một cửa sổ, lại cùng là học sinh miền Nam; dạo nọ chơi đùa với nhau giờ lại tỏ ra chẳng hề quen biết sao mà đành đoạn! Nhưng, dường như nhà cụ hiểu được nỗi lo sợ của má tôi nên tế nhị lấy báo dán kín cửa sổ lại...

Lâu lâu tôi cũng có thấy cụ ngang qua; vẫn dáng người cao, gầy, nhưng yếu hơn trong bộ đồ Tây màu vàng nhạt. Tóc cụ rụng nhiều, còn lơ thơ vài cộng, bạc trắng, ẩn sau chiếc mũ phớt màu nâu. Trên tay cụ giờ có thêm chiếc ba-toong; nhưng bây giờ, gặp ai cụ cũng làm ngơ, mắt hướng thẳng phía trước như chưa hề biết họ! Như trước đây, tôi vẫn ngồi giặt bên bể nước, cạnh cửa sổ nhà cụ. Tôi liếc nhìn cụ qua cửa sổ. Cụ ngồi trên chiếc giường đơn, trầm ngâm, mặt buồn buồn, mắt nhìn đâu đâu vào khoảng không gian. Tôi thầm thương cụ quá chừng mà không dám thổ lộ. Càng thương hơn khi nghe cụ ngâm bằng giọng Quảng Nam:

Làm sao cũng chẳng làm sao

Dẫu có thế nào cũng chẳng làm chi

Làm chi cũng chẳng làm chi

Dẫu có điều gì cũng chẳng làm sao

Rồi, cái gì đến nó đã đến! Vào một ngày cuối đông năm 1959, cụ Khôi lặng lẽ ra đi!

Má tôi kể: “Nhà tập thể, linh cữu không được quàn lâu, chỉ một hôm phải đưa đi an táng. Tôi không được chứng kiến những gì xảy ra trong đám tang sáng hôm ấy, vì đang học tận Hải Phòng. Nhưng điều tôi nghe được thật thảm, thật buồn, thương cho cụ ra đi trong sự tuyệt vọng: Chở linh cữu cụ là một chiếc xe thổ mộ có 2 con ngựa kéo che 2 bên mắt, khoảng 6 hoặc 7 người kể cả người đánh xe ngựa và ba tôi - người bạn thơ độc nhất trong hàng trăm bạn thơ khác. Giải thích nỗi lo lắng của vợ con, ba tôi nói: “Đó là vì đạo lý của người Việt Nam - Nghĩa tử là nghĩa tận”.

Suốt những năm tháng sau này, tôi luôn muốn biết về cuộc đời của cụ. Một hôm, vào năm 2004 tôi đọc trên Tạp chí Xưa & nay với bài viết về cụ Phan Khôi của tác giả Vương Trí Nhàn. Bài báo đã khẳng định cụ Phan Khôi có góp công trong kháng chiến và trong lịch sử phát triển văn học Việt Nam bằng những tác phẩm như Tình già .., ông còn nghiên cứu làm phong phú thêm cho ngôn ngữ dân tộc Việt Nam v.v…

Đọc bài báo, tôi thật sự mừng cho cụ Khôi biết nhường nào. Mừng vì người ta đã hiểu cụ.

 

L.B.T

 

Cùng một chủ đề:

http://leminhquoc.vn/lmq/hoi-hoa/tu-lieu-le-minh-quoc/1334-nang-duoc-thi-cu-nang-phan-khoi-tu-song-huong-toi-nhan-van.html

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LẠI VĂN LONG: Bố với ba

 

Bố với ba

Truyện ngắn Lại Văn Long

 

Lần đầu ra Bắc, lòng tôi rộn ràng cảm xúc. Miền Bắc buồn buồn bước ra từ những trang lãng mạn của Tự lực văn đoàn, từ lời ca mộng mị đẫm sương gió tiền chiến, từ khổ đau bần hàn, uất nghẹn của văn chương hiện thực phê phán. Miền Bắc chỉ tươi vui, sáng sủa hơn qua nghệ thuật nhờ khói lửa cuộc chiến tranh chống Mỹ. Rồi có cả miền Bắc thì thầm, dằn vặt trên Internet với quá khứ bị giấu diếm… Từ sân bay Gia Lâm, ông anh cọc chèo lái ô tô đưa gia đình tôi thẳng về quê nhãn Hưng Yên. Nhà bên vợ tôi cũ mới lẫn lộn. Căn nhà ba gian mái ngói rêu phong, cột kèo mòn mỏi từ mấy đời trước để lại giờ nhỏ bé, thấp lè tè sau lưng căn nhà lầu mới kiêu kỳ. Bà ngoại của hai con tôi vẫn chít khăn mỏ quạ, ngày ngày ngồi xỉa trầu trên bộ phản cũ kỹ đặt trên nền gạch Tàu ẩm mốc bên cạnh bàn thờ gia tiên và di ảnh của chồng. Bà từng vào Sài Gòn ở với vợ chồng tôi được non tháng thì nằng nặc đòi về vì nhớ quê. Hà vợ tôi học xong đại học công tác Hà Nội vài năm rồi chuyển vào Sài Gòn. Chị Cả hơn Hà một giáp bất đắc dĩ đóng vai “trai trưởng” ở lại nhà từ đường chăm sóc cho mẹ đã gần tám mươi.

 

long-caRRR

Minh họa của Đặng Hồng Quân

Chia sẻ liên kết này...

 
 

Thơ tứ tuyệt LÊ HƯNG VKD

 

Khải quang

(Chia sẻ với PĐ & SHH những tháng ngày nhiều vất vả ...)

Trần thế vô thường tư mạc vấn?

Linh khu mệnh sử lý nhân sinh

Hốt nhiên kiến hạc năng di phận

Khởi cảm phân kỳ khúc nhục vinh!

(Diễn ý: Cuộc sống luôn đổi mới, bạn thắc mắc làm gì? Bộ máy người biểu tượng lịch sử sự sống; bất chợt thấy đàn chim hạc luôn dời đổi nơi an trú… mới thức tỉnh dòng đời là có thua thiệt và vẻ vang đan xen…)

khai-quangRRR

Tự thông

(Chia sẻ với PĐ & SHH những chuỗi ngày buồn của bạn bè...)

Vô kế dược y nham chứng phận,

Nhiếp Sinh duy hữu khả tường tri!

Linh Khu ứng xử Âm Dương huấn …

Giải thoát vô thường … tự ngã khi !

(Diễn ý: Không có thuốc men nào chữa được người bệnh ung thư; biết sống đích thực mới thấu tỏ ngọn nguồn… Bộ máy người huyền diệu là vận hành đúng chỉ dẫn của luật Cho (dương) và Nhận (âm); cố ra khỏi mọi biến đổi … chỉ là lừa dối lòng mình!)

Tu-thongRR

LÊ HƯNG VKD

Chia sẻ liên kết này...

 
 

Thơ ĐẶNG QUỐC HOÀNG

 

Đặng Quốc Hoàng sinh năm 1982, hiện đang giảng dạy Trường THCS Thạnh Yên, huyện U Minh Thượng (Kiên Giang). Quê hương huyện U Minh Thượng là huyện vùng sâu, có rừng Quốc gia U Minh Thượng, đặc sản có khô cá sặc rằn, mắm cá lưỡi trâu, khô cá lóc, mật ong rừng… những món ăn dân dã đậm hồn quê: đoạt choại, bồn bồn, bông điên điển. Xin trích bài thơ “Miệt Thứ” của anh thay lời giới thiệu:

Phà Tắc Cậu đưa anh về Miệt Thứ
Thăm lại quê xưa mảnh đất anh hùng
Nơi hoài niệm một thời trai trẻ
Miền tuổi thơ đặc quánh hương tràm

Tuổi thơ trôi: cánh đồng hun hút gió
Nghe ngai ngái mùi bùn rơm khói rạ
Chiều nước lớn bầy trẻ vui rộn rã
Nhịp cầu quê bì bõm dưới dòng kênh

Về Miệt Thứ đêm nằm nghe cá quẫy
Mật ong rừng ngọt lịm vị đầu môi
Câu hát xa nhớ về nguồn cội
Thấm máu xương bao đồng đội… chưa về!

Mai anh về phố thị thênh thang
Có ủ chút hương tràm Miệt Thứ
Chút mắm rừng mặn tình quê xứ
Dưa bồn bồn, đọt choại… Những hồn quê…

imagesu-minhthuong_9

(Ảnh: Internet)

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÂM BÍCH THỦY: Bóng giai nhân của nhà thơ Yến Lan trên đất Bỉ

Lạ lắm nhé, cứ mỗi lần tôi chú ý đến chuyện gì có dính dáng đến ba tôi - nhà thơ Yến Lan thì việc đó trở nên thuận lợi hẳn. Vở kịch thơ Bóng giai nhân của ba tôi có hai nhân vật tráng sĩ, một do nhà thơ Nguyễn Bính, một do nhà văn Vũ Trọng Can đóng. Và tất nhiên không thể thiếu “bóng giai nhân” do cô gái lai thủ vai trong đêm ra mắt đầu tiên tại Huế, được vua Bảo Đại và Nam Phương hoàng hậu đến dự - là một ví dụ.

 

nha-tho-yen-lan-2rrrR

Nhà thơ YẾN LAN

Chia sẻ liên kết này...

 
 

TRẦN HOÀNG NHÂN: Cõi này là âm hay dương?


tranhoangnhanLAP


TRẦN HOÀNG NHÂN QUA HÍ HỌA CỦA LAP


(Nhân Tết Âm đã về!)

Càng sống ở đô thị càng thấy người đông
Phố ngày thêm chật
(Lêu bêu mọi miền
Bắc Trung Nam và cả Phi Châu
Tây Âu cùng một giòng vì đói)
Bụi và người càng nhiều
Đôi khi người nhiều hơn bụi

Đất không nở ra thêm
Đô thị mới triền miên
Đô thị như cơn điên gọi tên thành phố - thành phố
Người đóng thuế say mềm, làm tình, sinh sản

Đất không nhiều như tinh trùng, trứng rụng
Đất mẹ chết từng giờ đau đớn
Vì bầy con giẫm đạp chen giành
Đất chia nhau từng ô nhưng phân lô gồm hai phần Sống - Chết
Ồ, Nghĩa và Địa phân tranh
Ồ, những thay ma vẫn cần
Dù thở bằng môi hay bằng tim
Thở hơi bướm hay hơi chim...
Đều bay...

Linh hồn chật quả địa cầu
Bấu víu vào chút gì còn xót lại
Nếu linh hồn vui
hẳn nhiên tiệc tùng còn mãi
Nếu linh hồn say
đêm chẳng còn ai khiếu nại
và không còn gì ái ngại
Chết Đi...

Gần Tết gần về quê
Âm lịch
Cồn cào nhớ khoảng thênh thang
nơi ít bệnh viện
ít khách sạn
ít bao cao su
Người ta gần nhau vì yêu
Yêu xong có bầu không toan tính
sinh con đẻ cháu như cỏ mọc
nhưng cũng chết nhiều như rơm khô
vì it nhà hộ sinh, ít đóng thuế, ít hà hiếp...
chết như cây cỏ lại vui vầy!

Đau đớn thay giữa muôn trùng phương tiện
Người nhìn người chết thảm chẳng hề gì
Cõi này là âm hay dương!?

T.H.N

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÂM BÍCH THỦY: " Mùa xuân này lạnh lắm em ơi!"

 

Nhà thơ Xuân Diêu cho rằng “Là thi sĩ nghĩa là ru với gió/  Mơ theo trăng và vơ vẫn cùng mây..”.  Ba tôi - thi sĩ Yến LaN, có lẽ cũng vậy chăng? Có phóng viên hỏi ông: “Người ta thường nói thi sĩ rất đa tình, vậy với ông?” ;. Ba tôi trả lời: “Tôi chưa bao giờ mở lời nói với bất kỳ người phụ nữ nào là “Em đẹp lắm, anh yêu em vô cùng”. Tôi chỉ tỏ bằng ánh mắt và những vần thơ nhớ nhung. Vì thế tôi đã đánh mất rất nhiều tình yêu, chỉ vì nhìn thôi nên qua luôn”. Thường tình lúc nhỏ, ba tôi hay kể chuyện cổ tích, ngụ ngôn để ru ngủ chúng tôi. Khi chúng tôi ở vào lứa tuổi dậy thì, thì má tôi hay kề về các nàng thơ của ba. Các nàng thơ ấy lần lượt, từng người một, lãng mạn, thanh tao duyên dáng lướt qua rồi hiện ra từ những vần thơ tình của ba tôi. Nay tôi xin kể lại:

 

THI-SITEN-LAN-NGUYEN-THANH-MUNG

Nhà thơ Yến Lan, Nguyễn Thanh Mừng đi xe ngựa

Chia sẻ liên kết này...

 
 

Lâm Bích Thủy: YẾN LAN - Trăng tình lên ngơ ngác


Thời gian ba tôi - nhà thơ Yến Lan, lúc đó ký bút danh Xuân Khai, về dạy học ở Tam Quan (Bình Định) có một chuyện tình mà ít người biết đến. Câu chuyện tình này giàu tính nhân văn, lãng mạn, song cũng rất bi, hài. Lúc đó, thầy Nhân - Hiệu trưởng Trường Tiểu học ở Tam Quan có giới thiệu cho ba tôi cô gái tên là Điệp. Sở dĩ như thế, vì thầy muốn qua đó ba tôi sẽ ở lại đây dạy học lâu dài, chứ không đi nơi khác. Vừa nhìn thấy cô gái, thầy Xuân Khai như bị hút vào nét đẹp kỳ diệu của cô. Cô đẹp mê hồn, khuôn mặt  trái xoan đầy đặn, má ửng hồng, đôi môi mọng gợi cảm, hai má lõm đồng tiền làm nụ cười càng thêm quyến rũ!

 

imagesyenlan

Thi sĩ Yến Lan

Chia sẻ liên kết này...

 
 

ĐOÀN XUÂN HẢI: Tình yêu không có tội


Tình yêu, đó là chủ đề muôn thuở của nghệ thuật. Tình yêu cũng đồng thời là chủ đề được truyền thông ở nhiều góc cạnh trong năm qua, nhưng không hẳn dưới lăng kính nghệ thuật mà còn ở khía cạnh khác.

 

tinheyurrrrr

Minh họa: DAD

Chia sẻ liên kết này...

 
 

Trang 74 trong tổng số 92

Việt Tuấn Trinh | www.viettuantrinh.com