THỂ LOẠI KHÁC Biên Khảo Lê Minh Quốc - DU LỊCH CỦA NGƯỜI CÂM - Số 8

Lê Minh Quốc - DU LỊCH CỦA NGƯỜI CÂM - Số 8

Mục lục
Lê Minh Quốc - DU LỊCH CỦA NGƯỜI CÂM
Số 1
Số 2
Số 3
Số 4
Số 5
Số 6
Số 7
Số 8
Số 9
Số 10
Lời Bạt
Tất cả các trang

 

8.

Tại sao khi ngủ, người ta lại mơ? Có lúc mơ những giấc mơ hiền lành, nhưng cũng có lúc gặp những mộng mị ghềnh thác mệt nhọc. Đêm đã qua. Tôi ngủ một giấc ngon lành và không mơ gì cả. Theo kế hoạch đã định trước, xe sẽ đưa chúng tôi đến nông trường nuôi bò sữa của Campina. Tôi chợt nhớ bà Đại sứ lúc trò chuyện có cho biết: “Tại Hà Lan, sản lượng nông nghiệp, thủy sản chỉ chiếm 3% GDP nhưng ấn tượng với những sản phẩm chế biến từ sữa, các giống bò sữa tốt - một con bò sữa có thể cung cấp đến 7.000 lít sữa/ năm; xuất khẩu hoa đạt 3 tỷ Euro/năm”. Với một nhà báo, đây là thông tin khá hấp dẫn và càng thôi thúc sự hào hứng của tôi.

Những con đường lướt qua nhanh. Cô Charlotte Zelders hướng dẫn chúng tôi đến nông trường nuôi bò sữa của Campina. Đến nơi, hoàn toàn trái ngược với những gì tôi đã tưởng tượng trước đó. Cứ tưởng sẽ gặp công nhân ra vào tấp nập. Nhưng không, chỉ một hai người bước ra đón tiếp niềm nở. Là một người “câm” nên tôi không thể tìm hiểu được gì nhiều.  Sau đây là những ghi chép của Thịnh:

“Sáng hôm sau, cả đoàn đáp xe buýt đến nông trại của anh nông dân Ingenbleek - vừa là người cung cấp sữa, vừa là cổ đông của Công ty Campina. 31 tuổi, một mình anh cai quản trang trại rộng gần 50 héc - ta cùng đàn bò khoảng 70 con.

“Không có thầy thợ gì hết sao?” - Nhà thơ Lê Minh Quốc trố mắt.

“Không, chỉ một mình anh ta vừa làm chủ vừa làm thợ, chăn hết đàn bò, tự vắt sữa, dọn dẹp vệ sinh...” - Sjaak Frederic - nhân viên giám sát chất lượng sữa thu mua của Campina cho biết. “Cả nông trại này trước đây chỉ một mình cha anh ta cai quản. Bây giờ người cha đã lớn tuổi, muốn nghỉ ngơi nên giao lại cho con trai”.

Nói rồi Sjaak dẫn chúng tôi vào xem Ingenbleek vắt sữa bò. Bao nhiêu cảnh tượng bọn tôi hình dung ra - Trời, một mình anh ta thò tay vắt sữa bảy chục con bò chắc... chết! - đều biến mất. Một công nghệ vắt sữa hiện đại hiện ra, có đồng hồ đo số sữa từng con cho được trong một ngày.

“Trung bình mỗi ngày, một con bò cho khoảng 30 lít sữa” - Sjaak hùng hồn. Một con số không ai hình dung được. Nhưng nhìn “lưu lượng” sữa chảy mạnh như nước rô-mi-nê, lập tức có thể hiểu. Đồng hồ nhảy số liên tục, có con đạt trên 17 lít sữa trong khi mỗi ngày một con được vắt sữa 2 lần.

Sjaak chỉ vào cuốn sổ nhật ký giải thích: “Đây là tổng số sữa của trang trại trong 3 ngày qua - 6.314 lít. Cứ 3 ngày, chúng tôi cho xe bồn đến đây thu mua sữa một lần. Mẫu sữa sẽ được Công ty Campina đem đến một cơ quan độc lập kiểm định chất lượng, nếu đạt mới đưa vào chế biến”.

-Thế các anh thu mua bao nhiêu tiền một lít sữa?

-35 xu.

Tôi nhẩm tính: 35 xu x 70 con bò x 30 lít sữa x 300 ngày (trừ quãng 2 tháng trong một năm bò không cho sữa). Ôi trời, thu nhập của một mình anh nông dân này hơn 200.000 euro mỗi năm, tức cao hơn Tổng thống Mỹ. Nhưng làm sao anh ta chăn nổi hết đàn bò ?

Ingenbleek vừa cười vừa dẫn chúng tôi đến và mở cửa chuồng bò. “Mỗi sáng tôi chỉ cần mở cửa chuồng là lũ bò tuần tự đi ra đúng ô cỏ cho chúng ăn. Đến chiều, tôi chỉ cần hú một tiếng là chúng lại tuần tự về chuồng”.

Như để trả lời, đàn bò tuần tự đi lặng lẽ trên con đường mòn nho nhỏ giữa đồng cỏ mênh mông, theo hướng mở của hàng rào kẽm gai (thực ra chỉ có một sợi kẽm giăng ra để chia ranh giới từng ô cỏ) và từ từ đến đúng ô cỏ dành cho chúng trong ngày.

“Thế này thì không thể nói là ngu như bò được”, Kiều Linh - cô bạn làm cho Công ty Ogilvy thốt lên.

-Thế cứ làm nghề nông như vậy anh có chán không ?

-Không. Tôi đã từng đi làm cho người khác 7 năm và bây giờ tôi thích tự làm chủ hơn. Chẳng mặc cảm là nông dân gì cả - Ingenbleek đáp.

-Hằng năm các anh có họp cổ đông với Campina ?

-Có chứ, mỗi năm hai lần. Chúng tôi phải đến đó để...  bắt họ tăng giá thu mua.

-Anh có thể cho tôi e-mail nhờ về công ty một chút ? - Charlotte lên tiếng và Ingenbleek dẫn vô nhà...

Đúng là nông dân thế hệ @. Tôi bắt đầu chợt ngẫm trong lặng  lẽ”.

Thịnh ghi chép khéo lắm, gợi được những thông tin khá thú vị. Tuy nhiên khi quan sát, lắng nghe, dò hỏi thêm tôi được biết, để mỗi ngày cho 30 lít sữa, thậm chí đến 40 lít sữa thì nó phải uống đến... 130 lít nước! Dễ sợ chưa? Mà con bò sữa lại to như con trâu mộng, hỏi ra mới biết nó nặng từ 700 đến 800 ký lô! Bước vào trong nhà kho, tôi thấy hàng tấn cỏ khô đã được ép lại cẩn thận. Lúc tham quan tất cả chúng tôi đều phải mặc áo, quần, đội mũ làm bằng... giấy. Một loại giấy mỏng có pha ni - long! Trong lúc đi trên nông trường, tôi nghĩ lơ mơ, đành rằng, nuôi bò lấy sữa, tất nhiên phải bò giống cái, vậy giống đực thì sao? Chỉ mới nghĩ đến đó, tôi tủm tỉm cười vì cái sự lẩn thẩn tủn mủn của mình và hỏi Thịnh. Anh chàng đáp một cách nghiêm chỉnh:

-Tớ có hỏi, người ta nói bò đực không được “trọng dụng” lắm. Chỉ nuôi trong thời gian ngắn là “thịt” ngay!

A! Có phải do vậy mà miếng bít - tết ta ăn mềm mà không nhũn, đỏ tươi mà không gợi cảm giác “rớm máu” ấy là thịt bò đực? Đầu bếp nào đã nghĩ ra cách làm bít -tết? Tay đó xứng đáng được trao một huân chương lao động hạng nhất, bởi không chỉ đáp ứng được một nhu cầu ăn uống của đại đa số mà món ăn ấy không lỗi thời theo thời gian. Điều này khó khăn lắm chứ. Các tay đầu bếp giỏi cũng như những nhà thiết kế thời trang nếu có lương tâm, có trách nhiệm nghề nghiệp - nói như Huy Cận thì phải luôn “Nung nấu tâm can, vò võ trán” để nghĩ ra... món ăn mới, model mới. Nhưng “sản phẩm” ấy có vượt qua được thử thách khắc nghiệt của thời gian là điều không dễ đâu. Này nhé! Năm 1939, nhà văn Vũ Trọng Phụng, người đã để lại kiệt tác Số đỏ - một tác phẩm làm vinh dự cho mọi nền văn học, trước lúc chết thở dài đến não ruột với ước mơ: “Nếu mỗi ngày được ăn một miếng bít-tết thì hạnh phúc biết bao nhiêu”. Do lao động cật lực, miệt mài ngày đêm trên trang giấy như một người nông dân cày sâu cuốc bẫm trên cánh đồng một nắng hai sương, ông đã thổ huyết nhòe cả trang viết, vi trùng bệnh lao đã khoét ruỗng cả hai lá phổi, đánh gục ông lúc mới 27 xuân xanh. Năm 1954, tướng De Castrie sau những những ngày đối mặt thảm hại với quân đội Việt Minh ở Điện Biên Phủ, vừa được trở về thủ đô hoa lệ Paris, để dằn cơn thèm thuồng lâu ngày, mỗi lần nghĩ đến nước nước bọt ứa ra chân răng đến đê mê, lập tức món ăn khoái khẩu đầu tiên ông chọn trong “menu” vẫn là... bít - tết!

Trong khi chúng tôi đi ra đồng cỏ, đằng sau ông Sjaak Frederic đã phóng xe đạp theo như bày tỏ lòng hiếu khách.

Do không biết ngoại ngữ nên trong lúc Thịnh trò chuyện với ông, tôi ngồi bệt dưới đất. Ngút một tầm mắt chỉ thấy cỏ và cỏ. Cỏ không còn là cỏ nữa, nó như một thảm nhung xanh biên biếc mà thiên nhiên hào phóng đã trải dài đến tận chân trời. Đưa tay sờ ngọn cỏ, mới thấy cỏ dày, mượt. Trong cái không khí thanh tịnh, bình yên của đồng cỏ, bất chấp sương còn ẩm ướt tôi nằm dài xuống đất. Nhìn lên trời thấy mây trắng ngàn năm vô danh đang bay không phiền muộn, nghiêng người lại thấy đàn bò đang thản nhiên không thèm phải biết có những nhà báo từ phương xa đến và đang bình luận, quan sát chúng, chợt tâm hồn tôi lâng lâng, nhẹ nhỏm khác thường. Tôi nghĩ, lúc hôn nhau nằm lăn ra trên cỏ chắc chắn ta sẽ có cảm giác trong trẻo và thánh thiện hơn, bởi đang yêu, ta sẽ thấy ngọn cỏ kia còn bé bỏng hơn nữa. Và nếu được nằm trên cỏ ngủ một giấc thì cũng tuyệt vời không kém. Nhưng không thể. Làm sao có thể nhắm mắt khi một tứ thơ đột ngột đến? Trước đây tôi không ủng hộ quan niệm, là người sáng tác, anh phải đi thực tế. Để lấy cảm hứng từ thực tế. Để hơi thở của đời sống ùa vào trong từng trang viết. Nhưng chỉ “cỡi ngựa xem hoa” thì làm sao có thể cảm nhận được tâm tư, tình cảm của những con người một đời gắn bó nơi ấy? Mà trang văn không viết về số phận của họ thì viết cái gì? Chẳng lẽ miêu tả, kể lể những gì nhìn thấy lớt phớt bên ngoài trong chốc lát? Tôi nghĩ, đi là thu thập những điều mắt thấy tai nghe. Và quên. Đến một lúc nào đó những điều tưởng đã quên, bỗng một ngày kia, khi đang viết nếu gặp một bối cảnh, một không khí thích hợp thì tự nó thức dậy và bước vào trang viết. Nói cách khác, đi thực tế là thu nhặt hạt giống và gieo. Gieo ở đâu? Ở trong tâm hồn của anh chứ đâu nữa, rồi một ngày mưa thuận gió hòa tự nó sẽ nẩy mầm. Bây giờ, không hề chuẩn bị trước nhưng câu thơ đầu tiên vẫn bật ra trong óc và các câu sau cứ thế nối nhau. Có được như thế, những câu thơ này đã hình thành, dù không rõ nét, là từ quan sát và cảm nhận trong những ngày đi thực tế ở Campina, thậm chí của cả những năm tháng xa lắc xa lơ trong dĩ vãng:

Còn gì bình yên hơn nhìn con bò trên đồng cỏ

Tâm hồn tôi bát ngát tận chân trời

Con bò nhởn nhơ nhai bóng chiều cỏ mượt

Đôi mắt tròn khờ khạo gọi tên tôi

Chợt nhớ về tuổi nhỏ xa xôi

Mẹ mắng tôi như con bò đần độn

Lúc ấy chỉ mơ được đi chăn bò

Mơ chân trời thênh thang không người lớn

Tôi gọi bò từ trong nắng sớm

Khản giọng hoàng hôn khói ấm quê nhà

Mẹ nấu bếp sương chiều bay tím nhạt

Bò ngoài chuồng rơm rạ bóng chiều xa

Và bây giờ trên đồng cỏ bao la

Đất nước của ngàn hoa tulip

Tôi hồn nhiên cất tiếng gọi bò

Nắng rực vàng từ sắc màu Van Gogh

Bỗng như chạm vào cơn gió lốc

Nghe tiếng bò kêu dân dã quê mùa

Xứ sở lạ, cớ sao thân mật thế?

Bò gọi tôi những tiếng gọi ngày xưa

Tôi trả lời bằng giọng của nắng mưa

Ca ngợi con bò hiền lành như thi sĩ

Bông hoa thơ dại run rẩy chân đồi

Mỉm cười khen tôi sao giống bò thế nhỉ?

Khổ thơ cuối hay đấy chứ! Tôi cười thầm một mình và đặt cho nó cái tựa ngộ nghĩnh “Tôi và bò”. Đang lơ mơ với thơ, Linh gọi tôi dậy để ra xe sang Bỉ, cụ thể là Aalter, bởi nơi đó có nhà máy và tổng kho của Campina mà chúng tôi phải đến tham quan và tìm hiểu.

Mở ra trước mắt tôi là một khu đất rộng mênh mông. Người tiếp chúng tôi là ông Johan Decatell - Giám đốc phụ trách và phát triển. Trước khi tham quan khu nhà máy, chúng tôi được trang bị bằng nhiều loại quần áo khác nhau. Ngay ngoài sân rộng, tôi đã thấy nhiều thùng inox cao ngất, mỗi thùng có sức chứa đến 250.000 lít sữa. Dù là một giọt sữa, chỉ một giọt chứa trong đó nhưng trước khi thành phẩm nó phải trải qua ba giai đoạn: khử trùng; phân loại theo từng tiêu chuẩn đã định trước; diệt trùng với nhiệt độ 140 độ C.

Vào trong khu nhà máy, chúng tôi được hướng dẫn qua nhiều phòng khác nhau. Điều ngạc nhiên đầu tiên là sự vận hành của nhiều hệ thống dây chuyền sản xuất trong khu nhà máy này, chỉ loe ngoe vài công nhân! Họ làng nhàng, không tỏ ra bận rộn gì cả; hoặc chỉ ngồi đăm chiêu trước màn hình vi tính. Thế thôi. Trong quy trình sản xuất, mỗi cái hộp giấy, cái chai nhựa kia tự nó vận hành theo những đường, những rãnh nhất định, không chệch ra ngoài, cứ thế mà đi hết một chặng đường dài. Nếu nó là người lính thì người lính ấy rất có kỷ luật. Không thoái lui. Không đào ngũ. Mà dẫu có muốn cũng không thể. Guồng máy đã chạy và cuốn tất cả theo một quy trình nhất định. C’est la vie. Đời là thế. Bi kịch của con người lắm khi là anh rơi vào một guồng máy, dù ý thức nhưng không thể cưỡng lại được. Đến khi thoát ra được, muốn làm lại từ đầu thì than ôi tóc đã bạc, máu đã khô và mắt đã mờ không còn đủ hăm hở bước đi những bước mới. Vừa lan man nghĩ, vừa đi trong tiếng máy rì rầm, nhịp nhàng ấy tôi có cảm tưởng như mình đang nghe một hòa tấu hay nhất, thiết thực nhất của mọi thời đại. Tôi như mê đi khi bước qua nhiều gian nhà máy khác nhau, bỗng nghe Thịnh gọi:

-Nhìn kìa! Người máy!

À! Ngộ nghĩnh chưa? Những người máy đang xếp từng kết sữa chồng lên nhau một cách vuông vức, đặt vào trong thùng rồi đưa ra xe để chuyển vào kho. Nếu chỉ xếp theo chiều cao thôi thì cũng bình thường, nhưng nó vừa xếp ngang lại vừa xếp dọc như có tính toán trước nên nhìn thích mắt lắm. Quan sát người máy lao động miệt mài như thế, ai dám bảo nó là vật vô tri vô giác? Nhìn mọi thao tác chuẩn mực của nó, không một sai sót dù nhỏ - dù vẫn biết nó thực hiện theo một lập trình đã tính toán vạch sẵn, nhưng tôi cũng có cảm tình với nó! Chỉ tiếc nó không biết nghe nên nó không thể nhận được lời thán phục. Nhưng niềm cảm phục của tôi đã lên đến tột cùng khi được bước vào trong kho chứa sản phẩm. Đây là một trong những nhà kho lớn nhất và hiện đại nhất ở châu Âu - một tòa nhà rộng mênh mông và cao ngất, tôi cảm tưởng như mình đang ngóng cổ nhìn một cao ốc nhiều tầng. Tôi thật sự choáng ngợp trước các thành phẩm được sắp xếp ở đây. Tất cả đều do máy móc thực hiện nhịp nhàng. Nếu không có máy móc, sức người không thể vận chuyển nhanh chóng và khoa học đến thế. Toàn bộ nhà kho này được “bảo trì” bằng một nhiệt độ thích hợp. Khi đứng lưng chừng trong không gian của tòa nhà này, do hệ thống thang máy đưa lên cao, tôi nói đùa với Thịnh trong không khí lạnh buốt:

-Cho dù mình có đột nhập vào trong kho này, muốn khoắng vài thùng sữa thì cũng không sao leo lên trên chót vót kia để lấy được.

Thịnh cười:

-Thật vậy, không thể.

Sự thán phục này hẳn giống như ngày xưa cụ Phan Thanh Giản qua bên Tây xin chuộc lại ba tỉnh miền Đông? Tận mắt nhìn thấy khoa học của người Pháp giỏi quá, trở về cụ có viết hai câu câu thơ. Chỉ hai câu thôi, không chỉ vua Tự Đức giật mình mà những nhà nho thời ấy cũng phải khiếp sợ:

Bá ban kỹ xảo tề thiên địa,

Duy hữu tử sanh tạo hóa quyền.

Ghê gớm chưa? Cụ bảo ở Tây, họ chưa can thiệp được vào quyền sanh tử của tạo hóa thôi, chứ một trăm kỹ xảo, kỹ nghệ công nghiệp của họ đều có thể sánh bằng trời đất! Tất nhiên nhiều người không tin. Làm gì có chuyện ấy. Nay, tôi không nghĩ như thế, nhưng rõ ràng họ đã làm được nhiều điều mà ta chưa làm được.

Ngẫm nghĩ cũng thú vị, nếu ngày xưa máy móc cũng can thiệp việc chế biến sữa bằng một quy trình hoàn thiện như thế này, làm sao cụ La Fontaine có cảm hứng viết câu chuyện ngụ ngôn về cô Perrette? Ngày nay, cô Perrette kia không cần phải “tênh hênh giày mỏng, nhẹ nhàng váy đơn” đội sữa ra chợ bán nữa, bởi đã có người đến tận nông trại thu mua, chứa trong bồn to đùng để chuyển về nhà máy! Mà không đội sữa ra chợ bán, cô đâu có dịp thong dong trên đường quê từ nhà ra đến chợ, vừa đi vừa ngắm cảnh vừa nghĩ ngợi linh tinh? Chính lúc ấy, lúc đang trên đường xa đi một mình cô mới tính toán rằng, bán xong sữa, lấy tiền đó mua gà. Chỉ một thời gian sau, gà sinh đẻ đuề huề, ta bán gà mua lợn. Rồi lợn cũng lớn như thổi, ta bán lợn mua bò về nuôi. Chẳng mấy chốc giàu sụ. Chỉ mới nghĩ đến đó cô nàng hứng chí nhảy cỡn lên reo mừng cũng là lúc “hũ sữa lăn chiêng, đổ nhào”. Nếu cô phòng không bóng chiếc, cùng lắm chỉ bị mẹ la rày vài câu, chứ đã có chồng thì không khéo bị anh chồng mắng hậu đậu và nện một trận đòn cũng nên. Thương ơi là thương cho cô Perrette.

Thương ở chỗ, ước mơ của cô là ước mơ lương thiện của một người lương thiện. Thời đại nào cũng có những con người ấy, nhưng rồi cả một cuộc đời họ có đạt đến được cái ước mơ ấy đâu. Đó không phải là bi kịch. Bi kịch lớn nhất của đời người là ở chỗ, một khi đã thức tỉnh, muốn làm lại cuộc đời lương thiện với ước mơ lương thiện nhưng cũng không thể được! Tôi bỗng nhớ đến nhớ ước mơ cuối cùng của Chí Phèo. Vào một ngày đẹp trời hắn đến nhà Bá Kiến và dõng dạc: “Tao muốn làm người lương thiện... Nhưng ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không ! Chỉ có một cách…biết không ! Chỉ còn một cách là…cái này ! Biết không!”. Trong tuyệt vọng đau đớn đến tột cùng, “Hắn rút dao ra, xông vào. Bá Kiến ngồi nhỏm dậy. Chí Phèo đã văng dao tới rồi. Bá Kiến chỉ kịp kêu một tiếng. Chí Phèo vừa chém túi bụi vừa kêu làng thật to. Hắn kêu làng, không bao giờ người ta vội đến. Bởi thế khi người ta đến thì hắn cũng đang giẫy đành đạch ở giữa bao nhiêu là máu tươi. Mắt hắn trợn ngược. Mồm hắn ngáp ngáp, muốn nói, nhưng không ra tiếng. Ở cổ hắn, thỉnh thoảng máu vẫn còn ứa ra”. Cái chết của Chí Phèo đã mở ra sự bất tử trong đời văn của nhà văn Nam Cao và đó cũng là một trong những truyện ngắn hay nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại. Tôi bùi ngùi như vừa chạm đến một nỗi buồn bàng bạc bủa vây một kiếp nhân sinh.

Rời khỏi nông trường, chúng tôi đến thành phố Aalter.

Đặt chân nơi lần đầu tiên được đến trong đời, lòng tôi buồn rười rượi bởi thấy treo trước hiên những ngôi nhà cổ kính là những chậu hoa tươi xinh xắn. Nó đang hiện ra trước mắt. Đâu phải đi lạc vào công viên mà hoa nhiều đến thế? Dọc theo đường phố là cả một rừng hoa thắm như máu. Máu còn tươi. Nhành lá lại xanh. Xanh đến nõn nà. Sắc màu như thế khiến tôi nôn nao như vừa bắt gặp một hình ảnh xa xăm, đã lùi xa trong ký ức tuổi thơ bỗng quay về dù không hẹn hò trước. Ấy là sắc hoa trong nhà ông ngoại tôi, bất kể thời tiết nào cũng rực rỡ ở một khoảng sân nhỏ. Ngày ấy bình yên lạ lùng, là “ngày xửa, ngày xưa...” của tôi trên đường đời xuôi ngược quá nhiều bất trắc mà mỗi lúc nhớ lại, vẫn thấy buồn rưng rưng và thấy cay cay ở sống mũi. Tôi đứng tần ngần. Mọi người đã vào nhận phòng trong khách sạn Sofitel. Mặc kệ. Tôi cứ đứng ngẩn ngơ ngắm những chậu hoa kia và thả dòng cảm xúc trôi theo gió lan man, không định hướng. Tôi bước đi và cố ý nện gót giày trên đường phố xa lạ, nhưng nó không gợi lên một âm thanh ám ảnh mơ hồ nào cả. Bởi con phố này, ngôi nhà kia, dòng người nọ không gắn với tôi bằng một tình cảm nào của quá khứ. Ý thức như thế, tôi chợt thấy cảm thương đời sống của những người sống xa xứ. Trong tất bật hằng ngày cơm áo, có hình ảnh nào, kỷ niệm nào trên đường phố xa lạ an ủi tâm hồn của họ? Với tôi, khi đã quá mệt mỏi, tôi thèm trở về tắm gội trong không khí của quê nhà, nơi chôn rau cắt rốn như tiếp thêm sinh lực, thêm sức sống bởi con đường này, góc phố này đều gắn bó với tôi từ thuở mới lọt lòng. Chỉ ở đó, có lúc một mình thả bàn chân trên phố cũ quê nhà đêm khuya khoắt, từ mỗi bước đi, tôi mới nghe trong gió có ai gọi tên mình rất đỗi thân mật vừa xa xăm lại vừa gần gũi. Như hỏi han. Như vỗ về. Một cảm giác phiêu linh.

Không thể để mọi người phải đợi mình, tôi quay trở lại khách sạn. Cái tên Sofitel không xa lạ với du khách Việt Nam. Trong hệ thống khách sạn ở Việt Nam tính đến năm 2005, theo thống kê của Tổng cục Du lịch chỉ mới có 18 khách sạn đạt tiêu chuẩn 5 sao, trong đó Sofitel đã chiếm đến 3. Đó là các Sofitel Plaza ở Hà Nội (1 Thanh Niên, quận Ba Đình), Thành phố Hồ Chí Minh (17 Lê Duẩn, quận 1) và Đà Lạt (7 Trần Phú). Chỉ kịp thoáng nhìn căn phòng rộng mênh mông và đầy đủ tiện nghi, tôi vội lao nhanh ra thang máy để xuống dưới đất, bởi cái sự háo hức muốn nhìn ngắm một thành phố lạ đã giục tôi nhanh lên hơn nữa.

Vị trí của khách sạn này có hai mặt tiền, đối diện với ngay cửa vào, phía bên kia đường là một ngôi nhà thờ cổ. Con đường này nhỏ, hẹp chỉ vài bước chân là từ bên này đã qua bên kia. Một sự tương phản rõ nét giữa hiện đại và cổ kính. Ngôi nhà thờ cũ kỹ và bám bụi thời gian gợi lên những gì thuộc về quá khứ cần phải gìn giữ. Khách sạn lại sơn một màu sáng trẻ trung như một đứa trẻ đứng đối diện với dĩ vãng xa xăm. Thấp thoáng trong nắng chiều là những hồi chuông nhà thờ vọng lên trong thinh không. Âm thanh ấy gợi lên một cảm giác hoài cổ và rầu rầu. Nếu không có những má đỏ, môi hồng, tóc vàng, váy xanh, son nhạt của những thiếu nữ đang ríu rít trên đường tôi nghĩ mình đã lạc vào một thành phố chưa thức dậy. Loáng thoáng chỉ có vào chiếc xe đạp. Dòng người lướt qua nhẹ nhàng, không tất bật, không ồn ào. Tôi cúi xuống nhìn những phiến đá lót đường. Giữa kẽ hở của từng phiến đá xanh được xếp ngay ngắn, dài tăm tắp tôi đã thấy những ngọn cỏ xanh rờn rợn nhú lên, bất chấp dòng đời xuôi ngược từng ngày, từng mùa. Tôi ân cần vuốt ve và hỏi nó hỏi tại sao người ta có thể nghĩ ra một cách lót đường lãng mạn đến thế? Không trả lời tôi, bởi cỏ có nhiệm duy nhất là xanh. Xanh và xanh giữa lòng đường của một thành phố hiện đại thế kỷ XXI thế mới là xanh.

Với sự thành khẩn của một người đang nhẹ nhàng dọn lòng để hướng về tiếng chuông đang vọng trên thinh không, tôi nhìn lên bức tường xám của ngôi nhà thờ cổ và bàng hoàng khi nhìn thấy ở đó có tạc bức tượng nhiều vị thánh. Mỗi gương mặt đều hằn nếp khổ đau, nhọc nhằn và đang nhìn xuống cõi trần. Hình ảnh ấy sống động lạ thường. Những vị thánh ấy đã phải đứng nhẫn nại trên tường nhà thờ này từ lúc nào? Không biết. Là người “câm” tôi không thể hỏi ai được. Trên nóc nhà thờ cao vòi vọi lại thấy những cánh chim bồ câu bay đến. Mây trắng đang lãng du trên đầu. Một cảm giác cô đơn khủng khiếp ùa đến trong tâm hồn tôi. Chao ôi! Những pho tượng khắc khổ lại ám ảnh không nguôi, cứ đọng lại trong hai con mắt. Không cần phải để ý đến người qua kẻ lại trên phố, tôi đứng nép vào góc tường nhà thờ, ngay dưới chân của một vị thánh và ghi những câu thơ chợt đến vào trong sổ tay:

Những pho tượng đứng trên tường

Gương mặt cúi xuống gió sương chập chờn

Thời gian dằng dặc cô đơn

Bồ câu ngơ ngác gió mơn nắng chiều

Ngàn năm  nét mặt đăm chiêu

Chìm trong thớ đá dập dìu nỗi đau

Chợt nghe gái đẹp xôn xao

Phố phường mắt biếc cúi chào mùa xanh

Son thơm ríu rít hiền lành

Nhịp chuông gióng dả dỗ dành chiều đi

Bỗng tôi hóa gã tình si

Đam mê tượng đá vô vi trên tường



Add comment


Việt Tuấn Trinh | www.viettuantrinh.com