Mục lục |
---|
Lê Minh Quốc - DU LỊCH CỦA NGƯỜI CÂM |
Số 1 |
Số 2 |
Số 3 |
Số 4 |
Số 5 |
Số 6 |
Số 7 |
Số 8 |
Số 9 |
Số 10 |
Lời Bạt |
Tất cả các trang |
4.
Ăn trưa ở “restaurant De Hoop Op D’ Swart Walvis” xong, chúng tôi được cô Charlotte Zelders hướng dẫn đi tham quan quần thể du lịch Zaanse Schans.
Lúc ngồi ăn, chỗ ngồi sát bên dòng sông Zaan. Nước lững lờ và những chú vịt le te trôi theo dòng. Những nếp nhà cổ kính dọc theo sông mà phía trước mọc đầy hoa tím. Chúng tôi chọn chỗ ngồi dưới những bóng cây hoa hồng rợp mát và những tia nắng len lỏi xuống tận chân. Món ăn độc đáo nhất ở đây vẫn là món cá trích được xuyên qua cây để nướng. Nối liền của mỗi khúc cá là lát chanh tròn xắt mỏng, lá (không rõ lá gì, nhai thấy khô, đắng) và lát cà chua cũng mỏng. Cứ thế người ta làm hết cả một xiên cá nướng. Cùng với nó trên đĩa còn có đậu Hà Lan và mì sợi. Ăn thấy ngon và lạ miệng. Mà lạ, dù món gì khi sờ vào đĩa trắng muốt, tôi cũng thấy nó nóng để gợi lên cảm giác “an toàn thực phẩm”.
Chợt tôi nghiệm ra rất đỗi hàm hồ rằng, cách phân biệt thức ăn của các dân tộc trên thế giới, dù vẫn vật liệu nấu nướng ấy, vẫn “phụ tùng” chế biến ấy nhưng khoái khẩu hay không còn phù thuộc đến 99% là... nước chấm! Nó quan trọng đến thế ư? Sao lại không? Bởi đang ăn con cá trích, tôi lại nhớ đến con cá nục quê mùa. Nhớ bởi ở đây không có nước mắm Nam Ô hay Phú Quốc hoặc Phan Thiết... Này nhé! Cả rổ cá nục vừa đem từ biển lên, chỉ cần rửa qua loa qua nước ngọt, làm vài động tác nhanh gọn, xong, bỏ vào nồi nước đun cho sôi lên. Chưa hút tàn điếu rê Cẩm Lệ, chưa nhai giập miếng trầu, ta đã có món ăn ngon lành.
Đơn giản vậy sao?
Nhầm!
Bà nội trợ khéo léo không quên cho thêm vào trong nồi một ít muối trắng, tiêu, ớt bột lẫn ớt trái để nguyên trái. Ấy thế mà, chỉ cần lúc nước nóng trong nồi gờn gợn lên những bọt li ti thì lập tức ta đã điếc mũi, đã nuốt nước bọt bởi cái mùi cá thơm ngon đã lan tỏa theo khói nhẹ nhàng kia... Cá chín rồi. Ta thong thả trải cái bánh tráng mỏng xuống mặt đĩa, đặt lên đó vài cọng rau xanh, bất kể rau gì cũng được, nhưng dứt khoát không thể thiếu được rau muống! Rồi ta cuộn tròn bánh tráng lại, chấm vào nước mắm không pha chế cầu kỳ, nếu cần thì cho thêm một chút xíu nước cá luộc còn đang nóng hổi trên bếp. Chỉ thế thôi. Và cắn một miếng! Đã đời chưa?
Nhưng nếu cũng con cá ấy, cũng các loại rau ấy, nhưng ta chấm bằng loại nước chấm khác thì cái ngon kia đã giảm đi nhiều lắm. Nó sẽ giảm đến mức độ ta không ngờ tới, giống như cái cảm giác thất vọng khi ta thấy một cô gái mỹ miều đội khăn đóng, mặc áo dài thướt tha nhưng chân lại mang đôi giày Alidas!
Trong lúc thưởng thức món cá trích nướng tuyệt ngon, chúng tôi uống rượu vang và bia Heineken nổi tiếng. Rõ ràng, hương vị bia sản xuất ở nguyên quán đậm đà hơn, nó gợi lên cảm giác sâu lắng như sau khi được đọc một bài thơ Đường luật mà niêm luật của từng câu chặt chẽ, bằng trắc nhịp nhàng; nó gợi cho ta nhớ đến cảm giác của một người nhàn nhã trong lúc cao hứng leo lên ngọn núi cao vốc trên tay một ngụm mây trắng để tận hưởng cái thú vị bất ngờ thiên nhiên vừa ban tặng; và cái màu vàng sóng sánh kia, nó vàng rực để ta có cảm giác yên tâm như khi nhìn vạt nắng ngoài mái hiên đời đang nhẹ nhàng đến, để an ủi tâm hồn đang rét mướt cô đơn... Trong lúc ăn, cô Vũ Kiều Linh, người phiên dịch cho biết:
-Đây là một trong những khu du lịch cổ với những tòa nhà bằng gỗ màu xanh nằm dọc hai bờ sông Zaan, những khu vườn nhỏ yên tĩnh, những cây cầu nhỏ bắc qua dòng sông hiền hòa, những cửa hiệu thủ công mỹ nghệ, những cửa hàng bán quà lưu niệm và những cối xay gió là biểu tượng của Hà Lan. Khu làng nhỏ này cho ta thấy một cách đầy đủ về những ngôi làng bên bờ sông Zaan vào thế kỷ thứ XVII và XVIII.
Bàn chân của tôi bước đi thong thả trong khu vườn cổ này trong một trưa nắng dịu. Nắng còn tươi non. Làng được lập trên đất bồi của sông, vì thế đất đai của nó màu mỡ. Cỏ xanh mượt và được tỉa tót cần thận. Bước qua chiếc cầu nhỏ, tôi nhìn xuống, dưới dòng xanh vẫn có bèo lấm tấm li ti bỗng gợi nhớ quê nhà đến nao lòng.
Tại đây ngôi nhà cổ nhất có từ thế kỷ XVII còn tồn tại là nhà số 17. Mái nhà nhọn, lợp ngói xám, không có lan can. Đứng từ bên ngoài nhìn vào ta thấy phần trên được cấu trúc thành hình tam giác, sơn màu xanh đậm, có trổ ba cửa sổ; nối tiếp với phần dưới là hình chữ nhật, màu nâu đậm, có một cửa ra vào và hai cửa số lớn; các cửa sổ ở nhà này này đều lắp kiếng. Phía trước nhà có vườn hoa. Những bông hoa thắm tươi đang nũng nịu trong nắng. Đây cũng là cấu trúc chung cho các ngôi nhà trong khu làng cổ này. Điều nhìn thích mắt là tường xây nhà bằng loại gạch có kích cỡ như gạch đinh của ra. Xây xong, họ cứ để như thế chứ không phải láng thêm một lớp xi măng, rồi quét vôi hoặc sơn gì cả. Từng kẽ hở giữa các viên gạch tạo nên sự nhẹ nhàng và thoáng đạt biết bao nhiêu.
Tôi lại bước vào trong nhà, không, phải gọi “siêu thị” Albert Heijin thì đúng hơn, được ghi nhận là tiền thân của các siêu thị tại Hà Lan. Khách đẩy cửa vào thì có tiếng chuông reo lên như lời chào mời thân thiện của chủ nhà. Không chỉ tham quan mà nơi này còn có bày bán đủ mọi thứ cứ trông như một cửa hàng tạp hóa, này là trứng gà, trứng vịt, kia là cà phê, thịt nguội v.v... Nghe đâu, nơi này đang giữ bí quyết pha cà phê ngon nhất thế giới (?), vì thế tôi đã nhìn thấy trên tường có treo những hình ảnh xưa về cách pha chế của nhiều thế kỷ trước. Trước khi bước ra, tôi đứng viết đôi dòng về cảm nghĩ trong cuốn sổ lưu niệm đang để trang trọng trên một cái bàn cao.
Bước ra ngoài, tôi đã nhận ra nơi này có nhiều cửa hàng bán đồ lưu niệm. Nhưng thích nhất là được tham quan máy xay gió còn nguyên vẹn từ những thế kỷ trước. Thấy tận mắt cái cối xay gió bỗng sực nhớ đến anh chàng Don Quijote có sức sống thiên thu của văn hào Tây Ban Nha Cervantès bất tử. Giá trị của một tác phẩm văn học đích thực chính là chỗ đó. Phóng một tầm mắt nhìn về phía cỏ non xanh rợn, dòng sông xanh biếc, thấy những chiếc cối xay gió và những chú cừu non, bê non lững thững bình yên bỗng tôi dạt dào mấy câu thơ chợt hiện lên trong cảm hứng bất ngờ:
Cối xay gió đứng cuối trời
Dòng xanh trôi nắng vàng phơi sắc hồng
Nhìn hoa lẩn thẩn ven sông
Bỗng tôi gỗ đá động lòng từ tâm
Ấn tượng của thiên nhiên cũng đánh thức trong tâm hồn con người sự hướng thiện. Chúng tôi bước vào trong một nhà lưu niệm, phía bên ngoài có ghi rõ “Verfmolen De Kat anno 1782”, giá vào cửa là 2.5 Euro để tận mắt thấy sự vận hành của cối xay gió. Nhà kiên cố làm bằng gỗ. Mái nhà của nó khi đứng xa nhìn, chắc chắn ai cũng ngỡ lợp bằng đá xám đã ngả sang màu đen, nhưng đến gần mới thấy không phải thế. Nó được lợp bằng một loại lá, nói đúng hơn là bằng một loại nứa mọc ven sông, thân ống to như ngón tay út.
Tôi ngạc nhiên quá khi vào cửa, người ta đưa cho một tờ giấy giới thiệu có viết bằng tiếng Việt, tất nhiên một loại tiếng Việt diễn đạt câu cú còn nôm na, vụng về. Điều này chứng tỏ, người Việt ta đã đến tham quan nhiều nên người ta mới “tiếp thị” như thế này chăng? Điều này không lạ. Với bản chất của một nhà buôn chuyên nghiệp, từ thế kỷ XVI, bằng đường biển, họ đã giao thương với hầu hết các nước trên thế giới - chẳng hạn năm 1596 họ đã tới được Indonésia để phá bỏ thế độc quyền mà thủy thủ Tây Ban Nha đã nắm giữ hơn một thế kỷ - từ đó, họ hình thành một quan niệm khác về vấn đề sử dụng ngoại ngữ trong giao thiệp. Nếu người Anh, Pháp... có tham vọng muốn các dân tộc khác khi giao tế phải sử dụng ngôn ngữ của họ và ngôn ngữ của họ có sức lan tỏa, chinh phục các dân tộc khác thì người Hà Lan không thế. Họ cho rằng, khi trao đổi hàng hóa nếu sử dụng bằng ngôn ngữ của bạn hàng vẫn tốt hơn thứ tiếng của mình. Nếu lúc mới gặp nhau, bạn nói bằng tiếng Hà Lan? Dĩ nhiên họ bày tỏ sự khâm phục bạn nhưng sau đó chuyển sang... tiếng Anh! Họ không có nhu cầu tăng cường ảnh hưởng của tiếng Hà Lan trên thế giới. Thế có lạ không chứ? Theo tôi được biết hiện nay các trường phổ thông ngoài tiếng Hà Lan, học sinh còn phải học thêm tiếng Anh, Pháp và Đức. Biết thêm một ngoại ngữ là sống thêm một cuộc đời nữa. Nhưng than ôi! Tôi chỉ là người “câm” vì không rành một ngoại ngữ nào! Khổ thế! Mà câm cũng phải thôi. Tôi thuộc thế hệ phải gánh chịu sự vận hành của một nền giáo dục kỳ lạ trong thập kỷ trước. Ngày còn trẻ ở bậc trung học, dù tôi đã được học tiếng Pháp, nhưng vào đại học không được tiếp học thứ tiếng này nữa mà bắt buộc phải học tiếng Nga. Cuối cùng ngày ra trường, tiếng Pháp chỉ còn nhớ lõm bõm mà tiếng Nga thì cứ trượt ra ngoài trí nhớ! Nó trợt nhanh đến nỗi cứ như người tình phụ một khi đã bỏ ta đi thì nghiến răng “một đi không trở lại”! Sau gặp cô giảng viên dạy tiếng Nga cho tôi ngày trước, được biết cô đã chuyển sang dạy... tiếng Anh.
Đi trong nhà “Verfmolen De Kat anno 1782”, tôi thấy có khá nhiều hình ảnh miêu tả việc làm cối xay gió trong nhiều thế kỷ với nhiều mô hình khác nhau và thay vì nghe người ta thuyết minh bằng tiếng Anh, tôi tìm hiểu cối xay gió bằng tiếng Việt có hình ảnh minh họa vậy. Cách viết của họ như tôi đã nói là còn thô dụng, rối rắm, tối nghĩa trong cách diễn đạt nhưng tôi vẫn ghi nguyên văn lại để thấy tiếng Việt ta còn xa lạ ở Hà Lan lắm dù đã bước sang thế kỷ XXI. Dù vậy, nhưng qua đó ta cũng biết được một vài thông số cần thiết về cối xay gió Hà Lan. Họ viết như sau:
“Chào mừng quý khách đến quạt gió làm bằng màu sơn “De Kat”. Sự tham quan quạt gió hoàn toàn chịu trách nhiệm khi tai nạn xẩy ra. Ông bà giúp đỡ chúng tôi trong quạt gió này không hút thuốc, không bước qua những nơi đã chặn lại, hoặc kéo cờ- tông.
Con sông Zaan:
Bắt đầu câu chuyện ở bên ngoài. Một gốc (?) gần đây. Đó là con sông Zaan. Vào khoảng năm 1600 thì trở nên triệu phú do buôn bán và đánh cá. Người địa phương (Zaankaters) chế tạo quạt gió đầu tiên. Trước tiên sử dụng quạt gió để tát nước. Sau này thì phát triển thành khu công nghiệp. Họ xay lúa mì, giày, cây ép dầu, bố tất, thuốc lá, dây thừng và nhiều việc khác nữa trong tổng cộng 1.000 cái tại vùng này. Từ năm 1850 quạt gió được thay thế bằng máy hơi nước. Hiện giờ chỉ còn lại 13 cái quạt gió để làm di tích của làm việc và kỹ thuật thời đó.
Gió:
Gió là một loại động năng, rất khó được điều khiển, nhưng người ta dùng nó để sử dụng quạt gió (không có gió phải ngừng). Thật ra không có người trông coi quạt gió thì không được. Tại vì sức nặng của cánh quạt và bánh răng nặng tới 1.500 kg để hướng theo chiều gió. Ông ta điều khiển tốc độ của quạt gió với cánh bướm và những bảng như những hình ảnh in phía sau. Muốn ngừng những bánh răng ông ta dùng cục chêm, để chặn gió mạnh hơn thì ông ta sẽ dùng đồ nghề nhiều hơn. Khi không có gió thì làm vệ sinh, ăn nhậu, đánh bài và tán ngẫu.
Màu:
Màu, nói chính xác hơn phẩm màu, là sản phẩm của quạt gió này. Từ năm 1600 họ nhập khẩu màu cây từ những vùng nhiệt đới để nhuộm vải. Những khúc cây nặng lớn bỏ vào bồn cắt thành miếng nhỏ, sau đó nghiền nát bằng cối nặng (từ 5.000 đến 7.000 kg) để thành bột. Gần năm 1700 quạt gió đồng thời xay đất màu, phấn, bột để làm việc vẽ tranh vẽ. Họ đào đất ướt, sau đó để trong nhà cho khô. Sơn từ đó để họa sĩ dùng làm sơn dầu”.
Và cũng trong tờ giấy giới thiệu này cho biết nơi chúng tôi tham quan: “Có thể nói đây là cái quạt gió cuối cùng trên thế giới để chế tạo sơn”. Như thế, mục đích của cối xay gió, không chỉ có công dụng “Tạo đất lấn biển” như trong đáp án cuộc thi Hành trình Văn hoá được phát sóng ngày 21.10.2004 của VTV đâu nhé!
Tất nhiên chỉ những thông tin như thế chưa làm tôi hài lòng. Tôi ấm ức lắm, nhưng biết làm thế nào? Tôi chỉ là người “câm” không hơn không kém!
Từ chỗ này, chúng tôi băng qua con đường nhỏ để đến với xưởng làm giày gỗ. Tại đây, các người thợ biểu diễn luôn cả cách làm giày gỗ cho du khách xem chơi. Cầm khúc phôi gỗ, anh chàng nghệ nhân tung lên một vòng rồi ngả người ra sau chộp lại một cách điệu nghệ. Cứ như diễn viên xiếc. Khúc gỗ này được đưa vào máy tiện qua vài công đoạn khác nhau, chỉ loáng một cái, chừng 5 phút, một chiếc giày gỗ đã hoàn tất! Anh ta cười khì và nói một tràng tiếng Anh.
-Anh ta nói gì thế?
Nghe tôi hỏi, Thịnh đáp:
-Ngày xưa người ta phải mất 2 giờ rưỡi mới làm xong một đôi giày, còn bây giờ...
Điều làm tôi ngạc nhiên là ở công đoạn cuối cùng, trước khi sấy khô, anh ta đặt miệng chỗ chiếc giày đã được máy khoét lõm để xỏ chân vào, và hà hơi ưỡn ngực thổi mạnh. A! Thì ra đây là loại gỗ mềm, còn tươi lắm nên mới có... một dòng nước trào ra xối xả! Tưởng chừng như anh ta vừa ngậm nước trong miệng phun ra vậy. Chỉ mất 5 phút để hoàn tất, nhưng mỗi đôi giày gỗ làm ra, cỡ chân người lớn, được sơn phết, treo lủng lẳng đầy cả xưởng bày bán với giá từ 30 - 40 euro!
Từ xưởng này đi ra ngoài, nhìn những con bò béo tốt lững thà lững thững đi trên đồng xanh cỏ mênh mông như thi sĩ đi tìm nàng thơ, bỗng tôi tưởng tượng đến lúc các cô thôn nữ Hà Lan mang giày gỗ vắt sữa bò! Hình ảnh ấy chắc phải thi vị lắm đây! Nhưng tại sao phải là hình ảnh vắt sữa? Bởi đơn giản Công ty sữa quốc tế Campina mời tôi đi chuyến này nên sự liên tưởng ấy đến một cách ngẫu nhiên. Rồi tôi lại nghĩ đến thân phận của thi sĩ. Họ cũng giống như con bò sữa đấy thôi. Vừa ngu ngơ, vừa hiền lành, cứ như chân đi không chạm đất trên trần gian này. Còn con bò sữa? Nó hiền lành, nhẫn nại và lúc nhìn vào mắt nó thì tôi bỗng có một cảm giác bình yên và tin cậy. Nếu con bò đem lại cho con người một nguồn sữa quý báu thì nhà thơ lại đem cho đồng loại một nguồn cảm hứng từ trí tưởng tượng của mình. Lan man nghĩ như thế, tôi hý hoáy viết vội trong sổ tay bài thơ “Giày gỗ”:
Từng ngày trên cánh đồng hoa
Em đi vắt sữa bước qua mặt trời
Thi sĩ là con bò cười
Cỏ non xanh ngát hát lời yêu thương
Sữa thơm như những giọt sương
Sương hiền như gió qua vườn tình nhân
Trong veo giọt nắng trong ngần
Tan trong giọt sữa thanh tân đậm đà
Mắt xanh môi biếc tay ngà
Nhìn giày gỗ nhớ quê nhà của em
Cánh đồng cỏ rộng thang thênh
Tôi - con bò sữa - lãng quên đường về
Xếp lại cảm hứng để còn đi tham quan nữa chứ, chẳng lẽ mất mấy ngàn cây số đến đây chỉ để... làm thơ? Dạo quanh quần thể du lịch Zaanse Schans này, tôi thấy bất cứ cửa hàng nào cũng chỉ bày bán giày gỗ, hoa tulip và cối xay gió! Điều này khiến tôi nghĩ, việc khuếch trương khu du lịch này cũng không ngoài mục đích bán hàng lưu niệm. Các dịch vụ ăn uống cũng mọc lên với giá không rẻ chút nào. Muốn vào WC ư? 0,5 Euro! Muốn uống chai Evian giải khát, loại nước tinh khiết chỉ chừng nửa lít ư? 2,5 Euro! Nhìn chung giá cả ở đây mắc hơn nơi khác nhiều lần nhưng người ta vẫn náo nức tìm đến và tranh nhau mua. Lại nghĩ, làm du lịch mà không “móc túi” được du khách thì đâu phải làm du lịch.
Bằng con mắt quan sát láo liên và xoi mói của một nhà báo, tôi nghĩ gì?
Đó là một trong những cách làm du lịch đạt đến chuyên nghiệp của người Hà Lan. Họ đã tỏ ra biết “đánh bóng” tên tuổi của khu du lịch này bằng nhiều cách để từ đó, những sản phẩm bày bán ở đây có thêm một sức hấp dẫn riêng. Cứ nhìn cục đá thô kệch hoặc chảo bùn đặc quánh vô tri vô giác kia, nếu nặn thành tượng thần thánh, sơn phết lại, đặt lên nơi trang trọng và được nhang khói thì người đối diện cũng phải cúi đầu mà chiêm bái thành kính. Ấy là nghệ thuật tạo ra tâm lý. Có lần nhà Quảng Nam học Nguyễn Văn Xuân bảo với tôi, dù núi Phú Sĩ không phải cao nhất, đẹp nhất nhưng người Nhật biết cách để tôn vinh nó thành một biểu tượng của xứ Phù Tang. Từ khu du lịch của Hà Lan, tôi bâng khuâng nghĩ về hai địa điểm văn hóa có đẳng cấp quốc gia của Việt Nam không hề thua kém, thậm chí còn nổi trội hơn nữa là khác. Đó là làng cổ Đường Lâm (Sơn Tây) và làng Bát Tràng (Hà Nội).
Mấy năm trước, vì mê câu thơ “Đất đá ong khô nhiều ngấn lệ” của Quang Dũng mà tôi đã tìm về xã Đường Lâm, chỉ cách Hà Nội chừng 50 km, nào có xa xôi. Vẻ đẹp tinh thần văn hóa Việt còn đậm nét ở các ngôi nhà cổ ở làng Mông Phu, Cam Thịnh, Đông Sàng và Đoài Giáp... Lần đầu tiên được nhìn thấy cổng làng bằng đá ong, bần thần đưa tay sờ lên phiến thời gian, thổi đi lớp bụi tôi thấy đá tươi đỏ như được chạm vào quá khứ. Bỗng tim đập loạn nhịp vì quá xúc động, ngỡ ngàng. Ngõ nhỏ vào làng, lúc ấy bà con nông dân đang phơi rơm. Rơm vàng rực đến nỗi tôi không dám ngồi trên xe lướt qua, mà bước xuống đi thật chậm như để hít thở vào trong lồng ngực cái mùi hương của quê hương mấy ngàn năm lúa nước. Tâm hồn tôi dịu lại khi nhìn những bức tường nhà bằng đá ong rực lên trong nắng trưa, nhìn những nhánh lá dâu tằm xanh nõn lẳng lơ theo gió, nhìn con ngõ hiền lành và yên tĩnh với những vạt hoa trinh nữ, hoa mua tim tím một màu để thấy thấp thoáng phía sau là những cánh cổng nhà bằng gỗ mộc vững chãi và biết đâu sau cánh cửa kia là một gương mặt “Mắt em dìu dịu buồn Tây phương” từng đi vào thơ Quang Dũng bất chợt hiện ra...
Hiếm có nơi nào trên thế giới mà từ nhà ở đến cổng ngõ, cổng làng, giếng nước tất cả đều sử dụng đá ong còn thô mộc chưa qua bàn tay mài giũa của con người, kể cả lớp sóng thời gian cũng chưa bào mòn đi những góc cạnh trên từng phiến đá.
Các ngôi nhà cổ ở đây này được lợp bằng ngói vẩy cá, tường bao quanh cũng làm bằng đá ong khiến ta có cảm giác không thể chối cãi đây là một quần thể kiến trúc thâm trầm, lặng lẽ mọc lên giữa một vùng thôn quê êm ả và bình dị rất đặc trưng cho làng vùng trung du Bắc bộ. Ở đây vẫn còn cây đa, bến nước trầm mặc ngàn năm mà ta tưởng chừng như hình ảnh ấy mới bước ra từ câu ca dao của thuở dựng nước... Tại làng Mông Phụ còn lại cái giếng độc đáo với tên gọi cũng không kém phần độc đáo là giếng Sui, nước trong vắt, trong veo như tâm hồn của trẻ thơ. Ở đó, tôi thấy có bảng đề chữ Nho “Nhất phiến băng tâm”, ngụ ý nói tấm lòng người dân trong trắng như phiến băng. Ở phía đông và tây của đình làng cũng có hai cái giếng gắn liền với huyền thoại là hai mắt rồng. Há đây chẳng phải là điều hấp dẫn du khách sao? Điều thú vị là sân đình được đào thấp hơn so với mặt bằng xung quanh như một dụng ý “nước chảy chỗ trũng” khi “lạy trời mưa xuống, lấy nước tôi uống, lấy ruộng tôi cày, lấy đầy bát cơm...”. Nước từ trong câu đồng dao, từ trong văn minh lúa nước, từ trên trời cao các phía ào ạt đổ vào như ẩn ý một mong ước về một đời sống ấm no sung túc.
Hơn nữa sức hấp dẫn lớn ở Đường Lâm còn gắn với di tích, tên tuổi của hai anh hùng dân tộc Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng, Ngô Vương Quyền và của nhà ngoại giao Giang Văn Minh... Trong văn bia dựng năm 1390, phần cuối bia ghi rõ: “Một làng có hai vua, từ xưa không đâu có. Uy vũ và công đức còn truyền mãi mãi, miếu mạo trong làng vẫn giữ được như xưa”. Đây rặng duối cổ tương truyền là nơi buộc voi chiến của Ngô Vương Quyền, kia đồi Hổ Gầm nơi Phùng Hưng đánh hổ cứu dân, nọ nhà thờ sứ thần Giang Văn Minh... Mỗi bước chân ta đi qua, tưởng chừng như còn nghe trong gió thì thào kể về những câu chuyện oanh liệt trong lịch sử nước nhà.
Về năm tháng thì làng cổ Đường Lâm xuất hiện trước làng cổ Zaanse Schans nhiều lắm và cũng có nhiều nét độc đáo không kém. Nhưng tại sao đến nay ta không thể biến được thành một khu du lịch hấp dẫn du khách năm châu như người Hà Lan đã làm, dù từ ngày 12.3.2004, Cục Di sản (Bộ Văn hóa Thông tin) nước ta và Cục Tài sản Văn hóa, Trường Đại học nữ Chiêu Hòa (Nhật Bản) đã họp bàn về cách thức bảo tồn Đường Lâm.
Và Bát Tràng, làng gốm cổ nổi tiếng hình thành từ thế kỷ XV cũng còn giữ được vẻ đẹp, dù không còn thuần khiết như ở Đường Lâm, nhưng nó vẫn có sức hấp dẫn riêng. Bước vào làng, năm xưa tôi may mắn được nghe một cụ đồ giỏi chữ cho biết ngày trước ngay trên cổng làng có khắc hai câu đối bằng chữ Nho. Theo cụ đó là câu:
Lưỡng giới giang san đồ họa nhập;
Trùng môn yên nguyệt thái bình khai.
Nghĩa là: Hai bên bờ sông vẽ nên cảnh đi vào, cổng làng hai lớp, khói che mặt trăng, thời thái bình cổng làng mở ra.
Nét đẹp văn hiến ở làng Bát Tràng thừa sức để mở ra một khu du lịch với tiềm năng kinh tế dồi dào. Có điều là ta chưa nghĩ ra một cách “vận hành” như thế nào để phù hợp nhất đấy thôi.
Tôi đã tìm đến Bát Tràng cùng nhà thơ, nhà biên kịch Đoàn Tuấn. Trên đường về, nhìn khói đốt đồng ấm áp tỏa trong bóng chiều vàng chóe, tôi đã bị mê hoặc trước vẻ đẹp lạ lùng và quá đổi thanh bình. Ngay lập tức, ngồi lại trên vệ cỏ ven đường tôi mở sổ tay vì tưởng chừng như không ghi nhận ngay bài thơ “Bát Tràng”, đêm ấy sẽ không sao ngủ yên trước vẻ đẹp dân dã đang chín dần trong tâm tưởng:
Con đường quê cỏ mượt
Khói chiều lên biếc xanh
Gạch Bát Tràng mát lạnh
Mang giày đi sao đành?
Dưới ao sâu con cá
Quẫy đuôi cũng hiền lành
Gái men lam óng ả
Rơm vàng mượt bước chân
Một tiếng chim ngọt lịm
Tan trong chiều nhẹ tênh
Trong làng gió cổ kính
Ru lòng yên tĩnh hơn
Ngói âm dương lăng miếu
Rêu xám ướt và mềm
Một chiều qua vội vã
Nỗi nhớ lại lâu quên…
Nhà thơ khi du lịch vẫn là kẻ “có lợi” nhất, vì ít ra ngoài những sản vật, kiến thức đem về, anh ta còn có dịp tiếp cận với một nguồn năng lượng mới để làm giàu cho cảm hứng sáng tạo.
< Lùi | Tiếp theo > |
---|