THỂ LOẠI KHÁC Biên Khảo Lê Minh Quốc - DU LỊCH CỦA NGƯỜI CÂM - Số 1

Lê Minh Quốc - DU LỊCH CỦA NGƯỜI CÂM - Số 1

Mục lục
Lê Minh Quốc - DU LỊCH CỦA NGƯỜI CÂM
Số 1
Số 2
Số 3
Số 4
Số 5
Số 6
Số 7
Số 8
Số 9
Số 10
Lời Bạt
Tất cả các trang

 

1.

Một cơn gió lạnh xộc vào mũi khi tôi vừa rời khỏi sân bay quốc tế Schiphol - Amsterdam. Trời xám. Mây xám. Buổi sáng. Đột ngột một kỷ niệm cũ tưởng đã lãng quên, bỗng thức dậy trong tâm tưởng. Một cảm giác lạnh lẽo, buốt lấy trí nhớ. Một cảm giác mơ hồ, không rõ nét. Một cảm giác của thời hoa niên năm mười tám tuổi trỗi dậy. Trước mắt tôi là núi đồi chập chùng, hiu quạnh của vùng biên giới Dak Lak như hiện ra trước mắt. Năm đó, chiến tranh Tây Nam đang đến và tôi chập chững đến với cuộc chiến tranh bằng tâm thế của một cậu học trò tâm hồn còn trong trẻo như những lá thư tình được viết nắn nót bằng những dòng mực tím, nhưng không dám gửi đi. Tôi nhớ Dak Lak bởi lẽ, xộc vào mũi tôi lúc ấy là không khí của sự tinh khiết thiên nhiên không hề gợn lên khói xe công nghiệp và bụi bặm phố phường. Thấp thoáng trước mắt tôi là những bông hoa dại nhỏ xíu, mọc li ti ven đường. Nó mở mắt ngơ ngác nhìn tôi và tôi cũng ngơ ngác nhìn nó. Chúng tôi lặng lẽ chào nhau. Mỗi bông hoa là một linh hồn của thiên nhiên độ lượng. Mỗi bông hoa là một con mắt nhìn. Câu thơ “Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông” lại vọng về trong trí nhớ:

Nhân diện bất tri hà xứ khứ,

Đào hoa y cựu tiếu đông phong.

Ám ảnh nhất, gợi cảm nhất vẫn chữ “tiếu”, nghe ra có một chút gì đau đớn, ngậm ngùi quá đỗi. Nhưng trước đó, nếu bên hoa đào không có một nhan sắc để tình si chùng xuống, lắng lại thì liệu “đào hoa” có thể “tiếu đông phong” không? Chắc có, nhưng tôi tin rằng Thôi Hộ không thể cảm nhận được chữ “tiếu” một cách tài tình được như thế. Thì ra, hoa đẹp, ta cảm nhận được nó đẹp bởi nó luôn gợi nhớ đến một bóng hồng đã từng lẩn khuất đâu đó trong trí nhớ của ta. Nhưng khi tôi đến đây, không có ai để nhớ, tôi vẫn thấy hoa đẹp. Nó đẹp bởi nó bé bỏng và mọc ven đường như khép nép, như hồn nhiên và muốn nói rằng, trong đời sống dù tất bật ngược xuôi  nếu tĩnh tâm một chút, một chút thôi, ta sẽ thấy sự an nhiên vẫn tồn tại ở cõi đời này.

Và cứ thế, tôi bước đi, đi và ngắm nhìn đến no nê hai con mắt về một thành phố xa lạ. Những cảnh sắc lạ ùa vào hai con mắt.

Trước đây, tôi từng cảm nhận rằng, trong đời sống, có những địa danh dù chưa một lần ghé chân đến hoặc đôi lần đã đến, nhưng mỗi lần nghe vang vọng thì ta lại cảm thấy tâm hồn nhói lên một điều vui buồn gì đó không rõ rệt. Với tôi, có thể đó là Hà Nội, Hội An và Huế... hoặc dòng sông Seine mơ màng chảy dưới chân cầu Mirabeau trong thơ Apollinaire; hoặc  “mùa địa ngục” chỉ có trong âm vang của thi ca Arthur Rimbaud...

Với Amsterdam, tôi đã cảm nhận được gì?

Tôi nhìn thấy trong cánh rừng thơ mộng đã mọc lên một thành phố tráng lệ, ở đó có một chút nắng mơn trớn thu phai của Huế, một thứ nắng nhẹ nhàng, trong veo như thủy tinh và lãng đãng như vừa mới dậy thì; một chút cổ kính của những nếp nhà trầm mặc ở Đà Lạt, những ngôi nhà ấy như vừa bước ra từ trong câu chuyện cổ; và một chút nhộn nhịp vừa phải của Hội An lúc nửa khuya.

Ấy chỉ là một sự cảm nhận của tâm hồn thơ. Nhìn qua lăng kính của thơ. Chứ Amsterdam được “trang điểm” bằng mạng lưới kênh rạch dày đặc, cứ hai lớp nhà lại có một tuyến kênh xen kẽ. Những vòm cây xanh thấp thoáng dưới dòng xanh, những ngôi nhà cổ lung linh huyền ảo dưới dòng xanh và bóng tôi nhập nhoạng dưới dòng xanh...

Những cảm nhận này, trước đó tôi chưa thể hình dung ra được. Trước đó, lúc đợi chờ ở Sân bay Tân Sơn Nhất, tôi nghĩ đến em. Em đã nuôi dưỡng tâm hồn tôi trong những ngày mệt mỏi này. Yêu là một cách để nuôi dưỡng sự hướng thiện của tâm hồn. Làm thơ cũng thế thôi. Vì thế thơ trong tin nhắn đã hiện lên trong chiếc màn hình nhỏ xíu. Thời đại này, việc máy điện thoại di động ra đời, theo tôi, nó hỗ trợ rất nhiều cho... công việc làm thơ! Những lúc không làm gì, dù muốn làm gì cũng không biết làm gì, cách tốt nhất để giết thời giờ không có gì thú vị bằng đem máy ra nhắn tin. Để tin được nhắn thật chậm, nếu nhắn nhanh quá thì còn gì để nhắn (?), tôi làm thơ trên đó. Vừa nhắn a, b, c... thì đó cũng là lúc trong đầu nghĩ đến câu thứ hai... Tiện ích của nó là tôi có thể “viết” trong bất cứ hoàn cảnh nào dẫu đang ngồi trên xe khấp khểnh, gập ghềnh vừa lao lên ổ gà xóc xuống ổ voi! Một bài thơ, tất nhiên không có dấu, gửi đến em:

Chưa bao giờ đi xa anh lại nhớ Sài Gòn đến thế

nhớ quán ăn ngon?

nhớ cây nhớ gió?

chẳng phải đâu

anh chỉ nhớ người yêu bé nhỏ

tóc thơm như môi và môi ngọt như là...

đôi khi giận hờn, đôi khi nhõng nhẽo

đôi lần trẻ con, đôi lúc đàn bà

nàng đã đến giữ linh hồn tôi trong ngực

nàng cười: tôi vui, nàng giận: tôi buồn

nàng đem đến ân tình như máu thịt

từ đứa trẻ thơ tôi về lại cội nguồn

trên tay đang cầm boarting pass

lại ngóng về nơi xa lắc có em

lại ngửa mặt ngóng tìm ngôi sao mọc

để dặn lòng thương nhớ sẽ đầy lên

để nhủ lòng từ cái cõi xa xăm

vẫn có em tình yêu như lá mới

xanh tươi cùng tôi trọn kiếp con người

chuyến bay đêm trên chín tầng trời

sấm sét mưa dầm nhớ em rét mướt

anh cuộn tròn giấc ngủ trong mây

nhớ đến em làm sao mà ngủ được?

Quả nhiên không ngủ được. Khi ra đi mà trong tâm hồn ta nhớ đến người thương xa, người tình gần ấy là một nỗi lòng lương thiện. Không rõ ngày nay các quan chức khi đi công cán nghĩ gì? Ngày trước, một chuyến đi sứ là một bước đường đầy gian nan. Thuở ấy, đường xá còn cách trở xa xôi, biết bao tai ương rình rập dọc đường nên ai nấy cũng lấy làm lo lắng. Có người lấy ngày bước chân ra làm ngày giỗ nếu chẳng may gặp nạn dọc đường, không về được cố quốc. Bỗng nhớ đến chuyến đi xa của thi sĩ Cao Bá Quát. Năm 1841, ông vào Kinh giữ chức Hành tẩu ở bộ Lễ, tháng tám năm này được cử làm Sơ khảo trường thi Thừa Thiên. Khi xem bài thi, thấy có nhiều bài văn hay chữ tốt nhưng lại phạm húy, bèn thương tình mà lấy son hòa với muội đèn để chữa lại cho họ. Việc đổ bể. Cao Bá Quát bị tống vào ngục. Sau ba năm bị giam cầm tù đày được tha, ông phải “dương trình hiệu lực” - nghĩa là đi theo phục dịch cho phái bộ triều đình công cán ở nước ngoài. Ông đi theo chánh sứ Đào Tri Phủ, phó sứ Trần Tú Dĩnh để sang Indonésia. Suốt thời gian lênh đênh trên mặt biển và giao thiệp với người nước ngoài, ông đã thấy được nhiều điều, trong đó có một điều rất quan trọng đối với người sáng tác:

-Đáng phàn nàn cho ta chỉ đóng cửa mà gọt rũa những câu văn, lải nhải nhai từng câu chữ. Có khác gì con sâu đo, muốn đo cả đất trời.

Qua ô cửa nhỏ trên máy bay CX 764M từ Thành phố Hồ Chí Minh đi Hồng Kông, nhìn ra bầu trời tối mịt mù tôi có cảm giác bềnh bồng như mình đang đi đến cõi âm nào đó. Thật ra, trong tâm hồn con người ai cũng có một cõi âm riêng biệt, nó chỉ được đánh thức khi sống trong tâm thế phiêu bồng không định hướng nơi đã đi và nơi sẽ đến. “Văn chương chỉ là trò chơi con trẻ”. Cao Bá Quát -  một thi nhân từng dựng cờ khởi nghĩa, đối đầu với hòn tên mũi đạn, từng tan thay nát thịt trong tù, không sợ một bạo lực cường quyền hắc ám nào cả, lạ thay, người ấy chỉ cúi đầu trước hoa mai -  cũng từng nói như thế. Ngẫm nghĩ lại thấy thấm thía. Một giấc ngủ chập chờn, không mộng mị đã lẫn lộn giữa hư và thực khiến tôi nửa mê nửa tỉnh.

Ngồi một mình trong khi dỗ giấc ngủ, bất chợt tôi lại nhớ đến nhà văn Nguyễn Tuân. Có lẽ, ông là nhà văn trước nhất sang công cán ở Hồng Kông chăng? Ấy là lúc ông theo đoàn làm phim của Nguyễn Doãn Vượng sang Hồng Kông đóng phim Cánh đồng ma. Sau chuyến này, ông viết được quyển du ký Một chuyến đi in năm 1941. Nếu tôi không nhầm thì nhà thơ Hồ Dzếnh cũng từng sang Hồng Kông với tư cách nhà báo, đâu khoảng năm 1953. Trở về, ông viết bút ký Ngàn lẻ một đêm Hương Cảng đăng từng kỳ trên báo Thần chung ở Sài Gòn.

Khi cô tiếp viên hàng không xinh đẹp nói tiếng Anh líu lo như chim hót đem đến những món ăn thì trong óc tôi đang nghĩ rằng, liệu nhà văn khi đi du lịch liệu có khác “người trần mắt thịt” không? Chẳng lẽ đem câu hỏi này hỏi cô ấy ấy ư? Có mà khùng. Thế là tôi nghĩ ngợi một mình tôi.

Dường như trong một tập tùy bút, Nguyễn Tuân có lấy câu văn của nhà văn nước ngoài làm đề từ, đại khái: ước gì sau khi chết đi, người ta lấy da mình thuộc làm va li. Để làm gì vậy? Để chiếc va ly ấy tiếp tục được theo người viễn du đến những chân trời mới. Với ý tưởng ấy, Nguyễn Tuân đã đã triển khai thêm một ý mới hẳn: “Cái va ly đẹp nhất ở cuộc đời này vẫn là một cái va ly chứa toàn bản thảo của những năm, những tháng đi làm việc thui  thủi ở phương xa trở về”. Đó là quan niệm “đi để viết”. Phóng tầm mắt đến những chân mây cuối trời để đem về những câu văn tươi rói.

Tôi chưa đọc được một tài liệu nào nói đến ông vua hoạt kê Số đỏ Vũ Trọng Phụng đã đi giang hồ những nơi đâu. Chỉ bằng ngòi bút vừa nuôi mẹ, nuôi vợ và con để đến nổi phải thổ huyết ho lao trên trang bản thảo thì làm sao có thể “dứt áo” ra đi một cách nhẹ nhàng? Vì thế nghĩ cho cùng, trong đời được đi chơi xa nhiều lần, há cũng là một lạc thú. Nhưng đi giang hồ mà “ngon” nhất nếu chọn lấy một người thì tôi vẫn chọn lấy Tản Đà - người đã nâng “chủ nghĩa xê dịch” thành một triết lý:

Chơi cho biết mặt sơn hà

Cho sơn hà biết ai là mặt chơi?

Đáng cho đám hậu sinh phải ngưỡng mộ, trong số đó có tôi. Tôi thèm đi. Thèm được đến những chân trời xa. Để tẩy rửa tâm hồn. Nhất là những khi ý thức được mình đã sắp mọc rể trên cái ghế của một người làm việc mẫn cán và lúc nào cũng lo sợ đến cái trách nhiệm của mình. Vì thế làm sao có thể thản nhiên ra đi một cách nhẹ nhàng. Cơm áo từng ngày bủa vây chân đi. Bủa vây dày đặc đến nỗi nó hình thành một thói quen và tôi chấp nhận thói quen ấy như một sự tự nguyện. Tôi nghĩ mà chán cho tôi.

Nhà văn khi đi du lịch, đi công cán xa nước vẫn là người sung sướng nhất, bởi họ có dịp quan sát, ghi chép và viết lại những điều mắt thấy tai nghe. Những buồn vui của họ được người đọc chia sẻ. Vậy là vui.

Nhưng than ôi thằng tôi - tôi không biết ngoại ngữ, một chữ bẻ làm đôi cũng không biết thì làm sao giao dịch? Vậy hóa ra tôi là người câm sao? Đúng quá chứ còn gì nữa. Vì thế tôi gọi chuyến đi này “du lịch của người câm” là vậy.

Từ trên máy bay nhìn xuống Hồng Kông, tôi thấy rực rỡ hình dáng một con rồng như đang bay lên nền trời thẫm đen. Đến sân bay thì đã nửa khuya, ấn tượng nhất đối với tôi không phải một không gian rộng lớn, nhiều tầng lầu với các gian hàng buôn bán đa dạng từ cây kim, sợi chỉ đến chiếc máy vi tính hiện đại nhất mà chính những dòng chữ ghi nghiêm trang, đại khái nếu hút thuốc lá thì bị phạt 5 ngàn tiền Hồng Kông! Một cảm giác thèm thuốc bỗng dưng tan biến đi. Một thói quen phì phèo điếu thuốc và nhả khói mà đôi lúc chẳng biết để làm gì đã bị dòng chữ lạnh lùng khi làm tắt ngúm. Ấn tượng thứ hai là nơi này khi mua bán người ta không nhận tiền dollas, muốn mua phải chịu khó đổi ra tiền của họ. Đổi dễ dàng ngay tại chỗ. Nhưng cũng ngại nên tôi chỉ ngắm nhìn trong suốt thời gian quá cảnh để chuyển sang chuyến bay CX271M đi Amsterdam.

Và chuyến bay đêm bắt đầu. Lại một cảm giác lơ mơ chập chờn khi ngồi xem màn hình nhỏ trước mắt. Bỗng hiện ra những cảnh trong bộ phim mà hôm trước tôi đã cùng người tình xem ở Diamond. Vì thế nhớ em. Nhưng nỗi nhớ em cũng không thể ngăn nổi hai mí mắt sụp xuống để đi vào giấc ngủ.



Add comment


Việt Tuấn Trinh | www.viettuantrinh.com