LÊ MINH QUỐC: NHẬT KÝ 12.11.2016

thu-but-bang-ba-lan-1-R

Thủ bút nhà thơ BÀNG BÁ LÂN




Hôm nọ, ra chơi ở Đường sách, một tay chuyên mua bán sách cũ, năn nỉ mua lại vài chục số Nghệ Thuật. Dĩ nhiên, lắc đầu. Với y, sưu tập sách báo cũ là để đọc. Và sau đó, nếu có hứng, ắt viết cái gì đó. Sách cũ chỉ có giá trị một khi những gì trong sách đó có thể khai thác nhằm phục vụ người đương thời, bằng không chỉ là một mớ giấy nát. Quả nhiên. Nhiều người sưu tập cả đời, chắt chiu, cắc củm từng trang giấy ố vàng. Quý lắm. Nâng niu lắm. Thế nhưng sau khi mất đi, với con cháu nếu không thích, không hiểu rõ giá trị thì khác gì ngoài mớ giấy lộn? Chất chật nhà. Gọi ve chai vào, bán thốc bán tháo “của nợ” ấy cho xong. Y biết nhiều người bán sách cũ đã “phất lên” nhờ trúng đậm những mối hời này.

Đôi khi, chính y nhìn thấy, không khỏi chạnh lòng. Chi xin kể lại một trường hợp:

Ông nhạc sĩ lão thành nọ rất nổi tiếng với các công trình bảo tồn, nghiên cứu âm nhạc dân tộc, con cái theo nghiệp đàn ca hát xướng, vậy mà, toàn bộ những gì một đời ông sưu tập đều tống ra tiệm sách cũ, sau ngày ông mất. Kể cả những giấy khen, lá số tử vi, sổ ghi chép, các bài báo viết về ông v.v… Ít ai biết, trong tập thơ Vào thu (NXB Ánh Sáng -1971), thi sĩ Bàng Bá Lân có ghi thêm câu riêng tặng  ông và ký tên bằng màu mực đen trên giấy hoa tiên, có thể hiểu đây là bản sách quý. Thơ rằng:

Tay tiên nắn sợi tơ đồng
Nỉ non, thánh thót cho lòng nao nao
Tiếng mau như đổ mưa rào
Tiếng khoan: gió lọt song đào hiu hiu
Tiếng buồn: dế khóc chân rêu
Tiếng vui: ô, nhạc sáo diều chơi vơi
Bắt buông, buông bắt lả lơi
Tiếng trầm, tiếng bổng… sầu khơi mạch sầu
Tiếng chìm run rẩy lâu lâu
Tiếng cao thoăn thoắt lướt mau vội vàng
Lòng riêng thổn thức theo đàn
Buồn trông lệ nến tuôn tràn long lanh

Còn một đoạn dài nữa. Bài thơ này, nếu có dịp so sánh với tiếng đàn của Kiều lúc lần đầu đàn cho Kim Trọng, ắt cũng lý thú. Đó là chưa kể một vài quà tặng khác của nhà thơ Đông Hồ nữa. Có dịp kể lại sau. Lại nhớ đến lúc chị em Kiều dạo chơi trong tiết thanh minh, nhìn thấy nấm mồ vô chủ, Kiều òa lên khóc. Cô em mắng:  “Chị cũng nực cười/ Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa”. Nàng trả lời: “Nỗi niềm tưởng đến mà đau/ Thấy người nằm đó biết sau thế nào?”. Ối dào, Kiều đa đoan, nhậy cảm quá. Việc gì phải thế? Sống là tận hưởng trọn vẹn khoảnh khắc đang có, đang trong thì hiện đại có tốt hơn không? Ít ai nhắc đến thơ Hồ Dzếnh. Nếu đọc kỹ sẽ nhận ra tơ lòng của ông mỏng manh, tinh tế, sâu lắng không kém gì Lửa thiêng Huy Cận. Và bây giờ, y đọc câu thơ của Hồ Dzếnh: "Đừng buồn nhưng cũng đừng vui/ Êm êm nắng nhẹ qua trời rộn mưa/ Hỡi người, tôi nói gì chưa?/ Tôi đương sắp nói, hay vừa nói ra?".

Trở lại với tuần báo Nghệ Thuật.

Cứ theo Thư mục báo chí Việt Nam (NXB Chính trị Quốc gia-1998): “Phát hành ngày thứ Bảy; số 1, ngày 1.10.1965; số cuối cùng: số 57, tháng 11.1966, khổ 410x290 mm” (tr.292). Bổ sung thêm: Tòa soạn 233 Phạm Ngũ Lão, Sài Gòn, Đ.T: 25.861. Họa sĩ Đằng Giao trình bày; Chủ nhiệm, chủ bút: Mai Thảo; Tổng TKTS: Thanh Nam; TKTS: Viên Linh. 34 trang; giá bán mỗi số: 8 đồng;

Dừng lại với số báo này:

“Nơi trang trong của hơn 30 tờ báo hàng ngày bày bán đặc dày trên những sạp báo, đã từ nhiều năm nay trở thành vùng đất họp mặt đông đảo của một số người viết tiểu thuyết. Đó là một hiện tượng đặc biệt, phát sinh trước hết bởi sự đồng tình trong thái độ và phong cách sáng tác của người viết văn khi viết cho nhật báo”. Đây là lời nói đầu của tuần báo Nghệ Thuật (số 22 ra ngày 12.3.1966) khi nhóm chủ biên thực hiện chuyên đề “Nói chuyện giữa những người viết tiểu thuyết nhật báo”.

Những cây bút thường viết thể loại này, có thể kể đến Lê Xuyên, Bà Lan Phương, Nghiêm Lệ Quân, Thanh Lan Phương Tử, Nguyễn Đình Thiều, An Khê, Kim Sơn, Trương Đạm Thủy, Hoàng Ly, Hải Âu Tử v.v… Mỗi tờ báo đều có những cây bút “chủ lực” nên nhìn chung rất hùng hậu.

Loại “tiểu thuyết đăng nơi trang trong các nhật báo”, có lẽ, nhà văn Hoàng Hải Thủy là người trước nhất nghĩ ra cụm từ “feuilleton”. Sở dĩ nhắc lại chi tiết này vì bấy giờ nó chưa có tên gọi chính thức, nhà văn Lê Xuyên cho biết: “Tập san Văn gọi là tiểu thuyết tân văn”. Thật ra, nếu ngược về khởi thủy của nền báo chí nước nhà, tại Hội thảo khoa học 150 năm thành lập GIA ĐỊNH BÁO và sự phát triển của báo chí Việt Nam tổ chức ngày 29.5.2015, theo Thạc sĩ Nguyễn Văn Hà, từ năm 1885: “Trên Gia Định Báo còn xuất hiện thể loại feuilleton (truyện trang giữa - serial story) với các truyện dịch hoặc phóng tác từ văn học Pháp, đăng nhiều kỳ”. Nói cách khác, thể loại feuilleton đã xuất hiện từ thuở bình minh của nền báo chí nước nhà.

Nhưng tại sao lúc bấy giờ, tờ Nghệ Thuật tổ chức chuyên đề trên?

Có lẽ do đánh giá thể loại đó là “hiện tượng đặc biệt” với nhận xét, đánh giá còn khác nhau, vì thế câu hỏi đặt ra: “Người ta thường cho rằng tiểu thuyết đăng nơi trang trong các nhật báo phần lớn đều nhằm mục đích thương mại, chiều theo thị hiếu, do đó, không có một giá trị nghệ thuật nào. Qua những tiểu thuyết đăng báo hàng ngày của ông và các tác giả khác, ông nghĩ gì về nhận xét ấy?”.

Là “người trong cuộc”, nhà văn Hoàng Hải Thủy đánh giá: “Đa số các “feuilleton” đều kém giá trị nghệ thuật là vì sự làm việc máy móc của các nhật báo: đúng giờ đã định thì phải có bài, hay hoặc dở, hứng thú hoặc chán nản, mạnh khỏe hay đang đau yếu, người viết phải viết cho đủ bài. Đa số người viết lại là những văn nghệ sĩ làm việc tùy hứng, lười viết, chờ đến giây phút đòi hỏi cuối cùng mới ngồi vào bàn viết, tất nhiên không thể nào hay được”. Nhiều nhà văn đồng tình với ý kiến này. Nhà văn Sĩ Trung bổ sung: “Các ông chủ báo mời tôi cộng tác chỉ căn dặn 1 câu: đưa bài cho đúng giờ, đùng để anh em xếp chữ typo phải chờ đợi; đừng để độc giả phải đọc câu cáo lỗi: “Vì tác giả thọ bịnh thình lình nên truyện dài… phải gác lại một kỳ”.

Khi đánh giá lại chất lượng của nó, các nhà văn đã nói gì?

Nhà văn Ngọc Linh cho biết: “Thú thật trong vòng 10 năm viết tiểu thuyết, tôi không thể nhớ đã viết bao nhiêu truyện. Có lẽ ở vào khoảng 30 đến 40 quyển và tôi chưa hoàn toàn vừa ý một tác phẩm nào”. Nhà văn Duyên Anh bật mí, ông bắt đầu viết “feuilleton” vào năm 1964, lúc làm ở nhật báo Xây Dựng. Truyện trước nhất là Ảo vọng tuổi trẻ, rồi tiếp theo Điệu ru nước mắt, Nước mắt lưng tròng: “Tôi không bằng lòng cuốn nào cả”. Với nhà văn Lê Xuyên, ông cho biết đã in cả 8 quyển trên nhật báo như Chú Tư Cầu, Rặng trâm bầu, Kinh Cầu Muống… “Nếu tiểu thuyết đăng nhật báo vẫn thường coi là một thứ con hoang, vô thừa nhận của văn nghệ sĩ, thì đối với chính nhật báo của nó được in lên nhưng nó cũng chỉ được liệt vào hạng con ghẻ”, ông kết luận.

Do viết mỗi ngày như ta đã biết, nhà văn không thể có thời gian trau chuốt văn phong, chữ nghĩa, cốt truyện; thậm chí lối hành văn của họ có một điều dễ dàng nhận ra là nhân vật đối thoại khá nhiều. Đây là một cách xuống dòng nhanh, mau chiếm hết cột báo mỗi kỳ. Còn nhớ thuở nhỏ, dì út y lúc làm bếp hay biểu truyện feuilleton của Lê Xuyên, y còn nhớ từ ngày này qua tháng nọ nhân vật nam nữ vẫn cứ mải miết đối thoại “tràng giang đại hải”. Đó là chưa kể, một nhà văn còn nhận viết cùng lúc cho dăm bảy nhật báo như trên nhật báo Trắng Đen năm 1971, cùng một trang báo nhưng in 2 “feuilleton” Mảnh tình xẻ nửa, Ray rứt của Bà Lan Phương. Rồi với quy định nghiêm nhặt phải đúng giờ, nên họ buộc viết nhanh, viết nhiều, vì thế không hiếm trường hợp oái oăm xẩy ra. Có nhà văn kể, ban đầu ông cho nhân vật dẫn “mèo” vào nhà hàng bằng xe hơi nhưng sau đó họ lại về bằng taxi, chẳng hạn. Tức “chuyện nọ xọ chuyện kia”, vì cùng lúc phải viết cho nhiều nhật báo nên nhầm lẫn.

Vậy nên, khi trả lời phỏng vấn tạp chí Văn, nhà văn Sơn Nam thẳng thắng: “Vài nhà văn đem tiểu thuyết đăng báo in thành sách, trình bày đứng đắn, không bán đại hạ giá, nhưng sách đó khó gọi là văn chương”. Có lần, tôi hỏi ông đã viết “feuilleton” có nhiều không, ông gật đầu nhưng thú thật không nhớ đến dù là tựa. Đến lúc y đưa ra tờ nhật báo Đuốc Việt số ra ngày 9.2.1964, có in “tiểu thuyết tình cảm” Hai người tranh sống, ông giật mình, đọc ngấu nghiến rồi… cười khà khà! Do hiểu quan niệm viết của ông nên khi biên soạn tập sách Sơn Nam - Hạt bụi nghiêng mình nhớ đất quê (NXB Kim Đồng -2011) , y không đưa “tác phẩm” này vào thư mục Sơn Nam.

Tại sao các nhà văn vẫn viết “feuilleton”?

Chỉ vì sinh kế. Nhà văn Lê Xuyên cay đắng: “Nhưng biết làm sao, đó cũng là một nghề kiếm cơm. Một nghề vất vả, chẳng hiếm hoi buồn phiền và nhất định là bạc bẽo rồi. Tuy nhiên, nhờ đó, người viết cũng có được số tiền khá khá”. Nói đi cũng phải nói lại, không phải truyện “feuilleton” nào cũng đều liệt vào hàng cẩu thả, viết ẩu. Và cũng theo nhận xét của Lê Xuyên, ta biết thời đó, còn có những cây bút nghiêm túc có trách nhiệm cùng bạn đọc, chẳng hạn: “Tiểu thuyết của Bà Tùng Long luôn khít khao với mẫu mực luân lý nên vẫn được độc giả theo dõi”.

Về chuyện này, trong hồi ký Viết là niềm vui muôn thuở của tôi (NXB Trẻ - 2003, Bà Tùng Long cho biết kinh nghiệm: “Tôi luôn sẵn lập dàn bài, tóm lược cốt truyện, phân chương và ghi chi tiết từng chương, định hình nhân vật cho mỗi truyện. Trước khi viết tiếp cho báo này, tôi luôn xem lại dàn bài này, nhờ vậy không bao giờ lẫn lộn cốt truyện hoặc nhân vật truyện này qua truyện nọ”.

Hiện nay, thể loại “feuilleton” theo đúng nghĩa của nó đã không còn xuất hiện trên mặt báo. Và vì sao trước đó nó có thời gian “sống khỏe” là vì lẽ gì? Y xin không bàn luận. Chỉ dám nói rằng, có một thời nhiều nhà văn miền Nam đã “lấy ngắn nuôi dài” là nhờ “truyện dài in từng kỳ ở trang trong nhật báo”. Nếu thể loại “feuilleton” hiện nay được “sống lại” trên mặt báo, theo y đây chính là sự “cải thiện” đáng kể cho thu nhập của nhà văn, bởi ngoài nhuận bút mỗi kỳ in họ cỏn có thêm khoản tiền khi in thành sách. Và điều quan trọng hơn, với “kỷ luật” phải viết mỗi ngày, qua đó, chính họ cũng ý thức thường xuyên hơn về nghề cầm bút.

Bổ sung thêm: Sau năm 1975 đến nay, trên báo chí, thể loại “Tiểu thuyết nhật báo”  hay còn gọi “Tiểu thuyết tân văn”; hoặc “feuilleton” hoàn toàn biến mất. Có lẽ vì thế, bộ Từ điển văn học (bộ mới) đồ sộ, quy củ, đầy đủ nhất cho đến thời điểm này vẫn không ghi nhận. Trong phần “Tra cứu thuật ngữ văn học” chỉ có nhắc đến: “Tiểu thuyết, Tiểu thuyết anh hùng ca, Tiểu thuyết chí quái, Tiểu thuyết chương hồi và Tiểu thuyết truyền kỳ” (NXB Thế Giới - 2003, tr.2180).

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

Add comment