THỂ LOẠI KHÁC Tạp bút LÊ MINH QUỐC: Ngẫu hứng ... phở

LÊ MINH QUỐC: Ngẫu hứng ... phở


Một

 

Hương thơm trinh nữ? Ồ không phải

Hương phở thơm đầy những sớm mai.

Thi sĩ Tản Đà là người sành ăn vào bậc nhất. Có lẽ, ông là người đầu tiên đã “phát hiện” ra... chân lý: Thức ăn ngon nhưng chỗ ngồi không ngon thì ăn không ngon, thức ăn ngon nhưng không có bạn đồng điệu thì ăn không ngon, thức ăn ngon nhưng bát đũa không sạch sẽ thì ăn cũng không ngon... Biết đại khái như thế thì mới thấy nghệ thuật về ăn quả là không dễ.

nguyengiatri

Phở gánh - tranh lụa của danh họa Nguyễn Gia Trí

 

Phở là món quà “căn bản” của miền Bắc, nhưng ai là người đầu tiên đưa vào Sài Gòn? Tôi vẫn nghĩ là Tản Đà. Những năm tháng cùng Ngô Tất Tố lang thang vào Nam Kỳ cộng tác với Diệp Văn Kỳ làm báo Đông Pháp thời báo, có lần “ông thần ngông” này đã cao hứng cậy gạch bông trên nền nhà, cuốc đất để trồng các loại rau húng, quế... Rồi một buổi chiều rét mướt hiếm hoi của vùng đất phương Nam, ông đã làm món phở để đãi những người đồng hương và các bạn Nam Kỳ. Ai ăn cũng khen ngon. Từ đó, món phở dần dần... phổ biến công khai một cách rộng rãi!

Tất nhiên, đây chỉ là tưởng tượng của tôi vì quá yêu Tản Đà quá đấy thôi. Thật ra, phở chỉ mới có mặt ở Sài Gòn từ thập niên 40 của thế kỷ XX. Trong những ngày trong lòng buồn vui không rõ rệt, tự nhiên tôi lại thèm một bát phở với lòng dạ nôn nao, với cảm giác như nhớ người yêu đã hẹn mà nàng không đến, tôi bèn thả bước chân lang thang mọi ngóc ngách Sài Gòn. Nhờ thế, qua anh Nguyễn Hạnh - tạp chí Xưa và Nay của Hội Khoa học lịch sử phía Nam, tôi tìm ra một nhân chứng của... phở.

Đó là căn nhà trong hẻm Pasteur, số 63/5 - sau rạp hát Vinh Quang. Bà cụ Trần Thị Năm, nay nay 80 xuân, lưng còng, tóc bạc trắng cụ điềm đạm kể: “Từ năm 1942, ông bác của tôi là ông Kỉnh từ làng Vân Đình (Hà Đông) vào Sài Gòn lập nghiệp. Ông bán gánh phở Bắc trên đường Lagrandière (nay Lý Tự Trọng). Mãi đến năm 1949 mới chuyển về đây mở xe phở, tôi còn nhớ lúc đó mỗi tô chỉ có 2 xu, tô đặc biệt 3 xu. Sau ông Kỉnh truyền nghề cho cụ Minh - là anh ruột tôi. Thuở ấy, phở Bắc không có giá và lỉnh kỉnh các loại rau như bây giờ, nhưng vì khẩu vị của người Sài Gòn nên chúng tôi phải chiều theo”.

Ăn một tô phở có mặt xưa nhất ở phương Nam nay còn sót lại, tôi nhận thấy, dù có thêm các loại rau khác nhau, nhưng hương vị Bắc còn nồng nàn, đằm thắm ở chỗ nước lèo thơm mùi bò mà mà ta vẫn tưởng không phải mùi bò và nhất là nước trong, không gây béo dù loáng thoáng mỡ . Tô kiểu nhỏ. Đũa là loại đũa “sóng lá” màu đen làm bằng cây dừa nước nên không “bắt” mỡ. Đang trầm ngâm như một triết gia “nghiên cứu” về sức hấp dẫn của phở thì ông An - con của cụ Minh - nay là chủ nhân phở Minh ân cần đến tiếp chuyện với tôi. Ông cho biết, ngày xưa ở trong hẻm này là một loạt quán phở mọc lên nhưng nay chỉ còn mỗi một gia đình ông “trụ” lại được.

Thuở ấy, khoảng thập niên 1950, các văn nghệ sĩ, chính khách... nườm nượp đến đây bất kể ngày đêm. Hỏi thêm những người cao niên ở Sài Gòn thì họ xác nhận là đúng, thuở ấy ai mà không mê phở trong hẻm Pasteur này! Chao ôi ! Trong số những thực khách ấy, có lẽ ông Trần Rắc - chủ hiệu giày trên đường Espagne (nay đường Lê Thánh Tôn) mới thật sự là người có tâm hồn... thi sĩ nhất. Vì khoái phở Minh mà ông đã sáng tác mấy câu thơ tặng chủ quán treo trong quán chơi. Thơ rằng:

Nô nức đồn vang khắp thị thành

Trần Minh phở Bắc đã lừng danh

Chủ đề: tái, chín, nạm, gầu, sụn

Gia vị: tương, rau, ớt, mắm, chanh.

Những vần thơ chân thành và đáng yêu ấy đã khiến tôi nhớ đến Tản Đà. Bấy giờ, Tản Đà phụ trách trang thơ. Nhưng do say sưa suốt ngày nên nhiều lần bài vở không đưa kịp quy trình nhà in, ông chủ bút sai người đến giục. Tản Đà nổi cáu và nói một câu nổi tiếng: “Làm thơ có phải bổ củi đâu mà lúc nào cũng có thơ!”. Từ thơ bỗng dưng tôi liên tưởng đến... phở. Bởi lẽ, không phải lúc nào ăn phở cũng ngon mà phải có “thời điểm” cần thiết. Nhưng trước hết thử hỏi phở là cái gì? Thôi thì, ta thử nghe những người sành ăn giải thích bằng sự cảm nhận riêng và đầy ngẫu hứng:

“Nước dùng nóng lắm đấy, nóng bỏng rẫy lên, nhưng ăn phở như thế mới ngon. Thịt thì mềm, bánh thì dẻo, thỉnh thoảng lại thấy cay cái cay của gừng, cay cái cay của hạt tiêu, cay cái cay của ớt; thỉnh thoảng lại thấy thơm nhè nhẹ cái thơm của hành hoa, thơm hăng hắc cái thơm của rau thơm, thơm dìu dịu cái thơm của thịt bò tươi và mềm... rồi thì hòa hợp tất cả những vị đó lại, nước dùng cứ ngọt lừ đi, ngọt một cách hiền lành êm dịu, ngọt một cách thành thực..." (Vũ Bằng).

“Mùa nắng ăn một bát, ra mồ hôi, gặp cơn gió nhẹ chạy qua mặt lưng, thấy như giời quạt cho mình. Mùa đông lạnh, ăn bát phở nóng, đôi môi tái nhợt thắm tươi lại...” (Nguyễn Tuân).

“Nếu là gánh phở ngon thì nước dùng trong và ngọt, bánh dẻo mà không nát, thịt mỡ gàu dòn chứ không dai, chanh, ớt với hành tây đủ cả. Chả còn gì ngon hơn bát phở như thế nữa” (Thạch Lam).

Vậy thì phở đã ngon thì ăn vào “thời điểm” mới tuyệt ngon? Ăn vào lúc sớm mai thì ngon đã đành rồi. Nhưng ấn tượng khó quên nhất vẫn là lúc khuya khoắt thả bước chân lang thang trên phố, bụng đói, ngật ngà trong men say lẫn đang buồn ngủ và lơ mơ nhớ bao lại phiền muộn trong ngày, làm một tô phở thì ta như thấy tỉnh hẳn. Tỉnh như sáo. Lại yêu đời lạ thường!

 

Hai

 

Còn tôi rét cóng mơ về phở

Từng cọng hành thơm... gió tơ vàng.

Cũng giống như sự phát minh nào đó về mẫu mã thời trang, phải có thời gian để hoàn thiện dần, phở cũng vậy. Từ trước những năm 1930, có lẽ phở chưa định hình như bây giờ mà còn phải mày mò cải tiến để ngày càng phù hợp với khẩu vị của người sành ăn. Gống như thơ vậy. Từ bài Tình già của Phan Khôi thoạt đầu gây tiếng vang dữ dội trong dư luận, nhưng phải đợi đến sự xuất hiện của những “kiện tướng” như Thế Lữ, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Huy Cận, Bích Khê...thì phong trào Thơ Mới mới thật sự chiếm lĩnh trên thi đàn.

Theo một tài liệu đáng tin cậy thì vào những năm 1928, người ta còn thêm vào trong bát phở cả dầu vừng, đậu phụ và gọi là “phở cải lương”. Sự “thể nghiệm” như thế không phù hợp với nguyện vọng của quần chúng nên đột nhiên một ngày kia nó lặng lẽ rút lui khỏi bát phở mà không cần có một lời giải thích nào cả. Những người sành điệu nhất thiết phải ăn phở bò. Nhưng rồi phở gà lại xuất hiện.

Thử hỏi một cách nghiêm túc rằng, nó ra đời trong ngày tháng năm nào?

Này nhé, thời “tiền chiến”, ở Hà Nội trong những ngày thứ sáu và thứ hai không có thịt bò, tất nhiên những người mê phở đau khổ lắm vì những gánh phở đành phải “treo gánh”. Thế là, trong “cái khó ló cái khôn”, nhiều người bèn xoay ra lấy thịt gà thay cho thịt bò. Tất nhiên, những chuyên gia về phở cực lực phản đối, chì chiết bằng những lời cay độc như con dâu gặp phải bà mẹ chồng khó tính. Giống con dâu thảo nhịn nhục, nhẫn nại qua bao thăng trầm rồi một ngày kia bà mẹ chồng mới nguôi giận mà chấp nhận!

Giống như Thơ Mới thuở bình minh của nó, phe thơ Đường luật thất ngôn bát cú cũng mạt sát không tiếc lời. Phở gà cũng có số phận như vậy. Cho đến bây giờ, người yêu phở “cổ điển” cũng đã chấp nhận nó. Để được như thế phở gà không thể thiếu những cộng hành thơm... gió tơ vàng (!). Một một màu xanh nõn nà đến phơi phới trinh nguyên làm bát phở thêm đẹp mắt lẫn ngon miệng.

 

Ba

 

Nước trong. Khói biếc. Tương cay đậm

Tuyệt lắm. Trời ơi ! Tái nạm giòn.

Một cao thủ võ lâm trong làng văn Nam Bộ là Trang Thế Hy, người quan niệm nhà văn là “người bào chế thuốc giảm đau” cho đồng loại, từng đoạt giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam, ông cũng là một người sành ăn. Trong những phút ngẫu hứng, ông nói chơi chơi: “Tao là dân Nam Bộ gốc, nhưng vào quán phở, thấy họ bày phở khá đẹp, hấp dẫn, vậy mà có cha nện vào cục tương đen, nhìn hết muốn ăn”.

Ngẫm ra, chí lý thay. Nhưng người thủy chung với phở bao giờ cũng muốn nhìn bát phở nước trong, chỉ gợn chút xíu mỡ. Giống như người đàn ông trung thành với vợ, chỉ muốn nhìn ngắm nàng trong nét đẹp chính chuyên không son phấn.

Phở cũng vậy. Chẳng ai nỡ tàn nhẫn đến độ vừa cho tương đen lẫn tương đỏ vào trong bát phở của mình cả. Màu sắc ấy không phải là sắc màu “cổ điển” của bát phở đã định hình từ mấy thập kỷ nay. Có những người mê phở quá nên có một lúc lẫn thẫn tự hỏi lòng mình một cách suy tư và đầy... tính nghiêm túc: “Ấy thế, khi dịch ra tiếng nước ngoài thì thiên hạ dịch như thế nào nhỉ?”. Chẳng rõ. Nhưng người Pháp gọi phở là “Soupe Chinoise” (súp Trung Quốc). Thế là sai đứt đuôi con nòng nọc rồi chứ gì nữa ! Có người cho rằng, phở bắt đầu từ mấy chữ “Ngưu nhục phấn” nữa chứ. Nghe sao mà khó lọt lỗ tai đến thế.

 

Bốn

 

Yêu em có lẽ vì mê phở

Vị ngọt trên môi cũng đậm đà.

Giống như thơ - có thời hoàng kim “người người làm thơ, nhà nhà làm thơ”, nhưng cũng có lúc mỗi tập thơ in ra chỉ có thể khiêm tốn với số lượng... 1000 bản mà có người còn hào hứng khoe: “Thơ của tôi...biếu rất chạy!” - phở cũng vậy.  Phở đã trải qua cái thời mà những người “tôn sùng” phở bàn tán nhiều nhất, nhiều hơn cả chuyện tranh luận Đội tuyển bóng đá Việt Nam có giành đươc Huy chương vàng trong Tiger cúp hay không.

Đó là chuyện trong bánh phở có cái gọi là “phoocmôn”!

Sự kiện này rất quan trọng, quan trọng đến nỗi nhiều người đề nghị ghi vào trang đầu tiên của lịch sử thăng trầm về phở. Ấy là chiều ngày 5.1.2000, tại trụ sở UBND Hà Nội đã diễn ra buổi họp cấp bách có đủ đại diện các ban ngành lên quan để công bố và bàn biện pháp “vệ sinh an toàn thực phẩm”. Sợ “phoocmôn” nhiều người cương quyết nuốt nước bọt, nhịn ăn chứ không dám bén mảng đến quán phở. Các quán phở Hà Nội đìu hiu như chợ chiều Ba mươi Tết thì ở Sài Gòn, các quán phở cũng vắng vẻ không kém.

Chao ơi! Trời vẫn nắng, gió vẫn xanh, em vẫn ngoan và môi vẫn thơm mà không được làm một tô phở thì quả là một cực hình ! Còn có chịu đựng nào “thê thảm “ hơn chăng? Giống như thơ - sau những ngày tháng thiên hạ xa rời thơ để chạy theo các phương tiện truyền thống đại chúng hiện đại khác, có lúc cũng quay về với nàng thơ ỏn ẻn, yểu điệu nhan sắc - thì phở cũng vậy. Làn sóng “phoocmôn” lại lắng xuống dần dần và phở dần dần trở về thời hoàng kim của mình.

Năm

 

Tôi nâng tô phở như ... thành khẩn

Mơ thấy nắng vàng lững thững rơi.

Cho dù từ phương Bắc vào đây, phở đã nghiêm túc thực hiện nhuần nhuyễn câu tục ngữ “nhập gia tùy tục” như thêm giá, rau các loại... Nhưng cho dến nay, vẫn còn một quán phở giữ đúng hương vị Bắc. Ấy là phở bà Dậu, quê ở Nam Định, ở cuối hẻm 288, khu phố 4 đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa. Giới sành ăn gọi là phở Cây Trứng Cá, vì từ năm 1950 ở trước quán có trồng cây này. Thời gian trôi qua, cây không còn, bà Dậu cũng mất, con của bà là ông Bình lên thay thế, cho nên dù quán không có bản hiệu ta cũng có thể gọi là quán phở ông Bình hoặc phở Lâm cũng không sao vì anh chàng Lâm là người thu tiền!

Ở quán phở này tôi đã gặp khá nhiều người nổi tiếng từ nghệ sĩ, ca sĩ đến nhà báo... đến ăn. Phở ấy có gì lạ? Này nhé! Bánh phở sợi nhỏ mềm nhưng không nát. Nước lèo đậm đà cái vị ngọt thanh dịu của xương, tủy bò hầm rục chứ không phải của bột ngọt. Các thứ nạm, gầu, sụn, gân...đâu ra đó. Không có bất cứ loại rau gì kèm theo, chỉ có hành tây hoặc những cọng hành trần. Ăn xong mồ hôi vã ra như tắm. Sướng nhé!

Điều hấp dẫn của phở Bắc, tôi nghĩ không chỉ là cách pha chế mà còn là cung cách phục vụ “vui lòng khách đến, vừa lòng khách đi”. Ở quán phở Minh và phở bà Dậu đã cho tôi một nhận xét: Khách đến quán chỉ một hai lần là chủ quán biết ngay “gu”. Giữ xe không mất tiền, có người trông coi chu đáo. Khách lững thững bước vào. Ngồi thong thả xuống ghế. Không cần lên tiếng gọi. Lập tức một tô phở đúng ý được bưng ra ân cần, đặt nhẹ nhàng ngay trước mặt, khói nghi ngút, thơm điếc mũi. Người đến ăn tưởng mình không phải đến quán mà cảm giác như ăn ở nhà người bạn thân vậy. Ngoài ra các thứ tiêu, ớt, hành... thì ta cứ “vô tư”.

Ngày xưa, từ Bắc chỉ có cái nghề ẩm thực truyền thống đặt trên vai, họ tự tin đi vào Nam lập nghiệp. Một gánh phở dựng lên. Rồi truyền nghề lại cho con. Con biết giữ lấy nghề cũng là một cách trả ơn bố mẹ. Và cũng chính nghề ấy đã tạo cho con cháu họ có cơ ngơi như ngày nay, học lên đại học, đi nước ngoài đến năm châu bốn biển cũng từ chỉ bắt đầu một gánh phở. Ông Minh, ông An đã tự hào tâm sự với tôi như thế. Chắc chắn còn có nhiều người bán phở cũng tự hào như thế

Đang nghĩ lan man, bỗng tôi sực nhớ có một nhà văn từng viết, đại khái: có những món ăn không đủ ngon để lan rộng ra các nơi và cũng không đủ... dở để mất đi. Ta có thể ưỡn ngực lên mà tự hào rằng, phở đủ ngon để đến các nơi trên thế giới - miễn sao nơi ấy có cộng đồng người Việt. Này nhé ! Những bát phở như nổi tiếng phở “quân khu”, phở “tàu bay”, phở “xe lửa”... cũng đã có mặt ở Cali (Mỹ), ỡ Paris (Pháp), ở Mạc Tư Khoa (Nga) v.v... Chắc hẳn những người xa xứ trong một sớm tuyết mờ mịt, ngồi trong quán, nhìn ra ô cửa kính trắng đục mà lòng nhớ quê nhà da diết. Khi ấy, vừa nâng tô phở lên, chao ơi đã thấy lục phủ ngũ tạng của mình được chia sẻ, vỗ về với cái hương vị đằm thắm, quyến rũ không nguôi.

Phở ạ! Sao mà thân thiết, thân mật đến thế. Nước nóng bõng. Khói biếc xanh. Lòng bỗng ấm áp lạ thường như được tận hưởng cái nắng chói chang của quê nhà đang lững thững đến gần.... Không chỉ đi xa ngàn dặm như thế mà phở còn được bỏ vào trong gói, chỉ cần một ít nước sôi là có thể... ăn liền. Xem ra một gói phở này có vài món gia vị: bột nêm, dầu sa tế, hành lá, ngò gai sấy khô. Thôi thì, đêm khuya sực nhớ đến phở thì ta cũng có thể tạm hài lòng với nó vậy.

Sức quyến rũ của phở thật dữ dội qúa. Nhưng xin hỏi ông anh, bà chị vậy phở là cái gì mới được chứ ? Thì là... phở chứ còn gì nữa !

LÊ MINH QUỐC

(đã in báo Phụ Nữ TP.HCM số Xuân 2001)

Cùng một chủ đề:

Phở Bắc

Chia sẻ liên kết này...

Add comment


Việt Tuấn Trinh | www.viettuantrinh.com