TƯ LIỆU MỚI VỀ NHÀ THƠ YẾN LAN

Mục lục
TƯ LIỆU MỚI VỀ NHÀ THƠ YẾN LAN
* QUANH MỘT CHỒI CÂY ĐỔ
* THI SĨ VỚI GIAI NHÂN
* NHẠC MƠ
Tất cả các trang

 

Con gái nhà thơ Yến Lan là Lâm Bích Thủy vừa gửi đến trang web www.leminhquoc.vn một vài tư liệu mới của thân phụ. Đó là Hoạt cảnh bằng thơ Quanh một chồi cây đổ, nhà thơ Yến Lan viết tháng 12.1979, chưa công bố. Ngoài ra, còn là hai tùy bút văn chương đã in trên Tiểu thuyết thứ năm mới tìm được.

 

nha_tho_yen1_lanmages

Nhà thơ YẾN LAN thời trẻ

 

Tâm sự với chúng tôi, bà Lâm Bích Thủy còn cho biết: “Ba chị còn nhiều tác phẩm viết theo dạng thơ 8, 6, 4 chưa đăng lần nào. Có tác phẩm ông viết cho thiếu nhi "Nước mắt ngọt" giá có họa sĩ nào dựa vào đó vẻ thành tranh thì hay quá. Chị rất muốn giúp cha nhưng lực và tài (tiền) bất tòng tâm đành để lãng quên em ạ”.

Với thông tin này, các NXB hoặc những ai quan tâm đến việc in ấn xuất bản, chúng tôi sẵn sàng làm cầu nối với gia đình nhà thơ Yến Lan.


L.M.Q
(VIII.2013)


 

QUANH MỘT CHỒI CÂY ĐỔ

Hoạt cảnh bằng thơ

Một chiếc xe “ca” vừa đổ ở mép đường liên tỉnh, nơi có con đường nhỏ rẻ vào thôn xóm. Trên xe hối hả bước xuống một bà cụ tuổi quá sáu mươi, và một cháu trai, già dặn tuổi thiếu niên, ăn mặc theo kiểu người ở Miền Nam. Người trên chuyển hộ mấy cái làn và chiếc va ly, vừa xong thì xe tiếp tục chạy. sau khi đám khói xăng tan nhẹ vào hàng cây, bà cụ cũng thu gọn hành lý dựa gốc sấu to ở bên đường. Cách vài mét chỗ hai bà cháu đứng định hướng, một chồi cây tơ bị quặt xuống từ lúc nào, thân oằn cong, ngọn sà chấm mặt đất, lá hãy đang xanh giữa những cành nhỏ, vương vãi chung quanh. Bà cụ bỗng ôm mặt ngồi sụp xuống.

Đứa cháu:   

Bà sao thế, bà ơi? Hay bị nhọc,

Đường đang sửa, mấp mô xe lại xóc?

Bà cụ:  Không, bà chỉ vừa ngây ngất một cơn mê;

Có lẽ vì xúc cảm với tình quê!

Đứa cháu: 

Nhưng có thật đúng đây là lối rẽ?

Vì tất cả những gì bà đã kể...

Cháu nhìn quanh - không phải thế này đâu!

Bà cụ:  

Ấy trên xe bà hỏi kỹ từ đầu,

Có người biết đã thực thà chỉ rõ...

Giờ, mang máng bà nhớ ra từng chỗ...

Đứa cháu:    

Có phải cũng...

Cánh đồng Eo nơi hút gió Tây?

Khúc đề quai, năm lụt lớn lở choài?

Dãy gò Nổ với cà gai, cỏ đắng,

Và ... cái giếng, nước phèn luôn đóng ván...?

Bà cụ:   

Nhưng quê hương...? Cháu biết chữa? Quê hương

Có những mối giây quấn quýt, buộc ràng;

Gút chặt trong ta những thầm kín nhất.

Cho đến cả những vật xưa đã mất

Cứ còn tuyền trong hơi ấm tim gan!

Đứa cháu:    

Cháu thấy như ta xuống quá vội vàng!

Từ thị xã về đây chừng nửa buổi,

Vẫn chưa trải qua chang chang cát bụi

Lối xưa bà thất thểu bước di cư !

Bà cụ:                

Không!

Đúng nơi rồi! Kìa, có phải cái đình hư,

Nền đá tảng khuất đâu trong gò sặt?

(Hồi họp một lát)

Bà nghe rõ nhiệp bồi hồi của đất,

Nơi người thân ta đã yên nằm!

Ôi, làng quê xa cách mấy mươi năm,

Vẵn cứ tưởng như vừa dăm bảy bữa!

Cái thôn nhỏ niêm đầy tiếng mõ,

Tàn tro bay trong tràng súng cầm canh...

Đứa cháu:    

 Mà ở đây dằng dặc quãng đường xanh,

Bóng lá lao xao, hàng cây thẳng tắp,

Đâu cái oi nồng trưa hè nắng ngập?

Đâu nền đường phơi ải sổng lưng trâu?

Hàng chuối te theo rìa đất bạc màu,

Cái cây gạo, nửa thân, sâu đục

Đây đâu phải chốn bà đã sống

Giữa u âm, khô khát một thôn “tề”.

 

Bà cụ. (vẫn đưa mắt tìm kiếm, bỗng hất hàm về phía trong)

Ờ cái bốt kia rồi.... ở góc chân đê,

Cháu có nhắc, bà nhìn lâu mới thấy.

Thôi chớ kể lại chi ngày ấy

Thẳng lối này - nào bà cháu ta đi!

Bên phải đây là nẻo lại nhà dì,

Và nhà cậu, vòng qua mô đất trọc.

Đứa cháu.         

Bà không thấy cả một lùm dương mọc?

(họ định nhặt hành lý lên, bỗng bà cụ tặc lưỡi)

Bà cụ.

Thôi hỏng rồi quên mất nón trên xe,

Những “chiếc bài thơ” trắng nõn lá kè,

Lấy chi biếu bà con hàng xóm!

Đứa cháu

Mãi thế đấy, đã bao năm thắt thõm

Gặp quê rồi bà vẫn cứ nôn nao!

Bà cụ.

Nhưng cũng may đường rợp, bóng cao.

Ta thong thả đi lần theo lối mát.

Đứa cháu.

Vào trong đó, cả thôi dài lăng lắc,

Mà đồ lề lích kích vướng chân tay;

(nhìn quanh, rồi quay sang chỗ thân cây đổ)

Ừ! - Hay là ta dứt cái thân cây

Làm đòn gánh, bà cháu mình khiêng tạm ?

Một ông già, tuổi lớn hơn bà cụ vài tuổi, một em bé. Chợt đi đến. Họ mang theo xẻng, đọt tre tươi, và bó lạc)

Ông cụ.

Ơ kìa, cháu !... Sao làm điều sai phạm,

Có phải chừng muốn bức rễ cây con ?

Việc này... nay ít thấy ở trong thôn,

Dù một nhánh cũng không ai nỡ bẻ !

Bà cụ.

Xin lỗi cụ, cháu nó đang chợt nghĩ,

Và cũng may, cụ vừa kịp đến nơi.

Ông cụ. (Dịu giọng lại và ung dung)

Từ trung du mang về tận dưới xuôi,

Giữ cho vẹn rễ cành, đâu phải dễ

Giống gỗ tốt, sẽ tiếp trồng xen kẽ

Giữa những cây già chờ đẵn nay mai

Ôi những chồi tơ, ngắm đến mê say !

Đứa cháu.

Nhưng thưa cụ, cái cây này đã đổ !

(Tý, em thiếu niên đi cùng ông cụ, bước tới)

Tý.

Hợp tác xã vừa tậu con trâu cộ,

Quen lẻ bầy nên chưa chịu ăn chung.

Mấy hôm nay dường nhớ suối, nhớ thung,

Nhớ vách đá, thêm lạ mùi cỏ nội ;

Chiều hôm qua, hiu hiu gió núi,

Rượt theo đàn nó húc cả chồi tươi...

Ông cụ. (quay về phía bà cụ, rồi sang đứa cháu )

Đấy, cháu xem ! Đâu phải tự tay người !

( Lại quay sang Tý)

Nào, cháu Tý, hãy đưa ông cái chạc

Rồi xuống ruộng nhúng cho mềm bó lạt

Ta sẽ cùng nhau dựng thẳng lại chồi,

Rễ chưa lìa, thân sẽ vương nhanh thôi

Tý.              

Rồi cháu sẽ ở lại đây tưới nước,

Nhà đang bận, ông nên về trước.

Ông cụ.       

Chà việc gì cháu cũng để tâm

Thôi, nhân đây ông chỉ cách cháu làm,

Việc xong tất, ta cùng về một thể.

Tý.-                

Vâng, cháu biết trồng cây không phải dễ.

Bà cụ.     

Có thế này mới tươi mát làng thôn,

Người chăm cây như thể chăm con !

Ông cụ.   

việc đã hóa bình thường sao bà mới thấy ?

(Bỗng ngừng tay,  nhìn kỹ hai bà cháu)

A, xin lỗi, cứ ngần ngừ từ nãy ;

Bà ở trong kia? Ra, hẳn tìm ai ?

Bà cụ.         

Tôi vốn người quê ở đất này,

Bị bức di cư nghẹn đường trở lại !

Nhờ giải phóng, nay về thăm con

Buổi ra đi nó chậm bước lỡ đò...

Ông cụ.        

Ấy phút đầu tiên tôi đã ngợ ngờ :

Lối ăn mặc thì theo vùng giải phóng,

Nhưng dáng dấp... thấy hao hao bà giống...

Bà cụ. (Cướp lời nhanh)

Mẹ con út đây... con nó đã ngần này (chỉ vào cháu)

Còn cụ là... tôi cố nhớ lại đây..

Cụ là... bác !... bác cả Sung ngày nọ !

Ông cụ. (Cười sảng khoái)

Có phải cái ngày tôi ra sông hỏi vợ,

Bà cấy dười đồng hát ghẹo mấy câu...

(Cả hai cùng cười)

Bà cụ.       

Cụ đến là tài, trí nhớ cũng lâu

Tôi hát: “Trúc xinh, một mình cây trúc đứng...”

Ông cụ.  

Nghĩa câu ấy, vẫn dồi dào cảm hứng

Nhưng giờ đây... cây đẹp có bạn bầu !

Bà cụ.             

 Hãy kể chuyện gần... từ có rễ, có dâu

Thoạt mới đó mà đầu đều trắng xóa.

Ông cụ.      

Nhanh thật đấy, một đời người mấy nã !

Nhưng bà nhìn quê cũ ở chung quanh

Lại trẻ ra tươi đẹp một màu xanh

Bà cụ.       

Chính vì thế mà thoạt nhìn thấy lạ

Tôi cứ tưởng sau bao năm khói lửa

Trở về đây sẽ lội giữa tàn tro !

Ông cụ.  

Ấy, từ vâng lời dạy của Bác Hồ,

Chúng tôi lợp đất này trong bóng mát.

(vung tay chỉ từng hướng)

Kìa gò Nổ, hết mìn ra sỏi cát,

Và đồng Eo, thôi se nỏ chân chim,

Những mái kho, trường, trại, dài thêm,

Cây gỗ đó đúng tầm đem cất dựng,

Vui lắm nhé mỗi, xuân về nắng hửng

Tết cổ truyền thêm cái tết trồng cây.

Bà xem kìa...cây đứng cách tầm tay;

Cây phủ xóm, niêm bờ đồng, lối ngõ,

Cứ mỗi tết lại trồng thêm một lứa,

Cây ven đường, liền tỉnh, liền khu.

Bà cụ.         

Thế mà xưa, trần trụi, giải dầu...

Ông cụ.        

 Mãi cơn bảo, đổ nhà nát cửa,

Bà biết đấy, dân chạy đâu ra gỗ ?

Bà cụ.        

 Vâng, cả tháng hè đi làm cỏ, bỏ phân,

Nước trong đồng luột bỏng cả  tay chân

Ông cụ.     

Một nắm lá ngụy trang cho bộ đội,

Phải chiu chắt từng đợt dong, cành duối.

(Bổng vang một góc trời tiếng đàn sáo chen đậu vào một chòm cây phía xóm trong  )

Tý.-              

Ông ơi, ông có thấy cả tuần nay

Từ mạn rừng chim chóc lại về đây?

Tiếng lánh lót rộn hơn mùa năm trước.

Ông cụ.       

Bởi đất quê ta đã thành đất mật

Tý.  (Nói với cháu bà cụ)

Rồi mai kia thêm cả những đàn ong

Khi giữa làng nhản vải đơm bông...

Và rộn cả lòng ta thêm sách vở,

Tiếng ve ran bừng lên màu phượng đỏ.

Đứa cháu. (Nói với Tý)

Mình chưa từng được hưởng thú này đây !

Tý.-               

Bạn bảo sao ?- Trong ấy cũng rừng cây

Thầy giáo kể : còn sum sê biết mấy.

Bà cụ.-          

Nó sinh ra đã nếm mùi lửa cháy

Tại miền Trung - cả một xứ dừa ;

Suốt một vùng dừa, mít hóa vườn trơ

Dưới bụi độc « phong quay » của Mỹ.

Ông cụ.

Chúng muốn biến đất trồng ra than xỉ,

Diệt mần xanh, diệt vào tận mầm tươi

Nguồn chứa chan sự sống của con người.

Bà cụ.

Sau trận ấy, tiếp bao trận khác,

Người ta kể cả Tây Nguyên, Đồng Tháp !

Ông cụ.   

Nghĩ đó, càng thêm nhớ đức Bác

Yêu cỏ cây, không chỉ viết ra

Còn thật sự nâng niu chăm bón.

Cây vú sữa qua muốn trùng rào đón

Từ miền Nam, vẫn lớn ở bên Người

Vốn non sông thống nhất tự bao đời

Lòng Bác xót cảnh rẽ ngàn nhân cội

Nghìn việc lớn, không lúc nào nhàn rỗi

Ngót tám mươi, Bác còn gắng lên đồi

Tý.-                

Cháu đã được đi tham quan Vật lại

Tất cả quê đồi, cành đau bóng trải

Nhìn cây đa ngày ấy Bác trồng,

Thầy giáo nghẹn ngào: “Đây Bác đứng mênh mong

Tay bắt nhịp cho cả dàn nhạc lớn

Khắp đất nước sóng xanh lên cuồn cuồn.

Ông cụ.

Và chúng ta vẫn hôm sớm thấy Người

Trong xanh tươi mãi mãi sắc cây đời.

(Một tiếng gọi từ bên trong: Tý ơi! Tý đây phải không? Tất cả quay về phía ấy- Một em bé bằng tuổi Tý, tên là Đông đi đến ; trên vai có một chồi cây tơ và cái cuốc)

Tý.                

Kìa bạn Đông ! bỗng nhiên vắng mặt,

Sáng hôm nay mình đi tìm gọi khắp.

Ông cụ biết rồi, đâu phải rầy la

Việc đã xong, sao giờ bạn mới ra?

Đông.          

Mình lãnh phần tậu con trâu cộ,

Vì vô ý, để nó lồng, cây đổ,

Nên quyết tâm dậy sớm tìm cây,

Cho kín hàng, chỗ trống phải bù ngay.

Bà cụ.         

Thế thì tốt... và không thừa đâu nhá !

Cái cây đỗ vẫn còn nguyên rễ l

Tý và ông đã dựng đứng lại rồi,

Còn cái cây này, ta trồng tiếp một nơi,

Thêm tán, thêm tàn, làng càng mát mẻ

Tý.-                

Nào ta đặt nó ngay đầu chỗ rẽ

(Tý và Đông sửa soan bắt tay vào việc. Trong lúc đó, ông cụ bỗng “À” lên một tiếng và quay nhìn bà cụ)

Ông cụ.      

Có phải ở làng cụ còn một cháu trai ?

Bà cụ.      

 Gọi bằng cô, cũng ở quanh đây

Ông cụ.       

Với bên cụ, nó là con nhà chú ?

Bà cụ.           

Ngày ra đi tuổi nó mới mười hai...

Ông cụ.         

Tên Bảy chứ gì ?

(Bà cụ gật và ông cụ chỉ vào Đông)

Và cụ hãy nhìn đây

Xem nó giống ?

Bà cụ. (Bước lại gần Đông)

Hẳn đây là con nó ?

Ông cụ.

(Chuẩn bị lại đồ lề và chồi cây mới)

Thôi, sẽ gặp, còn nhiều tâm sự

Giờ đã trưa, chắc bà cũng nóng lòng

(Bảo sang Tý)

Tý ở đây, ta tiếp tục cuốc trồng,

Còn cháu Đông sẽ đưa bà về trước.

( Trong khi Đông bỡ ngỡ, thì bà cụ sờ lên đầu vuốt tóc)

Bà cụ.      

Quá vui sướng, mắt muốn nhòa lệ ướt,

Cháu bước đi cho bà vịn lên vai ;

Ta ung dung đi giữa hàng cây,

Thêm ấm áp tình quê ngày trở lại./.

YẾN LAN



THI SĨ VỚI GIAI NHÂN


Chúng ta thử ngồi nghĩ thầm: một vườn hoa không có bông hoa, một cảnh non sông gấm vóc lại không có một tia sáng, một hồ biếc mà ngàn năm không có lấy một đêm trăng. Và giữa nhân loại này không tìm thấy một giai nhân? Ôi, Thượng đế! Có lẽ nào! Có lẽ nào trên vườn trần gian này không có giai nhân được? Vì giai nhân là hoa của vườn xuân, là ánh sáng của non sông, là trăng của hồ biếc, là nàng Tiên của tất cả. Nàng tiên của mọi linh hồn.

Riêng trong đám thi nhân, giai nhân được họ tôn thờ và ca tụng hơn hết. Người ta phải lợi dụng cả danh nghĩa “giai nhân” để làm mồi cho đám thư sinh không ham học nữa. Ngày xưa, người chẳng đã đánh lừa một anh học trò lười rằng “Thư trung hữu mỹ nhan như ngọc”. Anh chàng lười mà đa tình này tưởng trong sách có mỹ nhân đẹp như ngọc thật, liền chui đầu đọc sách. Thế rồi mười năm sau anh tỉnh ngộ. Anh thi đỗ và được giai nhân con quan chánh chủ khảo chú ý. Thế rồi từ đó anh ta lấy tài thi văn của anh ra mà ca tụng “người ngọc”của anh và mở đầu một cuộc “luyện” giai nhân vào trong thơ.

Rồi người ta đua nhau tìm những tiếng hay, những lời đẹp để tặng giai nhân của mình

Và mỗi buổi sáng kia, những cậu thư sinh còn dưới tuổi mười sáu dã cao giọng “kẻ sách”

Quan quan Thư cưu

Tại hà chi châu;

Yểu điệu thục nữ

Quân tử hảo cầu

(KINH THI)

Dịch:

Tiếng Tiéng chim Thư cưu

Hỏi bên sông sâu;

Có nàng yểu diệu,

Khách quân tử cầu

(V.T.Can)

Riêng bốn tiếng “Yểu điệu thục nữ” cũng đủ tả cái cốt cách của một giai nhân rồi. Can chi phải thêm “phù dung như diện, liễu như mi” để cho người yên chí rằng: “mặt nàng” chỉ đẹp bằng hoa phù dung và “mày nàng” chỉ mềm bằng lá liễu. Không “nàng” còn đẹp hơn nữa, đẹp não nùng.

“Người ta” đã giận cụ Tiên điền Nguyễn Du ở những câu này:

...trang trọng khác vời

Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang

Hoa cười ngọc thốt đoan trang

Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da

Làn thu thủy nét xuân sơn

Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.

“Người ta”còn đẹp lắm cơ, đẹp nhiều cơ. Không một ai nên ví “người ta” với cái gì cả. Vì chả cái gì sánh được với cái đẹp huyền ảo của “Người ta”.

Núi mùa xuân có đẹp, trăng mùa thu có đầy, hoa có thắm, lá có xanh. Nhưng tất cả những cái ấy đều đẹp có hạn cả. Chớ nhan sắc của “Người ta” nó mơ hồ huyền ảo biết ngần nào. Đừng ví với cái gì nữa mà có tội.

Cứ như hai nhà thi sĩ Nguyễn Bính và Nguyễn Nhược Pháp thế mà hóm. Này nhé, “Người ta” của Nguyễn Nhược Pháp chỉ có thế này:

Mê nàng bao nhiêu người làm thơ

Khiếp! Bao nhiêu người làm thơ vì “Nàng”. Chắc nàng đẹp lắm. Đẹp hết chỗ nói. Nhưng cái chỗ “hết chỗ nói” ấy nó cho người đọc một hình ảnh mập mờ mà thích lắm, thích lắm.

Ba năm trở lại đất Hà Đông,

Người cũ, cô Oanh má vẫn hồng.

Tóc vẫn bỏ lơi răng vẫn trắng,

Vẫn ngồi lơ đãng liếc qua song.

Nhưng vẫn vô tình với khách thơ

Qua đường, hai mắt ngại ngùng đưa.

Mà hai mắt ấy lâu nay vẫn

Riêng để nhìn ai trong giấc mơ.

(Nguyễn Bính)

Thôi nhé, thế là đủ rồi. Một cô gái răng trắng bóng, má hồng hồng, tóc bỏ lơi lại ngồi mơ mộng bên cửa sổ là đủ tài liệu cho một bức vẻ của nhà nghệ sĩ tài hoa rồi.

Và anh chàng nghệ sĩ của màu hoàng yến lại càng “hóm” nữa. Cứ đọc mấy câu thơ “lăng nhăng” này của anh ta, mình cũng cảm động:

Nếu không trăng

Đêm đông tôi ngâm thơ cùng gió lạnh.

Nếu không gió

Trưa hè tôi tìm vận dưới ao sen,

Mà không trăng, không gió, không ao sen.

Tôi im lặng... nhìn môi người thiếu nữ

(V.T.Can)

Thế thôi. Không hơn một lời. Không phải nói rằng môi ấy “thắm như san hô”. Vì lắm người có biết san hô là cái quái gì đâu.

Cái nhan sắc của giai nhân đã huyền ảo không chừng thì thi nhân cũng phải tìm những vần mơ hồ mà tả. Ta hãy nhắm mắt lại mà đọc câu này:

Bóng tiên thấp thoáng trong mành,

Cỏ cây cũng muốn nổi tình mây mưa.

Rồi ta tưởng tượng, tưởng tượng. Đây là giai nhân của Thế Lữ:

Bỗng đâu gặp gỡ tình cờ,

Cô nàng cao váy ỡm ờ đứng trông

Tóc cô gió lững lơ chòng

Nắng vàng rỡn cặp má hồng hồng tươi.

Đọc mấy lời ấy còn thú vị hơn mấy câu này:

Đôi mắt xanh đắm đuối long lanh,

Như đôi ngọc huyền, sâu sa, huyền bí

Cặp môi son đằm thắm nét anh đào.

Ai thì không biết chứ riêng tôi từ bé tôi không biết “đôi ngọc huyền” và “nét anh đào” là cái quỉ gì để so sánh với mắt “nàng cả”.

 

YẾN LAN

(Nguôn: Tiểu thuyết thứ năm số 10 tháng 11 năm 1938)


 

NHẠC MƠ


Nếu ngày xưa, tình ái thắt chặt hai người trong mến luyến thì tối nay, chàng bóp trán nhớ lại người đàn bà ấy.

Chối cải sao xong; người đàn bà ấy, chính Nàng, mười lăm năm trước, chàng đã gặp, đã yêu.

Tên nàng, tuổi nàng, hỏi làm gì, đến ngày xưa chàng cũng chưa biết, huống bây giờ sau một xa cách khá lâu dài...

Năm trước, chàng trọ trên một gác nhỏ ở Hà Nội. Và Nàng, sống cùng cha mẹ trên tầng lầu to lớn đối diện gác chàng. Không ai thách ai, hai người ganh nhau im lặng trang điểm phòng; Những bức tường quét vôi xanh, sáng sủa đúng hợp với những bức tranh, ảnh các cô đào chiếu bóng mà chàng cố treo lệch lac. Còn phòng Nàng, tô vôi xanh treo vài bức họa Tàu giá trị. Tận phía trong để một chiếc gương đứng. Trên trần nhà đều giăng kết những sợi giây năm màu uốn dài như sóng gợn. Phòng chàng, về chiều, những ánh hoàng run vuốt trên tường xanh, trông có vẻ âm thầm tĩnh mịch. Phòng Nàng chỉ đẹp về buổi sáng ; lúc nắng vàng dặm, xuyên cửa kính, rọi lên những tấm gương chói loáng. Vào buổi sáng, rộn ràng ánh sáng, phòng Nàng đúc bằng vàng, nức vui lộng lẫy.  Nhờ mỹ thuật, hai người hiểu nhau riêng trong kín đáo, lặng thầm.

Tiếng piano tự phòng nàng lan ra ngoài bồng bột. Và giọng hát chàng mê man vang quyện lấy.

Lòng hai người giống hai bông trẻ dính hai cành. Chỉ mong “gió xe”, chở phấn hoa đực bay sang đậu tronng đài hoa cái thì hai nhụy yêu hợp gắn luôn đời. Nhưng gió xe không tới chở; tình ái lửng lơ bay giữa không gian chia biệt của hai lầu.

Nàng mơ màng, tin đợi, những khóe mắt nàng trao, những khóe mắt gửi dấu cho chàng, đều khuyên răn, thúc giục...

Nàng rải gấm vóc khắp nơi “lòng trinh nữ” để chờ lời “ướm thử”  của chàng duyên. Và sự mong mỏi ở hồn Nàng ra chừng phẩn uất lắm.

Mà chàng chỉ có gan ướm thử hư không một mình thốt lời tình tự nhỏ. Chàng chắc chắn sự gần cạnh kéo dài mãi mãi; cần gì xin, cần gì tỏ thêm phiền.

Và những phút mơ mơ làm mờ mắt chàng. Cảm thấy đầy đủ trong tình yêu không rõ rệt giữa hai người, chàng quên mất hồi ly biệt. Chàng mê nàng như mê một kẻ trong mộng dịu, chẳng hề tìm cách lấn chiếm. Vì vậy hai người yêu dầu hết tuổi cũng chưa dám tin nhau. Và tình lãng mạn hóa tình khô khan, tình trống trải.

Tin tưởng đêm nào cũng hiện một hình quen trong khung cửa mờ nhạt ảo ảnh. Nhưng giờ khuya, thành phố im lìm dưới bóng trời khuya lặng. Không một lời chim nức nở rớt, không một tiếng động nhẹ, đeo giữa hương đêm, tha hồ chàng cất giọng hát bản “mê say” và nàng nhấn phím đàn chung họa.

Dầu hứa hẹn trong liếc mắt, ưng thuận lúc môi cười, nhưng hai trẻ tốt hơn là nói rõ... mộng lòng cùng nhau! Phải thay đổi luôn lời tình tự để ân ái đừng nhàm, đừng cũ kỹ!

Và hai người, không rào chông gai gươm giáo, cổng đi vào không đóng kín thì còn chán kẻ vào lầu Nàng rất dễ dãi. Rốt cuộc một kẻ thành công: kẻ ấy cầu hôn và toại ý.

Tối nào cũng vậy, ngồi chỗ cũ , chàng nhìn Nàng in hình đẹp trong khung cửa bên lầu. Bỗng một đêm ân ái trong bản nhạc cuối cùng tha thiết, chàng chưa hề biết điều biến cố đáng buồn sắp xẩy ra, vẫn đắm đuối, vững lòng tôn thờ tình ảo ảnh.

Chàng cất tiếng hát, say sưa: “Có đôi chim, phiêu bạc đến trần gian, đậu trên hai nóc lầu xa cách. Tuy chỉ vài sải cánh, đủ gần nhau, nhưng hai con chim đứng im một chỗ. Chúng đam mê trọn một hương giữa trăm hương và trước ngàn tiếng, chúng chỉ lặng thầm “ca một tiéng. Hương ấy là hương “ái tình” tiếng ấy là tiếng nhac “mê trong tưởng tượng. Có lẽ muôn kiếp đôi chim vẫn say yêu trong “xa xôi..trong im lặng” .

Tiếng hát ngừng. Điệu đàn đứng trên hương đêm, gió lặng bặt theo mây dừng. Tình mộng sau tối này chỉ còn mình chàng thờ phụng.

Cửa sổ lầu bên khóa chặt. Ngồi chổ cũ, chàng lặng ngắm niềm cô tịch của gian lầu vắng bóng người yêu. Máu trong tim dâng lên đầu, tụ trên mặt. Chàng choáng váng. Chàng muốn lục nhìn khắp phòng, nhưng tầm mắt bị cửa đóng và tường dày che kín mất.

Nhờ một sáng, cửa sổ mở, hồi hộp chàng trông sang. Chiếc gương đứng nàng thường soi, không thấy nữa. Bụi bám đầy các bức họa Tàu. Gió thổi vài sợi giấy mầu đứt rơi lòng thòng đánh vào tường kêu phần phật. Nhện giăng lưới mỏng nơi song cửa. Ôi mỉa mai!

Chàng đau đớn hát:

Trời đất không mênh mong nhưng chính lòng em hay lòng anh vô bến.

Hương chưa tan, gió đã thôi đưa. Em nỡ rời anh, lúc yêu đương rạng rỡ hai phòng.

Bởi vì không hiểu, em ơi! Tình im lặng là tình vang ngân, tình đắm đuối người yêu mơ là người “khát khao, người bỡ ngỡ. Chân rụt rè và lưỡng lự trước lối yêu.

Cái gì không tiêu diệt? Vật gì đâu sống mãi đờii đời? Chim đậu lại để rồi cất cánh. Em bên anh và sẽ xa anh. Thì sự thật thêm phần nhớ lúc xa nhau.

Em cứ tới, anh sẵn sàng rước đón. Lầu ân ái dựng trên lòng anh trinh bạch rất nguy nga, rất tráng lệ, chờ em. Xin cứ tới và nhớ mang theo tình “ngọc thạch”.Anh vẫn đợi với hồn “trong sạch”. Anh tin em, sôi nổi tin em. Tuy “xa” em mà hồn mãi vang nhạc ái

Em rời lầu đài, em rứt cả cảnh trần gian, nhưng vẫn sống trong lòng anh mơ quạnh. Em cứ tới nhờ dắt sẵn một duyên lành ngào ngạt. Ngay hôm nay anh yêu em, anh luôn nghĩ đến em. Em cứ tới, và chiều nay anh sẵn sàng rước đón. Nhưng nghe không em, chớ hỏi chuyện ngày mai. Đời là một giấc mơ dài hoặc nhiều giấc mơ ngắn hợp kết. Ta sinh ra lắm trái ngược trong lòng. Em ơi! trời đất không mênh mông, nhưng chính lòng ta vô bến.”

Những đêm êm, chàng mơ màng hát. Không một cung đờn dìu dặt với. Ít tháng qua, chàng bình tĩnh hiểu đời hơn. Gặp nàng một tối trong vườn, chàng tỏ lời yêu thứ thật.

Dưới ánh trăng lẫn sương lam, bên gốc liễu rũ lá tía buồn thiu, trong không khí đượm nồng ân ái, nếu nàng dừng bước trao tay thì yêu đương còn cơ cứu vớt. Nhưng nàng chạy đi mặc chàng thất vọng sau gót kiều.

Đài hoa đầy nhụy đực bao hoa xa bay tới không thừa một chỗ hở chứa đựng hoa gần. Nếu hồi ấy, đỉnh trầm hương còn tỏa khói. Muôn gió hiu hiu ùa đuổi hơi nồng. Nàng nhận tình chàng đứng e lệ thì sao phải sượng sùng hôm nay.

Chiều nay, nhìn nàng chàng cảm tưởng nhìn một thân tàn dại...và không nhớ mãi, chàng biết đâu đó là một hoa thắm chàng hằng ngắm những ngày xưa.

Độ mới gặp nàng, chàng tráng kiện, mắt sáng quắc những tia hăng, môi luôn hé như sẵn sàng tỏ hết tình yêu, nàng trẻ đẹp thân vừa tay ôm.

Bây giờ gặp nàng, chàng đã mọc râu cằm, không cười liếc, giống ông già bệ vệ - Nàng, xuân thời quá bước, người béo phị, da hơi nhăn sau lớp phấn dày, tóc khô khan biếng chải.

Ngày xưa, ngón tay ngà trắng linh hoạt trên dãy phím màu mun khiến nẩy ra âm thanh du dương, trầm bổng. Bây giờ tay nàng khô đét, chỉ kết bằng xương rõ và gân xanh.

“Phút người bên người chiều nay”  ví sao được “đây người xa độ trước”. Ngày xưa, tuy xa nhau, tuy chỉ mối dây, nhưng đủ gợi trong trí hai người biết bao ngất ngây, bao chếnh choáng.

Nếu tình ái, thời ấy thắt chặt hai người trong mến luyến thì chàng chẳng bóp trán nhớ ai.

Cố nhớ nghĩa là quên rồi đó. Trời có ngày nắng sẽ có ngày mưa. Chuyện người có lúc là tiếng trúc trắc xe chuyển trên đường gồ. Cũng như chàng với nàng xưa kia ăn ý hơn hai câu thơ chung vận, khăng khít hơn bướm với hoa để bây giờ bẻ bàng và ngạc nhiên lúc gâp gỡ.

Gặp nhau, xa nhau, để cố quên rồi gắng nhớ. Độ vài năm nữa, hai người sẽ nằm dưới hai mộ khác nghĩa địa. Hồi ấy khác bây giờ lắm nữa.

Gió thổi tới làm người “bắn tiếng” Hai người âm thầm kể lể chuyện hôm sau:

- Em nhớ chăng thời trẻ đẹp!

- Anh nhớ chăng buổi tối sương xưa!

Kẻ dương thế nghe đâu lời tâm sự ấy. Mãi tới buổi gió thay phương, cỏ trọc trên mộ, câu chuyện đôi người hết dần ham ước. Chán nản chẳng trước rồi sau cũng quên nhau. Thôi, nói làm chi điều tương phản mãi. Chuyện trước, nay, sau, của hai người là thế.

Trước kia và bây giờ là hai thế giới chia rẽ bởi muôn suối, ngàn đường. Tìm dấu vết cũ khác nào đi tìm điều trái ngược.

 

YẾN LAN

(Nguồn: Tiểu thuyết thứ năm số 33 ngày 1.6.1939)

Chia sẻ liên kết này...

Add comment


Việt Tuấn Trinh | www.viettuantrinh.com