Đặc san 60 năm Trung học phổ thông PHAN CHÂU TRINH - Đà Nẵng

Mục lục
Đặc san 60 năm Trung học phổ thông PHAN CHÂU TRINH - Đà Nẵng
* Ông khóc người xưa, tôi khóc trả
* Ánh mắt thầy Hoàng Bích Sơn
Tất cả các trang

Sáng nay, tôi vừa nhận được phát chuyển nhanh Đặc san 60 năm Trung học phổ thông PHAN CHÂU TRINH - Đà Nẵng (NXB Đà Nẵng - 2002) - phát hành nhân kỷ niệm 60 năm thành lập trường (15.9.1952 - 15.9.2012). Người gửi tặng là anh bạn Lê Văn Hướng. Nhân đây xin cám ơn.

PCT

Đặc san này dày 200 trang, khổ 20x28 cm, ngoài Thư của bà Nguyễn Thị Bình (nguyên Phó Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam, nguyên Bộ trưởng Bộ Giáo dục), còn có nhiều bài viết giá trị của các nhà nghiên cứu, thầy cô, cựu học sinh như Lê Phú Kỳ, Lê Trung Chính, Hoàng Văn Khánh, Lê Thị Kinh, Trần Nguyên Hậu, Lê Minh Quốc,  Nguyễn Quang Hưng, Lê Thị Thu Hà, Đỗ Pháp, Huỳnh văn Hoa, Trần Đình Liễn, Nguyễn Nhật Ánh, Trần Ngọc Châu, Trần Trung Sáng, Trương Điện Thắng, Trần Hoan Trinh, Lê Cát Trọng Lý, Phan Duy Nhân, Tôn Thất Bằng, Vĩnh Khôi v.v... Trình bày đặc san này là họa sĩ thiết kế La Thanh Hiền - bạn học chung lớp với tôi ở trường Phan Châu Trinh.

Vì lý do bản quyền, nay tôi chỉ post lại bài Ông khóc ngời xưa, tôi khóc trả của nhà giáo, nhà nghiên cứu Huỳnh Văn Hoa, Ánh mắt thầy Hoàng Bích Sơn của nhà thơ, nhà báo Trương Điện Thắng với sự đồng ý của tác giả.

L.M.Q

IX.2012


 

ÔNG KHÓC NGƯỜI XƯA, TÔI KHÓC TRẢ

(Về 10 bài thơ "Khóc ông Tú Chiểu" của Phan Châu Trinh)

HUỲNH VĂN HOA

Tháng 8-1907, chí sĩ Phan Châu Trinh được Ban giảng huấn Đông Kinh Nghĩa Thục mời ra Hà Nội diễn giảng. Tại đây, ông vừa diễn thuyết vừa viết bài cho một số tờ báo như Đăng cổ tùng báo. Đại Việt,... Cùng thời gian này, phong trào Duy tân nổ ra mạnh mẽ ở nhiều tỉnh, thành miền Trung. Ban đầu ở Quảng Nam, sau lan ra nhiều tỉnh. Tháng 03-1908, nhân vụ xin xâu và biểu tình của nhân dân Quảng Nam, chính phủ Nam triều và tòa Khâm sứ Pháp ở Huế vu cho Phan Châu Trinh là chủ mưu và ra lệnh bắt ông.

 

PHAN-CHAU-TRINH-1-R


Tư liệu L.M.Q

Phan Châu Trinh bị bắt và giải về Huế, kết án “Trảm giam hậu, lưu tam thiên lý, ngộ xá bất nguyên” (Chém nhưng giam lại, đày xa ba ngàn dặm gặp ân xá cũng không cho về). Cuối cùng, ông bị đày ra Côn Đảo. Tháng 4-1908, ông đến đó. Hơn hai năm sau, nhờ có chân trong Hội Nhân quyền và Dân quyền nên Phan được can thiệp và được thả tự do. Phan được phóng thích ngày 24-6-1910 và đưa về quản thúc tại Mỹ Tho.

Những ngày sống tại Mỹ Tho, gặp gỡ và trao đổi với những con người nghĩa khí của Nam bộ, bao âm vang cuộc đời của những Nguyễn Đình Chiểu, Thủ Khoa Huân, Phan Văn Trị,... như còn đâu đây và gợi nên nơi Phan Châu Trinh nhiều cảm kích, mến phục. ông viết nhiều thơ, trong đó có chùm bài Khóc ông Tú Chiểu (Họa vần 10 bài ông Đồ Chiểu khóc Trương Định).

Trên chủ đề Ông khóc người xưa, tôi khóc trả, Phan Châu Trinh đã bộc lộ huyết lệ, gan ruột của một người anh hùng khóc một anh hùng. Lời lẽ rất chân thành, thống thiết.

Mười bài thơ liền một mạch, có chỗ nói lên tấm lòng của cụ Đồ Chiểu đối với Trương Định, có chỗ bày tỏ tâm sự, niềm ưu ái và chí hướng của bản thân.


PCT-1

Bản in năm 1927 tại Sài Gòn. Tư liệu L.M.Q

Mở đầu chùm thơ, Phan Châu Trinh nhắc lại sự nghiệp của Nguyễn Đình Chiểu, nhà thơ mù đã yêu đất nước đến độ bi thương và cháy bỏng :

Huyết lệ trăm dòng đau Tổ quốc
Văn chương một mạch rạng mi môn
Lòng son còn có non sông tạc
Nét mực chưa đành cỏ bụi chôn...

(Bài I)

Phan Châu Trinh gọi chùm thơ của mình là Mười bài gợi chút nghĩa chiêu hồn. Đúng vậy. Ngày trước, vì yêu tấm lòng trung nghĩa của tướng quân Trương Định, Nguyễn Đình Chiểu đã khô nước mắt tiếc thương. Giờ đây, sau hơn hai thập kỉ ngày cụ đồ qua đời, một người con xứ Quảng cũng đã thấu hiểu và đồng cảm sâu sắc tâm sự của cụ:

Mưa máu còn kêu hồn vọng đế
Héo gan vì khóc kẻ trung thần
Anh hùng kết cuộc chưa đành vậy
Chua xót cho ai một chữ truân.

(Bài II)

Hạ chữ truân ở cuối bài, chỉ một từ thôi, lời khóc thật chí tình, chí nghĩa. Ở bài III, nỗi niềm thương cảm, gánh nặng quân thân như tô đậm thêm ở hai câu thực:

Khóc núi, khóc sông sâu lã chã
Lo trời, lo bể dạ bâng khuâng...

Khóc, sầu, lo các trạng thái đó là có thật khi bao cuộc khởi nghĩa yêu nước lần lượt thất bại, đất nước rơi dần vào tay kẻ thù :

Sáu tỉnh cỏ hoa rầy quạnh vắng ...

(Bài III)

Hình như ở đây Phan Châu Trinh cũng cảm khái cho bản thân mình. Mượn ý Đồ Chiểu khóc Trương Định âu đó cũng là gián tiếp nhìn mình và nhìn tình thế hiện tại của đất nước. Nằm trong văn mạch đó, ở bài thứ IV, mở đầu, ông viết ngay :

Gánh nặng quân thân đặng mấy vai?
Biết đem gan ruột gởi vào ai?

Nhưng hai câu thơ cuối mới là gan ruột, giọng thơ vừa xót xa vừa u uẩn, nỗi niềm như không giữ được, cứ tràn ra trên giấy :

Đèn khuya rượu giả ngâm đôi giọng
Giọt lệ câu thi chắp văn dài.

Ở bài V và VI, Phan Châu Trinh hiểu tấm lòng sắt son, cảm phục một tay chống chỏi giữa trương đua của Trương Định, cảm tấm lòng ngậm đá biển đông và cả mấy tiếng kêu trời đối với triều đình, đối với dân với nước khi cuộc thế ngữa nghiêng khi cái nợ non sông quyết gỡ mà chưa xong của người anh hùng đất Gò Công:

Sùi sụt nhớ người càng tưởng cảnh
Lờ mờ bụi lấp dấu Gò Công

(Bài VI)

Phan Châu Trinh hiểu rằng, những người như Nguyễn Đình Chiểu, Trương Định là những ngọn cờ cổ vũ lòng yêu nước chống giặc. Bởi thế, họ mất đi, non sông, trời đất, lòng người sao nguôi được. Trong khi đó, đất nước đã thay ngôi đổi chủ, bao kẻ xu thời xun xoe nịnh bợ kẻ thù:

Cây cỏ ngậm ngùi tình cố thổ
Ngựa xe thay đổi dạng tân quan

Để rồi :

Non sông còn đó có ai toan?

(Bài VII)

Câu hỏi đầy trách nhiệm và cũng đầy đau đớn. Nhớ lại lần vào dự tang Phan Châu Trinh, trong một bài thơ cảm tác về đất và người Gia Định, hiểu chí hướng và tâm sự của Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng cũng day dứt đặt dấu hỏi:

Hỏi nay con cháu có ai không?

pct-2-Rrjpg


Tư liệu L.M.Q

Thì ra, những trái tim nhiệt thành bao giờ cũng gặp nhau ở nỗi niềm ưu quốc ái dân. Ở bài thơ thứ VIII, Phan Châu Trinh cũng bày tỏ :

Bể sâu mù mịt cây toan lấp
Trời rách toang loang đá sắp khâu...

Bài thơ thứ IX là bài Phan Châu Trinh muốn nói rõ thêm cuộc đời cụ Đồ. Ông mượn tích Viên Sùng Hoán, người cuối đời Minh, chống Mãn Thanh và Đổ Phủ một tấm lòng thương dân thương nước để chiêu hồn Nguyễn Đình Chiểu.

Kết thúc chùm thơ, ở bài X, Phan Châu Trinh hạ hai câu thơ cuối :

Ớ người chín suối thương chăng nhẽ
Một nén tâm hương hãy biết đây.

Quả vậy, đây chính là nén hương lòng Phan Châu Trinh gửi Đồ Chiểu. Những ngày tháng chuẩn bị cho một chuyến đi xa, tìm con đường mới, Phan Châu Trinh đã tìm đến với cụ Đồ và đã tìm thấy nơi đây một lực lượng tinh thần cần thiết cho mình. Câu thơ Một thân nam bắc lại đông tây đã nói điều đó.

Có lẽ, điều dễ thống nhất với nhau rằng, phần đẹp đẽ nhất, cao quý nhất và đáng trân trọng nhất, là qua 10 bài thơ Khóc ông Tú Chiểu, Phan Châu Trinh đã trải tấm lòng mình ta đối với một nhân cách lớn, một trái tim lớn. Đặt bài thơ vào hoàn cảnh bấy giờ, ý nghĩa lại càng sâu sắc và thấm thía hơn.


H.V.H


 

ÁNH MẮT THẦY HOÀNG BÍCH SƠN

TRƯƠNG ĐIỆN THẮNG

1-

Năm học Đệ Thất trường trung học Phan Châu Trinh, chúng tôi được học nhạc với thầy Hoàng Bích Sơn. Ở Đà Nẵng vào đầu những năm 60 thế kỷ trước, có hai thầy dạy nhạc là nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ ở trường Bồ Đề và nhạc sĩ Hoàng Bích Sơn ở Phan Châu Trinh.

Trong hiểu biết của lớp học trò chúng tôi thời ấy, Phạm Thế Mỹ với ca khúc Trăng tàn trên hè phố nổi tiếng, còn thầy Sơn thì đó là bài hiệu đoàn Phan Châu Trinh hành khúc, mà bất cứ học sinh nào vào học ở ngôi trường công lập nổi tiếng này cũng đều thuộc, đều hát đúng nhịp với sự hướng dẫn trực tiếp của chính tác giả…

Hoang-Bch-Son--_nh-L-huy-QuangRR

Thầy Hoàng Bích Sơn - ảnh: T Đ T

Chúng tôi sau này dù theo học ngành nào cũng đều nắm chắc được những điều cơ bản về nhạc lý, có lẽ đó là những năm học với thầy Sơn. Tuy môn Nhạc mỗi tuần chỉ học một giờ, nhưng ấn tượng về người thầy đầu tiên đưa ta vào thế giới âm nhạc lại rất khó phai. Thầy Sơn dáng thấp người nhưng khá nhanh nhẹn, dù ở phía sau, nhưng nhìn thấy một dáng đi có phần vội vã trên hành lang, nách kẹp một xấp tài liệu và trên tay có vài viên phấn màu, mọi học sinh đều có thể nhận ra dáng dấp không lẩn được với ai của thầy Hoàng Bích Sơn. “Một, hai, ba, bốn”, mọi học sinh đều phải biết dùng cánh tay phải đánh nhịp: trên xuống, trái sang phải, phải lên đỉnh và từ đỉnh xuống dưới…Cứ thế chúng tôi được thầy dẫn những bước đi đầu tiên…Và sau này, trong số những học trò của thầy, nhiều người đã trở thành những nhạc sĩ, như Nguyên Chương (Lý Văn Chương), Phạm Tình, Trần Dục, Nguyễn Nam (hay nhiều thành viên trong phong trào du ca trước năm 1975 như Phạm Thị Lộc, Trương Xuân Mẫn, Phạm Sỹ Sáu…)

Thầy Sơn ít sáng tác ca khúc. Ngay bài Phan Châu Trinh hành khúc, sau này nhiều năm thầy cho biết là cùng viết lời chung với thầy hiệu trưởng đầu tiên của trường. Nhưng không một ai trong chúng tôi có thể quên được, từng lời ca và nhịp điệu:

Phan Châu Trinh, người chiến sĩ quốc gia bất diệt

đã từng hy sinh tranh đấu cho dân quyền

ngàn đời còn ghi công ơn nhà chí sĩ.

Buồn thấy đế quốc chiếm giang san

công lao bao đấng anh hùng,

điêu linh dưới ách gông cùm.

Ra đi quyết lòng vì nước quên mình.

Hồ Tây phương Nam còn in bóng.

Lời ai dư âm vẵng qua rừng.

Cùng phá xích xiềng!giành lấy dân quyền,

gương Người nêu cao toàn dân ghi nhớ.

Phan Châu Trinh muôn đời quyết theo gương Người…

…Ghi nhớ ơn người / đoàn ta quyết đi lên…

Khi bắt nhịp những bài hát, khi dạy những lý thuyết âm nhạc nhập môn cho chúng tôi, thầy Sơn ít khi cười. Nhưng trong ánh mắt của thầy, tôi cảm nhận ở đó là những tình cảm yêu thương, tha thiết của một người nghệ sĩ trên bục giảng…

2-

Nhiều năm sau này, khi đã ra đời, bọn học trò cũ của các thầy ở trường Phan Châu Trinh vẫn tổ chức những cuộc gặp mặt hàng năm vào dịp tết và nhắc lại nhiều kỷ niệm về các thầy cô thời trung học.

Thầy Hoàng Bích Sơn luôn chiếm một thời lượng đáng kể trong những hồi ức ấy với bao tình cảm quý mến.

Cuộc đời có những đổi thay theo thế sự. Nghỉ dạy, thầy vẫn ở căn nhà cấp 4 đơn sơ trong khu cư xá kiệt 8 Hoàng Diệu với đủ thứ nghề. Nhưng tôi vẫn nhớ nhất là những lần cùng với Trần Dục đến thăm thầy, lúc thầy đang vất vả với “nghề” làm xà phòng thủ công để kiếm sống sau giải phóng. Vừa sản xuất vừa đi tìm mối tiêu thụ bằng phong cách nhỏ nhẹ, nhu mì của một thầy giáo. Ôi bao nhiêu là thương mến!

Sau này nữa, một lần tình cờ tôi gặp thầy trong một quán phở khuya trên lề đường Trưng Nữ Vương, gần nhà tôi. Một quán phở mà tôi rất ấn tượng bởi đôi vợ chồng trẻ: Lúc vắng khách, họ xách cây đàn ghi ta ra, kẻ đệm người hát như một đôi tình nhân. Tôi “thấy” thầy tôi. Không phải là khách đi ăn khuya mà là… ( xin lỗi thầy nghìn lần vì sự vụng dại này của em), mà là…một cụ già đang rửa chén bát cho hàng phở. Thì ra, vợ chồng chủ quán chính là con và dâu của thầy!

Tôi lặng lẽ gởi cho anh bạn chủ quán chút quà cho thầy và yêu cầu chỉ nói là của học trò cũ gởi biếu. “Em đừng nói là ai cả, nghe!”.

Sau đó, tôi không còn gặp thầy ở quán phở nữa. Nhưng hình ảnh của thầy vào lúc đó cứ ám ảnh mãi trong tôi. Bao nhiêu lứa học trò đã rời trường xưa, ra thành người. Nhưng người thầy vẫn lặng lẽ như ông chèo đò vô danh trên bến cũ đa đoan của cuộc đời…

Một lần họp mặt lớp cũ cuối năm ở nhà tôi, chúng tôi đã mời được các thầy Trần Đại Tăng và Hoàng Bích Sơn đến dự. Hôm ấy thất cảm động. Hoan Trinh-Trần Đại Tăng đọc lại bài thơ tình Thỏ thẻ. Thầy-nhạc sĩ Hoàng Bích Sơn vẫn đưa cánh tay phải lên để bắt nhịp bài Phan Châu Trinh hành khúc. Chúng tôi đồng ca hào hứng như những ngày niên thiếu…

Còn thầy Sơn, ánh mắt thầy hôm ấy rất lạ, như có lửa, như nung cháy bao nhiêu phiền muộn, trắc trở sau ngày rời bục giảng. Trong đôi mắt ấy, bao lứa học trò đã đi qua…

T.Đ.T

Chia sẻ liên kết này...

Add comment


Việt Tuấn Trinh | www.viettuantrinh.com