Tập thơ GA NÚI của nhà thơ NGUYỄN TẤN ON

 


ganuiR

Qua nhà văn Đoàn Thạch Biền, trang web www.leminhquoc.vn nhận được tập thơ Ga núi (NXB Văn Học) của bạn thơ Nguyễn Tấn On. Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.

 

GA NÚI

Sân ga chìm giữa mù sương

Nằm mơ tiếng chạm cung đường ngày xưa

Nắng lạnh nắng, mưa nghiêng mưa

Con tàu ngày ấy chở vừa mùa riêng

Chở đêm má lúm đồng tiền

Chở vầng trăng khuyết bên triền rừng thông

Chở đi những nụ hoa hồng

Chở về với cả khúc đồng dao xưa

Chở thời thịnh trị ngai vua

Chở trăng rao bán chở mùa thi nhân

Chở trời xuân nắng trong ngần

Chở chiều thổ mộ bâng khuâng liễu buồn

Chở chầm chậm một hồi chuông

Chở bao du khách về nguồn yêu hương

Đoàn tàu lầm lũi dụi sương

Tiếng còi ký ức tì đường răng cưa

Tàu về ga núi reo mưa

Trong toa tàu cũ môi xưa - nhớ tình

Thức dậy, thức dậy bình minh

Mong ga Đà Lạt hồi sinh - chở mùa


VÀ TÔI CÒN NỢ

Gió mưa mắc nợ

Những người gánh mùa

Dưới mưa lầm lũi

Gánh rau đi về

Bất chợt bão giông

Mất mùa xô ngã

Bất chợt mưa đá

Bầm dập rau hoa

Bất chợt xót xa

Đầm đìa sương muối

Bất chợt ối thiu

Trở mùa mất giá

 

Giấc mơ mắc nợ

Con đường rau hoa

Những bước chân qua

Nẩy mầm hạnh phúc


Ban mai mắc nợ

Lớp học mái trường

Tận phía mù sương

Mái tranh vách nứa

Đùn nắng dột mưa

Đổ xa thành phố

Đến mùa khai trường

Vẫn còn thiếu vở

Quần áo phong phanh

Ngập ngừng nhập học

Vẫn cười hồn nhiên

Đôi mắt mặt trời

 

Và tôi còn nợ

Một bản trường ca

Trong đất có muối

Mồ hôi nhân dân


CẢM XÚC THÁNG CHÍN


Tháng chín

đi ngang hàng cây phố

không dám đụng vào sợ lá rơi đau

lặng thinh ta chầm chậm bên nhau

từ trong nắng chênh chao - vàng rất lạ


Tháng chín

mắt ai buồn buông rèm ô cửa

gió vô tình làm lạc tiếng ghi ta

một người cô đơn lặng lẽ bước qua

bên hiên phố- tiếng giày như ghìm lại


Tháng chín

quán vắng - chạm vào tranh phố Phái

không vàng hơn

pha giọt nâu buồn

sợi khói mỏng cố giữ ngày ở lại

chút sa mù tỳ nắng

đuối vàng phai

Tháng chín

nín đi em -  đừng khóc

gió va cây - cây chạm lá - rụng mùa

ba mươi năm về nơi - hẹn cũ

tay run run - quệt nước mắt - còn duyên

N.T.O

(nguồn: Trích từ tập Ga núi của Nguyễn Tấn On)

 

Cùng một tác giả:

Thơ NGUYỄN TẤN ON

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ HƯNG VKD: THƠ TẶNG VỢ

 

lehung-tho-R

Hòa hợp- kỳ duyên: Tôi có Em


I- Người em yêu mến (1959 – 1969)

(Mười năm đầu)


Tâm ý - kỳ duyên Tôi biết Em,

Tuổi hai mươi đẹp mộng êm đềm…

Thư sinh giã biệt đời côi cút,

Tay trắng mơ đầy nghiệp bút nghiên!

Ngày ấy Tôi như vườn cỏ lạ,

Em vào: ong - bướm trỗi hờn, ghen…

Lời hoa ghi trọn hương tình ái,

Hòa hợp- kỳ duyên: Tôi có Em

 

II- Người bạn ân tình (1969-1999)

(Ba chục năm sau)


Gập ghềnh hạnh phúc chốn trần gian,

Em đã cùng Tôi dạo phím đàn:

- Bão biển mưa rừng chia sẻ sống,

Đường đời hai đứa vượt gian nan!

Em là tất cả hồn Tôi đó,

Bướm bạn hoa tình, bao chứa chan…

Từ mộng đem mơ vào trải nghiệm,

Em nguồn êm ả chốn trần gian!

 

III- Người chị quí thương (sau 1999)

(Những năm sau đáo tuế)


Nhịp chân đáo tuế - tuổi vào đông…

Vóc hạc thời gian nhạt sắc hồng,

Tình vẫn hơn xưa, và sáng đẹp:

-  Hào quang người chị tỏa soi chung,

Bên chồng - con - cháu quên năm tháng…

Thần tượng gia đình, Em biết không?

Tôi cám ơn đời ban tặng: Vợ,

Khung trời thương quí với bao dung !

 

Lê Hưng VKD
(Hè 2014)

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÂM BÍCH THỦY: Yến Lan - Những năm đầu giải phóng tại quê nhà

Ngày mới về lại quê nhà ngay sau Giải phóng 1975: Tất cả đã thay đổi; con sông nước trong xanh cạnh nhà bác Sáu Mai; xưa má thường ra giặt giũ; nay khô cạn, trơ sỏi đá, rác rến lấp đầy một nửa. Chiến tranh đã xóa đi nhiều dấu ấn thời trai trẻ của ba tôi - nhà thơ Yến Lan. Hoài niệm và thực tiễn cứ đan xen, chập chờn thực hư, nhớ nhớ, quên quên. Nghĩ đi nghĩ lại, tình quê lại choán hết tâm hồn ông:


nha_th_Yn_Lan_RRR

Nhà thơ Yến Lan

Chia sẻ liên kết này...

 
 

ĐOÀN XUÂN HẢI: Các vị thần vẫy gọi


Mặc dù phải đối mặt với khủng hoảng nợ công, thậm chí đứng trước nguy cơ về sự tồn tại trong việc sử dụng đồng tiền chung châu Âu (Eurozone), song vùng đất này vẫn tự hào là cái nôi của nền văn minh nhân loại. Đó là Hy Lạp.

Visa Schengen và 3 chặng đường bay

khunghoang1

Nhà hàng Vietnam ở Athens - Ảnh: Đoàn Xuân Hải

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÂM BÍCH THỦY: Nhà thơ Yến Lan trở lại cố hương



Năm 1972, giặc Mỹ bắn phá miền Bắc ác liệt hơn, điều kiện sống của người dân nói chung đã điêu đứng lại càng thiếu trước, hụt sau. Đối với ba tôi - nhà thơ Yến Lan - dẫu khổ và thiếu đến đâu ông vẫn là một cán bộ tốt, chấp hành đúng bổn phận của một công dân đối với vận mệnh của Tổ quốc. Nhà có ba con trai, ông đã khuyên hai đứa vào chiến trường miền Nam. Mỗi lần nghe Đài báo tin “Đồng bào chú ý máy bay địch cách Hà Nội…cây số bà con hãy nhanh chóng xuống hầm trú ẩn” -  tôi lại thấy đôi lông mày ba tôi nhíu lại, nét mặt như chùng xuống. Mùa xuân 1975, khi quân giải phóng tiến đến Bình Định, ba tôi  viết bài thơ Hôm nay đã đến, Bình Định ơi, trong đó có đoạn:

 

nha_th_Yn_Lan_RRR

Nhà thơ Yến Lan

Chia sẻ liên kết này...

 
 

Lê Hưng VKD: TẢN MẠN VỀ CA TRÙ VIỆT NAM



1/Khái quát về ca trù:

Trong kho tàng thi - ca Việt Nam, nhất là hình thái cổ điển, ca trù của dân tộc ta đã được nguời phương tây giới thiệu: "c'est l'air de chanson destiné au chanteuse" ( ấy là phong thái khúc hát điệu nhạc dành cho nguời ca nữ). Tác giả những bài ca trù đã tư duy sáng tác "hài hòa luỡng tính" giữa THƠ & NHẠC giao duyên "âm -duơng" với nhau (âm là nguời kỹ nữ, dương là giới mặc khách - tao nhân). Quá trình sáng tác ca trù theo như dẫn giải của cụ Lê Lã Triệu (gốc nguời tỉnh Hưng Yên xưa, một thời nổi tiếng "hào hoa phong nhã "trong giới thương nhân hàng tơ lụa từ Hà Nội đến Đà Nẵng đầu thế kỷ 20):

 

Lh-ca-tru

Hát ca trù (nguồn: ảnh Internet)

Chia sẻ liên kết này...

 
 

Thơ NGUYỄN VĂN PHÚ

nguyne-van-phuRRR

Tác giả NGUYỄN VĂN PHÚ

 

 

CÁM ƠN


Cho tôi xin cám ơn người phụ nữ tôi yêu

Dù muôn lời nói chẳng phải là nhiều

Dù trong tim ngàn lời yêu mến

Vẫn không bằng một giây phút thương yêu


Đây người phụ nữ đầu đời tôi được biết

Ngực căng tròn dòng sữa ngọt tự nhiên

Tôi đón nhận với hai tiếng Mẹ hiền

Dìu con lớn lòng dạt dào như biển


Bên cạnh còn có người chị người em

Cũng là phụ nữ chân yếu tay mềm

Nhưng sao tôi thấy vững tâm thật

Mỗi khi chiều về khói bếp lên


Cuối cùng tôi cũng gặp được em

Dâng trọn cuộc đời một trái tim

Để tôi được làm tên nô lệ

Xích cuộc đời và chết trong mắt êm

 


SẦU THU


Gió thổi chiều thu cuốn nỗi sầu

Sóng cuộn tình yêu chảy về đâu ?

Để anh nguyện làm con đò nhỏ

Chở bóng hình ai lướt qua cầu


Xào xạc vàng rơi vướng gót chân

Sông thu gờn gợn ánh trăng rằm

Nhoà lệ sương đêm vương nhè nhẹ

Ướp lạnh cô đơn kiếp phong trần

 

Sầu thu một thoáng dài nhung nhớ

Vắng lặng hồn yêu mãi đợi chờ

Đưa nhau một lối rồi đôi ngã

Để mắt ai buồn trong tiếng thơ

 

Trộn lẫn trong đêm một giấc mơ

Ngày đó yêu em ta có ngờ

Mang nặng trong tim một hình bóng

Đến cuối cuộc đời cứ ngẩn ngơ


Mỗi lần thu đến gió đưa về

Một chút ân tình cuối sơn khê

Cho ta sống lại đời ân ái

Ấm lại tim kia nhớ hẹn thề

 

CÓ KHI NÀO


Có khi tình cờ ngang qua đời nhau

Mong rằng được thăm được hỏi một câu

Chữ duyên chữ nợ còn cao lắm

Đời thì muôn dặm vạn nẽo sầu


Có khi tình cờ biết được nhau

Niềm vui chia sẽ biết được lâu ?

Hạnh phúc đơn sơ mà sâu lắng

Là kiếp phù du chọn kiếp sầu


Có khi tình cờ mến được nhau


Cho cay cho đắng cho ngọt ngào

Đã cho thì không bao giờ lấy

Nhận thiệt về mình dẫu nó đau


Có khi mình biết yêu nhau

Chữ duyên đà đến mong được lâu

Nợ đâu kiếp trước mà không biết

Để đến kiếp này giữ chặt nhau


Chợt một ngày kía tóc đổi màu

Sỏi đá cũng lúc cần có nhau

Giờ ta ôm bóng sầu cô lẽ

Mộng dệt ngày xưa có lẽ nào

 

N.V.P

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ HƯNG VKD: Mạn đàm về tâm linh

 

imagesle-hungR

Lương y, nhà giáo, nhà nghiên cứu Lê Hưng VKD

 

1/ Sân khấu trí tuệ:

Về phuơng diện y học "sân khấu" của trí tuệ gồm các định khu thuộc hai hợp phần bán cầu đại não (y học cổ truyền gọi là "phủ kỳ hằng"):

- hợp phần bán cầu não phải là thổ cư của "cái tin" (croyance)

- hợp phần bán cầu não trái là lãnh địa của "cái biết"(connaissance).

Bất kỳ mọi diễn biến tư duy nào cũng đều có sự can dự của niềm tin & hiểu biết (croyance avec connaissance) và chất luợng sự kiện vừa nêu đuợc định danh: TRÍ TUỆ (esprit).

Về phuơng diện triết học: khi trí tuệ nghiêng nhiều hơn về phần tin tuởng (tùy thuộc môi trường sống và trình độ nhận thức cá nhân), vuợt trội hơn phần hiểu biết đang có, mà hưng phấn dự cảm truớc một tiến trình sẽ đến ..... quá trình tư duy ảo biến này, gọi là TÂM LINH (prémonition). Theo sách "Nouveau petit Larousse illustré" - NXB Paris VI -1952, nguời Pháp định nghĩa thuật ngữ Tâm Linh như sau: "sensation précédant un fait et l' annocant” - cảm giác riêng như báo trước sự việc sẽ đến cho mình. Học giả Đào Duy Anh cũng giới thiệu: Tâm linh là cái trí tuệ tự có trong lòng nguời, là dự giác điều mặc giới về tuơng lai... (Hán - Việt từ điển - quyển hạ tr. 243, NXB Truờng Thi - Saigon 1957, và Pháp - Việt từ điển tr. 1362, NXB Minh Tân - 1952).

2- Phân loại hình thái tâm linh:

Trong thực tế cuộc sống đời thuờng, ngành tâm lý học đã phân lập 3 hình thái tâm linh (morphotypologie prémonitoire):

- tâm linh khoa học (prémonition scientifique)

- tâm linh tín nguỡng tôn giáo( prémonition religieuse)

- tâm linh thế tục (prémonition du culte)

* 2.1/ Tâm linh khoa học: khoa học kỹ thuật dựa trên thực nghiệm định luợng bền vững và lôgic toán học, giúp ta có đuợc "cái BIẾT khoa học" thuờng gọi là tri thức ! Còn khi ta tự thân trải nghiệm rồi trực giác những định tính dị thuờng (bất khả tri luận = chưa thể giải thích cụ thể) thì phân tâm học (psychanalyse) gọi là "cái tin siêu hình-croyance ferme et métaphysique" và đây chính là tâm linh khoa học! Năm xưa nhà khoa học ALBERT EINSTEIN đã dự cảm trước hai sản phẩm trí tuệ: thuyết tuơng đối hẹp bàn về vật chất vận động sinh ra năng luợng (1905) và thuyết tuơng đối rộng bàn về cân bằng vũ trụ (1915) ....  nói chung thì tâm linh khoa học rất cần thiết cho mọi bộ môn khoa học! là cửa ngõ cho năng lực SÁNG TẠO!

* 2.2/ Tâm linh tín nguỡng tôn giáo: Trong triết học,"cái ta biết" là tri thức lý thuyết, "cái ta làm" là tri thức ứng dụng Riêng "cái ta tin" là tri thức giải thoát, mục đích hoàn thiện quá trình sống bản thân về nhân cách, đồng thời thôi thúc-động viên những ai "chưa đuợc tốt" sẽ trở thành nguời tốt ! Đây là tâm linh tôn giáo, là dòng chảy trí tuệ tinh mẫn giải phóng bản thân giảm thiểu khổ đau, huớng về điều thiện bằng cách phát huy 3 tâm thức "lòng trắc ẩn + thái độ khoan dung + kiên trì bền bỉ ", để tiến đến phát triển đuợc tình yêu thuơng nhân loại..... trong mỗi cá thể!

* 2.3/ Tâm linh thế tục: Cũng gọi là tâm linh theo phong tục - tập quán (prémonition des moeurs,des us& coutumes). Mọi hình thái tâm linh đều khởi nguồn từ trực giác (force d' intuition), nhưng khi "vốn liếng cái ta biết" không đầy đủ (tức là tri thức khoa học còn yếu kém, kiến thức nhân văn còn bấp bênh....) thì nguy cơ  "cái ta tin" rất dễ sa lầy vào vùng trũng "mê tín-dị đoan" (mê tín = niềm tin mù quáng, dị đoan = tin tuởng điều lạ lùng, sách Hán - Việt từ điển của học giả Đào Duy Anh, tr. 206 & tr. 554).Tại nuớc ta, là xứ sở nông nghiệp truyền thống , tất cả sự việc - sự kiện phụ thuộc vào các biến động của khí hậu - khí tuợng phức hợp vùng châu Á nhiệt đới - gió mùa xảy ra hàng năm .... đã sản sinh ra rất nhiều lễ hội cầu xin "tha lực" (sức mạnh ở ngoài năng lực của con nguời nông nghiệp) giúp đỡ để an cư lạc nghiệp! lâu dần trở thành phong tục - tập quán mỗi vùng miền.... những tha lực ấy đuợc trí tuởng tuợng loài nguời nhân cách hóa là "thần linh"..... Một cám dỗ  khó tránh là "tính vị kỷ" (bản năng sinh tồn của con người: dành ưu tiên cho lợi ích riêng mình truớc!)  mà nhiều cá thể  đã mưu cầu thái quá (lòng tham lam) trục lợi "thần linh" để làm giàu cho mình hoặc cho nhóm lợi ích của mình.... bất chấp  qui luật phát triển của xã hội văn minh đuơng đại:

- vừa tôn trọng nhân cách tính;

- vừa tăng cuờng nhân đạo tính.

Mọi "biến tuớng" của tâm linh thế tục còn rải rác ở nơi này nơi kia...sẽ dần dần bị triệt tiêu, khi nhịp sống chung của cộng đồng đuợc nâng lên (xóa đói giảm nghèo,gíáo dục -y tế đầy đủ số luợng và chất luợng...). TÂM LINH luôn luôn là giá trị ĐẸP của biểu tuợng "thăng hoa tri thức huớng thiện" cho chúng ta khi còn sống!  

          

LÊ HƯNG VKD
(Mùa lễ hội THANH MINH -2014)

 

indexl_hung


Bừng cảm bát nhã tâm kinh


Hành thiền bát nhã ngộ chân như

Ngũ uẩn vô thuờng hẹp lối tu

Hành giả minh tâm và trực giải

Gíúp đời vuợt thoát chuyện sầu tư

 

***

 

Nguồn thiền duy thức huớng dung thông

Phật tánh muôn nơi vốn dặn lòng

Ảo ngã do tham - cầu - vọng - tuởng

Lẽ đời khi CÓ lúc là KHÔNG...


***

 

An trú sân thiền đọng - trữ  TÂM

Xả buông danh lợi cõi thăng trầm

Như lai sự vật không thêm bớt

Kiến tánh người ơi: ẩn - lặng - thầm...

 

***

 

Lão - tử... hàm sâu nỗi xót xa

Lục căn - trần - thức.... choán hồn ta

Vô minh vô trí...vô sinh - diệt

Nguồn sáng huyền KHÔNG nó - vốn- là !


***


Tịnh độ nơi về... đuốc TUỆ cao

Xóa tan mê - vọng chốn lao xao

Chúng sanh vuợt khổ tìm an lạc

Hồi huớng bình yên mở lối vào!

 

***

 

Ba đời TRÍ-HUỆ vuợt ngăn - che

Đích thực bản nhiên rõ bến về

Chư Phật hiện tiền đang mỗi lúc!

Đỉnh thiền ưu việt xóa nguồn mê...

 

***

Chân tánh bờ xa bỗng hóa gần

Tiêu trừ ách nạn cứu nhân thân

Niệm trang mật ngữ lời siêu thực

Lấp lánh kỳ ngôn minh triết răn...

 

***


Từ- Bi - Hỉ  - Xả, gốc hồn nhiên

Sắc - Tuớng vuợt qua rồi vuợt lên

Giác thức Tự Tri làm bến đậu

Ngộ KHÔNG vô luợng! Vĩnh tâm thiền...


Lê Hưng VKD

(Tiết Thanh Minh - 2014)

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÂM BÍCH THỦY: Nhớ cụ PHAN KHÔI

 

phankhoi

Học giả Phan Khôi (1956)

 

Cứ mỗi lần nghe đến tên Phan Khôi thì trong đầu tôi lại hiện về một quá khứ không lấy gì làm vui cho lắm; hình ảnh một ông già; người cao cao, gầy yếu, nước da men mét, râu tóc bạc phơ rõ dần trong đầu tôi. Ấn tượng về cụ in đậm trong lòng tôi hơn ½ thế kỷ. Nhưng bấy giờ, tôi còn nhỏ, độ 12-13 tuổi, đang học lớp 4 tại Trường Học sinh Miền Nam, ở Hải Phòng. Cái tuổi chưa hiểu gì lắm về thế thái nhân sinh.

Người ta kể lại sự việc khi cụ Phan Khôi mất, lúc bấy giờ cả Hội nhà văn có hàng trăm người ít ai đến thắp cho cụ một nén nhang, chỉ có ba tôi - nhà thơ Yến Lan - là “người bạn thơ độc nhất đi sau linh cữu cụ Phan Khôi đến nơi an nghỉ cuối cùng ở vào giai đoạn đấu tranh gay gắt của cuộc cách mạng văn học vào năm 1959”.

Nói lại chuyện này giờ đây dễ dàng và bình thường nhưng lúc bấy giờ, khi tất cả mọi người xung quanh đều lo sợ liên lụy đến người bị xem liên quan đến Nhân văn giai phẩm thì giữ được cái tình cái nghĩa không dễ chút nào. Mỗi lần nhắc đến chuyện này, tôi lại thấy xót xa nơi con tim mình. Hình ảnh ba tôi đi sau linh cữu cụ Khôi ngày ấy chắc những người đã có tuổi vẫn còn nhớ. Thế tại sao cái đều rất bình thường ấy lại gây xôn xao trong dư luận tại Hà Nội một thời như vậy?

Ngược dòng thời gian về lại những năm của thập niên 50, thế kỷ trước. Năm 1956, gia đình tôi chuyển từ  51 Trần Hưng Đạo về 73 Phố Thuốc Bắc. Cùng chuyển về đây còn có các bác, cô, chú trong cơ quan của Hội Nhà Văn. Nhà 73 phố Thuốc Bắc có chiều dài khoảng 50 m, chiều ngang 5 m. Suốt chiều dài người ta chừa 1 m để làm lối đi chung, rồi ngăn bằng ván làm cho mỗi gia đình một gian để ở. Tầng dưới nhà có 7 gia đình, trên gác chỉ có 3. Những căn hộ ở trên gác thì rộng rãi, biệt lập, có cầu thang riêng, không chung đụng với người xung quanh - dành cho các gia đình cán bộ Hành chính. Toàn bộ các hộ đều dùng chung nhà tắm, nhà bếp, nhà vệ sinh đều nằm ở cuối nhà. Vì vậy, hàng ngày dù muốn hay không mọi người đều gặp nhau, khi thì nấu ăn, khi tắm giặt  v.v…

Gia đình tôi ở phía dưới, giữa 6 gia đình khác; kề vách là gia đình cụ Khôi. Phía ngoài cụ là chân cầu thang của hộ bà Cán, đến bể nước công cộng. Căn dành cho gia đình cụ Khôi là một cái buồng khép kín, rộng chừng 9m vuông, bằng 3/4 gian nhà tôi. Có thể đây là nơi thờ cúng của chủ trước. Giữa nhà tôi và nhà cụ là một cửa sổ nhỏ, to bằng bàn cờ tướng. Tôi thường ngồi bên bể nước công cộng, cạnh cửa sổ nhà cụ để giặt giũ.

Ban đầu mới dọn về, tôi thấy ba và các chú nhà thơ hay vào phòng cụ Khôi uống trà, bàn chuyện thời sự, bình luận những bài thơ, những từ ngữ của bài thơ trên Báo. Bọn trẻ chúng tôi chạy vô chạy ra nhà cụ để chơi với các anh các chị con cụ; mọi người đều thân thiện, cởi mở. Thế rồi, dần dần tôi thấy có một điều gì đó, lung lắm. Các cô, các chú không xởi lởi như trước nữa. Trong cư xử mọi người tỏ ra dè dặt, dò xét. Nhà cụ Khôi cứ vắng dần bóng người lớn, không còn trẻ chạy ra vô nhà cụ nữa! Không khí trong ngôi nhà nặng nề, xét nét, và xa lạ. Thấy khác thường, tôi hỏi má: “Má ơi tại sao các bác, các chú không chơi với cụ Khôi nữa?” Vẻ lo lắng bà kề sát tai tôi, nói nhỏ như sợ người khác nghe được: “Ông Khôi bị coi là người cầm đầu nhóm Nhân văn giai phẩm. Con cũng đừng vào nhà cụ nữa, người ta đang theo dõi ba mình đó.”

Thật sự lúc bấy giờ tôi không hiểu Nhân văn giai phẩm là tội gì, nặng đến mức nào mà ai cũng sợ bị dính líu đến cụ Khôi như thế?! Tuy không nói ra nhưng ai cũng muốn chứng minh rằng mình không hề có quan hệ thân mật với cụ Khôi nữa. Họ tránh nhà cụ như thể nhà có dịch hạch lây lang. Với những điều nghe và thấy, tôi không biết sẽ đối xử với mấy anh chị con cụ như thế nào, không lẽ hai nhà liền nhau chung một cửa sổ, lại cùng là học sinh miền Nam; dạo nọ chơi đùa với nhau giờ lại tỏ ra chẳng hề quen biết sao mà đành đoạn! Nhưng, dường như nhà cụ hiểu được nỗi lo sợ của má tôi nên tế nhị lấy báo dán kín cửa sổ lại...

Lâu lâu tôi cũng có thấy cụ ngang qua; vẫn dáng người cao, gầy, nhưng yếu hơn trong bộ đồ Tây màu vàng nhạt. Tóc cụ rụng nhiều, còn lơ thơ vài cộng, bạc trắng, ẩn sau chiếc mũ phớt màu nâu. Trên tay cụ giờ có thêm chiếc ba-toong; nhưng bây giờ, gặp ai cụ cũng làm ngơ, mắt hướng thẳng phía trước như chưa hề biết họ! Như trước đây, tôi vẫn ngồi giặt bên bể nước, cạnh cửa sổ nhà cụ. Tôi liếc nhìn cụ qua cửa sổ. Cụ ngồi trên chiếc giường đơn, trầm ngâm, mặt buồn buồn, mắt nhìn đâu đâu vào khoảng không gian. Tôi thầm thương cụ quá chừng mà không dám thổ lộ. Càng thương hơn khi nghe cụ ngâm bằng giọng Quảng Nam:

Làm sao cũng chẳng làm sao

Dẫu có thế nào cũng chẳng làm chi

Làm chi cũng chẳng làm chi

Dẫu có điều gì cũng chẳng làm sao

Rồi, cái gì đến nó đã đến! Vào một ngày cuối đông năm 1959, cụ Khôi lặng lẽ ra đi!

Má tôi kể: “Nhà tập thể, linh cữu không được quàn lâu, chỉ một hôm phải đưa đi an táng. Tôi không được chứng kiến những gì xảy ra trong đám tang sáng hôm ấy, vì đang học tận Hải Phòng. Nhưng điều tôi nghe được thật thảm, thật buồn, thương cho cụ ra đi trong sự tuyệt vọng: Chở linh cữu cụ là một chiếc xe thổ mộ có 2 con ngựa kéo che 2 bên mắt, khoảng 6 hoặc 7 người kể cả người đánh xe ngựa và ba tôi - người bạn thơ độc nhất trong hàng trăm bạn thơ khác. Giải thích nỗi lo lắng của vợ con, ba tôi nói: “Đó là vì đạo lý của người Việt Nam - Nghĩa tử là nghĩa tận”.

Suốt những năm tháng sau này, tôi luôn muốn biết về cuộc đời của cụ. Một hôm, vào năm 2004 tôi đọc trên Tạp chí Xưa & nay với bài viết về cụ Phan Khôi của tác giả Vương Trí Nhàn. Bài báo đã khẳng định cụ Phan Khôi có góp công trong kháng chiến và trong lịch sử phát triển văn học Việt Nam bằng những tác phẩm như Tình già .., ông còn nghiên cứu làm phong phú thêm cho ngôn ngữ dân tộc Việt Nam v.v…

Đọc bài báo, tôi thật sự mừng cho cụ Khôi biết nhường nào. Mừng vì người ta đã hiểu cụ.

 

L.B.T

 

Cùng một chủ đề:

http://leminhquoc.vn/lmq/hoi-hoa/tu-lieu-le-minh-quoc/1334-nang-duoc-thi-cu-nang-phan-khoi-tu-song-huong-toi-nhan-van.html

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LẠI VĂN LONG: Bố với ba

 

Bố với ba

Truyện ngắn Lại Văn Long

 

Lần đầu ra Bắc, lòng tôi rộn ràng cảm xúc. Miền Bắc buồn buồn bước ra từ những trang lãng mạn của Tự lực văn đoàn, từ lời ca mộng mị đẫm sương gió tiền chiến, từ khổ đau bần hàn, uất nghẹn của văn chương hiện thực phê phán. Miền Bắc chỉ tươi vui, sáng sủa hơn qua nghệ thuật nhờ khói lửa cuộc chiến tranh chống Mỹ. Rồi có cả miền Bắc thì thầm, dằn vặt trên Internet với quá khứ bị giấu diếm… Từ sân bay Gia Lâm, ông anh cọc chèo lái ô tô đưa gia đình tôi thẳng về quê nhãn Hưng Yên. Nhà bên vợ tôi cũ mới lẫn lộn. Căn nhà ba gian mái ngói rêu phong, cột kèo mòn mỏi từ mấy đời trước để lại giờ nhỏ bé, thấp lè tè sau lưng căn nhà lầu mới kiêu kỳ. Bà ngoại của hai con tôi vẫn chít khăn mỏ quạ, ngày ngày ngồi xỉa trầu trên bộ phản cũ kỹ đặt trên nền gạch Tàu ẩm mốc bên cạnh bàn thờ gia tiên và di ảnh của chồng. Bà từng vào Sài Gòn ở với vợ chồng tôi được non tháng thì nằng nặc đòi về vì nhớ quê. Hà vợ tôi học xong đại học công tác Hà Nội vài năm rồi chuyển vào Sài Gòn. Chị Cả hơn Hà một giáp bất đắc dĩ đóng vai “trai trưởng” ở lại nhà từ đường chăm sóc cho mẹ đã gần tám mươi.

 

long-caRRR

Minh họa của Đặng Hồng Quân

Chia sẻ liên kết này...

 
 

Trang 72 trong tổng số 90

Việt Tuấn Trinh | www.viettuantrinh.com