LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 31.3.2016

THO-TANG-DOAN-TUAN

 

Cách đây dăm ngày, có việc cần đến quyển Muối của đất.

Ở nhà có quyển này. Sách nhiều quá, tìm kiếm bở hơi tai. Cũng không tài nào tìm ra. Đố biết nó nằm ở xó xỉnh nào. Chịu chết. Để cho chắc ăn, truy cận internet, xem lại hình bìa của nó. Đúng chóc rồi. Có quyển này trong tủ sách. Nhưng không thể tìm nổi. Có sách nhiều quá cũng khổ. Lúc cần tìm, chẳng khác gì mò kim đáy biển. Mà nhớ thế, mới ngạc nhiên khi biết rằng: “Ơ hay, ủa, thì ra mình cũng có những quyển sách này à? Lâu nay không hề biết”. Tự dưng bao nhiêu mệt nhọc tan biến. Lại tiếp tục tìm Muối của đất. Cuối cùng, chào thua. Bèn nhắn tin cầu cứu bạn bè. Người giúp được, không ai khác, chính là nhà sưu tập Trần Thanh Phương.

Sáng sớm ghé nhà anh, mượn sách. Uống trà. Và bàn những công việc cũng liên quan đến viết lách. Anh khoe tập bản thảo dày cộm. Cầm đọc và ngạc nhiên. Đó là các bài điếu văn tiễn đưa nhà văn Việt Nam lúc về chín suối.  Anh đã kỳ công thu thập được tư liệu từ nhiều nguồn, tất nhiên không thể thiếu tờ Văn Nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam. Đã tìm được diếu văn của hơn 100 người. Anh đang loay hoay sẽ đặt tựa là gì. Xem qua mục lục, may quá, có dịp cám ơn anh đã cho mượn sách bằng cách photo tặng anh điếu văn về nhà thơ Tản Đà, Vũ Trọng Phụng. Cả hai bài này đều in trên tạp chí Tao Đàn năm 1939, lúc hai nhân vật lừng danh này qua đời. Xem qua bản thảo do anh Phương sưu tập, sắp xếp có thể nhận ra rằng, trước đây điếu văn thường được đọc tại mộ, ngay sau lúc hạ huyệt; bây giờ, đọc trước linh cữu, trước lúc đưa quan tài ra mộ. Mỗi thời mỗi khác. Khác một chút, nhưng cùng là một cách bày tỏ sự thương tiếc dành cho người vừa khuất. Chắc chắn tập sách này của anh Phương hữu ích cho nhiều người. .

Về Tản Đà, ông Đinh Gia Trinh - chủ nhiệm tờ báo Le Monême, cơ quan của Tổng hội trường Cao đẳng đọc trước huyệt, có câu: “Chúng tôi không muốn dài lời nữa. Một giọt lệ và một lặng yên hùng biện bằng mấy nhời hoa mỹ ca tụng tiên sinh. Chúng tôi sẽ tự coi như một bổn phận là không quên sự nghiệp của tiên sinh, không quên gia cảnh hiện tại của tiên sinh. Với lòng hăng hái nhiệt thành của tuổi trẻ, chúng tôi sẽ xin gắng sức giúp ích cho tiên sinh để tỏ ra chúng tôi, thanh niên trí thức của xứ sở, bao giờ cũng biết cảm ơn tha thiết nhưng danh nhân của xứ sở”. Tản Đà chết trong nghèo túng. Theo nhà văn Nguyễn Tuân: “Ở đầu giường bệnh, vẫn bên chồng sách cũ nát trên cái ghế mọt thay làm án thư và bên chồng sách bừa bãi đây đó mấy trang bản thảo. Tập di cảo! Trời! Và lẻ loi ở góc bàn, vẫn cái hũ rượu cáp giới ngày nọ. Tất cả, chỉ có thế thôi. Với một đoàn thê tử yếu và đuối!”.

Về Vũ Trọng Phụng, nhà thơ Lưu Trọng Lư và Nguyễn Vỹ đọc điếu văn trước huyệt. Vũ Trọng Phụng cũng chết trong nghèo túng. Kẻ sĩ lớp trước thường nghèo túng. Đọc La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp của học giả Hoàng Xuân Hãn ngẫm nghĩ với chi tiết này: Lúc sinh thời, Nguyễn Thiếp đã từng “thấy vàng không thèm ngoảnh cổ lại nhìn”, từ chối biết bao nhiêu báu vật của triều đình dâng tặng nên khi nằm xuống gia đình rất túng quẫn. Nhà thờ ông rất sơ sài, đến đời Duy Tân có sắc thần ban cho, nhưng tộc trưởng trong họ không có đủ hai đồng bạc để lãnh sắc! Bọn lính đem sắc thần về từ đường Nguyễn Thiếp, vì không được nhận tiền nên chúng ra ruộng xiết cả cái cày của ông tộc trưởng. Oái oăm thay, ông này phải đem cái chuông treo trong nhà thờ đem bán cho người đàn bà giàu có trong làng để chuộc cái cày về!.

Trong sáng tạo nghệ thuật, giá trị của tác phẩm không do tác giả giàu hoặc nghèo. Phải là tài năng và thêm nhiều yếu tố khác nữa. Đêm hôm qua, lai rai cùng bạn bè văn nghệ. Câu chuyện linh tinh lang tang, không đầu không cuối. Lại nhớ, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn “thiêng” quá, ông chọn đúng ngày 1.4 Ngày Cá tháng Tư để giã từ cõi tạm. Ngày đó, dễ nhớ. Từ nhiều năm nay hễ đến ngày đó lại có những chương trình tưởng nhớ Trịnh Công Sơn.“Tôi gọi Trịnh Công Sơn là người ca thơ (Chantre) bởi ở Sơn, nhạc và thơ quyện vào nhau đến độ khó phân định cái nào là chính, cái nào là phụ”. Nhận định này của Văn Cao về Trịnh Công Sơn, chắc chắn nhiều người đồng tình. Cả hai đều nổi tiếng và có nhiều đóng góp cho văn hóa nước nhà. Họ làm thơ và viết nhạc. Khó có thể phân định thể loại nào nổi trội hơn.

Với trường hợp của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, nếu tách riêng giai điệu và ca từ, chỉ đọc văn bản ắt công chúng có cảm giác như đang đọc một bài thơ. Đã có nhiều, quá nhiều lý luận nói về vai trò của thơ, sứ mệnh nhà thơ xin không nhắc lại, riêng y tâm đắc với quan niệm cho rằng, đã nhà thơ ắt phải góp phần thúc đẩy nhiều hơn nữa về sự trong sáng, uyển chuyển, phong phú, đa dạng của tiếng Việt. Đọc kỹ ca từ của Trịnh Công Sơn nhiều người đã phát hiện ra điều đó.

“Ta thấy em trong tiền kiếp với cọng buồn cỏ khô”.

Có cách nói nào “lạ đời” thế không? Cọng cỏ này, do khô nên buồn? Không phải, ở đây là “cọng buồn”. Chưa ai nói như thế. Từ lâu nay, với từ “cọng”, ta hiểu “thân cành của loài cây mềm” như từ điển tiếng Việt giải thích, chẳng hạn cọng rau, cọng cỏ, cọng rơm… Thế nhưng khi nó đứng chung với “buồn” - từ chỉ về tâm trạng, cảm giác thì quả nhiên cái buồn này đã có một sắc thái mới hẳn, lạ, trước đó chưa ai sử dụng. Qua đó, ca từ trên đã khắc họa được tâm cảnh khác của tác giả. Tâm cảnh ấy, chỉ là “cọng buồn” lẻ loi như cọng cỏ khô chứ không là nỗi buồn theo nghĩa thông thường.

Nghe một ca từ như thế, ban đầu thấy ngồ ngộ nhưng suy ngẫm kỹ lại phát hiện ra đôi điều thú vị lắm.

Với Diễm xưa, nhiều người thích câu: “Mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ”. Và dĩ nhiên, trong trí nhớ của họ lập tức liên tưởng đến tháp cổ của người Chăm dọc dài trên mảnh đất miền Trung. Còn nhớ, nhà thơ Văn Cao đã nhìn và đã viết mấy câu thơ long lanh như ngọc: “Từ trời xanh/ Rơi/ Vài giọt Tháp Chàm”. Sự liên tưởng ấy là hợp lý. Tuy nhiên, sao lại không nghĩ rằng, “tháp cổ” ấy, chẳng phải là cái tháp cụ thể vừa nêu trên mà chính là… Bình tĩnh đi, vì nghe xong không ít người gân cổ lên cãi ngay, nhưng biết đâu Trịnh Công Sơn đã miêu tả… cổ ba ngấn của người thiếu nữ? Nếu không thể, làm sao có: Dài tay em mấy thuở mắt xanh xao…/ Trên bước chân em âm thầm lá đổ”? Diện mạo người phụ nữ có nhan sắc còn là “cổ ba ngấn”, sao không nghĩ “tầng tháp cổ” là một cách diễn đạt sáng tạo của Trịnh Công Sơn? Với một tác phẩm, xin thưa rằng, “đồng tác giả” với người sáng tạo còn là người đọc/nghe/xem nữa. Mỗi người có một cách cảm thụ, tùy theo nhận thức, tâm trang của họ trong lúc thưởng ngoạn. Mà muốn như thế, tác giả phải có khả năng làm chủ, diễn đạt ngôn từ như thế nào để tạo ra sự đồng cảm ấy.

Lại nữa, khi đọc câu thơ Kiều: “Trăm năm trong cõi người ta”, y dám quả quyết rằng, thiên tài Nguyễn Du không chỉ sử dụng “trăm năm” như một cách nói gói gọn về “đời người” mà còn là sự khái quát về thời gian, về “xưa nay”. Có cảm nhận như thế, câu thơ mới có sức ngân vang đến ngàn sau. Với Trịnh Công Sơn, “Gọi buốt/suốt trăm năm một cõi đi về” - xin nhấn mạnh, “trăm năm” ở đây chỉ mang một ý nghĩa về một kiếp người/phận người/đời người. Thế nhưng ca từ trên, Trịnh Công Sơn đã chọn từ nào? “Buốt” hay “suốt”?

Không ai có thể “Gọi suốt trăm năm”. Có mà điên. Nếu ca từ cụ thể, rành mạch đến thể, không còn là Trịnh Công Sơn nữa. Ông chọn “buốt”/“gọi buốt” vì còn hàm nghĩa nhấn mạnh cảm giác của tiếng gọi ấy, chứ không chỉ đơn thuần miêu tả hành động “gọi”. Cũng nên nhớ rằng, với ông, một cuộc tình đi qua hoặc ở lại: “Ôi mênh mông tháng ngày vắng em / Tình như lá bỗng vàng bỗng xanh / Em ra đi như thoáng gió thầm”. Chỉ là một thoáng gió nhẹ nhàng của dư hương ngày cũ còn đọng lại trong tâm tưởng, chứ không phải là tâm thế của một người lộ liểu “gọi suốt”. Biết đâu, ông có gọi thì sao chứ? Đúng thế, nhưng “gọi buốt” mới là nỗi đau chỉ mỗi mình tác giả nhận biết, nó không lên tiếng, không âm vang thốt ra lời mà chính là tiếng réo gọi âm thầm ngay từ trong tiềm thức.

Đã từng “chấn động” với ca từ: “Yêu phố vui, nhà gạch ngon” của nhạc sĩ Phạm Duy. Thì bây giờ, cảm giác ấy lại quay về với Trịnh Công Sơn: “Chim non cười tình nhìn diều lên ngon”. Từ “ngon” của tiếng Việt đã có thêm một sắc mới, chấp nhận được vì sự tài tình của cách dùng chữ, dù mới, dù lạ nhưng vẫn không “chỏi”. Thì ra, đó là “ma lực” của tiếng Việt đấy chứ!

Về từ “tình” trong tiếng Việt, ta nhớ đến cuộc tình, người tình, mối tình v.v… nhằm diễn tả tâm lý, cảm xúc, thái độ, sự yêu mến giữa hai người. Kỳ diệu thay, với Trịnh Công Sơn cách chọn từ của ông đã cho thấy rằng, có thể cầm trên tay các cảm giác ấy qua các động tác như: Treo tình trên chiếc đinh không”/ “phơi tình cho nắng khô mau”. Chưa hết, câu này mới ghê gớm, các nhà thơ thứ thiệt phải ngả mũ chào: “Vết buồn khắc trên da”.  Những câu ấy, tách riêng ra khỏi giai điệu, tự nó đã có sức nặng như một câu thơ. Nó tạo ra sự liên tưởng khác ngoài phạm vi của ngữ nghĩa, cũng tựa như câu thơ của Đoàn Phú Tứ đã tạo ra một nhận thức mới: “Hương thời gian thanh thanh/ Màu thời gian tím ngát”…

Trịnh Công Sơn cũng có lúc nhân cách hóa mà nghe qua một lần ắt khó quên: “Một sớm lên đường/ Mẹ ra sau vườn/ Hỏi thăm trái bí / Trên giàn còn xanh/ Một sớm bên hè/ Vườn sau vắng vẻ/ Này thôi bí nhé/ Lên đường cùng me…”. Chỉ đọc thôi mà đã nghe ngân vang của nhịp đi của thể thơ bốn chữ. Mà nhịp thơ ấy, còn có thể tìm thấy ở Ngụ ngôn mùa đông,  Lặng lẽ nơi này, Xa dấu mặt trời…; hoặc thể thơ năm chữ với Một ngày như mọi ngày, Ru ta ngậm ngùi, Biết đâu nguồn cội, Những con mắt trần gian… Và không chỉ có thế, ngay cả lục bát lại có thêm một bài thơ hoàn chỉnh Ở trọ v.v…  Nghe nhạc Trịnh Công Sơn đôi lúc có cảm giác như đang sống trong không gian của thơ Đường. Từ hình ảnh trong thơ đến nhịp đi của thể thất ngôn quyện nhau chặt chẽ. Chẳng hạn, ca khúc Vườn xưa mở đầu: “Ngoài hiên vắng giọt thầm cuối đông/ Trời chợt nắng vườn đầy lá non/ Người lên tiếng hỏi người có không/ Người đi vắng về nơi bế bồng”. Câu thơ cuối gợi lên sự hoang mang đến nao lòng bởi sự bâng khuâng về một nơi không định hướng:  “Nơi bế bồng” - một cách nói mới về người tình đã có chồng, có con.

Thoáng nghĩ rằng, Trịnh Công Sơn đã “chuyển hóa” tài tình một triết lý nhà Phật qua ca từ: “Bao nhiêu năm làm kiếp con người (sinh)/ Chợt một chiều tóc trắng như vôi (lão)/ Lá úa trên cao rụng đầy (bệnh)/ Cho trăm năm vào chết một ngày (tử)”. Ai ai cũng đi trong vòng quay đó, đố mà thoát khỏi.

Vậy còn ham hố sân si lục tặc tam bành làm gì nữa, hả Q?
Dạ.

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

Add comment