LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 1.8.2017

 

20375944_1100050560131620_5066929320254476822anh-ny-1RR_n

Từ trái Đoàn Tuấn, Trần Đào Hiền Nhân, Võ Đình Chiến


Hôm nay, ngày 1.8. Sinh nhật của y đó. Ngày này có ý nghĩa gì không? Chẳng có ý nghĩa gì cả. Ngày như mọi ngày. Ngày sinh ra và ngày mất dấu trên trần gian này, có gì là ghê gớm lắm đâu. Mỗi một người dù muốn, dù không cũng phải đi, đi và đi. Đi mãi cho đến tận cùng hơi thở chính mình. Đến mở ra những hỉ, nộ, ái ố rồi cuối cùng là đi và đi cũng chẳng gì cả. Trống rỗng. Rỗng không. Vô hình hài hình tướng.

Vừa đi Kampuchia về. Thăm lại chiến trường xưa. Nơi ghi dấu của một thời tuổi trẻ. Vẫn say đắm đứng nhìn hàng cây thốt nốt. Bao giờ cũng vậy. Có lẽ một trong những hình ảnh khó quên nhất là vào buổi chiều nhạt nắng, từ doanh trại nhìn xa xa, lại thấy người Khmer trèo lên cây lấy nước thốt nốt. Không cho men vào trong ống tre đã treo lên cây thốt nốt trước đó, nước ngọt lịm; nếu có thêm men, nước dậy mùi rượu. Uống từng hớp một. Say lâng lâng. Dễ chịu. Mê đắm.

Từ lúc rời quân ngũ, đã qua lại đôi lần. Lần này, cảm động hơn nhiều bởi đi cùng bạn bè bồ tèo đã sống chung chiến hào từ thuở tóc xanh mà nay đã lốm đốm bạc. Thời gian vó ngựa. Ngày tháng trôi nhanh. Tóc trắng dần. Mà kỷ niệm cũ vẫn nguyên vẹn. Thế mới biết những gì đã cảm nhận thời trẻ bao giờ cũng đọng lại trong ký ức lâu hơn cả.

Lần trước, đi chung cùng cùng đạo diễn Trần Tuấn Hiệp của VTV để thực hiện bộ phim tài liệu Ký sự biên phòng. Ấy là những ngày vào đầu tháng 9.2008. Cảm nhận gì? Rằng thưa: “Một ngày trên chiến trường/ Chỉ gặp cây thốt nốt/ Nó cũng mang quân hàm/ Mãi mãi là binh nhất”. Ùa vào trong hai con mắt đang ngơ ngác mở ra là hàng cây thốt nốt đứng vững chãi ngàn năm trên đất nước Chùa Tháp. Năm tháng của tuổi trẻ đã hiện về rõ mồn một như mộng mị. Loáng thoáng trong đầu là những địa danh Svay Rieng, Pray Veng, Stung Treng, Siem Reap, Preh Vihear, Anlung Veng...

Y sực nhớ đến một dòng suối cạn trong đêm trăng sáng có một gã con trai mười tám tuổi, vai khoác súng AK thong thả đi cùng cô gái Khmer gốc Chàm. Nàng thỏ thẻ xin một ít xà phòng để gội đầu, gã chưa kịp tặng để thay lời tỏ tình thì ngay trong đêm đã có lệnh hành quân. Từ đó, biền biệt xa cách mãi... Cũng là lần thứ nhất trong đời, y biết đến hương vị đầu đời của nụ hôn thơm vị đường thốt nốt từ một vùng đất bên ngoài Tổ quốc. Lần ấy và lần này, sang lại chiến trường xưa, gặp thiếu nữ nào uyển chuyển trong xà - rông hoa văn sặc sỡ, lại cứ tưởng đó là nàng. Thật và mộng lẫn lộn khiến y có cảm giác bồng bềnh như đang sống giữa đôi bờ hư ảo.

Dọc theo biên giới từ Trảng Bàng (Tây Ninh) sang đất bạn đã mọc lên khá nhiều sòng bài; rồi khi đến Pnong Penh, lại thấy những hình ảnh tương tự. Y và đạo diễn Trần Tuấn Hiệp lang thang trên những con đường mịt mù bụi đỏ để tìm lại những nghĩa trang ngày xưa mà đồng đội y đã nằm lại thiên thu. Nhưng bất lực. Cảnh cũ người xưa đã mất dấu. “Nằm yên mà ngủ nghe em/ Thịt xương tơi tả đã mềm đất đai/ Không còn nguyên vẹn hình hài/ Tiết trinh thì vẫn là trai dậy thì/ Một ngày biên giới chân đi/ Đạp mìn nhìn lại thấy gì nữa đâu/ Hồn bay lên cõi trời cao/ Thịt xương chằng chịt rơi vào hư vô”. Y thắp giữa trời một nén nhang để tưởng nhớ tuổi trẻ và đồng đội của mình đã xa khuất.

Có một điều gì rờn rợn tâm linh. Khi về đến Pnong Penh, bọn y tình cờ gặp một người đàn bà tên là Chan Thou. Chị quê ở Pray Veng, năm tháng chiến tranh thời trước, gia đình chị là nơi bộ đội Việt Nam thường lui tới. Chị nhớ nhất là các anh Viết, Gia, Lập... Trong một lần đi công tác cả ba anh đều bị địch phục kích, giết chết. Gia đình chị đứng ra lo mai táng. Khi quân tình nguyện thế hệ y có mặt tại Kampuchia, cả nhà chị dắt díu lên Pnong Penh sinh sống.

Một ngày kia, từ nhiều nguồn thông tin gia đình liệt sĩ Viết từ Việt Nam liên hệ được chị và ngõ ý muốn chị cách đưa hài cốt ba liệt sĩ quy cố hương. Chị nhận lời, đơn giản chỉ vì khi Khmer đỏ lên cầm quyền, dòng tộc của chị có đến 43 người bị giết, mất xác. Chị thấm thía nỗi đau tột cùng này nên tất tả quay về quê cũ và tìm mọi cách đưa ba hài cốt ấy sang đến đồn biên phòng Tây Ninh. Chị bảo: “Sau khi làm việc này, đời sống của tôi thay đổi đến mức không thể tưởng tượng được. Từ một người không đủ ăn, đủ mặc đến nay tôi đã có một tài sản lớn. Đó là do anh linh bộ đội Việt Nam phù hộ”.
 

Y cũng nghĩ như thế. Trần Tuấn Hiệp cũng nghĩ như thế. Và anh đã đưa chi tiết này vào bộ phim Ký sự biên phòng.

Lúc vào chiêm bái và quay phim cùng VTV tại Angkor Wat, Angkor Thom, y không cầm được nước mắt. Năm tháng chiến tranh, đồng đội y có thời gian trực tiếp cầm súng bảo vệ di tích này, nhưng rồi vĩnh viễn không bao giờ họ được đến lại nơi này. Họ đã ngã xuống vì mìn KP2, 45.2A, vì lồng ngực thanh tân đã hứng trọn quả B.40 trong một ngày nhạt nắng, trong một chiều mưa trút gió. Và y tự hỏi: “Nụ cười của đá có vui/ Từ trong điệu múa ngậm ngùi điều chi?/ Lời tôi khấn nguyện bay đi/ Vọng vào vách đá dội về nỗi đau/ Tôi gai ốc đến ngàn sau/ Rùng mình ngửa mặt nhìn vào hư không/ Đá sừng sững, đá lặng câm/ Đá mềm mại tựa tôi cầm tay ai/ Bất ngờ tôi hóa cụm mây/ Xin em hãy đỡ tôi bay lên trời…”.

Lên trời để làm gì? Chỉ nghĩ đơn giản là thoát ra khỏi tầm đạn bay. Hòn tên mũi đạn. Được trở về nguyên vẹn. Còn nhớ ngày ấy, Đoàn Tuấn có viết câu thơ nói hộ cho nhiều người lính: “Không cần vé vẫn lên tàu đi B/ Sang K, C cũng chẳng cần hộ chiếu/ Những con đường chiến tranh nóng bỏng/ Lính chỉ mong: hết giặc trở về”. Ngậm ngùi thay, có những người không thể về. Không thể về được nữa.

Không một ai có thể cho biết, bây giờ đồng đội  y đã nằm ở chốn nào giữa quần thể văn hóa đã được nhân loại vinh danh? Y hỏi đá. Đá lặng câm. Tượng Bayon bốn mặt. Bốn mặt cũng lặng câm. Sực nhớ đến tứ tuyệt của Chế Lan Viên: “Anh là tháp Bayon bốn mặt/ Giấu đi ba, còn lại đấy là anh/ Chỉ mặt đó mà nghìn trò cười khóc/ Làm đau ba mặt kia trong cõi ẩn hình”. Cõi ẩn hình ấy, với y chỉ có thể là máu và xương của người lính Việt đã đổ thấm đẫm nơi này. Máu ấy, không bao giờ khô đi trên mặt tượng Angkor.

Sực nhớ đến năm tháng nhiều mộng mị, mới hai mươi, ăn khỏe như voi, sức lực đủ bẻ gẫy sừng trâu vì thế đã có cảm nghĩ rất đời, rất lính khi chiêm bái những tượng nữ thần Apsara đã thấy, đã nghe: “Vọng lại từ xa xăm/ Tiếng khóc cười nức nở/ Sấm sét đùng đùng nổ/ Rách ngang dọc vòm trời/ Nàng tiên căng da thịt/ Đứng múa giữa mưa rơi/ Ai đập đầu vào đá/ Đi về trong luân hồi/ Những nàng tiên mệt lả/ Có bao giờ nghỉ ngơi/ Tiếng gươm khua rát mặt/ Vó ngựa hí vang trời…”.

Ngày xa xưa ấy, khi ở Preh Vihear, y đã sống với những mùa nắng mưa, đã nhìn thấy ngôi sao mọc lờ mờ trong tầm đại bác... Lần nọ, đi qua những đền đài nhìn thấy các tượng nữ thần ấy, sau khi quấn điếu thuốc rê sâu kèn, Hoàng An giấu đốm lửa vào trong lòng tay, rít một hơi dài và bảo: “Ước gì đó là người thật Quốc nhỉ?”. Y cũng nghĩ thế và sau phiên gác, trong giấc mơ đã có cảm giác lạ lùng nhất trong đời, đã rùng mình như chết đuối giữa sông dài. Rồi, An đã nằm lại ở nghĩa trang Preh Vihear với trái mìn KP.2 cắt ngang người trong một chiều mưa bão bùng truy kích, không kịp trối trăn. Đó là ngày 28.12.1980.

Thật không thể ngờ, những con đường những địa danh mình đã đi qua nay đã khác hẳn đến mức không thể nhìn ra được. Một hình ảnh còn lại khi xe lăn bánh vào thị xã Battambang vẫn sừng sững tượng Dambang Kranhoung -  ông vua cầm cây gậy thần như thuở nào. Y giật mình tưởng như chỉ mới xa nơi này ngày hôm qua đấy thôi. Phố xá sạch sẽ và nhiều cửa hàng mọc lên. Y lại sống trong cảm giác vừa quen vừa lạ như ngày mới mười tám xuân xanh, vẫn là một câu hỏi đau đáu trong suy nghĩ: Tại sao trên đất nước Chùa Tháp rất mộ đạo lại sinh ra những tên đồ tể như Pol Pot, Khieu Samphan, Ieng Sary?

Câu hỏi này, lần này, y lại hỏi Đoàn Tuấn và bạn bè đi cùng. Chẳng thể tìm ra câu trả lời. Ngay tại Angkor Wat, tập bút ký Mùa chinh chiến ấy (NXB Trẻ) của Tuấn được gửi cho đồng đội ở một cõi hư vô. Ngay sát bờ sông. Một dòng chảy lặng lờ, êm đềm, thanh bình khiến cõi lòng xao xuyến không nguôi. Lửa cháy bập bùng. Cháy bén ngọn. “Chiến trường ngày cũ rưng rưng/ Một thời trai trẻ đã từng dọc ngang/ Mùa chinh chiến ấy - hóa vàng/ Quê chung thắp một nén nhang quê người”. Lòng nhẹ nhàng. Thanh thản. Những câu thơ lại vụt ngang qua nắng trưa, nghe vọng lại lào xào trong gió, từ cành biếc, từ rêu xanh, từ tiếng lòng gần gũi: “Ở đây có núi có rừng/ Xương cốt đồng đội đã từng nằm đây/ Mùa chinh chiến ấy chưa phai/ Hóa vàng cùng với đất đai quê người”.

Ước gì, những người lính quân tình nguyện, trong đời được một lần về thăm lại chiến trường xưa. Có đi mới cảm nhận được hết niềm sung sướng, nỗi đau đớn, sự bi thảm, niềm lạc quan đã dậy men, đã tươi xanh kỷ niệm trong đời. Trước kia, thế hệ y sang chiến trường K từ hướng Đức Lập, từ đường 14B. Và ngày về cũng vậy. Do đó, Đoàn Tuấn mới cảm nhận một gai ốc đến lạnh cả sống lưng: “Xe đang chay. Bỗng sững người dừng lại/ Ngắm nghĩa trang xa tít tận chân trời/ Cả thân hình chợt nóng bừng tê dại/ Hóa khói trầm nghi ngút mãi không nguôi”. Một tứ thơ chân chất. Xúc động. Cực hay. Sáng tạo. Và cũng đã khái quát được tâm thế của người lính khi trở về lại thiếu đồng đội cùng trang lứa đã từng chung sống ở chiến trường.

Và chuyến sang K lần này, thú thật, vốn háu ăn nên y rất thích những món ăn đã từng ăn ngày xa xưa ấy. Chỉ là những con cá đồng, sông, suối được phơi khô. Mà hỡi ôi, không chỉ vì kỷ niệm mà sự khoái khẩu ấy còn do yên tâm về an toàn thực phẩm. Thế đấy, đôi khi đi xa, điều sung sướng lại là món ăn chẳng cao sang gì, miễn là con cá, ngọn rau, miếng thịt chưa bị phun lên hóa chất, chất tăng trọng. Chỉ mong mỗi ngày được đưa vào miệng thực phẩm sạch. Sao khó quá đi mất. Nghĩ đến đó, lúc xe chạy về đến cửa khẩu Tây Ninh, y không khỏi nén tiếng thở dài…

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 18.7.2017

 

mua-chinh-chien-ay-biabis-RRweb

 

“sao lúc ấy không thể nào khóc?/ sờ soạng đi tìm thân xác bạn tả tơi/ từng mảnh linh hồn bay trăm nơi/ làm sao nhặt đủ?/ hình hài bạn như một kỷ niệm cũ/ khó quên/ thời gian đi qua đậm đặc bóng đêm/ tôi vẫn thấy bạn quay về nguyên vẹn/ bạn đó hả? vẫn nụ hồng rón rén/ bộ quân phục rộng thùng thình/ vẫn dáng chào kiêu hãnh tân binh/ hút thuốc lá sâu kèn/ bực mình quá thì chưởi tục/ rồi cười/ lúc ấy hồn nhiên như mây trời”.

Những câu thơ viết về Những liệt sĩ trinh tiết từ năm tháng đôi mươi với nón cối, dép râu, râu ria lún phún, môi còn hồng, da trắng bạch diện thư sinh đang vọng về tâm tưởng. Nhớ. Một nỗi nhớ mộng mị. Một tiếng lòng xa ngút. Một tình yêu của thời tươi trẻ. Tại sao nhớ? À, y đang đọc lại bản thảo Hồi ức chiến binh Mùa chinh chiến ấy của Đoàn Tuấn. Mấy năm trước, đã nhắc hắn ta từng ngày để sau đó có được tập bút ký Những người không gặp lại nữa. Nay, thêm một quyển sách mà trong lời Tựa, y ghi nhận cho đến nay, vẫn là tập bút ký xuất sắc nhất; và có vị trí rất quan trọng trong các tác phẩm đã viết về chiến sĩ quân tình nguyện Việt Nam. Dòng văn học “Đất bên ngoài Tổ quốc”, cụ thể Kampuchia đã có một Đoàn Tuấn bên cạnh những Văn Lê, Phạm Sỹ Sáu, Sương Nguyệt Minh, Nguyễn Quốc Trung, Nguyễn Thành Nhân, Bùi Thanh Minh, Huỳnh Kim, Lê Minh Quốc… đã khắc họa lại bằng sự linh cảm, cảm nhận từ xương máu của cả thế hệ mình.

Tại sao quan trọng? Có phải vì tình đồng đội cũ mà nói thế chăng?  

Chẳng phải đâu. Ở tập sách này Đoàn Tuấn đã tẩn mẩn ghi lại thói ăn nếp ở, hoạt động tác chiến, chặng dường hành quân, tình quân dân, kể cả phong tục, tập quán đất nước bạn qua cái nhìn của người lính đã sống ròng rã một thời trai trẻ. Những trang viết ấy, quan trọng ở chỗ nó còn là chất liệu thật, chưa nhìn qua lăng kính hư cấu, thăng hoa của thể loại văn học. Chỉ là những dòng viết từ trí nhớ, từ những trang nhật ký ngay từ thời ấy.

Đọc và cảm động. Đôi lúc, phải cắn răng vào môi để khỏi bật ra tiếng nấc. Nhớ lắm. Nhớ những gương mặt tân binh còn búng ra sữa, nhớ những gương dày dạn trận mạc, nhớ những ngày “Quần xăn đến gối/ Ào ào mưa xối/ Trên lưng vác cối/ Vai khoác A.K/ Đi qua rừng già/ Bước chân thần tốc/ Từ rừng rậm đến rừng thưa/ Mưa rơi chéo chéo lúc vừa hành quân/ Vai hằn quai súng qua lưng/ Gấu quần rách toạc luồn rừng Anlung”.

Và nay, sự tri ân đến chiến hữu đã hoàn thành. Khi đưa bản thảo này cho Hoàng Anh - vợ của nhà văn, đạo diễn Trần Quốc Huấn, chị gật đầu ngay. Hơn ai hết, chắc chắn những người đã là vợ của chiến sĩ lực lượng vũ trang bao giờ cũng dành nhiều tình cảm với đồng đội cùng thế hệ với chồng. Chị bảo, cùng với biên tập viên Nguyễn Hải Đăng đọc bản thảo, có lúc cả hai rưng rưng. Nhận xét này, quý lắm. Bởi vì rằng, khi Tuấn bắt tay viết nhiều năm liền, không ít kẻ biết chuyện khuyên chớ nên. Tại sao? Thời gian quân ngũ đã trôi xa, chiến tranh đã lùi, liệu chừng độc giả hiện nay có quan tâm, tìm đọc không?

Ơ hay, một khi nén nhang đã thắp lên, trước tiên phải là sự giao cảm với người đã khuất. Sự giao hòa giữa người viết và “những người muôn năm cũ/ những người không găp lại nữa” đã có mối quan hệ chí cốt mới là quan trọng nhất. Còn những người trẻ có cảm nhận hay không lại là chuyện khác. Họ có cảm nhận không? Tin rằng, có. Dứt khoát có. Cũng tựa như thế hệ y đã từng nhớ và ngưỡng mộ sự hy sinh: “Áo bào thay chiếu anh về đất/ Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Nếu Quang Dũng không viết, thế hệ sau mấy ai còn biết đến sự lẫy lừng của Trung đoàn Tây Tiến? Điều này, lúc trà dư tửu hậu anh em các trung đoàn 95, 94, 29 thuộc Sư đoàn 307 đã nói đến, bàn đến.

Sực nghĩ, đôi khi, đồng đội thân thiết với nhau, nào phải cà kê dê ngỗng với rượu, bia dạt dào như mưa nguồn rót thẳng từ trời xanh xuống bàn nhậu. Say tòe loe bông bí. Say quên cả lối về. Mới là vui. Câu thơ của Tạ Ký: “Từng đêm chợ Đũi đẫm sầu/ Ly la-ve đổ gội đầu tóc xanh”, nghe ra hào khí lắm. Có khác nhau chăng, sau đó, con người ta bắt đầu có cái gì cho trang viết mới là điều đáng nhớ. Bằng không chỉ là một cuộc nhậu vô thưởng vô phạt. Chỉ “chém gió” là giỏi. “Buôn dưa lê” là tài. Sáng mai tỉnh dậy, chẳng nhớ gì đến những phát ngôn, những dự định đội đá vá trời. Kể ra cũng tiếc cho chất men tạo cảm hứng lúc trải lòng tâm tình. Trong những lúc ấy, Tuấn lại khác, gần như lúc nào cũng hý hoáy ghi lại những gì anh em bồ tèo đã kể, đã nhắc.

Mọi việc trên đời này, hễ cứ sắp xếp thật khoa học, chỉnh chu, ngăn nắp, nề nếp thì mọi sự diễn ra như ý muốn? Đúng lắm. Nhưng y còn nghĩ đến một yếu tố khác nữa: tâm linh. Rằng, ngày nọ, tháng nọ, năm nọ, các cựu chiến binh của Sư đoàn 307 bàn nhau rằng, phải có tập sách viết về năm tháng đã trải qua trên quê hương Chùa Tháp. Nhất là cho người đã khuất. Ít ra trong năm này phải có. Mà đúng thật. Mọi việc cứ đâu ra đó. Chẳng phải do sự phù hộ mơ hồ nào đó chăng? Tuấn đã nghĩ thế. Và khi đặt dấu chấm cho bản thảo dày cả 450 trang in, hắn đã thắp lên một nén nhang trong tâm tưởng như ngày trước, bọn y đã từng đứng trước nghĩa trang Anlungveng: “Trên trời rời rạc mây bay/ Linh hồn ấm lạnh cỏ cây vỗ về/ Nằm yên mà tưởng nhớ quê/ Đêm đêm nức nở trở về trần gian/ Thắp cho em nén hương tàn/ Hắt hiu mộ chí giữa hàng thơ xanh”.

Tuấn nhớ lại: “Không biết ai đã chọn khoảng đất giữa C7 và D bộ để làm nghĩa trang. Nhìn đi nhìn lại, chắc có mỗi chỗ đó là an toàn hơn cả. Không sợ địch mò vào ban đêm. Không sợ địch tập kích. Tử sỹ vẫn nằm trong vòng bảo vệ của đồng đội. Nghĩa trang không có hàng rào, không có biển hiệu, không có cây to. Chỉ có những cây khộp non. Và cỏ. Mỗi khi đơn vị nào có người mất, ông Vẳng lại bảo tôi: “Nhớ chôn cất cho tử tế. Phải nhớ rằng, mình làm cho người sống chứ không phải làm cho người chết. Anh em nhìn vào. Chúng nó biết, khi hy sinh, được đơn vị đối xử tử tế. Như thế, mới dám chiến đấu, dám hy sinh”.

Và trong các trang viết thấm đẫm kỷ niệm, sự chết chóc, yi tin chắc nhiều người đồng tình bởi ai lại không có tâm niệm: “Tôi tin rằng, mình đối xử chân thành với các liệt sỹ, họ cũng sẽ biết. Môi trường quân đội ngày càng thấm sâu vào tôi. Trước đây, chỉ có những đồng đội đang sống, cùng sát cánh chiến đấu, giờ, giữa chúng tôi có thêm, có chung những đồng đội đã mất. Họ là những sợi dây vô hình, nối chúng tôi lại bền chặt hơn. Và Anlong Veng, và Campuchia, tên những địa danh đã trở nên thân thuộc như tên quê hương Việt Nam yêu dấu. Bởi ở đây, đã có một phần cơ thể chúng tôi nằm sâu trong lòng đất. Tan ra. Thành chất đất, thành nước, thành khí trời, thành cỏ cây, thành bướm, thành hoa của xứ sở này”. Tuấn nói đúng lắm.

Và cuộc họp cựu chiến binh năm nay, dù bận rộn với công việc này nọ nhưng y cũng phải cùng Trần Đào Hiền Nhân - cựu binh của C7, D8, E29 về Đà Nẵng. Phải đổi vé máy bay vì chờ sách in xong. Một món quà tinh thần mà mọi người đang nôn nóng chờ đợi. Không thể thiếu. Và lại gặp Vũ Đình Chiến - một y tá đại đội nhưng được người dân Khmer gọi “Lục Thum” (ông lớn). Tại sao?

Tuấn kể: “Trong phum, có một cô gái kia khá xinh. Một hôm, cô đi làm ruộng, thế quái nào, bị con đỉa chui đúng vào chỗ kín. Về nhà, buổi tối mới phát hiện. Gia đình cô không biết làm cách nào để lấy nó ra.Chắc nó đã chui sâu vào trong.Nhiều người trong phum nghe tin, kéo đến xem, cũng không ai có cách gì. Không thể dùng lửa. Nhỡ đỉa chưa chết mà người đã bị bỏng thì sao? Họ cũng không có dầu nóng để bôi vào. Cô gái chưa chồng, nên càng phải thận trọng. Dân cũng đã thử dùng rượu. Nhưng cái thứ rượu sara vắt từ men gạo thì nhẹ hều, đỉa nào thèm buông vòi. Trường hợp hiếm hoi này, trong phum, từ xưa đến nay, chưa ai gặp phải. Họ kêu ông trưởng  phum. Trưởng phum nghe đâu cũng có vài ba vợ nhưng ông cũng chưa bao giờ sờ thấy con đỉa nào trong cái chỗ oái oăm ấy, ông vào tiểu đoàn trình bày thế. Đã gần 12 giờ khuya. Chắc từ tối đến giờ, cả phum chỉ loay hoay với con đỉa.

Làm cách nào bây giờ?

Dùng panh kéo ra thì không được. Con đỉa có năng lực tự co giãn, tự đàn hồi cực tốt. Kéo không khéo, còn dính lại vòi thì cũng bằng không. Mà cái vòi con đỉa bám sâu ngần nào, ai biết? Rất thông minh và nhanh trí, Chiến bèn lấy nước muối, làm vệ sinh cho cô. Sau đó, anh lấy bông, thấm cồn. Một tay dùng panh kéo đỉa. Tay kia dùng bông cồn dí vô. Bị bỏng đột ngột, con đỉa vội co vòi lại, cuộn tròn. Chiến chỉ việc dùng panh gắp ra. Mọi người vỗ tay ầm ầm. Mặt Chiến đầm đìa mồ hôi, đỏ lựng như say rượu. Chẳng sao, trông càng đẹp”.

Kỷ niệm này hay quá đi thôi, phải không? Sau khi rời Đà Nẵng, lại một chuyến sang Kampuchia. Như một sự hoài niệm trở về “thăm lại chiến trường xưa”. Thầm ước rằng, sang đến nơi ấy, dù Palin, Pnong Pênh, Siêm Riệp, Cong Pong Thom… gì cũng đặng, phải đốt một quyển Mùa chinh chiến ấy. Khói sẽ bay bốn phương tám hướng. Ngọn khói lãng đãng, dịu vợi, thơ mộng và thành kính ấy, chắc rằng những xương cốt còn thất lạc của đồng đội cũ sẽ cảm nhận lòng thành. Lúc ấy, khói bay đi. Tàn tro còn ở. Sẽ chôn lại nơi này. Như ngày trước. Ngày còn tươi trẻ, bước chân vào cuộc chiến mà lòng còn hào sảng, “tiểu tư sản” rất thư sinh mặt trắng: “Lính tráng hành quân qua quán rượu/ Mặt đỏ như là đứa trẻ ranh/ Đứa trẻ đội thơ Bạch Cư Dị/ Đêm nay ném xuống sông Mê Kông/ Sông sẽ hóa thành dòng rượu ngọt/ Chờ em xuống giặt váy dài xanh...

Vậy mà lúc đồng đội ngã vào lòng đất, ở cánh rừng đông bắc, thế hệ y cũng đã từng chứng kiến giây phút bùi ngùi, cảm động đúng như Tuấn đã viết:

“Tôi đọc lời điếu. Mưa xuống. Mặc kệ. Cứ đọc. Anh em vẫn đứng. Đầy xúc động. “Đội tiêu binh. Chuẩn bị. Giương súng lên. Mở khóa an toàn nấc 1. Đặt tay vào cò. Bắn ba phát tiễn biệt đồng đội. Bắn!”. Đầu súng tóe lửa. Khói bảng lảng trong mưa. Những tiếng nổ vang lên. Lính tráng nhẹ lòng. Linh hồn liệt sỹ chơi vơi. Bề ngoài tỏ ra cứng cỏi, chứ thực lòng, đến tiết mục ném đất xuống quan tài, tôi vô cùng sợ hãi. Tôi không thể chịu đựng hay làm quen được với âm thanh của viên đất đầu tiên ném xuống tấm ván dương. Nghe khô khốc mà âm vang đau đớn. Ngỡ như có viên đạn bắn vào giữa trái tim mình. Lính tráng cũng ý tứ. Không đứa nào muốn mình là người đầu tiên ném viên đất xuống mộ đồng đội. Phải nhắc nhau mãi, mới có thằng liều lĩnh ném xuống. Cũng chẳng biết ai. Nhưng có thằng khởi xướng, thì những thằng khác cũng ném theo. Tôi để ý, thấy thằng ném đầu tiên thường là người của tiểu đội đóng quan tài. Chúng nó là lính vận tải trung đoàn, đi phối thuộc nên ít gắn bó với những kỷ niệm sống chết như những anh em trong cùng đơn vị”.

Sau chuyến đi này, sẽ là cuộc họp với anh em cựu binh của Sư đoàn 307 tại Sài Gòn. Chỉ nghĩ đến đó, ít nhiều đã thấy rạo rực và nhẹ lòng. Năm tháng tuổi trẻ đã đi qua, chẳng thể nào quay trở lại. Ngày này, tháng này, năm này, rồi những năm tới cũng là dịp gặp mặt nhau. Hiền lành và giản dị, Chẳng có gì phải ồn ào cả. Rồi mỗi người mỗi việc. Cứ như thế, chẳng mấy chốc mây trắng bay qua, tóc xanh hóa trắng. Đời sẽ già. Có lúc sẽ gật gù nhớ lại: “Chúng tôi đi và sống/ Thanh xuân mỗi một thời/ Những người lính hào phóng/ Đạp mìn chân cụt rồi/ Nhưng trên vai vẫn cõng/ Giọt lệ lẫn nụ cười/ Cho tôi được sống lại/ Ngày đầy tuổi hai mươi/ Kỷ niệm tan trong máu/ Nuôi dưỡng tôi thành người”.

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 13.7.2017


IMG0115-Custom

 

Trống chầu hay trống chậu?

Dứt khoát, trăm người như một đều trả lời trống chầu.

Trong chuyên luận Người Quảng Nam của y, có đoạn: “Từ tiếng trống chầu ở Quảng Nam, ta nghe kể đến nhiều mẩu chuyện vui vui. Chẳng hạn, nhà thơ Lưu Quang Thuận, người Hải Châu (Đà Nẵng) - thân phụ của nhà thơ, nhà viết kịch nổi tiếng Lưu Quang Vũ, nhà phê bình văn học Lưu Khánh Thơ -  là người giỏi về sân khấu chèo, tuồng… Lần nọ gánh hát của ông gặp tay cầm chầu lơ mơ đánh đấm thưởng phạt tuỳ tiện. Để sửa lưng, ông Thuận cho hề ra góp vui: “Tổ cha con quạ ở đâu/ Lâu lâu lại mổ tấm da trâu cái thùng!”. Tay cầm chầu nhột dạ, xấu hổ, đứng lên bỏ về một mạch”.

Trống thường làm bằng da trâu. Tại sao không là da con gì khác, chẳng hạn da bò, dê, ngựa? Phải là dân trong nghề mới trả lời nổi. Có thể do da trâu khi căng ra, dù bị dùi nện liên tục nhưng vẫn không thủng, vẫn bền; hay còn do vì da trâu nên tiếng vang của trống rõ ràng, lan xa hơn?

Ăn no rồi lại nằm khoèo

Nghe giục trống chèo bế bụng đi xem

Chẳng thèm ăn chả ăn nem

Thèm no cơm tẻ, thèm xem hát chèo

Trống chèo khác gì trống chầu? Ông Huình Tịnh Paulus Của (1895) giải thích “trống chầu: thứ trống lớn hay dùng mà đánh thướng hát bội”. Là nhạc sĩ tài ba lại có nghiên cứu uyên thâm, nhạc sĩ Phạm Duy nói rõ hơn: “Trồng chầu: Dùng trong Hát Ả Đào. Tương tự như trống đế nhưng được cấu tạo công phu hơn. Chỉ dùng một dùi - được gọi là roi chầu - làm bằng gỗ găng. Âm thanh trống chầu thấp hơn âm thanh trống đế, ít trong sáng hơn. Quan viên tức là người nghe hát, cầm chầu để điểm câu hát, khen câu văn hay, gieo vận đẹp, hoặc để thưởng giọng hát của ả đào. Chỗ ngắt câu thì đánh "tom" (đánh vào mặt da) chỗ nào khen thì gõ "chát" (đánh vào tang trống). Có nhiều lối đánh trống chầu được đặt tên là Hạ Mã, Thượng Mã, Xuyên Tâm, Lạc Nhạn, Thùy Châu, Tranh Tiên”.

Trong tiếng Việt miền Nam, giăm trống/ tang trống cùng nghĩa với vành trống. Xấu xí, đáng ghét của người lớn tuổi còn là “Già chơi trống bỏi” - còn gọi trống rung/trống giấy. Ai cũng rõ, giải thích nữa, chỉ thêm rườm lời. À, tính cách, thói xấu của người Việt cũng có dính dáng đến cái trống đấy. Thử nhớ lại xem. Vẫn là Đánh trống bỏ dùi; Trống đánh xuôi, kèn thổi ngược… Thú thật, không rõ thành ngữ, “Trống bỏi vật mình” nghĩa của nó ra làm sao?

Có lẽ ít người còn nhớ câu cửa miệng “Quạ quạ đánh trống” là tiếng trù ẻo cho ai đó chết sình, bụng trương lên căng như cái trống, quạ đến mổ. Xét ra con quạ cũng đáng ghét như con cú, bằng chứng có câu: “Cú kêu nhà bệnh”, “Trông xa cứ nghĩ là tiên/ Đến gần cú đậu ở bên cạnh sườn”. Lời chê thâm trầm chữ nghĩa quá đi thôi, ai lại không nhớ thành ngữ: “Hôi như cú”?

“Quạ nào mà chẳng đen đầu” ý nói loài quạ xấu xa cùng một giuộc, cùng “cá mè một lứa” chứ không hề có ngoại lệ. Thế tại sao còn có câu ca dao liên quan đến con quạ lại dễ thương, đáng yêu đến lạ lùng: “Con quạ nó đứng đầu cầu/ Nó kêu bớ mẹ lấy trầu khách ăn”; “Con quạ nó đứng đầu cầu/ Nó kêu bớ má ghe bầu vô chưa?”. Chỉ cần nghe “bớ má/bớ mẹ” là đã có cảm tình rồi. Trên đời này với cái lưỡi, con người ta có thói xấu thỉnh thoảng thay lưỡi tùy ngữ cảnh, trường hợp nhưng một khi đã gọi đến má/mẹ, tiếng gọi ấy dù  “bớ/uớ/quớ” tùy theo vùng miền cũng đều là âm thanh trong sạch, trong trẻo và thánh thiện nhất. Không pha tạp. Không giả dối. Một khi con quạ “Nó kêu bớ má” thì sự xấu xa ở đâu không biết, chứ trong ngữ cảnh này ắt sự hướng thiện vẫn còn.

Lại nữa, “Quạ kêu nam đáo nữ phòng/ Người dưng khác họ đem lòng nhớ thương”. Sao không con gì khác mà phải là con quạ? Chọn con sáo, con chim se sẻ, vàng anh, hoàng yến... có phải hay hơn không? Nhưng rồi vẫn là con quạ. Ông bà ta đã ngụ ý gì vậy? Chưa dám trả lời, chỉ mạo muội nghĩ rằng, sức sống của câu ca dao này còn tồn tại ngàn đời. Bởi lẽ trai chưa vợ gái chưa chồng làm sao không trải qua giây phút, ngày tháng thiêng liêng này? Thật thế, tình yêu, bản chất đầu tiên và cuối cùng vẫn là sự thiêng liêng bởi nó còn là kết quả của thế hệ tiếp nối về sau, mãi mãi về sau nữa…

Ngày xưa, còn có loại trống đất. Nghe lạ tai quá phải không? Có phải cái trống này làm bằng đất nung nên mới “chết tên” như vậy? Suy luận này buồn cười quá. Đất nung làm sao chịu nổi dùi? Hãy nghe ông Huình Tịnh Paulus Của giải thích, chứ không biết mà cứ nói như “biết tuốt”, thiên hạ cười cho: “Trống làm dưới đất:phải đào một cái lỗ, trên lót một tấm ván mỏng, giăng một đàng dây ngang qua mặt ván, lấy một chiếc đũa, gối lên tấm ván, chống đàng dây cho thẳng, rồi lấy cây mà đánh sợi dây thì nó kêu”. Cách chơi tróng kiểu này xét ra “nghệ sĩ” lắm. Nay, không còn ai chơi nữa rồi.

Đôi khi con người ta cần âm thanh, cần nghe tiếng động để thấy chung quanh không lẻ loi, đơn độc. Nói thế, bởi nhớ những đêm khuya khoắc ở chiến trường K, đêm nào cũng mở radio để nghe có âm thanh vọng đến. Rất thèm nghe tiếng người. Đài tiếng Việt càng tốt, nhưng nếu chỉ nghe tiếng nước ngoài cũng chẳng sao, miễn là có tiếng nói. Nếu không, chẳng rõ mình đang ở đâu trong cái thế giới bốn bề im ắng, rừng rú tối đen tịnh không một tiếng động. Bây giờ lại khác. Đinh tai nhức óc suốt cả ngày. Cái điện thoại di động lúc nào cũng kè kè, thỉnh thoảng lại “tèng téng teng” như tiếng trồng/kèn xung trận. Giật thót cả người.

Thú thật, phải là những gì đã đọc từ thời trẻ thì mới nhớ lâu. Sau nay, lúc đã có tuổi dẫu đọc cho lắm nhưng rồi cũng nhớ trước quên sau. Nhớ mãi cái cuộc tranh luận về cái trống đã đăng trên tạp chí Bách Khoa, từ cuối thập niên 1960 thì phải. Đại khái, ông Hồ Hữu Tường cho rằng, cách đánh cùng một lúc mười mấy cái trống, điệu trống ấy chỉ có thể do vua Quang Trung nghĩ ra, lúc ngài hạ lệnh thúc quân ra Bắc đánh bọn giặc nhà Thanh. Ông Nguyễn Văn Xuân cãi không phải, chỉ là thứ trống diễu hay trống ông Ninh - ông Xá quen thuộc trên sân khấu, chẳng liên quan gì đến vua Quang Trung. Ông Võ Phiến tham gia, nghiêng về lý lẽ của ông Xuân và “chốt hạ” bằng một câu khôn ngoan, hóm hỉnh: “Nếu quả Bình Định mất đi một điệu trống, phải được đền lại một cái gì chứ? Cái bánh tráng nhé”.

Lúc nhỏ ở Đà Nẵng, y vẫn còn nghe tiếng trống chầu lúc giỗ đình làng có hát tuồng, hát bội. Nghe thì nghe vậy. Chỉ như “vịt nghe sấm”, thậm chí tiếng trống ấy chỉ “nước đổ đầu vịt”. Nào có hiểu gì đâu. Sau này, nhờ đọc phân tích của nhạc sĩ Phạm Duy mới biết nghệ thuật đánh trống: “Trống của sân khấu Tuồng, Chèo, trông giống như trống cái nhưng được làm công phu hơn. Chỉ gõ bằng một dùi để điểm câu hát (1 tiếng tùng), khen ngợi (2 hay 5 tiếng tùng) hay chê bai (1 tiếng tịch = 1 tay chặn, 1 dùi đánh) đào kép, góp ý với thầy tuồng (1 tiếng các = đánh vào tang trống). Trống chiến, trống trận: Như trống cái nhưng nhỏ hơn, âm thanh nghe rộn ràng, khoẻ vang. Là trụ cột của ban nhạc Tuồng, mở câu, chấm câu, thôi thúc xuất trận hay làm đối âm cho câu hát. Trống này cho người đánh nhiều âm khác nhau : Thùng = đánh giữa mặt trống; Tang = đánh rìa mặt trống; Rụp = đánh 2 dùi ở mặt trống; Tịch = 1 dùi chặn, 1 dùi đánh; Tòng = đánh nhóm dùi vào mặt trống; Các = đánh vào tang gỗ”.

“Nghề chơi cũng lắm công phu”, cụ Nguyễn Du nói đúng lắm. Đố cãi.

Sở sĩ chiều nay, lan man về cái trống và tự hỏi: “Trống chầu hay trống chậu?” là do cơn cớ gì? Rằng thưa, sáng nay, ghé quan tạp chí KTNN ký nhận nhuận bút. Tòa soạn cũng là tư gia của ông chủ biên Hàn Tấn Quang. Tình cờ nhìn thấy vài cái chậu cổ, bằng đồng (hay thau?), lạ ở chỗ có khắc hoa văn, chi tiết tinh xảo. Chắc chắn không phải là hàng phục chế sau này. Nếu có làm cũng không thể thực hiện nổi các hoa văn lạ lùng ấy. Rõ ràng, là cái chậu.

“Đồn rằng cà cuống thơm cay/ Ăn cơm bát sứ, rửa tay chậu đồng”. Ngày xưa, phải nhà giàu mới có. Lại còn nghe câu: “Chim quyên ăn trái nhãn lồng/ Thia lia quen chậu, vợ chồng quen hơi”; “Nước đứng mà đựng chậu thau/ Cái mâm chữ triện đựng rau thài lài”. Nước đứng là nước gì? Ông Nam Chi Bùi Thanh Kiên giải thích: “Nước không chảy ra cũng không chảy vô. Đó là lúc thủy triều lên cao nhất”. Ai lại không nhớ câu đố: “Nước không chân sao kêu nước đứng?/ Con cá không trèo sao nói cá leo?/ Ghe không tay sao kêu ghe vạch?/ Bánh không cẳng sao gọi bánh bò?”. Một cách chơi chữ từ sự đồng âm trong tiếng Việt. Lý thú lắm.

“Cái mâm chữ triện đựng rau thài lài”, chẳng khác gì: “Con vợ khôn lấy thằng chồng dại/ Như bông hoa lài cắm bãi phân trâu”. Cái mâm đắc giá, đắc tiền mà dùng đựng rau/cỏ thài lài thì phí thật đấy chứ. Không rõ vì sao trong tâm thức người Việt lại xem thài lài chẳng ra cái quái gì? Do đâu? Hãy nhớ lại đi, có phải ông bà ta nói: “Thài lài mọc cạnh bờ sông/ Tuy rằng xanh tốt vẫn tông thài lài”, chẳng khác gì mắng: “Ối dào, thằng cha đó nứt đổ vách, vườn tược cò bay thẳng cánh, chó chạy con đuôi, biệt phủ hoành tráng nhưng dòng dõi, gốc gác dòng tộc nó vẫn là dân ngụ cư”. Còn có câu mệt thị nào nặng nề hơn?

Lại nữa, “Gái phải hơi trai như thài lài phải hơi cứt chó”. Nghe ra cũng chua chát rồi tủm tỉm cười cho sự so sánh đáo để, tinh nghịch của ông bà mình. Nó thì nói thế, cái loại thài lài ấy chớ nên chê bai, nó cũng có ích đấy: “Thài lai, rau rệu, nghé ngo/ Mẹ con nhà khó ăn no lại nằm”. Dù chẳng là gì nhưng có thể giúp người nghèo qua cơn đói ngặt, đói nghèo cũng đã là tốt.

Có một điều lạ khi tra từ điển do người miền Nam soạn lại không thấy ghi nhận “thài lài”, chỉ có “thài lai” tức đi dạng hai chân, coi bộ mệt nhọc đi không vững. Nhưng “thày lay” lại là chỉ kẻ hớt hẻo, xen vào chuyện người khác, dù chẳng liên can, dính dáng gì đến mình. Thành ngữ có câu: “Thày lay chày cấu cổ” cùng nghĩa với “Ách giữa đàng mang vào cổ”.

Hãy trở lại với cái chậu đi thôi. Lạc đề rối đấy. Xin vâng.

Ngày xưa có câu: “Cá chậu chim lồng”, hoặc cách ví von: “Như chim vào lồng, như cá căn câu” - nay bọn trẻ trâu lại đùa tếu táo, cà chớn cà cháo, nghe rồi cười: “Trai có bồ như hoa có chậu / Em nào thâm hậu, đập chậu cướp hoa”. Vậy hóa ra đàn ông đàn ang “có giá” thế ư? Chỉ là một cách tự “làm sang” đấy thôi. Sức mấy, đời nay, và dám quả quyết rằng cho đến muôn năm sau, ngàn đời sau, người phụ nữ vẫn là số 1, là trước nhất, là ngôi cao mà bọn đàn mày râu còn phải xách dép chạy theo dài dài. Còn phải năm canh khóc thầm, lả chả dòng lệ nếu chẳng may thất tình do “bồ đá/gài số de”. Còn phải thở ngắn than dài như chàng trai tội nghiệp trong ca dao hàng ngàn năm trước: “Ô hô, chậu ngã, cúc rã, sen tàn/ Tiếc công anh lận đận với nàng bấy lâu”.

Đọc/nghe xong thấy buồn cười à? Nào dám, bởi câu ca dao ấy đã nói hộ lòng mình đấy. Đúng chóc rồi còn gì?

Đang ngắm nghía vài cái chậu cổ tại tòa soạn KTNN, nghĩ ngợi lan man, bỗng nghe anh Hàn Tấn Quang bảo, đại khái, cái chậu ấy còn gọi là trống chậu, Q à”. Tưởng nghe nhầm, từ dấu “huyền” sang dấu “nặng”, anh vẫn quả quyết “trống chậu”. Cứ theo lập luận của anh, lúc xâm lược nước Nam ta một trong những chính sách cai trị tàn độc của bọn giặc phương Bắc vẫn là cấm dân Nam làm làm trống. Chúng thừa biết một khi tiếng trống đã nổi lên thì chính là lời hiệu triệu giục giã, thúc giục dân làng, làng xã phải có mặt ngay lập tức vì đại cuộc, không một ai dám chần chừ, trễ nãi. Để đối phó,qua mặt, ông cha ta đã làm chậu cũng bằng vật liệu sắt, đồng, thau… như làm trống để che mắt chúng. Khi cần, nếu cần chỉ cần úp chậu xuống thì nó đã trở thành mặt trống. Lời giải thích này với lập luận xác đáng nên ghi lại.

Trưa đứng bóng, trên đường tạt qua bệnh viện Gia Định thăm mẹ đang điều trị. Sực nhớ đến câu của người xưa: “Đồng quân nhất dạ thoại, thắng độc thập niên thư” (Cùng anh trò chuyện một đêm, hơn cả mười năm miệt mài đọc sách)..

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 12.7.2017

 

LY_TOET_XA_XE_BANG_BANH

Chiều đã chiều Đã nhiều chiều đọc vẩn vơ vài trang sách. Tự dưng lại nhớ đến ngày dự hội thảo Phong trào Thơ mới và văn xuôi TLVĐ - 80 năm nhìn lại. Diễn ra ngày 2.10.2012 tại Trường Đại học Sư phạm TP.HCM do 4 đơn vị giáo dục tại TP.HCM là Trường Đ.H Sư phạm, Hội Nghiên cứu giảng dạy văn học, Khoa Văn học và Ngữ văn Trường Đ.H KHXH&NV và tạp chí Thế Giới mới đồng tổ chức.

Ngày đó, PGS-TS Trần Hữu Tá đọc diễn văn khai mạc, qua đó, ông kết luận: “Những sáng tạo nghệ thuật của khuynh hướng thẩm mỹ này, cùng với thành tựu của hai dòng văn học hiện thực chủ nghĩa và văn học cách mạng vô sản cùng thời, tất cả đã góp phần thực thi một nhiệm vụ lịch sử quan trọng: hoàn tất quá trình hiện đại hóa nền văn học dân tộc chỉ trong hơn một thập kỷ (1930-1945), đưa văn học nước ta từ quỹ đạo văn học trung đại hòa nhập chung dòng chảy của văn học thế giới hiện đại”.

Rất tiếc trong hội thảo này, chỉ duy nhất tham luận của Thái Thị Thu Thắm (Đ.H Văn Lang) đề cập đến Mối quan hệ giữa văn học và hội hoạ trong hoạt động của TLVĐ. Và lấy làm tiếc. Tiếc vì như ta đã biết, trong hệ thống truyện cười dân gian Việt Nam đã có những nhân vật hoạt kê nổi tiếng như Trạng Quỳnh, Xiển Bột, Ba Giai - Tú Xuất v.v... Và bây giờ, chính TLVĐ đã sáng tạo thêm ba nhân vật điển hình nữa - một thành công rực rỡ cho nền biếm họa chí nước nhà: Lý Toét, Xã Xệ, Bang Bạnh.

Lâu nay, các nhà nghiên cứu đã nhọc công tìm hiểu ai đích thực “cha đẻ” của ba nhân vật này? Mỗi người nói một phách. Người này nghe người kia nói thế, tin sái cổ, vì thế khi viết lại lặp theo. Cái sự cần thiết nhất trong nghiên cứu vẫn là “nói có sách, mách có chứng” nhưng rồi nhiều người lại không thực hiện. Chẳng phải họ làm biếng, cẩu thả mà do thiếu tài liệu, không có văn bản nên đành chịu. Nói gì cho xa, đôi lúc y cũng thế thôi. Rồi, có lúc kiểm chứng lại tài liệu mới ngớ người thốt lên bẽ bàng. Trách ai bây giờ?

Con nhớ, lúc còn đi học trung học, đã đọc tạp chí Văn Học chủ đề Những vang bóng một thời trong văn chương hoạt kê Việt Nam - ấn hành năm 1971. Và tin sái cổ về sự ra đời của nhân vật Lý Toét do nhà văn Vũ Bằng viết: “Lần đầu tiên xuất hiện trên Kỷ yếu Việt Nam Thanh niên hội của sinh viên Cao đẳng (Hà Nội), hai ba tháng ra một số, ngoài bìa sách vẽ một gốc đa cổ thụ. Và chính nhà thơ Tú Mỡ (1900 - 1976) là “cha đẻ” ra Lý Toét và ngay bản thân Tú Mỡ cũng được gọi là Lý Toét. Tại sao bị gọi Lý Toét? Là vì Tú Mỡ làm thơ trào phúng thì hóm hỉnh, nhưng ngoài đời lại có vẻ quê mùa, quê mùa từ cách nói năng cư xử đến cách thức ăn mặc - giữa một thời kỳ đương tiến bộ hết mốt nọ đến mốt kia, Tú Mỡ nắng cũng như mưa, hai buổi đi làm cứ cọc cạch một cái xe Terrot đồng nát, mặc áo the, đi giày Tây trắng, mà lại đội một cái nón dứa lên đầu xùm xụp” (tr.25).

Trong tham luận trong hội thảo nêu trên, Thái Thị Thu Thắm cho rằng: “Nhất Linh là người đã sáng tạo ra Lý Toét còn Nguyễn Gia Trí chính là hoạ sĩ tài hoa đã cho ra đời Xã Xệ và Bang Bạnh”. Trong quyển Biếm họa Việt Nam (NXB Mỹ Thuật- 2011), họa sĩ Lý Trực Dũng cho rằng: “Xã Xệ và Bang Bạnh chính là sáng tác của họa sĩ Nguyễn Gia Trí với bút danh Rigt” (tr.14) v.v…

Dù thế nào đi nữa, việc đưa các nhân vật này “hội nhập” vào đời sống, trước hết phải kể đến công lao của nhóm TLVĐ.

Tại sao không thử mạo muội lật lại tài liệu xưa để có thể “chốt hạ” lại vấn đề mà lâu nay đã còn có nhiều, rất nhiều ý kiến tranh luận khác nhau? Thách đấy, có làm nổi không?  Y hỏi y chứ ai. Không thèm trả lời. Chỉ nhẩn nha lật lại bộ Phong Hóa xem sao. Và sau đây là những gì y đã ghi nhận và khẳng định từ văn bản, từ tài liệu chứ không “ăn theo nói leo”.

Đọc lại tờ Ngày Nay số xuân năm 1940, trong bài Lịch sử Lý Toét, Ba Ếch và Xã Xệ nhà văn Nhất Linh tiết lộ: “Lý Toét ra đời trước rồi người mới ra đời sau. Tên Lý Toét thấy xuất hiện năm 1930 trong báo Tứ Dân mà người đẻ ra cái tên Lý Toét lại là Tú Mỡ Hồ Trọng Hiếu. Còn ai đẻ ra Lý Toét (người thật)?”. Với câu hỏi này, Nhất Linh trưng ra hình vẽ Lý Toét in trên măng-sét của báo Phụ Nữ Thời Đàm số tháng 6.1931 và cho biết: “Đó là bức vẽ đầu tiên về Lý Toét. Đông Sơn một hôm ngồi xem báo Phụ Nữ. Nghịch vẽ một người nhà quê và thấy người ấy hay hay liền xé chỗ vẽ cất đi, chưa biết dùng làm gì”.

Mãi đến khi Phong Hóa bộ mới do nhóm TLVĐ thực hiện, Lý Toét mới chính thức “hành hiệp giang hồ”. Trên   số báo 14 (22.9.1932), trang bìa có in tranh vẽ Người An Nam mình kinh doanh, dù “25 chỗ ngồi nhất định” nhưng trên xe chở cả vài chục người lổn nhổn. Nếu quan sát kỹ, ta thấy có nhân vật ná ná như Lý Toét đuọc phổ biến sau này. Tranh ký tên Đông Sơn (bút danh của Nhất Linh). Qua số báo 15 (29.9.1932), tranh vẽ Lý Toét lần đầu tiên được chọn làm vi-nhét cho chuyên mục Vui cười. Và tất nhiên, lúc đó chưa có tên gọi là Lý Toét.

Đến số báo 35 (24.2.1933) trong tiểu phẩm Cuộc chợ phiên của Phong Hóa tổ chức của Tứ Ly (bút danh của nhà văn Hoàng Đạo), bấy giờ tên gọi Lý Toét mới xuất hiện, có cả tranh minh họa Lý Toét cùng nhân vật Ba Ếch. Có thể xem đây là ngày “khai sinh” của nhât vật trứ danh: “Đội trời đạp đất giữa trời/ Nguyễn Văn Lý Toét là người Việt Nam”. Qua các số báo sau, cụ thể số 48 (26.5.1933) là thời điểm Lý Toét bắt đầu trở thành nhân vật chính của mỗi tranh châm biếm. Mở đầu là Lý Toét ra tỉnh - lẫm bẫm khi chăm chú quan sát bệ nước phông tên, có vòi rô-bi-nê: “Quái, bia ai mà lạ vậy?”.

Từ đó trở về sau, trên Phong Hóa tranh vẽ về nhân vật này xuất hiện đều đặn. Bấy giờ, không chỉ Đông Sơn mà các danh họa lừng lẫy cỡ Nguyễn Gia Trí (bút danh Rigt), Tô Ngọc Vân (bút danh Tô Tử), Cát Tường (bút danh Lemur), Mạnh Quỳnh... cũng “hà hơi tiếp sức” qua nhiều số báo. Ngoài ra còn phải kể đến tài năng của của thi sĩ trào phúng Tú Mỡ. Trên chuyên mục thơ châm biếm Giòng nước ngược, ông cũng “lôi” Lý Toét vào cho bằng được, thậm chí còn nhại bài thơ Anh Khóa của Á Nam Trần Tuấn Khải để cho bà Lý Toét được xuất hiện v.v...

Như thế, vẫn chưa đủ.

Làm nên sự thành công rực rỡ này, phải còn là công sức tham gia rất nhiệt tình của đông đảo bạn đọc cùng viết/vẽ theo “nguyên mẫu” đã có sẵn. Tạo nên “hiệu ứng dây chuyền”, còn do từ báo số 26 (16.12.1932), Phong Hóa đã mở cuộc thi viết “truyện cười” và vẽ “tranh khôi hài” nên đã thu hút sự tham gia của mọi người. Dám khẳng định rằng: “bản quyền” hình mẫu Lý Toét là do Nhất Linh sáng tạo, nhà thơ Tú Mỡ đặt tên và nhà văn Hoàng Đạo có công đầu trong việc giới thiệu với đông đảo bạn đọc.

Còn nhân vật Xã Xệ thì sao?

Cuộc thi sáng tác truyện cười, vẽ tranh khôi hài, kéo dài nhiều năm. Trên Phong Hóa số báo 57 (28.6.1933), Bút Sơn với “tranh dự thi số 73” đã vẽ nhân vật na ná như Xã Xệ sau này: Ông ta đi hớt tóc, trên đầu chỉ có mỗi một sợi tóc, thợ cầm tông-đơ và hỏi: “Bẩm ngài,ngài rẽ bên hay rẽ giữa ạ?”. Tất nhiên nhân vật này, Bút Sơn không đặt tên Xã Xệ. Với bài báo của Nhất Linh vừa nêu trên, ông cho rằng: "Nhìn kỹ, tôi cho người ấy là bố Xã Xệ"

Trên số báo 88 (9.3.1934), Chàng thứ XIII viết tiểu phẩm Lý Toét suýt đi du xuân, lần đầu tiên xuất hiện tên gọi Xã Xệ qua bức tranh có mẩu đối đáp: Xã Xệ hỏi: “Mưa đã đến gần, bác vẫn tắm sao?”. Đang ngâm mình dưới ao, tay vẫn cầm ô, đầu đội khăn đóng, Lý Toét trả lời: “Lo gì, tôi đã phòng xa, mang ô đây, lúc mưa tới, tôi dương ô lên”. Bức tranh này không thấy ký tên. Ai đặt tên Xã Xệ? Không rõ.

Thật bất ngờ, qua số báo sau, số 89 (16.3.1934) ngay trang bìa đã chọn bức tranh của Bút Sơn. 2 tranh liên hoàn vẽ Xã Xệ và Lý Toét đứng trước cái bàn cân Tây, trên bảng có ghi: “Bỏ vào 1 xu rồi cân”. Xã Xệ bảo: “Bác Toét chúng mình có 1 xu làm sao cân hai đứa?”. Cả hai cùng leo lên bàn cân, Lý Toét trả lời: “Thế này thì thật nhất cử lưỡng tiện, cân một lần hai đứa rồi chia hai ra thì cũng được chứ lỵ?”.

Từ đây, nhân vật mập ú, trên đầu mỗi một sợi tóc, hai má phúng phính, mặc áo dài the thâm đã trở thành “nguyên mẫu” cố định. Và cũng từ đây, Xã Xệ luôn cặp kè như hình với bóng cùng Lý Toét ốm cà tong cà teo, má hóp, đầu bịt khăn, răng vẫu, tay xách ô có treo tòng teng đôi giày. Không những thế, vi-nhét chuyên mục Vui Cười, trước đây chỉ mỗi Lý Toét thì nay đã có thêm Xã Xệ. Hai nhân vật này, nổi tiếng đến độ khi xem lại báo Ngày Nay, y còn phát hiện ra mẩu quảng cáo:

“Quan, thét: - À, các thầy hỗn thật. Các thầy mang biếu thuốc để định rủa tôi đó sao?
Lý Toét, run sợ: - Dạ bẩm quan lớn, chúng con đâu dám. Nguyên con nghe nói bà lớn bị nóng sốt uống đủ các thứ thuốc mà không khỏi nên chúng con lòng thành mua một tá “Khang Kiện thối nhiệt tán” để bà lớn dùng. Xin quan lớn xét cho.

Xã Xệ: - Bẩm chúng con đã kinh nghiệm, chỉ 5 phút khỏi sốt.

Quan lớn hớn hở: - À ra thế, cảm ơn các thầy, có phải hiệu Khang Kiện ở Hà Nội không? Ấy, bà lớn vì uống thuốc điều kinh ở hiệu ấy chỉ có 0p50 một hộp mà có thai, rồi đẻ ra thằng cháu thứ tư đó. Hiệu ấy lại có thuốc “Bảo thai” giá 0 piastre 30 rất tốt”.

Theo y, ngày 16.3.1934 là ngày chính thức “khai sinh” của Xã Xệ. “Bản quyền” đó thuộc về Bút Sơn.

Còn nhân vật Bang Bạnh thì sao?

Bấy giờ, báo chí đưa tin: có lão Bang tá nọ ở Vinh, lúc vào một hiệu buôn, người thư ký cửa hiệu sau khi lễ phép chào hỏi rồi ngồi xuống ghế. Lập tức, anh ta ăn một cú tát như trời giáng của Bang tá vì... dám ngồi ngang hàng với lão. Trên báo Phong Hóa số 151 (ngày 31.8.1935), nhà văn Thạch Lam có phê phán sâu cay trong chuyên mục Bức tranh vân cẩu. Danh họa Tô Ngọc Vân (bút danh Tô Tử) đã vẽ tranh minh họa chân dung: một ông quan béo ục ịch, mặc áo dài trắng, khăn đóng trắng, mặt tròn, mép và cằm có 3 sợi râu, mắt ti hí, ngực đeo bài ngà, chân đi giày, tay cầm roi. Chưa hết, ngay dưới bài viết trên còn là 4 tranh liên hoàn Truyện quan Bang Bạnh kể chuyện quan đi xe ô tô, ngồi ở đầu cũng ngang hàng, hoặc dưới tài xế, bực quá, quan chọn cách... ngồi trên mui xe ngay trên đầu tài xế!

Khác với sự ra đời của Lý Toét, Xã Xệ, lần này TLVĐ quyết định cho nhân vật của mình có lý lịch hẳn hòi. Do đó, từ số báo 155 (27.9.1935) Tô Tử vẽ truyện tranh 2 kỳ về “sự tích” ra đời của Bang Bạnh. Sau đây là lời dẫn trong tranh:

“Trước khi Bang Bạnh ra đời, bà mẹ nằm ngủ thấy một ông thần biếu bà một cái thang gẫy. Mấy hôm sau... Ông đốc Xã Xệ ở phòng đẻ ghé đầu báo tin bà Bạnh sinh con trai. Đứa trẻ sinh ra không thích chơi búp bê hay chơi trống bỏi, chỉ thích chơi roi mây. Nó không khóc một tiếng nào, mỗi khi đòi ăn nó chỉ  quát và giơ roi lên. Nó không bao giờ chịu đặt nằm hay để người ta ẵm ngang; mỗi khi nguời ta để ngang hàng chân nó với đầu nó là nó quát ầm nhà. Vì vậy nên từ lúc lọt lòng nó chỉ ngủ đứng. Vì có cái nết ngủ đúng nên Bạnh được làng bầu ra làm trương tuần.

Anh ta làm hết phận sự một cách dễ dàng vì tối nào anh ta cũng chỉ việc ra ngủ ở đầu làng. Cướp không dám béng mảng. Vì thế năm sau được bầu làm chánh tổng. Một đêm mùa nước chánh Bạnh coi đê mệt quá ngủ... Ông sứ đi tuần đêm thấy trời tảng sáng mà chánh Bạnh còn sừng sững đứng trên đê. Hôm sau, chánh Bạnh nhận được giấy ông sứ đã giật mình... giở ra mới biết thăng Bang tá, vì đã hết lòng làm việc - ông bắt đầu có cái tên Bang Bạnh từ đó”.

Tựa như Lý Toét-Xã Xệ, với nhân “sinh sau đẻ muộn” này này, Phong Hóa lại lại kêu gọi bạn đọc cùng tham gia “chung vui”. May mắn, lần này nó cũng được các danh họa, bạn đọc sử dụng trong các tình huống hài hước, châm biếm từ tranh vẽ đến các mẩu chuyện cười.

Ngày 31.8.1935 là ngày “khai sinh” của Bang Bạng với “cha đẻ” Tô Ngọc Vân, Thạch Lam là người đặt tên.

Thật ra, từ xưa đên nay, các nhà báo Việt Nan đều nỗ lực tạo ra những nhân vật điển hình như thế, có thể kể đến những Vá, Vếu, cậu Ấm, cô Chiêu (trước 1945); anh Tám Sạc Ne, Bé Ngôn, Bé Luận, Tổng Thẹo... (trước 1975); sau này là gia đình Hai Nhái, Linđa Kiều; Gia đình bé Kiến v.v... Nhưng những nhân vật đó vẫn chưa tạo được nét điển hình để đi sâu vào trí nhớ của công chúng.

Có thể nói Lý Toét - Xã Xệ - Bang Bạnh đã trở thành điển hình của “nhân vật điển hình” - mà báo Phong Hóa gọi bộ “tam đa” không thể tách rời khi nhìn về tính cách tiêu biểu của nông dân người Việt trước Cách mạng tháng Tám. Sự thành công chói lọi, rực rỡ của nó vẫn còn là bài học, thử thách cho các họa sĩ biếm và nền báo chí trào phúng hiện nay. Sự thành công do đâu? Tất nhiên có nhiều lý do, riêng từ góc độ chuyên môn họa sĩ Lý Trực Dũng kết luận rất chính xác: "không phải do một mà nhiều họa sĩ vẽ, nhưng luôn giữ đúng hình hài đặc trưng ban đầu của nhân vật. Đó là cách tác nghiệp rất hiện đại, hiệu quả của các họa sĩ vẽ tranh  biếm họa nhiều kỳ mà ngày nay gọi là teamwork" (SĐD, tr.16).

.

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 11.7.2017

me-con-chi-thai-daon-tiuan-le-minh-quoc

Từ trái: Mẹ con chị Thái, Đoàn Tuấn, Lê Minh Quốc tại nhà cũ của thi hào dân tộc Tú Xương (ảnh chụp ngày 1.9.1998)

 

Một người sống bằng nghề cầm bút, dấu hiệu nào cho thấy họ đã già, đã mệt mỏi, đã bước chân qua dốc bên này của cõi đời mình và đang chậm rãi từng ngày đi xuống? Có lẽ, rõ ràng nhất là lúc họ không còn tha thiết, hào hứng gì với sự cảm nhận trong một ngày đã thấy, đã nhìn, đã nghe, đã biết... Từng sự việc, sự kiện ấy dẫu có ập đến một hoặc nhiều lần nhưng rồi, họ vẫn dửng dưng, bàng quan như một kẻ đứng bên lề. Tức là, họ không còn hào hứng sử dụng con chữ để ghi lại tâm trạng, niềm cảm hứng/nỗi tuyệt vọng trong khoảnh khắc ấy nữa. Cứ thản nhiên như không.

Cứ tự soi rọi lấy bản thân chính mình thì rõ. Ắt nhiều người “ồ” lên thán phục, và không rõ tại sao lúc ấy/thời ấy mình lại viết khỏe/viết nhiều đến thế? Sự hăm hở, trong sáng, cuồng nhiệt, bất vụ lợi của tuổi trẻ quý lắm, còn hơn cả kinh nghiệm của người già. Kinh nghiệm chẳng là gì, nếu chỉ còn đọng lại trong suy nghĩ, suy tư chìm sâu ký ức? Mấy hôm nay đã đọc kỹ lại bản thảo Mùa chinh chiến ấy của Đoàn Tuấn. Nhớ và rất nhớ những tháng ngày chiến binh ở K.

Ngày ấy, trong túi áo của y và Tuấn không lúc nào thiếu quyển sổ tay và cây bút. Hễ đọc một câu thơ/văn nào hay, thích thú là ghi lại; hễ nghe ai sử dụng một từ nào đắc địa, hễ một câu thơ vụt ngang qua đầu là ghi lại... Ghi chép từng ngày. Cũng là một cách làm giàu thêm vốn tiếng Việt. Chỉ có thế. Ở rừng làm gì có sách, báo để đọc? “Ở rừng thiếu thơ để đọc/ Chúng tôi làm thơ cho mình/ Từng câu chữ chưa tròn trịa/ Ra đời từ cuộc trường chinh/ Chúng tôi làm thơ để đọc/ Như trồng thêm lúa để ăn/ Như cắt tranh lợp nhà ở/ Làm thơ dưới tiếng pháo gầm/ Những câu thơ mặc áo lính/ Đồng phục xanh màu lá rừng/ Đến với những người ra trận/ Như quàng khẩu súng sau lưng”. Ấy là suy nghĩ mà y đã “tự bạch” từ năm tháng ấy.

Rồi lúc ra quân, vẫn còn trẻ. Sức trẻ ấy, tràn trề trên từng trang viết. Từng bài báo. Từng quyển sách. Không mệt mỏi. Đã đi là viết. Bây giờ thỉnh thoảng đọc Facebook bạn bè, nhất là của Ngô Nguyệt Hữu tự dưng lại nhớ về năm tháng ấy, của chính y. Ối dào, hắn ta viết ròng rã từng ngày, từng giờ, bộc bạch suy tư, chiêm nghiệm về cuộc đời, về thời cuộc chỉnh chu, có trách nhiệm, đâu ra đó. Nhìn và đọc, y cũng thèm lắm chứ, nhưng rồi không thể chạy marathon cùng người trẻ. Sức mấy.

À, có phải còn thêm một dấu hiệu của tuổi già nữa là lúc người ta đã khôn ngoan hơn, tỉnh táo hơn và cũng chừng mực hơn? Và điều cay đắng nhất, theo y, vẫn là ở chỗ nhìn sự vật dù quen/dù lạ cũng không còn có gì hăm hở trong sự khám phá mới mẻ nữa; nếu có cũng chỉ là sự quan sát, chứ không ghi nhận, phát biểu, biểu lộ gì cảm xúc của mình. Sống như thế, có chán không? Biết trả lời thế nào? Thật ngớ ngẫn thay, lúc còn trẻ, thu thập nhiều tài liệu, sách vở cứ nghĩ trong đầu: “Về già, sẽ viết”, tức sẽ sử dụng/sử lý khối tư liệu ấy “ra môn ra khoai/ ra nếp ra tẻ”. Thế nhưng, có dịp, hầu hết con người ta buông xuôi. Không thèm đoái hoài, ngó ngàng gì đến nữa. Bởi thân xác mỏi mệt, ngựa nản chân bon, nắng ngã qua chiều.

Thế thì, câu châm ngôn hay nhất, thiết thực nhất vẫn là “Việc gì làm được hôm nay, chớ để ngày mai”. Ngày mai? Làm gì có ngày mai. Con người ta cứ chần chừ, lần lữa mãi rồi cuối cùng nào nên cái tích sự gì. Chẳng mấy chốc “Có những đêm về sáng, đời sao buồn chi mấy cố nhân ơi?”. Nghe ra bùi ngùi, ngậm ngùi như một tiếng nấc âm thầm, lặng lẽ lướt xuyên đêm thanh vắng rồi sực tỉnh ngủ, bước ra sân chỉ nghe tiếng gió đi ngang qua vô hình tướng mà lòng rỗng rênh đến buồn tênh.

Khi viết những dòng này, rõ ràng, y đã già. Có phải rằng, dấu hiệu của tuổi già, còn là những ai thường chép miệng/tặc lưỡi mở đầu bằng từ “nếu”? Đừng có mơ. “Với chữ nếu, người ta có thể nhét cả Paris vào trong cái lọ chai”. Một câu ngạn ngữ Pháp. Quá hay. Nói thì nói thế. Nếu bây giờ quay lại thời tuổi trẻ, lúc ra Hà Nội, y sẽ làm gì? Thì cũng sẽ phóng xe đi Nam Định một chuyến như ngày nọ đã đi vào mùa thu năm Mậu Dần (1998). Đi, ghi chép và cũng để thưởng thức một trong hai thứ “đặc sản” của Nam Định: “Đọc thơ Xương, ăn chuối ngự”.

Ngày ấy đã ghi chép như sau: Chỉ vài tiếng đồng hồ đi xe honda với tốc độ 30 km/giờ, chúng tôi đã có mặt ở Nam thành cảnh trí mà từ đầu thế kỷ X X những thi sĩ dân gian đã miêu tả: “Thanh Nam cảnh trí an bài/ Phố phường trên bộ, vạn chài dưới sông/ Nhất thành là phố Cửa Đông/ Nhất lịch Hàng Lọng, Hàng Đồng, Hàng Thao/ Hàng Giày đẹp khách yêu đào/ Muốn tìm quốc sĩ thì vào Văn Nhân…”. Chúng tôi đã đến phố Hàng Nâu, sát Hàng Cót bên chợ Vị Hoàng để thăm lại ngôi nhà cũ của Tú Xương (1870-1907).

Chỉ tồn tại trên trần gian 37 năm nhưng Tú Xương đã để lại một bản lĩnh thơ, một sự nghiệp văn học đồ sộ. Lúc mất, ông được an táng tại khu Cồn Vịt của làng Phụ Long. Đây là vùng đất xưa của Nam Định, thời đó chỉ là cánh đồng hoang, đất cao như cồn. Mãi sau này mới rước hài cốt về công viên Vị Xuyên. Quyển Thành Nam xưa của Vũ Ngọc Lý (Sở VHTT Nam Định 1997) viết: Đến năm 1865 làng Vị Hoàng đổi tên thành làng Vị Xuyên. Lý do là khi cụ Trần Bích San thi trúng Tam nguyên được vào chầu vua. Vua Tự Đức hỏi quê quán, cụ thưa cụ người làng Vị Hoàng - Hoàng là tên ông tổ họ Nguyễn. Kiêng tên húy, vua Tự Đức cho đổi Hoàng thành Xuyên. Từ đó, dân quen gọi đất ấy là làng Vị Xuyên (tr. 51). Đây là tên làng của Tú Xương - trong bài thơ Đất Vị Hoàng, ông viết: “Có đất nào như đất ấy không?/ Phố phường tiếp giáp với bờ sông”.

Năm 1883, Nam Định mất vào tay Pháp. Năm 1913, Pháp lấy đất ở Hậu Đồng lấp đoạn sông Vị ở phố Hàng Nâu, Hàng Mâm, Hàng Song. Đến năm 1956, nó mới được đào lại và ngày nay xây dựng thành công viên Vị Xuyên. Ngôi mộ của Tú Xương được xây dựng khang trang, nằm sát bên bờ sông gió thổi lồng lộng. Trên mộ bằng đá có khắc tên tuổi nhà thơ lớn của dân tộc, ghi rõ là Trần Tế Xương. Tuy nhiên, gần đây nhiều người vẫn cho rằng, Trần Kế Xương mới đúng là tên thật của ông. “Kế” có nghĩa là “tiếp nối” và “Xương” có nghĩa “thịnh vượng”. Rất tiếc, không gặp được người xây bia mộ này để hỏi thêm cho rành rẽ. Trong trưa nắng, thắp nén nhang lên ngôi mộ Tú Xương với tất cả lòng thành kính, bỗng nghe đâu đó trong gió vọng đến những câu thơ trong Vị Hoàng hoài cổ của ông: “Nô nức qua chơi đất Vị Hoàng/ Nơi này phong vận, đất nhiều quan/ Trời kia khiến vậy sông nên bãi/ Ai khéo xoay ra phố cả làng”.

Âm hưởng câu thơ buồn man mác ấy đã đưa chúng tôi quay về ngôi nhà mà thuở sinh thời ông đã sống. Tú Xương sinh ngày 10.8 năm Canh Ngọ (tức ngày 5.9.1870) tại ngôi nhà số 247 phố Hàng Nâu. Ngôi nhà này, ông nội Tú Xương là Trần Duy Năng đã để lại cho bố Tú Xương là Trần Duy Nhuận: “Nhà gỗ năm gian lợp lá gồi/ Trông dòng sông Vị, tựa non Côi”. Năm 1894, năm Tú Xương thi đậu tú tài thì ngôi nhà này bị cháy, về sau do làm ăn thua lỗ nên mẹ của ông đã đem cầm cố cho mụ Hai An ở phố Khách. Không trả được nợ, ngôi nhà bị người ta tịch ký.

Còn ngôi nhà số 280 phố Hàng Nâu hiện nay mà chúng tôi đến là nhà vợ Tú Xương. Bà Hai Sửu - mẹ vợ nhà thơ - đã cho con gái là Phạm Thị Mẫn. Chính ngôi nhà này thuở sinh thời ông từng Tự cười mình: “Ở phố Hàng Nâu có phỗng sành/ Mắt thời lo láo, mặt thời xanh/ Vuốt râu nịnh vợ, con bu nó/ Quắc mắt khinh đời, cái bộ anh”. Nay, ngôi nhà đã được Nhà nước xếp hạng Di tích Văn hóa. Nay, chủ nhân ngôi nhà là chị Thái - công nhân nhà máy dệt Nam Định. Chị kể: “Gia đình chồng tôi mua lại ngôi nhà này từ năm 1952. Căn phòng dài mười mét này, trước kia là cái sân của cụ Tú trồng cây cảnh, chúng tôi mới xây lên vài năm gần đây thôi. Hồi tôi mới về làm dâu, thì sân này nhiều cây, nền thấp, hễ một cơn mưa là ngập”.

Bước ra phía sau, mới đúng căn nhà mà ngày xưa Tú Xương đã ở. Tất cả còn nguyên vẹn. Chị Thái nói tiếp: “Nghe nói đây là di tích của nhà thơ Tú Xương nên chúng tôi tự ý thức gìn giữ, không sửa chữa thêm bớt gì cả, dù chẳng có ai ràng buộc phải giữ nguyên hiện trạng ngôi nhà của cụ Tú”. Khoảng cách giữa căn phòng mới xây - nguyên là sân trồng cây - với nhà cũ của Tú Xương cũng là một cái sân dài độ ba mét. Từ dưới sân nhìn lên ngôi nhà, chúng tôi thấy một căn gác gỗ. Mặt tiền của căn gác được đóng bằng gỗ, tất cả mười lăm tấm gỗ. Phía trên lợp ngói âm dương với từng mảng rêu bám xám xịt. Từ căn gác ấy có cánh cửa nhỏ mở ra để nhìn trời xanh. Nhiều bài thơ tuyệt tác đã được Tú Xương viết từ căn gác chỉ có bề ngang ba mét đó.

Trong nhà, có sáu cột gỗ và một lối đi lên gác, nhưng chị Thái bảo: “Đừng lên. Gác xập xệ lắm rồi”. Căn nhà cũ của Tú Xương nay là phòng ngủ, phòng học của cháu gái mười bốn, mười lăm tuổi - con chị Thái. Gương mặt cháu rạng rỡ khi biết chúng tôi đến tham quan. Mắt cháu sáng lên một niềm vui, một niềm tự hào khó tả. Hiện nay, phố Hàng Nâu đã được đổi tên là phố Nguyễn Thị Minh Khai. Ngồi trong nhà chị Thái, nhìn ra đường, tôi thấy vẫn còn đó nhiều cây nhãn mọc hai bên đường. Đường lộ đắp cao, sạch sẽ. Dù mới đến lần đầu tiên song chúng tôi có cảm giác như thân quen tự thuở nào. Không riêng gì chúng tôi mà nhiều người khi đến Nam Định, vì yêu mến nhà thơ cũng đã tìm đến căn nhà này.

Sực nhớ đoạn văn mà nhà văn Nguyễn Tuân đã viết sau khi đến thăm ngôi nhà cũ của Tú Xương: “Hàng Nâu là một cái phố cũ, nhiều nhà gác, cửa kiểu mắt cáo, cáo nhô ra cái lùi vào như hàng răng khểnh của một cô gái không đẹp nhưng rất có duyên. Phố có nhiều kiểu nhà theo lối kiến trúc cổ, trông dễ bồn chồn vương vít. Khi còn con sông Vị ở ngay sau lưng phố, thuyền phố nâu vào sát phố Minh Khai này, những cái cót nâu, bịch nâu lù lù trên bến và trong nhà. Những dáng người tung nâu từ mạn thuyền tung lên, những tiếng đếm nâu, đếm từng củ một, nó không như tung gạch cặp díp đếm từng đôi một. Đúng với cái tên nâu sồng của nó, phố Hàng Nâu xưa là một cái phố lam lũ của người lao động chân tay. Nó cũng là cái phố của những nhà nho thanh bạch… Phố Hàng Nâu cứ tan chợ chiều là thấy diễn ra những quang gánh, thúng mẹt của những người bán tôm tép rau quả nhì nhằng. Nó là một cái phố ngoại ô, cái phố bìa bao tỉnh, giống như xóm nghèo vẹo bắn ra ở tận chân lũy tre làng. Nó rất đúng với cảnh trong thơ Tú Xương: “Trời kia khiến vậy sông nên bãi/ Ai khéo xoay ra phố cả làng…”.

Chao ôi! Đoạn văn của nhà văn bậc thầy Nguyễn Tuân càng làm tôi thêm phần lưu luyến khi rời khỏi phố này. Và tôi, trong giây phút xúc động tột cùng xin có đôi dòng gọi là Tưởng nhớ Tú Xương: "Đồng kia rày đã lên nhà/ Chung cư, khách sạn, massage ào ào/ Giữa khuya gặp trận mưa rào/ Tưởng vào mùa gặt nôn nao điếng người/ Liên doanh giữa đất và người/ Tầng tầng cao ốc chọc trời vút lên/ Chỗ này thuở ấy rộng thênh/ Cây đa, bến cũ nhớ quên nhọc lòng/ Tôi về có thấy gì không/ Chập chờn váy lụa lúa đồng tương tư/ Tiếng xe chạy máy gầm gừ/ Tưởng là vó ngựa, tưởng như gập ghềnh/ Có còn không sợi tơ mềm/ Nối trời với đất lênh đênh cánh diều/ Những cây trụ điện khẳng khiu/ Nhùng nhằng dây nhợ ngỡ chiều xuống nhanh/ Chỗ này vàng rộ lúa xanh/ Ao xưa cá quẫy trăng thanh tự tình/ Tôi về chót vót building/ Karaoke cứ xập xình đêm đêm/ Ruộng đồng rày đã cao thêm/ Nền nhà mới đợi sang tên mỗi ngày/ Bàn tay dỗ lấy bàn tay/ Vọc xuống đất ngất ngầy ngây mùi bùn…”.

Trong ghi chép này, y có nhắc đến con gái chị Thái, lúc ấy, cháu độ 14, 15 tuổi, nay cũng đã ngoài 30 rồi còn gì? Biết đâu, đọc được bài viết này, liệu cháu có còn nhớ đến hai vị khách là nhà thơ luôn trẻ trung, đẹp trai của ngày xưa đã đến thăm nhà không?

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 3.7.2017

 

58_cxhoii_trau_2


“Không có cánh nhưng vẫn thèm bay bổng/ Đi trong sân mà nhớ chuyện trên trời/ Trút ngàn năm trong một phút chơi vơi/ Ngắm phong cảnh giữa hai bề lá cỏ” (Xuân Diệu). Vậy hóa ra các nhà thơ rất với nhà khoa học, khi đang dẫm hai chân trái trái đất nhưng tâm trí họ đã gửi về thiên hà xa thẳm. Kỳ diệu thay.

Trộm nghĩ, ngay từ khi lọt lòng mẹ, cất lên tiếng khóc oe oe, bất kỳ con người nào, dù thể lực, trí thông minh, thành phần xuất thân… ra làm sao, ai ai cũng có khát vọng “đội đá vá trời”, “Phải có danh gì với núi sông”. Phải làm một cái gì đó. Ít ra, “Con hơn cha là nhà có phúc”, là đeo đuổi cho bằng được cái ước mơ, hoài bão, sở thích, đam mê của chính mình.

Nhưng rồi, mấy ai có thể?

Y có quen người bạn, ngay từ lúc đi học đã thể hiện rực rỡ tài năng, khả năng chơi trống, đàn ca hát xướng... Ai cũng bảo, (hắn cũng bảo) về sau, dù vật đổi sao dời đi nữa hắn cũng theo nghiệp cầm ca. Rồi hắn có vợ. Sinh con. Mãi đến lúc ngoài ngũ thập, giật mình nhìn lại thì hỡi ôi, ước mơ đầu đời chỉ là còn tiếng thở dài thăm thẳm  Tiếc nuối ngày trôi. Y lại quen người bạn hoàn toàn có khả năng trở thành họa sĩ. Rồi hắn có vợ. Sinh con. Đã nhiều năm tháng đi qua, bây giờ là danh họa? Thưa, đã trở thành ông chủ ngồi quầy thu tiền mỗi ngày trong quán ăn do vợ đứng bếp. Những người bạn ấy, thường tự an ủi, ngậm ngùi: “Thôi thì, hãy đợi kiếp sau”.

Làm gì có kiếp sau?

Trưa nay, vẫn thói quen vớ lấy một cái gì đó để đọc. Dừng lại với một từ: “DART”.    

Có ai biết, từ đó nghĩa gì không?  Đố như thế là khó hay dễ? Y hoàn toàn không biết ngoại ngữ. Một chữ cắn đôi cũng không. Chỉ biết đọc, biết viết vài từ tiếng Việt. À, gần đây đọc trên trang facebook nọ, nhà báo nọ đã tẩn mẩn ghi lại vài từ tiếng Việt mới xuất hiện tên Đài VTV. Đọc và tìm cách lý giải, nhưng rồi cũng bù trấc. Chẳng hạn, “thông tin dự án đã bị LỘ LỌT; nhiều đoạn đường bị SẠT SỤT; giao lộ X đang bị ÙN Ứ; nguyên nhân cháy do điện bị CHẠM CHẬP; hàng rong phải kiên quyết bị ĐẨY ĐUỔI; nhiều công việc cùng thời điểm cần được PHỐI KẾT và LỒNG LẮP” v.v…

Nghe lạ tai quá đi mất.

Tiếng Việt cũng chưa vỡ vạc, còn ham hố qua qua ngoại ngữ nữa chứ? Có chạm mạch đấy không? Không hề. Vẫn cứ hỏi: “DART là gì?”.

Cứ theo báo Thanh Niên sáng nay: “DART, viết tắt từ Double Asteroid Redirection Test (tạm dịch: Thử nghiệm chuyển hướng tiểu hành tinh đôi) nhằm tìm biện pháp xử lý các tiểu hành tinh cỡ trung. Theo đó, một tàu du hành hoặc một vệ tinh sẽ đâm vào một tiểu hành tinh với vận tốc cực nhanh để đổi hướng thiên thể có thể gây nguy hiểm cho sự sống trên địa cầu. Bản thân từ “dart” cũng có nghĩa là phi tiêu, thể hiện bản chất của cuộc thử nghiệm sắp tới”.

Khiếp quá, đó là sứ mệnh không gian của NASA. Con người siêu việt. Có thể làm được tất cả. Nói tắt một lời, các tàu du hành này bay với vận tốc không thể tưởng tượng nổi: “6 km/giây”. Mục đích cuối cùng: “Với DART, chuyên gia Cheng cho rằng Mỹ có thể chứng tỏ phương pháp hiệu quả trong nỗ lực bảo vệ ngôi nhà chung của nhân loại”. Không hiểu sao lại có nhũng con người vĩ đại đến thế? Trong lúc đó, “Lũ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp/ Giấc mơ con đè nát cuộc đời con (Chế Lan Viên), mà chắc gì đã nên cơm cháo? Không phải ngẫu nhiên, ở nước ngoài đã có những tập truyện tranh thiếu nhi, phim ảnh dành cho người lớn cỡ như chiến tranh giữa các vì sao,. chống lại người ngoài trái đất thuộc về khoa học viễn tưởng...

Ở Việt Nam các tài ấy chưa hề chạm đến. Có lẽ, Huy Cận là nhà  thơ Việt có ý thức hướng về vũ trụ? Ông có cả tập thơ Vũ trụ ca. Nếu đúng nhưng số lượng còn ít ỏi. Vẫn có những câu thơ tuyệt hay: “Chim hót vòm xanh hương dậy đất/ Hôm nay vũ trụ mở huy hoàng / Đi ra hoa bướm không tin trước/ Sực nhớ đêm rồi đã ngủ lang”. Rất tỉnh. “Hồn xa hỡi! Ta tù trái đất/ Dây buồn thương buộc uất tim đau/ Đêm dài nhìn vợi canh thâu/ Vui chung vũ trụ, nguôi sầu nhân gian”. Rất tỉnh. Chỉ mới là cảm nhận, cái nhìn của thi nhân đang đứng trên mặt đất. Tỉnh lắm.

Hàn Mặc Tử đi xa hơn, đã nhập cuộc: “Đàn cung bậc gió dồn lên âm điệu/ Sững lòng chưa ? Say chấp cả thanh bai/ Sang chơi thôi, sang chơi thôi! mà ai/ Thu đây rồi, bước lên cầu Ô Thước/ Sao! Vàng sao rơi đầy nơi sóng nước/ Đừng ngả tay mà hứng máu trời sa”. Rất say. Rất mộng du. Thơ cần sự thăng hoa không thuộc lý trí.

Mà Q à, có phải tầm vóc, vị trí của từng con người khác nhau còn ở chỗ họ quan tâm đến vấn đề gì chăng?

Mấy hôm nay, báo chí rầm rộ thông tin về một số quan chức giàu lên bất thường với khối tài sản, dinh thự cực khủng. Rất khủng. Mối quan tâm cả đời họ chỉ có thế. Cũng tốt thôi. Nhưng đồng tiền ấy ở đâu ra? Có người trả lời: “Tôi lao động đến cả thối móng tay”; “Chạy xe ôm ngoài giờ, làm thâu đêm”; “Đi mua chổi đốt, lá chít, làm men nấu rượu” v.v… Những tuyên bố hùng hồn này có đáng tin? Hỏi xong. Bèn nhếch mép. Đồng nghiệp Bút Bi của báo Tuổi Trẻ (ngày 2.7.2017) đã có cảm hứng viết thành tiểu phẩm Lớn lên con làm gì? Nếu không liên hệ với một loạt thời sự đang xẩy ra, (thể hiện qua câu trả lời của cô con gái), có lẽ sẽ không cảm nhận hết cái sự trào lộng thâm thúy.

Hãy đọc chơi:

“- Con gái à, vào học bài đi. Học cho chăm chỉ và giỏi để sau này mới trở thành kỹ sư như ba được.

- Thôi con không làm kỹ sư đâu. Làm kỹ sư như ba mấy chục năm đâu đủ nuôi má và tụi con đâu.

- Ờ, thì phải nhờ má tụi bây phụ. Thôi con làm giáo viên như má đi, hợp với con gái.

- Má cũng đâu sống nổi bằng lương đâu, cũng “dứt cháo” mà! Ba thấy má tội nghiệp không, má nói muốn dạy thêm để có thêm thu nhập, nhưng má sợ họ đến rình bắt như bắt ăn trộm, nên thôi đó ba.

- Ờ, ba thương má tụi bây lắm. Thôi con làm bác sĩ nha, bác sĩ thu nhập cao, cứu được nhiều người.

- Bác sĩ nếu chỉ lương thì cũng đâu có thu nhập cao đâu. Làm bác sĩ xui xui gặp người nhà bệnh nhân tấn công thì khổ.

- Ờ, mấy người nhà đó bậy thiệt. Hay con làm hoa hậu? Con đẹp gái mà.

- Nhất định không ba ơi! Làm hoa hậu xui xui gặp mấy tay Sở khanh giở trò cao toàn mỹ thì héo đời con luôn!

- Không kỹ sư, không bác sĩ, không giáo viên, không cả hoa hậu... Vậy lớn lên con muốn làm gì?

- Con muốn đi bán chổi đót, lá chít, làm men nấu rượu...

- Ba:?!”.

Cảm tưởng thế nào? Trả lời đi. Y chỉ biết thốt lên: “Cạn lời”. Thế đấy, thời y sống vẫn là đang thế đấy. Nghĩ mà chán? Thôi, chớ chán mà chi. “Nếu cuộc đời này toàn chuyện xấu xa/ Tại sao cây táo lại nở hoa?” (Lưu Quang Vũ). Cũng là tìm một cách bấu víu, tin vào cái đẹp đang lẩn khuất, tin nó vẫn đang tồn tại. Tin để sống. Tồn tại. Và nhất là không thốt lên tiếng chửi thề.

“Lè lưỡi ra. Lưỡi cụt rồi/ Ném tan chén rượu gọi trời đất ơi!/ Trời đất ơi! Trời đất ơi!/ Mai sau vọng mãi lại lời thiên lương”. Câu thơ này, y thời gian nào? Nay, bất ngờ vọng lại trong trí nhớ. Tan loãng. Mất hút. Hay vẫn còn đó tiếng kêu thản thốt: “Trời đất ơi! Trời đất ơi!”? Đến bao giờ tiếng kêu này mới hoàn toàn xóa bỏ trong ngăn trí nhớ của chúng sinh? Chẳng bao giờ. Tự ý thức rõ rệt, rõ ràng, rõ nét để bình tâm đi qua năm tháng này.

Với thông tin vừa diễn ra, hẳn có người lại kêu đến ông trời lần nữa đây. Thông tin gì vậy? Không gì vội. Cứ nhẩn nha trở về ngày xửa, ngày xưa với trang sách Quốc văn giáo khoa thư. Hãy đọc lại chơi một bài tập đọc:

“Trâu lớn hơn bò và sức mạnh hơn. Lông đen, cứng và thưa, thỉnh thoảng có con lông trắng. Mắt lờ đờ, sừng to và cong lên. Trâu xem nặng nề và chậm chạp hơn bò. Tính nó thuần và hay chịu khó. Ăn uống ít, mỗi ngày chỉ vài ba nắm cỏ khô cũng đủ. Nó ưa đầm (mẹp) xuống nước, xuống bùn, và có thể lội qua sông, qua đầm được.

Trâu dùng để cày ruộng, kéo xe, hoặc kéo che đạp mía. Thịt trâu không ngon bằng thịt bò. Da trâu dùng để bịt trống hay làn giày dép. Sừng trâu dùng làm các đồ vật như: cán dao, lược, ông thuốc v.v...

Trâu thật là con vật có ích. Ta vẫn cho vào hạng lục súc rất có công với người”.

Tưởng rằng, đọc chơi nhưng liên hệ với thời sự vừa xẩy ra lại buồn nẫu ruột. Rằng, từ xa xưa, người Việt có lễ hội chọi trâu. “Có ăn có chọi mới gọi là trâu”. Mới đây, cuộc chọi trâu nọ tại tỉnh nọ, thật bất ngờ khi trâu chọi đã dùng sừng húc chết chủ nó. Báo chí đặt vấn đề có nên duy trì lễ hội này nữa hay không? Nên hoặc không? Câu trả lời quá dễ. Nhưng thực hiện lại quá khó bởi lẽ nó đã đi sâu vào ký ức, tiềm thức của cả một cộng đồng từ nhiều đời. Xóa không dễ. Nguồn gốc lễ hội chọi trâu ra làm sao? Với sách vở đang có, chịu khó lục lọi, tìm kiếm ắt có câu trả lời.

Trước mắt, chấp nhận với thông tin này: “TS Lê Đức Luận, chuyên gia nghiên cứu văn hóa dân gian, cho biết lễ hội chọi trâu tại Đồ Sơn, Hải Phòng bắt nguồn từ một sự tích có tính thiêng. Tương truyền, một hôm, trời trong sáng, dưới ánh trăng tháng tám, một số người thấy ngoài biển một lão nhân đầu tóc bạc phơ ngự trên sập đá, tay cầm một chiếc gậy dài ngắm 2 con trâu đang chọi nhau. Hình ảnh này hiện ra rồi biến, sau đó một trận mưa lớn đã tưới tắm mặt đất mát mẻ, giúp dân làng và đồng ruộng qua cơn hạn khủng khiếp. “Để hài lòng thần linh, họ tổ chức một cuộc chọi trâu và tục này được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác”, TS Luận cho biết” (báo Thanh Niên ngày 3.7.2017). Cũng trên số báo này, lại cho rằng: “chọi trâu Đồ Sơn vốn là một phần của tín ngưỡng cầu an, cầu mùa. Nó gắn liền với việc cầu mong thủy thần phù hộ. Hoặc ở Hải Lựu (Vĩnh Phúc), chọi trâu lại gắn với tín ngưỡng thờ thành hoàng, gắn với việc khao quân khi đánh thắng Triệu Đà”.

Đại khái là thế.

Tuy nhiên có một điều chắc chắn ngày xưa lúc tổ chức chọi, ngươi ta không ép nó uống rượu, uống thuốc kích thích hẩu lốn như hiện nay.

Ngán ngẫm chưa?

Tất nhiên.

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 22.6.2017

 

hahuong-phong-nguyet-truyen-1R

(nguồn ảnh: http://gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k940658d/f1.image)


Bạn bè chơi thân thiết bao nhiêu năm, nhưng chắc gì đã hiểu nhau. Có những người, lâu nay, nghĩ là thế, quả quyết là vậy. Nhưng “đùng một cái” với những gì họ đã làm, y giật mình và việc đầu tiên là há miệng ra “ồ” một tiếng rõ to. Ngạc nhiên. Khâm phục.
 

Chừng 30 năm trước, lúc tập tễnh bước chân vào nghề báo, phải tập viết từ cái tin, chụp tấm hình rồi dần dần viết được bài tường thuật, phản ánh, ghi nhanh... Thuở ấy, tòa soạn báo Tuổi Trẻ giao y cho nhà báo Trần Nhật Vy hướng dẫn. Mỗi cái tin viết xong, anh duyệt trước, chỉnh sửa xong, y mới nộp lên trưởng ban. Cuối tuần, phải viết báo cáo tuần, ghi lại những gì đã nắm bắt trong lãnh vực được phân công. Từ ghi nhận này, anh phân công đề tài phải viết, viết theo theo thể loại gì, viết ra làm sao v.v….

Thời gian trôi cái vèo. Mở miệng nhe răng ra cười, chưa kịp khép môi là đã xong béng nửa đời người.

Thời còn tiểu học, học thuộc lòng bài này, chẳng mảy may nghĩ ngợi gì. Nay đã khác. Hoàn toàn khác. Thử nhớ lại. Rồi ngâm nga đọc chơi trong buổi chiều đã hoen ố bóng nắng mà năm tháng cũng đã vượt qua và đang đi dần về phía bóng đêm của một cõi nhân sinh. “Tôi là quyển lịch Tây/ Chỉ rõ năm, tháng, ngày/ Mỗi ngày một tờ giấy/ Một năm chóng hết thay/ Hỡi cậu bé có hay/ Mỗi lần xé tờ giấy/ Là mất đi một ngày/ Không bao giờ lại thấy/ Một ngày đã qua đi/ Cậu làm được những gì?/ Có học hành chăm chỉ?/ Đã giúp ích việc chi?”. Câu hỏi từ thời học lớp Ba ở Trường Nam Tiểu học ở Đà Nẵng đấy. Nay trả lời đi? Biết trả lời thế nào?

Ông Vũ Hoàng Chương có viết tập sách Ta đã làm chi đời ta. Cũng là một câu hỏi. Vọng lại âm thanh gì chăng? Có hay không? Mỗi con người đều kết thúc phần kiếp, cái còn lại là gì vậy? Y từng thốt lên não nùng: “Mỗi lần yêu là một lần suýt chết/ Cớ sao tôi phải chịu đựng quá nhiều?”. Đáng đời chưa? Ông Vũ Hoàng Chương cho biết rất thích câu thơ cổ: “Bán sinh phong cốt lăng tằng thậm/ Nhất phiến nhu hoài chỉ vị khanh”, và đã dịch: “Nửa đời sương gió ngang tàng/ Trái tim mềm chỉ vì nàng đấy thôi”.

Câu thơ dịch hay quá đi chứ? Nhưng rồi ông vẫn chưa ưng ý: “Phải để nguyên chữ ‘khanh’ kia, chứ sao lại chuyển lại thành ‘nàng’?”: “Nửa đời sương gió ngang tàng lắm/ Mềm chỉ vì khanh, một trái tim”. Ừ, giữ được từ “khanh” nhưng xem ra ngượng ép lắm. Sở dĩ lan man cũng bởi nghĩ rẳng, chính ái tình đã đi qua cuộc đời y, vậy y có hay không/ được hay mất? Chẳng nên thắc mắc làm gì. Cứ việc đi và đi cho hết một dặm đường dài của đời sống như nó đã vốn có.

Thật lạ, có những bè bạn anh em, lâu nay, nghĩ họ chỉ đi trên con đường vốn có, nhưng bất ngờ thay, họ lại ngoặc qua một ngã rẽ khác. Có những người, chỉ "tay ngang", không được đào tạo trường lớp, bài bản trong lãnh vực sưu tập, khảo cứu văn bản học hoặc phê bình, lý luận về văn học - báo chí, thế nhưng công trình của họ đã khiến giới nghiên cứu chuyên nghiệp phải "ngả nón" thán phục và kinh ngạc.

Trong số đó, có thể kể đến nhà báo Trần Nhật Vy.

Qua những tập sách vừa ấn hành từ dăm nay trở lại đây như Mười tám thôn vườn trầu; Chữ Quốc ngữ: 130 năm thăng trầm; Kim Vân Kiều truyện; Từ Bến Nghé đến Sài Gòn; Báo Quấc ngữ ở Sài Gòn cuối thế kỷ 19; Ba nhà báo Sài Gòn - Dương Tử Giang, Trần Tấn Quốc, Bà Bút Trà; Sài Gòn chốn chốn rong chơi, mới đây nhất là tập sách Văn chương Sài Gòn 1881-1924… Có thể nói, anh đã cung cấp được những văn bản gốc, những tài liệu mới mẻ, những phát hiện có liên quan đến đời sống xã hội, văn học, báo chí của Sài Gòn thế kỷ trước mà trước đây chưa mấy ai đề cập chu đáo, đầy đủ.  

Vậy hóa ra, với tấm lòng yêu dấu vùng đất đã gắn bó, với tình yêu sâu sắc về một lãnh vực nào đó đã đeo đuổi từ nhiều năm liền, ai cũng có thể góp thêm một "tiếng nói" tích cực nhất? Điều này hoàn toàn đúng. Chúc những ai đã và đang thực hiện những tập sách từ những giọt mồ hôi.  Từ những trang giấy ố vàng, nhuồm bụi thời gian. Công việc này, nhọc nhằn mà hữu ích. Bởi lẽ, không ai, không việc gì có thể bị lãng quên.

Suốt mấy hôm nay, đã nghiền ngẫm quyển Văn chương Sài Gòn 1881-1924. Một khi muốn nhận định, phê bình về một tác giả-tác phẩm phải tiếp cận từ văn bản, nếu không chỉ là “ăn theo nói leo” nhận định, ghi nhận từ người khác. Do không có tài liệu, xưa nay hầu như lãnh vực văn chương miền Nam đầu thế kỷ XX, ít ai có thể nói “có đầu có đũa”. Cụ Nguyễn Du bảo: “Trăm năm tính cuộc vuông tròn/ Phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông”. Trách nhiệm của các nhà nghiên cứu, phê bình văn học cũng vậy thôi. Nay, với bộ sách trên chỉ mới tập trung phần văn xuôi, còn ấn hành thêm nhiều tập với thể loại truyện dịch, văn vần - nhà báo Trần Nhật Vy đã làm công việc thu thập văn bản chu đáo.

Vì sao chọn cái mốc bắt đầu từ năm 1881?

Anh cho biết: “Từ tờ báo chữ quốc ngữ đầu tiên là Gia Định báo, năm 1866 Trương Vĩnh Ký cho ra đời tác phẩm văn xuôi quốc ngữ đầu tiên. Đó là “Chuyện đời xưa" nhằm "lựa nhón lấy những chuyện hay và có ích”. Tiếp đó là những sáng tác văn xuôi quốc ngữ thuộc nhiều thể loại báo chí. Trong quá trình tìm hiểu về lịch sử báo chí Sài Gòn, tôi phát hiện ra một điều đáng chú ý. Đó là sự thay đổi đột ngột của mục Thứ vụ trên Gia Định Báo vào ngày 01.12.1881. Trước đó, mục Thứ vụ là mục viết những thông báo linh tinh của chánh quyền từ những văn bản thúc thuế cho đến việc rao bán đấu giá những mặt hàng dành cho quân đội, chánh quyền.

Tới ngày 01.12.1881, trong mục này bỗng xuất hiện ba bài viết văn xuôi ngắn chiếm nửa trang báo khổ A3, không có tên tác giả, gồm: "Cách thế cứu người chết ngột", "Tên chăn bò""Thằng ăn trộm với con heo". "Cách thế cứu người chết ngột" (đúng ra là chết ngộp) là một bài khoa học thường thức. Còn hai bài kia là truyện. Phải chăng đây là những truyện đầu tiên được đăng trên báo quốc ngữ? Nhưng tác giả là ai? Sau đó, khi được đọc cuốn "Phansa diễn ra quấc ngữ" của ông Trương Minh Ký in năm 1884 và tái bản năm 1886, tôi phát hiện trong đó có đăng hai truyện nầy, "Thằng ăn trộm với con heo" mang số 110, còn "Tên chăn bò" thì mang số 119. "Phansa diễn ra quấc ngữ" là những truyện “chuyển thơ ngụ ngôn La Fontain thành văn xuôi” của ông Trương Minh Ký. Với tôi, dù là chuyển thể từ thơ, nhưng đây là những truyện đầu tiên, viết bằng văn xuôi, in trên báo quốc ngữ Sài Gòn. Vì vậy tôi chọn thời điểm 1881 làm cái mốc bắt đầu cho văn chương Sài Gòn”…

Vì sao chọn cái mốc kết thúc vào năm 1924?

Anh cho biết: “Tôi mong mọi người biết rằng, trước khi "Tố Tâm" - tiểu thuyết hiện đại đầu tiên ra đời năm 1925, thì trước đó bốn mươi năm, Sài Gòn đã có rất nhiều truyện, tiểu thuyết, dài ngắn khác nhau rồi. Trong quãng thời gian ấy, đã có nhiều tác giả, dịch giả, sáng tác và dịch thuật rất nhiều tác phẩm, đủ các thể loại đăng trên các tờ báo ở Sài Gòn và ở Nam Kỳ, hình thành nên một thứ tạm gọi là “văn chương Sài Gòn” đủ sức khơi dậy và nuôi lớn nền văn học phong phú, đẹp đẽ như ngày nay. Thế nhưng, gia tài văn chương chữ quốc ngữ quý giá ấy “bỗng dưng biến mất" trong lịch sử văn học nước nhà từ giữa thế kỷ XX”.

Chẳng rõ từ đâu, lâu nay đã hình thành nếp suy nghĩ: Hễ đã thực hiện một công trình nghiên cứu nào, việc đầu tiên của tác giả/tập thể ấy nghĩ đến vẫn là làm thế nào “moi” cho bằng được… tiền tài trợ của Nhà nước. Đã có nhiều công trình đồ sộ được “vận hành” nhờ bầu vú sữa béo bở ấy, không dám quơ đũa cả năm nhưng dư luận cũng đã từng phàn nàn “con sâu làm rầu nồi canh” bởi không ít sản phẩm ra đời mà chất lượng quá kém. Và cũng cũng không ít xào xáo, điều tiếng, gấu ó, thậm thụt cãi vãi nhau về chuyện ăn chia tiền nong không sòng phẳng.

Nghĩ mà buồn.

Cũng như nhiều nhà nghiên cứu khác, Trần Nhật Vy đã chọn cách bỏ tiền túi ra để mua tư liệu, tài liệu. Dân chơi sách cũ bao giờ cũng muốn sở hữu bản gốc/bản chính, anh lại không. Chỉ mua bản photo. Hoặc mày mò tìm kiếm trong các thư viện đã công bố trên mạng. Chắc rằng, với nhuận bút đã nhận được, không thể bằng số tiền mà anh đã bỏ ra. Chẳng hề gì. Miễn là được thực hiện điều mà mình yêu thích, say mê. Về văn bản văn chương miền Nam, những năm gần đây đã có những quyển như Tiểu thuyết Nam bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX (Nguyễn Kim Anh chủ biên), Văn xuôi Nam bộ nửa đầu thế kỷ (Cao Xuân Mỹ sưu tầm)… đã là những đóng góp tích cực.

Và bây giờ, vời việc làm của Trần Nhật Vy có thể nói bài bản hơn cả. Anh trưng ra các tác phẩm của Trương Vĩnh Ký, Trương Minh Ký, Nguyễn Trọng Quãn, Nguyễn Dư Hoài, Lê Hoằng Mưu, Trương Duy Toản, Nguyễn Kim Đính, Lương Dũ Thúc…; kể cả những tên tên tuổi, có thể lần đầu ta mới nghe đến như  P. Génibrel, Paul Nhượng, A. Vạn, Nicolas Lục, Jean Nguyễn Nhuận Ốc…

Trong tập sách này, lần đầu tiên in lại tiểu thuyết Hà Hương phong nguyệt truyện của nhà văn Lê Hoằng Mưu và Nguyễn Kim Đính,  in năm 1914. Tác giả thổ lộ: "Dòm thấy trong xứ cứ ôm truyện Tàu mà dịch mãi, chưa thấy ai viết bộ tiểu thuyết nào cả. Tưởng rằng dầu hay dầu dở cũng của mình. Tôi khởi đầu viết bộ Hà Hương phong nguyt”. Theo Phó GS-TS Võ Văn Nhơn: “được xem là tiểu thuyết tâm lý xã hội đầu tiên của văn học Việt Nam hiện đại. Ngòi bút có phần táo bạo của tác giả Lê Hoằng Mưu khiến ông bị kết án là xúc phạm thuần phong mỹ tục. Sách bị tịch thu, tiêu hủy, nhưng cũng đã gây ra một cuộc bút chiến dữ dội”. Trước đây đã có nhiều nhà nghiên cứu đi tìm lại tác phẩm này, và nay, Trần Nhật Vy đã công bố. Há không phải cũng là một đóng góp đó sao?

Sống trong đời, khi nhận ra ai đó đã làm một việc tốt cho cộng đồng, hà cớ gì ta lại hà tiện một tiếng vỗ tay, hoan nghênh? Dù rằng, chẳng là gì, dù có hay không, họ vẫn tiếp tực đi trên con đường đã chọn. Tuy nhiên tiếng vỗ tay ấy lại là sự tuyên dương, khuyến khích để họ thêm bền lòng. Cần lắm chứ. Với công trình này, Trần Nhật Vy chia sẻ: “Mong các bạn hôm nay biết, đọc và thấy được rằng, tiền nhân của chúng ta đã có công, có sức gầy dựng một mảng văn chương đáng kính trọng của thuở ban đầu chữ quốc ngữ”. Tâm sự này, đáng trân trọng và ghi nhận.

Trước đây, nhà văn Nguyễn Văn Xuân cũng đã từng quả quyết: “Miền Nam vốn có một một địa vị về văn nghệ và có ảnh hưởng sâu rộng trong quảng đại quần chúng lan tràn đến cả miền Trung lẫn miền Bắc. Miền Nam đã gây phong trào tiền phong về mọi phương diện văn nghệ: báo, tạp chí, truyện ngắn, truyện dài, truyện dịch, đặc biệt là tiểu thuyết Trung Hoa, truyện phóng tác tiểu thuyết Tây, phong trào xuất bản rộng lớn các loại thơ bình dân và rất phồn thịnh… Văn nghệ miền Nam phải có quyền được các học giả nghiên cứu sâu rộng” (Khi lưu dân trở lại - NXB Thời Mới -1969).

Lại nhớ đên câu thơ của Vũ Hoàng Chương: “Hồn sen thoảng ngát trà dâng đượm/ Ai biết mình sen rụng xác xơ”. Tính cách rất sen ấy, cần thiết lắm. Nhìn rộng ra chung quanh, mỗi ngày nếu được cảm nhận sự tốt đẹp ấy, từ những con người với việc làm cụ thể thì vui quá đi chứ?

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 19.6.2017

 

20150807-030454-2-520x692

“Quan nhất thời, dân vạn đại”. Sực nhớ đến câu này vì lý do: có một quan chức nọ bị kỷ luật, cái ghế ngồi không rõ có còn vững hay không, e rằng không. Do nghĩ vậy nên đã có một, hai đơn vị kinh doanh đã từng trải chiếu hoa mời ông ta đến bèn nghĩ ra một cái trò rất láu cá.

Trò gì? Khoan vội bàn đến.

Chỉ nhắc lại rằng, ối dào, ngày chưa xa ấy, lúc gặp nhau đôi bên luôn tuôn ra dào dạt bao nhiêu lời vàng, ý ngọc. Vị quan chức nói một lời, chỉ đạo một câu, ngay lập tức cả hội trường cung cúc cúi rạp người mà rền vang lời thưa/tiếng dạ. Thưa rồi dạ, dạ rồi thưa cứ nhịp nhàng tân cổ giao duyên. Đã thế, họ còn nhanh chóng rỉ tai cho cánh báo chí, cơ quan truyền thông vì thông tin, hình ảnh ấy được truyền tải cũng là một cách P.R đánh bóng sang trọng cho thương hiệu kinh doanh của đơn vị mình.

Đùng một cái, gió đã xoay chiều. Khi truy cập vào trang web của đơn vị kinh tế đó đã thấy bị xóa sạch, hầu như không lưu lại một vết tích nào về việc quan chức đó đã từng ghé thăm. Giải thích thái độ kỳ quặt này thế nào nhỉ? Có thể do họ sợ bị liên lụy, dính dáng đến một người thôi “lên voi” mà đã “xuống chó” chăng?

Nếu thế, sự đời lật lọng, tráo trở mạt hạng đến thế là cùng.

Không phải ngẫu nhiên, nhiều quan chức nhà ta cực kỳ ám ảnh một nỗi sợ hãi, nhăn rúm cả người, toát mồ hôi hột khi nghe đến hai chữ “về hưu/kỷ luật”. Về nhà đuổi gà cho vợ ư? Không phải đâu. Lúc rời chốn quan trường, dẫu thừa sức “ho ra bạc, khạc ra tiền” nhưng rồi họ cũng không thể thỏa mãn được nỗi nghiện ngập đã thấm sâu vào máu thịt: quyền lực.

Phải tiền hô hậu ủng, tả phù hữu bật, lên ngựa xuống xe, đội trời đạp đất. Phải micro oang oang chỉ đạo. Phải một chữ ký cũng thừa sức khiến kẻ này khiếp vía, dái thọt lên cổ; khiến kẻ kia sung sướng tràn trề, “ngất ngây con gà Tây”. Quyền lực là phải thế chứ. Riết rồi đâm ra nghiện.

Vậy, khi lui về hậu trường là mất hết sự oai phong lẫm lẫm liệt liệt, khiến nhiều quan chức sợ hãi, âu lo là vậy. Thế nhưng, có lẽ họ cũng không thể lường đến cái trò “cạn tàu ráo máng” là xóa sạch hình ảnh vừa nêu trên. Cay cú và đau.

À, chuyện khôi hài đó là bịa, chứ làm gì trên đời làm gì có trường hợp éo le đến thế? Có thể là tiểu phẩm của nhà văn chuyên viết trào phúng chăng?

Tục ngữ Việt Nam có câu: “Mạnh vì gạo, bạo vì tiền”. Có những kẻ tiền nhiều, rất nhiều tiền lại là khác nhưng tiếc thay lại… văn hóa lùn. Một trong những sự việc đình đám có tính thời sự là anh chàng nọ chẳng biết giàu đến cỡ nào, lại có lối hành xử chẳng giống ai, nếu không muốn nói là quái đản và trơ trẽn.

Rằng, để ra mắt một quyển sách, đại loại như bàn chuyện dám làm giàu, anh ta tổ chức tại Huế bằng cách đứng trên kinh khí cầu và thả tiền xuống… chơi! Bố thí hay khoe tiền? Tiền nhiều đến cỡ nào mà dám khoe khệnh khạng đến phản cảm như vậy? Nếu không bố thí, đó là cách cho tiền chăng?

Ông bà ta từng dạy: “Của cho không bằng cách cho”. Khi thông tin này vừa diễn ra, y đã nhận được nhiều điện thoại của anh em văn nghệ sĩ ngoài Huế, họ cho rằng đây là hành động, chỉ có thể gọi đúng tên là “kém văn hoá”. Và họ cho biết đang kêu gọi tẩy chay “tác phẩm” này vì cách rải tiền ấy, dù có mệnh danh cho sự “cao đẹp” gì gì đi nữa cũng xúc phạm đến người dân ở Huế.

“Một người xử lý đồng tiền cẩu thả, không hề quý trọng mà ném tiền một cách “trời ơi, đất hỡi” lại vỗ ngực xưng tên, truyền cho thiên hạ “cảm hứng” dám làm giàu ư? Xem ra ngô nghê và phản cảm quá đi mất” - một họa sĩ ở Huế đã nói thẳng. Nghe thế, y bèn “bào chữa” giúp cho tác giả: “Có phải người Huế các anh khó tính quá không?”. Anh bảo: “Hành động thô lậu này, dù diễn ra bất cứ ở đâu thì người Việt mình cũng đều phản ứng như thế”. Anh nói đúng lắm.

“Đói cho sạch, rách cho thơm”. Dù có nghèo đi nữa, ai cũng ý thức rằng, chỉ một khi kiếm đồng tiền bằng giọt mồ hôi, mới là đồng tiền lương thiện, tiền sạch. Chứ không phải thấy kẻ “trưởng giả học làm sang”, ném tiền ngoài đường mà ùa chạy đến, tranh nhau cấu xé, chụp giật cho bằng được.  Ô hô! Một người tự khoe khoang dám làm giàu lại thể hiện “đẳng cấp giàu” theo kiểu “chơi cha thiên hạ”, vậy, mọi cái gọi là “thông điệp” trong sách có đáng tin không? Tôi hiểu, anh em văn nghệ ngoài Huế đồng lòng tẩy chay quyển sách đó, họ hoàn toàn có lý.

Khi bàn tán về chuyện này cùng đồng nghiệp, y giật mình khi có nhà báo bảo: “Các bạn ngây thơ quá đi mất. Một khi cánh báo chí chúng ta lên tiếng tiếng phê phán tức là đang… sập bẫy đó”. Y ngạc nhiên quá, anh cười mà rằng: “Sao lại không nghĩ rằng, đây cũng là một chiêu trò P.R hẳn hòi? Vì rằng, có bị mạt sát chê bai đến đâu chăng nữa thì tác giả cũng lãi to. Cái lãi ấy là cái tên/cái danh của mình đã được làng trên xóm dưới đều biết tất. Mà lại tốn không nhiều tiền bằng cách thuê quảng cáo!”. Y lại cãi: “Ừ cứ phỏng đoán, cứ cho là thế. Nhưng thiên hạ biết đến qua sự xú danh thì nên chăng?”.   

Câu trả lời này, còn tùy thuộc vào sự lụa chọn của mỗi người. Sự lựa chọn ấy, còn tùy thuộc vào tầm văn hóa. Mà không phải ngẫu nhiên anh bạn nhà báo nêu ra nghi vấn đó, bởi dạo lâu nay các chiêu trò gây sốc đã quá phổ biến. Nếu muốn ai ai cũng biết đến mình một cách nhanh chóng nhất, thì cứ việc giở trò ma mãnh ấy là xong. Xong, như một cách tạo ra sự xú danh.

Lại có nhiều người có tiền nhung chắc gì đã “nứt đố đổ vách” mà đã vội rãi tiền tung tóe? Phản cảm quá đi mất. Cuộc đòi cũng kỳ quặt, có những người một khi đã có tiền lại xem người khác không ra gì cả. Chuyện mới vừa xẩy ra tại Hà Nội, theo thông tin từ báo chí: chiều tối ngày 15.6, cô nhân viên quét, thu nhặt rác có nhắc nhở chủ nhà nọ nên đổ rác đúng nơi quy định. Đôi bên cãi cọ nhau, sau đó, cô tiếp tục công việc của mỉnh. Tưởng thế là thôi, nào ngờ, lát sau, có người người phụ nữ đột nhiên  lao tới, vừa chửi vừa đánh, liên tiếp tát vào mặt, vào gáy. Đến lúc tỉnh dậy, cô mới biết mình đang nằm cấp cứu tại bệnh viện Thanh Nhàn.

“Chẳng thơm cũng thể hoa nhài/ Chẳng thanh lịch cũng là người Tràng An”.

Nghe ra mỉa mai quá.

Thật lòng, khi viết những dòng này, vâng, y chỉ muốn tin chỉ là chuyện bịa. Nghĩ vậy, cho nhẹ đầu. Và tôi lại nghĩ về sự tốt đẹp, hướng thiện mỗi ngay vẫn đang hiện diện, lấy đó làm niềm vui. Nhưng nhố nhăng này nọ, hãy tin rằng chỉ là cá biệt. Riêng lẽ. Không bao giờ trở thành phổ biến. Nếu không, tính cách người Việt ngày càng xấu đi à? Không đâu. Hãy cứ tin là thế.

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 15.6.2017

bui-kiem-damhan-thu-bat-tuy-kieu

 

Trước một sự việc, mỗi người đều có góc nhìn, tùy theo nhận thức và nhất là thông tin mà họ đã có. Y không có gì cả, ngoài những gì đã đọc trên báo chí nên chỉ chọn cách im lặng. Rồi lại lầm lũi với công việc của mỗi ngày. Mỗi ngày, chẳng có gì khác lại ngoài gõ bàn phím viết vặt vài bài báo, đọc quyển sách nọ kia. Chỉ có thế, vòng quay của 24 giờ trong một ngày đã trôi qua như nháy mắt.

Chiều này, như mọi chiều, lại đọc Truyện Kiều. Đọc chỉ để mà đọc. Thế thôi. Lật hú họa, gặp trang nào đọc trang đó. Có những quyển sách cực hay, hay đến độ, dù đọc bất kỳ trang nào cũng bị cuốn hút như đọc trang dầu tiên. Đọc lần thứ nhất. Phụ nữ cũng thế, có nhan sắc đã khiến ta mê mẫn tâm thần, quên đi mọi sự khôn ngoan, mê muội mộng du, tiêu diệt sự tỉnh táo để tận hưởng thịt da ấy như lần thứ nhất. Và bao giờ cũng là cảm giác dịu vợi mê đắm của lần thứ nhất. Truyện Kiều là một nhan sắc. Vô tiền khoáng hậu. Làm nên hấp dẫn của kiệt tác này, còn là các câu đối thoại giữa Kiều với các nhân vật khác trong nhiều tình huống.

Một trong những tình huống hay nhất là lúc Kiều cả tin, theo Sở Khanh chạy trốn khỏi lầu xanh. Sau, Tú Bà bắt lại. Nàng phải hứng lấy trận đòn: “Uốn lưng thịt đổ, máu sa dập đầu”. Cô Mã Kiều thương bạn mà an ủi nàng và bật mí: Sở Khanh đã sử dụng chiêu/mẹo lừa này với nhiều cô gái khác rồi. Và đây cũng là lối thông đồng giữa tay lưu manh với Tú Bà: “Đà đao một chước sẵn dùng/ Lạ gì một cốt một đồng xưa nay”. Thế nào là “đà đao”? Có thể hiểu là mẹo giả vờ thua chạy, người ta tưởng bở đuổi theo, bất thình lình quay dùng đao chém. Đố đỡ nổi. Đo ván là cái chắc.

Thông thường một khi đã làm xấu với ai việc gì, con người ta mắc cỡ, xấu hổ mà lánh mặt, không dám gặp lần nữa. Sở Khanh thì không. Trong lúc hai chị em đồng cảnh ngộ đang tâm sự, Sở Khanh lại vác mặt tới. Thế mới biết, cụ Nguyễn Du đã đẩy tính cách nhân vật đi đến tận cùng, không nửa vời. Ngay lúc đó, Sở Khanh liền mắng phủ đầu rằng, nghe đồn có con nào ở đây phao tin ta rủ rê, quyến rũ trốn đi theo? Đừng có nõ mồm, nói nhảm. “Phao cho quyến gió, rủ mây/ Hãy xem có biết mặt này là ai?”. Nhìn kỹ lại cái mặt đi chứ? Chớ có hồ đồ, ăn nói điêu toa. Cách nói ấy xem ra cứng cựa lắm. Cứ như thể hoàn toàn không dính líu gì đến tội vạ của Kiều do chính hắn gây ra.
 

Kiều trả lời ra làm sao?

“Nàng rằng: “Thôi thế thì thôi/ Rằng không thì cũng vâng lời rằng không”. Nhịp đi của câu thơ với 2 từ “rằng không” lặp lại đến 2 lần, tưởng nhẹ nhàng, nhưng thật ra đó là cách trả lời đay nghiến, ngọt nhạt, rành rọt, phủ định hoàn toàn thách thức của Sở Khanh. Bên trong lời lẽ mềm mỏng, nhún mình ấy lại ngầm sắc lẹm như dao. Không dễ đầu hàng. Không dễ bắt nạt. Sở Khanh nào biết thế, ngốc dại lấn tới bước nữa vì nghĩ đang thắng thế. “Sở Khanh quát mắng đùng đùng/ Bước vào, vừa rắp thị hùng ra tay”. Những muốn ăn tươi nuốt sống ngay tắp lự. Kiều né ngay bằng cách kêu trời: “Trời nhẽ có hay”. Ai cũng thế thôi, lúc ngặt nhất, phút 89 nguy ngập bao giờ người ta cũng réo trời, dù trời xa thăm thẳm: “Nàng rằng: Trời nhẽ có hay/ Quyến oanh, rủ yến sự này tại ai?/ Đem người đẩy xuống giếng thơi/ Nói lời rồi lại ăn lời được ngay”.

Những từ “ăn lời/ nuốt lời”, khó có thể thay thể bằng từ nào đắc địa hơn, nhằm chỉ sự thất hứa/ hứa lèo.

Chua hết. Không để cho Sở Khanh mở miệng phân trần, cãi cọ, nàng liền lật bài ngửa: “Còn tiên Tích Việt ở tay/ Rõ ràng mặt ấy mặt này chứ ai!”. Chứng tích còn đây rành rành. Dám cãi không?

Hãy chú ý, ban đầu, Sở Khanh mạnh miệng: “Hãy xem có biết mặt này là ai?”. Sau đối đáp, Kiều đã ném vào mặt rành rọt từng chữ một: “Rõ ràng mặt ấy mặt này chứ ai?”. Ăn miếng trả miếng. Đâu vào đó. Không còn dám cự cãi gì nữa cả, Sở Khanh đuối lý. Hơn nữa, Kiều lại: “Lời ngay đông mặt trong ngoài/ Kẻ chê bất nghĩa, người cười vô lương”, khiến tên lưu manh hạng bét đành cút xéo.

Tại sao chiều nay lại lật đúng vào trang có những câu thơ gì? Thử liên hệ với thời sự đang xẩy ra, có liên hệ gì chăng?

Bàn về Truyện Kiều xưa nay đã nhiều. Tuy nhiên vẫn chưa nhiều lắm những khảo cứu, tìm hiểu về các tác phẩm của các nhà văn Nam bộ lấy cảm hứng từ kiệt tác này. Vừa rồi, cũng do cái thú lang thang trên mạng, vào thư viện nọ của người Pháp, tình cờ phát hiện ra tập sách Hoạn Thư bắt Túy Kiều vịnh tích in năm 1921 của nhà văn Lê Hoằng Mưu (1879-1941). Không rõ vì sao người miền Nam thuở ấy gọi Túy Kiều, chứ không là Thúy Kiều? Ông Mưu còn là người viết tác phẩm Hà Hương phong nguyệt truyện, đình đám trên văn đàn miền Nam đầu thế kỷ XX. Không ngờ, tình huống Thúy Kiều sa vào tay Hoạn Thư, ông kể lại tuyệt khéo, cực hay. Chỉ trích lấy những dòng mà ông đã thêm thắt, qua đó, nhân vật có tính cách gần gũi hơn với người Nam.

Theo Truyện Kiều, về mối quan hệ dăng díu trăng gió với Thúc Sinh, Kiều thận trọng dò hỏi chàng về chuyện đã có vợ, ý của ông bố ra làm sao v.v… Thúc Sinh ưỡn ngực: “Đường xa chớ ngại Ngô Lào/ Trăm điều hãy cứ trông vào một ta”. Đừng có sợ gì cả. Mọi việc nàng đang nghi ngờ, e ngại, một tay ta thu xếp là xong. Có đáng tin cậy không? Ấy là chuyện về sau. Mà này, có phải đây là tính cách lửa rơm chung của bọn đàn ông khi tán gái đó không? Đọc Truyện Kiều, quái lạ, hầu hết các đấng mày râu khi gặp nàng đều thốt ra toàn những lời “có cánh”. Một tấc đến trời. Vỗ ngực xưng tên. Sau đó, chẳng ra làm sao cả, ngoại trừ Từ Hải. Vậy nên, đàn bà con gái khi đọc 3.254 câu lục bát dịu vợi ngàn trùng, ngọc không tì vết, vang động ngàn đời thì xin lưu ý giúp điều này, cứ lấy từ kinh nghiệm của Thúy Kiều mà cảnh giác vậy.

Ở đoạn trao đổi với Kiều, Thúc Sinh mạnh miệng: “Đá vàng đã quyết, phong ba cũng liều". Oách quá đi chứ? Thử hỏi, nghe câu hoành tráng ấy người phụ nữ nào lại không xúc động đầm đìa, rưng rưng tâm cảm? Qua cách kể của Lê Hoằng Mưu, Thúc Sinh không chỉ hứa hẹn mà còn: “Trước lo dọn cho nàng căn phố/ Sau sắm cho đủ bộ nữ trang/ Chuỗi đeo tay, neo đặt chiềng vàng/ Cà rá nhậm kim cang ba hột/ Hàng cách-sơ-mia Bon-nê thiệt tốt/ Sắm cho nàng ra tột bực sang/ Mua ô-tô hứng cảnh thừa nhàn/ Xe ca-lết dạo chơi hóng mát”. Rõ ràng, Thúc Sinh rất ư “anh Hai Nam bộ”. Chơi đẹp lắm. Không hề ki bo, bủn xỉn, tính toán gì cả. Làm rõ thêm cái ý “Trăm nghìn đổ một trận cười như không”.

Sực nghĩ rằng, câu nói trên nếu đặt vào miệng mồm bất kỳ người đàn ông nào đang si tình, lụy gái thì cũng đúng chóc. Giây phút tương ngộ giai nhân, hỡi ôi, sự thông minh tỉnh táo, lý trí tót vời đã rủ nhau trốn biệt, chỉ còn là nhịp đập của trái tim. Cảm xúc dạt dào. Ồn ào sóng biển. Họ đang say. Say một thứ rượu có nồng độ cực kỳ, không một thứ men nào có thể sánh nổi. Rượu tình ái. Rượu của hương thơm da thịt nồng nàn lửa bén. Ông thi sĩ tài hoa Cao Bá Quát chỉ mới thưởng thức vài be rượu, có thể rượu làng Vân, Cây Lý, Ba Xi đế, Phú Lễ… đã thế này: “Ngoảnh mặt lại cửu hoàn coi cũng nhỏ/ Khoảng trời đất cổ kim, kim cổ/ Mảnh hình hài không có, có không/ Lọ là thiên tứ, vạn chung”, chứ huống gì va phải rượu tình.

Vì lẽ đó, xin thưa quý ngài, chớ có cười Thúc Sinh dại gái.

Mà này, có phải nhờ những câu Lê Hoằng Mưu đặt vào miệng Thúc Sinh, ta mới biết thêm lối sống của hạng người giàu sang ở phương Nam đầu thế kỷ trước? Đúng lắm. Đọc sách xưa, qua miêu tả của nhà văn, căn cứ vào đó mà người đời sau có thể biết được trang phục, lời ăn tiếng nói… của một thời. Dấu ấn này, ở phía Nam có thể thấy rõ nét trong tác phẩm của Hồ Biểu Chánh và những nhà văn cùng thời.

Chẳng nhẽ, đọc xong mấy câu thơ miêu tả thêm tính cách “quen thói bốc trời” của Thúc Sinh, ta lại lảng qua chuyện khác? Không. Vậy, xin hỏi: “Chuỗi đeo tay, neo đặt chiềng vàng”. “Chiềng” là gì? Tra nhiều từ điển rồi cũng bí rị, may quá, trong tập sách Phương ngữ Nam bộ, ở từ “chiêng chiêng", ông Nam Chi Bùi Thanh Kiên giải thích: “loại cà rá có hoa văn chạm nổi; chiêng chiêng cà rá: từ chỉ chung loại trang sức nhỏ đeo vào ngón tay”. Suy luận ra,”chiềng” là cách nói gọn của “chiêng chiêng” đấy thôi. Căn cứ vào  mạch nối theo của câu thứ hai càng rõ cái ý ấy: “Cà rá nhậm kim cang ba hột”. “Nhậm” là khảm, chạm, cẩn, nhận.

Câu tiếp: “Hàng cách-sơ-mia Bon-nê thiệt tốt”, ông Nam Chi cũng cho biết: “Cách-sơ-mia/ Cachemire - hàng len đẹp dệt bằng lông cừu dê ở xứ Cachemir (Ấn Độ). “Ô-tô” thì dễ hiểu rồi, còn “xe ca-lết” là loại xe ra làm sao? Chịu chết. Không thể trả lời.

Ngoài ra, phụ nữ thời ấy, còn phục trang gì nữa không? Đọc lại quyển Bùi Kiệm dặm của Nguyễn Văn Tròn, in tại Sài Gòn đầu thế kỷ XX xem sao. Ông Tròn là ai? Chẳng thể biết rõ tông tích. Lấy cảm hứng từ Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu, ông viết thêm lúc Bùi Kiệm tán cô Kiều Nguyệt Nga, quyết lấy làm vợ cho bằng được. Kiệm đã nhìn thấy nàng: “lỗ tai đeo đôi bông nhẫn hột, cổ đeo cây kiềng vàng, bận cái áo lưỡng đoạn, đội cái khăn lục soạn, bận cái quần lãnh, lưng rút, khiến tâm bào anh Kiệm chết tê”. Chết là phải đạo. Phụ nữ đã đẹp, sắc nước hương trời lại ăn vận sang trọng, quý phái, điệu đàng thì có ngủm củ tỏi cũng xứng mặt đàn ông, đúng không? Ngay lập tức Kiệm nổi máu dê, ca rằng: “Hèn chi tôi ở trên kinh, tôi nóng nẩy bực bội, tôi lội tôi về hay là ông Tơ bà Nguyệt xe má phấn dựa kề môi son?”

Hãy khoan theo dõi đối đáp của cô Nguyệt Nga, ta hãy dừng lại một chút và hỏi rằng, nàng mặc “áo lưỡng đoạn” là loại áo thế nào, hình thù ra làm sao? Dù đã cố gắng mọt sách mày mò, tầm chương trích cú nhưng rồi cuối cùng đành chịu thua. Cô còn đội khăn lục soạn. Ca dao có câu: “Cái ô lục soạn cầm tay/ Cái khăn xếp nếp, cái dây lưng điều”. Lục soạn là thứ vải lụa, mỏng, trơn.

Sực nhớ, ngày trước, ông Tú Xương cực bợm, đã từng cô đầu đàn ca hát xướng, phong lưu tài tử, đĩnh đạc dân chơi. Có lúc đến đàn ca sáo trúc tại nhà cô đầu: “Năm canh to nhỏ tình dơi chuột/ Sáu khắc mơ màng chuyện nước mây”. Lúc tỉnh dậy, ông mới hay mất cái ô: “Đêm qua anh đến chơi đây/ Giày chân anh dận, ô tay anh cầm/ Rạng ngày sang trống canh năm/ Anh dậy, em hãy còn nằm trơ trơ/ Hỏi ô, ô mất bao giờ/ Hỏi em, em cứ ậm ờ không thưa/ Chỉn e rầy gió mai mưa/ Lấy gì đi sớm về trưa với tình?”. Dám cá cược rằng, ông Tú Xương bị mất cái ô, đúng rồi, nhưng phải là ô lục soạn, tiếc lắm. Nếu cái ô tầm xoàng thì tiếc cái nỗi gì. Không tiếc cái nỗi gì, làm sao có thể bật ra thơ?

Rồi cô Kiều Nguyệt Nga còn đeo kiềng vàng. Đọc câu dao này, tự dưng thấy thương thương, cảm động: “Kiềng vàng em chẳng muốn đeo/ Em đeo kiềng bạc đỡ nghèo mẹ cha”. Còn “quần lãnh” là may bằng loại vải đắt tiền, mặt trơn, bóng láng. Cứ như theo nhà nghiên cứu Nam Chi, có các loại lãnh như lãnh Bắc (dệt ở ngoài Bắc), lãnh Tàu, lãnh Tây: “Theo cách dệt chúng ta có: lãnh bông - loại lãnh dệt chữ Hán, hoa lá cành trên mặt vải; lãnh bông chanh/ lãnh hoa dâu - loại lãnh dệt có bông nhỏ lấm tấm như bông chanh; lãnh chữ kiết: loại lãnh dệt có nổi chữ kiết/ cát (tốt lành); lãnh Mỹ A - loại lãnh đen bóng, mịn, mặc thấy mát rượi, thường dùng để may quần phụ nữ; lãng trơn - lãnh không bông hoa”.

Vậy đó, mỗi ngày đọc thoáng vài trang sách. Cũng vui vui. Ghi chép đôi dòng. Cũng vui vui nốt. Tự lấy làm hài lòng. Noi theo ông Tú Xương cho nhẹ nhàng cái sự đời: “Khăn khăn áo áo thêm rầy chuyện/ Bút bút nghiên nghiên khéo giở tuồng”. Chẳng việc gì phải nhăng nhăng nhố nhố, hếnh hoáng “gồng mình” lên nọ nọ kia kia cho nhọc xác, đúng không?

Dạ, đúng ạ.

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 13.6.2017



0thong_loai_khoa_trinh

 

Đọc sách báo xưa còn thú vị ở chỗ, đôi lúc gặp vài từ, vài chữ thông dụng một thời, nay chẳng mấy ai còn nhớ đến nữa. Lời ăn tiếng nói ấy, đọc to lên, dù chỉ mới hiểu nghĩa mang máng nhưng cũng có thể hình dung ra cái thời xa xưa ấy.

Vừa đọc một câu ca dao, tự dưng lại nghĩ về một chàng trai lam lũ, tráng kiện, có gương mặt khôi ngô, thông minh, lý trí mạnh hơn cảm xúc: “Nhất nhật bất kiến như tam thu hề/ Thăm em một chút anh lộn trở về/ Kẻo mà trăng lặn tứ bề núi non”. Rõ ràng, từ nhà chàng đến nhà nàng phải là một khoảng cách rất xa, có khi phải băng đồi lội suối. Sá chi. “Yêu nhau tam, tứ núi cũng trèo/ Ngũ, lục sông cũng lội; thất, bát đèo cũng qua”. Trai trẻ hiện nay, dù nông thôn hay thành thị khó có thể trải qua tâm trạng âu lo, thắc thỏm khi “trăng lặn tứ bề”. Nghe câu chia tay, nàng bèn làm mặt giận, lẫy: “Thăm em một chút anh lộn trở về/ Hay là lập kiểng, trồng huê nơi nào?”. Phụ nữ lúc đang yêu là chúa nghi ngờ. Anh đã có, đang tăm tia người khác rồi phải không?

Kiểng là Cảnh, có phải do người miền Nam kỵ húy Đông cung hoàng tử Cảnh - con cả của vua Gia Long? Chẳng nhẽ, ngay cả con vua mà dân đen cũng phải kỵ húy nữa sao? Đọc sách của Vương Hồng Sển mới biết, thuở trước, trong Nam không dám gọi Lê Văn Duyệt, phải nói trại ra “Lê Văn Dượt”. Thế mới biết uy quyền của ông Tổng trấn Gia Định ghê gớm biết chừng nào. Mà với người Việt, một khi dùng từ trại đi cũng là cách gây cười, hài hước. Bằng chứng, trong Hồ Gươm phú, Tú Mỡ viết: “Tòa nhà Khai Trí bên đền, trống bài điếm chát tom! Thái bường quá nhỉ!/ Vườn cảnh Bônbe trước mặt, khách phồn hoa nhộn nhịp, vui vẻ xiết bao!”. Thái bình trại ra thái bường, vui ra phết.

Thành ngữ có câu, đọc lên, mày râu phì cười, nữ nhi thẹn đỏ mặt: “Da bần quân tụt quần không kịp”. Trong Nam lại gọi trại qua tên khác: Muồn quân/ Buồn quân. Trong tờ báo Thông loại khóa trình, cụ Trương Vĩnh Ký có kể: Tục truyền thuở xưa, người đem quân đi mà hết lương đói lắm, quân gia buồn bực, may mà có trái cây ấy trông như viên đạn, sắc màu tím bầm, mùi ngọt ngọt, hái ăn đỡ đói. Vì vậy trong chữ kêu là ngộ quân”. Cách giải thích này, thú lắm. Cũng tựa như giải thích về trái loòng bong ở Quảng Nam, khi nó còn có tên Nam trân.

Y thích ca dao này của Nam bộ: “Ra về thấy kiểng thêm thương/ Nhành mai ủ dột, vách tường nhện giăng”. Nghe ra, tâm trạng quá đi mất. Thử hỏi, chàng trai ấy, từ nơi đâu ra về? Từ Hóc Bà Tó chăng? Là ở chốn nào? Chẳng ai có thể giải thích rành rọt, dù ai cũng ngầm hiểu cụm từ này chỉ nơi xa xôi hẻo lánh, khỉ ho cò gáy, chó ăn đá gà ăn sỏi, đồng không mông quạnh ít ai lui tới. Lại nữa, “Ngó qua bên kiểng Tô Châu/ Thấy em dệt lụa trên đầu giắt trâm”. Tô Châu ở đâu?

Đọc sách báo cũ, đôi khi gặp một vài địa danh, tưởng ra xa lạ nhưng nào ngờ nơi ấy có thể mình đã từng lui tới. Địa danh, tự nó đã là một giá trị, có liên quan đến những sự kiện về văn hóa, lịch sử, kinh tế, con người… hiện diện từ quá khứ. “Đồng thời còn là những chứng tích về ngôn ngữ và có thể cả về văn tự mà các cộng đồng đã đặt, đã dùng và lưu lại trên địa bàn cư trú và phát triển của mình” (Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX - NXB Khoa học xã hội, 1981). Vì lẽ trên, địa danh còn có thêm một yếu tố quan trọng khác là đã thuộc về tâm thức, ký ức không thể xóa nhòa của con người sống trên vùng đất đó. Địa danh không chỉ là một tên gọi, còn là tinh thần từ sức mạnh của quá khứ, thôi thúc con người hiện đại biết sống, hướng về tương lai như thế nào cho phải đạo, ít ra không phụ lòng với quá khứ vô hình đã có.

Những ai đã từng sống lâu năm tại Sài Gòn, có còn nhớ đến Phiên An?

Từ thành Phiên An đến thành Gia Định là một câu chuyện dài. Khi viết Gia Định thành thông chí, một trong “Gia Định tam gia” là Trịnh Hoài Đức (1765-1825), ở phần “Cương vực toàn thành” viết tỉ mỉ gồm các trấn: Phiên An, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Thanh, Hà Tiên. Căn cứ vào đó, ắt biết trấn Phiên An phía bắc giáp Biên Hòa, nằm trong khu vực địa lý từ sông Thủ Đức đến sông Bến Nghé, chuyển quanh xuống ngã ba Nhà Bè, thẳng ra cửa Cần Giờ. Ban đầu gọi Dinh phiên trấn, năm 1808 vua Gia Long đổi thành trấn Phiên An.

Trải qua thăng trầm lịch sử, tên gọi Phiên An biến mất.

Tất nhiên, sự thay đổi ấy mỗi thời đều có cái lý của nó, chỉ vất vả cho thế hệ sau, khi học/học sử về những sự kiện có liên quan đến thành/trấn Phiên An như vụ nổi dậy của Lê Văn Khôi chẳng hạn, khó thể hình dung ra một vị trí cụ thể. Nếu tên gọi không thay đổi, có lẽ sự nhận thức, nối tiếp về lịch sử thuận lợi hơn và cũng gần gũi hơn với các thế hệ sau.

Theo y biết, “hội văn nghệ” đầu tiên của Sài Gòn chính là Bạch Mai Thi Xã. Giữa thế kỷ 19 đã xảy ra cuộc bút chiến dữ dội giữa các nhân vật lừng lẫy: Phan Văn Trị, Tôn Thọ Tường, Nguyễn Đình Chiểu, Bùi Hữu Nghĩa, Huỳnh Mẫn Đạt, Lê Quang Chiểu… Địa điểm sinh hoạt của thi xã này ở chùa Cây Mai (còn có tên gọi Mai Sơn tự). Tự điển Sài Gòn - TP.HCM (NXB Trẻ - 2001) cho biết chùa này dựng vào năm 1816 và “Tháng 5.1860, Pháp đóng quân ở chùa để tiến đánh đại đồn Chí Hòa”; “Trước năm 1945, đường Nguyễn Trãi tiếp giáp với đường Hùng Vương được đặt tên Rue de Cây Mai” (tr.658).

Với tên gọi này, tự nó đã là nhân chứng của một giai đoạn hào hùng và bi thương của lịch sử. Những bài thơ bút chiến của một thời diễn ra tại chùa Cây Mai đã khái quát được tinh thần dấn thân, thái độ chính-tà rạch ròi của kẻ sĩ trước thời cuộc. Chính cuộc bút chiến này đã cho thấy miền Nam - “vùng đất mới” còn là nơi hội tụ những hào kiệt văn chương lừng lẫy. Nếu tên gọi của con đường này - một tên gọi đường bình dị, dân dã như tính cách người của vùng đất này - “Cây Mai” vẫn còn giữ nguyên như trước, có lẽ âm vang về quá khứ, về hồi ức của một thời sẽ có sức sống mãnh liệt hơn với người đương thời.

Dù vẫn biết tên gọi của nhiều địa danh đã thay đổi do nhiều lý do khác nhau nhưng nếu không xáo trộn, không thay đổi thì vẫn tốt hơn khi nhìn lại bề sâu, chiều dài của một vùng đất. Ý nghĩa tích cực nhất của lịch sử, văn hóa lúc “ôn cố tri tân” là gì nếu không là nguồn năng lượng tinh thần tiếp sức cho đời sau?

Này, tiếp sức năng lượng cho đời sau, có thể tìm qua sách bao cũ, được chăng? Tại sao không? Ai cũng biết, Sài Gòn có nhiều nơi trồng cây giá tỵ, tức cây tếch. Thử đố khó một câu: “Loại cây này du nhập vào Nam bộ tự thuở nào?”. Nghe câu đố ấy, chắc chắn nhiều người sẽ cầu cứu đến ông Google. Y cũng thế, nhưng rồi cuối cùng bó tay toàn tập. May quá, mày mọ tìm lại tờ báo Thông loại khóa trình số 3 (6.1888) do nhà văn hóa Trương Vĩnh Ký chủ biên, mới biết tường tận. Đọc sách biết cái hay, lý thú, ích kỷ gì mà không ghi chép lại cho nhiều người cùng biết? Thì đây:

“Chính tên cây thường hay kêu dầu xiêm là cây giá tỵ (Le teck siamois). Cây nó dẻo, lại mịn thịt cũng có vân, xuống nước nổi là đà. Nó ở khô, ở ướt cũng bền. Bấy giờ, Tây cũng dụng mà đóng tàu. Nó được cái hay là nó không nhớt, lại đinh đóng vô thịt nó thì không hay bị sét. Đinh mà sét thì sau nó rã sét thì nó lỏng nó sút ra; mà đóng vô giá tỵ thì không hề sét, nên người ta dụng nhứt trong việc đóng tàu là vậy.

Annam biết nó mà đặt tên cho nó là giá tỵ là từ đời Gia Long, Minh Mạng về sau.

Làm thứ cây này thì phải có ý mới được: dạo rừng coi lựa rồi thì phải lấy rìu mà rong da gốc nó một vòng, rồi để đó cho nó héo, nó chết, nó khô lần, qua năm sau hãy đốn, hãy hạ nó xuống thì nó không có xé, có nứt hai đầu ra. Bằng đốn tươi nó đi thì làm sao nó cũng xé, cũng tách đầu nó ra chẳng khỏi đâu.

Nguyên đời quan Nguyên soái Gia có xin giống mà trồng, nên ông Lưỡi đen (tên Pinklào) là ông vua nhì (vannà) trong Xiêm mới cho ương cây cùng lấy hột, vào bao bì rồi sai quan Annam là ông Thái làm chức “Luổng  phlỏng sặt thướng chào kròm sái” ở trong Bangkok đem ra cho quan Nguyên soái”.

Dù câu văn lủng củng nhưng đọc lại, khác nào được nghe người xưa kể câu chuyện cổ tích? Dám đồ rằng, chuối sứ là do quan ta đời Nguyễn đi sứ Thái Lan đem về mà có giống này. Không những thế, còn có vịt xiêm, mãng cầu xiêm, dừa xiêm v.v… Cũng theo cụ Ký, ở miền Nam có loại ghe Tam Bản là do nói trại từ “sam” thành “tam”: “Sam bản là loại như ván thông, dùng mà đóng xuồng nhỏ nhỏ”. Do không hiểu như vậy, nên khi định nghĩa về ghe tam bản trong từ điển vẫn là: “loại ghe lớn hơn xuồng, đóng bằng ba tấm ván”. Ghe còn có nghĩa là nhiều. Bài ca chúc Tết thanh niên của cụ Phan Bội Châu có câu: “Xúm vai vào xốc vác cựu giang sơn/ Đi cho êm, đứng cho vững, trụ cho gan/ Dây thành bại quyết ghe phen liên hiệp lại/ Ai hữu chí từ nay xin gắng gỏi/ Xếp bút nghiên mà tu dưỡng lấy tinh thần”.

Khi đọc quyển Tục ngữ, cổ ngữ, gia ngôn in năm 1897 của Paulus Của Huỳnh Tịnh đốc phủ sứ, thấy có nhiều câu khuyên chớ nên cờ bạc. Rồi lại hỏi, có phải người Việt cũng khoái hũ chìm với men say? Tự hỏi, bởi trong Thông loại khóa trình, thỉnh thoảng cụ Ký có cho đăng bài về cái tệ uống rượu. Chẳng hạn, “Một chén hãy còn phân tử tế/ Hai ve rồi lại nói câu mâu/ Mắt kia trợn trạc như mắt khỉ/ Môi nọ phều phào tợ môi trâu/ Lẽo đẽo nước trong mà độc địa/ Nuốt vào khỏi cổ lại nhức đầu”. Còn cờ bạc thì sao? “Đặt một chung ba nhiều kẻ muốn/ Tham vui chịu lận ít ai dè/ Tham giàu đòi thuở lâm nghèo ngặt/ Hào kiệt ghe phen phải sụt sè/ Trước mắt hư nên gương sẵn để/ Răn mình trước liệu kẻo nghiêng xe”.

Đấy, ai dám bảo những trang sách báo cũ với bài vở như trên đã lỗi thời?

Làm nên sự khác biệt từng vùng miền còn là thổ âm, thổ ngữ nữa. Nói thế, chẳng ai thèm cãi làm gì cho nhọc xác, hiển nhiên phải là vậy. Những ngày này, đọc lại ca dao trong sách xưa, lại càng nhận ra rằng, chính Nam bộ là nơi đã phá cách thể thơ lục bát quyết liệt nhất. Khó có thể tìm thấy nhiều như ở ca dao Trung bộ, còn Bắc bộ là càng không có, bởi thể loại này đã ổn định, định hình ngàn năm trong sự chỉnh chu trở thành sự mẫu mực.

Dứt tình thương cho bậu lấy chồng

Bậu lấy chồng rồi đừng qua đừng lại

Bậu gối tay qua đầu, bậu nghĩ lại thương qua

Hoặc:

Một vũng nước trong, năm bảy dòng nước đục

Một trăm người tục đôi ba chục người thanh

Biết đâu cao nấm ấm mồ, bậu ôm duyên chờ đợi Hớn Hồ mất công

Hoặc:

Anh tủi thân anh như trái chanh chai ngắt, như trái tắc bị đèo

Thương nhau đứt ruột ngặt nghèo khó phân

Lúc nào rảnh rỗi sẽ chọn nhón thêm từ các quyển Câu hát đối theo bạn cấy, Câu hát góp… in ở Sài Gòn đầu thế kỷ XX. Âu cũng là một cách giúp bạn đọc mua vui, vì các câu như trên chẳng còn thấy phổ biến nữa. Trở lại sự phá thể, biến thể trong nhịp ca dao 6/8 đã phản ánh điều gì trong tính cách con người ở vùng đất phương Nam. Câu hỏi gợi ý này, biết đâu về sau có  người chú tâm lý giải thì tốt quá.


L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

Trang 11 trong tổng số 58