THÔNG TIN CÁ NHÂN Tiêu điểm Lê Minh Quốc ĐOÀN TUẤN - Những người không gặp nữa

ĐOÀN TUẤN - Những người không gặp nữa

Mục lục
ĐOÀN TUẤN - Những người không gặp nữa
Ngày 7 tháng 10 năm 2000
Ngày 25 tháng 8 năm 2001
Thứ sáu 30 tháng 3 năm 2000
Ngày 19 tháng 6 năm 1999
Thứ ba 27 tháng 3 năm 1999
Thứ ba mùng 5 tháng 3 năm 1997
Ngày 21 tháng 8 năm 1998
Ngày 17 tháng 11 năm 2001
Thứ ba 17 tháng 4 năm 2001
Thứ tư ngày 25 tháng 4 năm 2001
Ngày 22 tháng 11 năm 1999
Thứ năm mùng 7 tháng 3 năm 1999
Chủ nhật ngày 25 tháng 2 năm 2001
Thứ sáu 20 tháng 4 năm 2000
Thứ hai ngày 12 tháng 3 năm 2001
Chủ nhật 18 tháng 3 năm 2001
Thứ tư 21 tháng 4 năm 2000
LỜI THƯA CUỐI SÁCH
Tất cả các trang

DOAN_TUAN

Lời thưa,

Khi tôi viết tiểu thuyết Thời của mỗi người là viết về kỷ niệm của đời sông quân ngũ của chính mình. và Đoàn Tuấn viết tập ký Những người không gặp nữa cũng nắm trong suy tư đó. Cuộc chiến tranh Tây Nam không "khai sinh" ra nhiều nhà văn, nhà thơ. Chỉ có thể đếm trên đầu ngón tay với Phạm Sỹ Sáu, Huỳnh Kim, Đoàn Tuấn, Lê Minh Quốc, Thành Nguyễn... Còn ai nữa? Đó là điều may mắn, bởi cuộc chiến kết thúc sớm. Hơn nữa, người ta cũng muốn lãng quên nó.  Sau tập thơ in chung Đất bên ngoài Tổ quốc, chúng tôi tự nhủ phải viết thêm một cái gì đó. Rồi thời gian lại cuốn tôi chìm xuống cơm áo gạo tiền... May mà Tuấn có viết tập sách này.

Lê Minh Quốc

VI.2012

 

DOAN_TUAN

Một buổi sáng, ngồi uống trà bên quán cóc trên đường Trần Hưng Đạo, Hà Nội, tôi bỗng nghe thấy một người nói:
- Cứ mỗi lần nghe buổi phát thanh “Nhắn tìm đồng đội” là mình lại ứa nước mắt.
Tôi nhìn sang. Một nhà văn đàn anh, thoắt ẩn thoắt hiện.
Vì nhiều lý do, bản thân tôi cũng thường theo dõi buổi phát đó.
Song, về mỗi liệt sỹ, sau khi đọc quê quán, năm sinh, cuối cùng, ai cũng có chung một dòng : “Hy sinh tại mặt trận phía nam ngày… tháng… năm…”
Quá đơn giản!
Những liệt sỹ đó, khi sống, họ sống thế nào? Chơi với đồng đội ra sao? Họ linh cảm những gì trước khi chết? v.v và v.v…
Ai chết rồi cũng đều tuyệt đẹp. Chết trẻ càng xót thương. Nhớ mãi.
Ngày 15 tháng 9 năm 2001
Mùa thu năm 1998, trong một lần ra Hà Nội công tác, Lê Minh Quốc rủ tôi:
- Lúc nào rỗi đến thăm gia đình Hoàng An đi?
- Nhà nó bán lâu rồi.
- … ?
- Nghe tin nó hy sinh, ông già nó mất. Rồi bà mẹ cũng qua đời. Chị em gái lấy chồng. Nhà 66 Ngô Thì Nhậm bây giờ là cửa hàng bánh kẹo của người khác rồi.
Tôi thấy thương Quốc. An là lính C7, thuộc đại đội Quốc. Quốc quý An, coi An như thằng em. Ra Hà Nội nhiều lần, mỗi lần Quốc nhờ tôi dẫn đi thăm một chiến hữu ở đại đội cũ. Khi là Dũng 41, khi là Huần, khi là Dân “lùn”… Đối với tôi, Hoàng An mãi mãi là một hình ảnh đẹp.
An có nước da trắng hồng như da con gái. Trắng đến nỗi mái tóc cũng hoe vàng. Cặp mắt nâu lúc nào cũng long lanh sáng. Đôi môi đỏ tươi. Hàm răng trắng bóng. Cái tên An “bột” trở nên thân thiết với mọi người.
Cái ngày An hy sinh, tôi không thể nào quên được. Chiều đó, tôi vừa tắm ở suối lên thì gặp An đi tới. Hai thằng nói chuyện vài câu. Tôi định về thì An đứng dưới suối gọi vọng lên:
- Này Tuấn, cho mình cái khăn mặt đi.
Tôi lưỡng lự.
- Mấy khi xin nhau đâu. Ông hết, còn kiếm dễ hơn mình.
Tôi thương An, lính bộ binh phải đi tuần, đi phục liên miên. Quần áo, giầy, mũ, khăn mặt… đều rách sớm. Tôi ném cho An cái khăn ẩm mầu trắng đã vắt nước. An chộp lấy và cười rất tươi.
- Cảm ơn. Mình chỉ xin lần này là thôi đấy!
Tôi về trước, và dặn An tắm xong qua chỗ tôi ăn cơm.
Đơn vị An không có suối, phải qua chỗ tôi tắm nhờ. Mỗi lần tắm phải đi bộ chừng 700 mét, qua nghĩa trang tiểu đoàn. Mời An về chỗ tôi ăn cơm vì tôi biết, anh Liễm, trợ lý tác chiến tiểu đoàn người sống chung hầm cùng tôi, trước là đại đội phó của đơn vị An. Anh Liễm cũng rất quý An.
Anh Liễm mới nấu được nồi rượu đã mang ra đãi khách. Mỗi lần nâng bát, An đều vừa cười vừa nói: “Uống đi, chỉ lần này thôi. Lần cuối cùng đấy!”
An cười rất tươi. Giọng nói giòn tan. Chúng tôi nói nhiều thứ chuyện. Anh Liễm lại là cây tiếu lâm nên bữa ăn dưới ánh dầu khộp khá vui.
Sau đó An ngồi chơi trong hầm tôi hồi lâu. Nó mấy lần nhắc tôi:
- Tuấn viết thư cho chị Hương hộ mình nhé. Chị Hương mình xinh lắm!
- Xinh thì phải có ảnh. Nói mồm ai tin - Anh Liễm đùa. - An cười.
- Đi bây giờ tối lắm. Lính gác tưởng địch, nó bắn chết chả bõ. - Anh Liễm lại đùa.
- Thôi, Tuấn viết thư hộ mình nhé. Nói nghiêm đấy, chị Hương mình xinh lắm.
Tuy tôi chưa xem ảnh chị Hương của An, song tôi biết thể nào chị Hương cũng rất xinh bởi An đẹp trai, trắng hồng đến thế kia mà. Tôi hình dung ra tấm ảnh chị Hương và vừa mong vừa tin sẽ được An cho xem. Tôi gật đầu cho An yên tâm. Nó bắt tôi thề. Tôi khẳng định là sẽ viết.
Chừng 9 giờ An về để sáng mai còn đi phục.
Sáng hôm sau, An cùng đơn vị phải đi rải đường sớm. Nghĩa là đơn vị An phải rải quân ở những điểm quan trọng trên con đường từ tiểu đoàn tôi đến phum Cam Tuất, nơi C14 đóng, để đảm bảo an toàn cho chúng tôi sẽ đi gùi gạo và đạn.
Khoảng 7 giờ, tôi đang gói cơm nắm và con cá khô vào ba lô thì nghe tiếng mìn nổ phía đường. Dạo đó, cứ nghe tiếng mìn nổ phía đường, chúng tôi lại bàng hoàng, sửng sốt vì biết chắc rằng lính mình, ai đó, đã bị thương hoặc hy sinh.
Đến khoảng 8 giờ, tôi vừa qua đi được một quãng thì thấy An đang nằm vật trên đường. Vội chạy tới, tôi kinh hoàng thấy một bên chân An đẫm máu. Người đầy bụi đất. Ánh mặt trời chiếu thẳng vào mặt. An vẫn nằm thẳng cẳng, đầu dính bết đất. Một tay đặt ngang mắt che nắng.
Tôi cúi xuống gọi An. Nhưng nó không mở mắt, không trả lời. Hình như An đã ngất.
Tôi vội xin phép anh Lê Quỳnh Lang, trung đội trưởng thông tin, người phụ trách quân số tiểu đoàn bộ đi gùi gạo hôm đó, cho tôi được phép đưa An về phẫu tiểu đoàn. Nể tình tôi trước cùng là lính thông tin giờ đã chuyển về tác chiến tiểu đoàn nên anh Lang đồng ý.
Chúng tôi khiêng An về phẫu tiểu đoàn. Y sĩ Hiền vội truyền huyết thanh cho An. Chỗ ga rô ở chân An đã tím ngoét. Phần bị thương, thịt nhầy nhụa, xương vỡ vụn lởm chởm. Đất cát bám vào trông rất ghê rợn. Anh Hiền quyết định cắt một bên chân. Kiếm gỗ kê, dùi đục, dao rựa. Người giữ. Người chặt. Tiếng dùi đục đập vào sống dao, xương gẫy. Tôi nghiến răng, nhắm mắt, quay mặt ra phía bãi cỏ.
Sau đó tôi cùng Tuấn quản, nhà ở phường Thanh Lương, cầm xẻng và xách cái chân bị cắt của An đi chôn. Cũng chẳng chôn đâu xa. Gần chỗ giếng đào nhưng không sử dụng được vì nước quá đục. Cạnh đó còn có hố chôn bông băng. Chúng tôi chôn chân An xuống một hố đạn vì đất rất khó đào.
Hai chúng tôi thay nhau ở bên An, chẳng có gì gọi là tẩm bổ. Tôi chạy khắp nơi tìm mãi mới được quả trứng gà bé tí xíu. Tuấn quản luộc quả trứng, bẻ từng miếng nhỏ, cho vào miệng An, nhưng nó đùn ra. Mồm kêu: “Ước! Ước!” Tôi đổ nước cho An. Nuốt được hai thìa, đến thìa thứ ba thì nước tràn ra cổ, không nhận nữa.
Khoảng 12 giờ trưa, anh Hiền vành mí mắt An ra “Nhìn này. Sống sao được”. Tôi nhìn vào. Trắng nhờ, không còn mầu hồng đỏ như mắt người sống. Không nói gì thêm, anh Hiền bỏ sang hầm y sĩ.
Khoảng 1 giờ chiều, An lên cơn co giật.
Hai giờ chiều, tôi đổ sữa cho An, sữa tràn ra cổ.
Anh Liễm nhìn, bần thần:
- Sắp đi rồi!
Tôi rối rít lay gọi:
- An ơi! An nhắn gì cho gia đình, nói cho mình đi. Mình sẽ chuyển!
An không nói gì. Bất động.
Khoảng 20 phút sau, An nói. Ôi, nói không ra lời, nói ngọng, giọng phều phào đứt quãng.
Tôi bối rối ghé sát tai xuống nghe. Nhưng không thể hiểu được lời nào. Tôi nói như van lạy:
- Anh Hiền ơi, anh tiêm ít thuốc trợ tim hay trợ lực cho bạn em, để nó nhắn lời cuối cho gia đình!
Tôi như quỳ xuống, nói như khóc. Anh Hiền vẫn không nói gì.
Bỗng toàn thân An rung chuyển, lên cơn co giật dữ dội.
Tôi kêu gào thảm thiết, mong An nói một câu gì đó cho gia đình.
Rồi An thở bằng mồm. Tôi đau đớn nhìn. Bất lực. Lúc đó tôi mới bắt đầu hiểu thế nào là thở hắt ra.
Tôi lấy ít bông đặt trên mũi An. Bông không động đậy.
Hoàng An đã ra đi. Bốn giờ kém 15 ngày 29-12-1980.
Tuấn quản đun nước nóng, tắm rửa cho An. Mãi sau này, Tuấn quản còn trầm trồ: “Mẹ kiếp! Thân thể thằng An đẹp như con gái!”
Tôi cùng anh Liễm và Nguyễn Đình Huần mặc quần áo và liệm cho An. Đặt An vào quan tài, chúng tôi khiêng An ra nghĩa trang tiểu đoàn, cách đó khoảng 300 mét.
Cùng lính C7, chúng tôi đào một cái huyệt thật sâu, thật đẹp. Sau đó anh em C7 làm đội tiêu binh, bồng súng AK, đứng hai bên huyệt.
Anh Thuận chỉ huy đơn vị An, chủ trì lễ truy điệu. Ngắn gọn, xúc động.
Chúng tôi đắp mộ cho An khá to. Không biết Tuấn quản kiếm đâu ra bát cơm, quả trứng, nhờ anh nuôi Đệ điếc, người Đà Nẵng, mang ra. Tuấn quản đang bận chia cơm ở nhà. Là quản lý, phụ trách bếp ăn tiểu đoàn bộ có khác, Tuấn quản quả chu đáo.
Không có hương hoa gì cả. Mãi tối mịt mới xong.
Đêm hôm đó, tôi không ngủ được. Tìm cây bút bi có màu mực đẹp nhất, xanh biếc như lá mạ, tôi viết lá thư dài gửi cho chị Hương của An.
Tôi vẫn không biết mặt chị Hương của An thế nào. Lúc sang C7 nhận ba lô của An về tiểu đoàn để lập biên bản kiểm nghiệm quân tư trang tử sỹ, tôi không thấy có tấm ảnh nào, chỉ có mấy lá thư cũ của ông bố.
Tư trang không có gì. Bộ quần áo cũ, đôi tất rách.
Cái võng, cái màn, cái chăn, những quân trang ấy, tiểu đoàn thu lại, để cấp cho người khác.
Lá thư viết cho chị Hương hết sức đau đớn. Tôi đã khóc.
Chờ mãi, chờ mãi, không thấy thư chị Hương gửi sang. Tôi đoán chắc quá đau đớn, chị Hương không thể trả lời.
Cũng đêm đó, cách chỗ tôi chừng 700 mét, ở đầu kia nghĩa trang, Lê Minh Quốc, người cùng đơn vị với An, đã viết một bài thơ đầy xúc động, nha đề: “Gởi từ hòm thư 5A-2106” về cái chết của Hoàng An:
Bồng bềnh sợi tóc em bay
Tuổi hồng gửi với cỏ cây lạc loài
Trăng rơi trong mắt ngậm ngùi
Thân gầy guộc đã chôn vùi đất hoang
Thắp cho em nén hương tàn
Gió chiều hiu hắt hồn oan chưa về
Thấy em cười vọng trăng khuya
Đêm dài ma quái như chia nỗi lòng
Quan tài che kín gió đông
Hay mưa gió xuống lạnh lòng em tôi?
Hình hài còn gửi trăm nơi
Ngủ đi em để rong chơi thiên đường
Mộ em trăm hoa hướng dương
Của giọt nắng rụng còn vương mắt người
Vô tình sao thấy đắng môi
Khóc em không nước mắt rơi đầm đìa
Em nằm không có mộ bia
Sinh Việt Nam tử Cam-pu-chia tội tình
Trở về lòng đất vô minh
Thịt da em có hiện hình dương gian
Thắp cho em nắm hương tàn
Chợt nghe súng nổ bàng hoàng tương lai.
Chôn An rồi và mãi đến giờ, tôi vẫn còn ám ảnh bởi câu hỏi: tại sao An, khi xin khăn mặt mình, lại cứ nói là xin lần cuối? Tại sao uống rượu tối hôm đó, mỗi khi nâng cốc, lần nào An cũng cứ nói: “Uống lần này là lần cuối với các đồng hương”. Và tại sao An lại cứ nhắc mãi tới chuyện viết thư cho chị Hương?
Và tối hôm đó, tôi đã nổi giận với y sĩ Hiền, khi anh ta nói với Tuấn quản:
- Tao biết thế nào thằng An cũng chết nên không tiêm thuốc trợ tim và trợ lực cho nó. Để dành cho ca khác.
18 năm sau tôi vẫn còn giận anh Hiền. Mãi đến mùa thu năm 1998, khi anh em cựu chiến binh chúng tôi tụ tập kỷ niệm 20 ngày vào lính, y sĩ Hiền từ Sơn Tây cũng đến tham dự. Tay bắt mặt mừng, nhắc lại chuyện cũ, hiểu nhau hơn. Tôi và anh Hiền chụp chung kiểu ảnh làm kỷ niệm.
Song cái chết của An vẫn mãi ám ảnh tôi. Một lần đọc sách, tôi được biết nỗi bất hạnh của những gia đình có người không may bị chết không toàn thây. Lúc đó, chúng tôi còn non dại quá, quên không đào cái chân của An lên để chôn cùng thi thể của nó.
Trong tâm hồn tôi, Hoàng An mãi mãi là một hình ảnh đẹp. Đẹp như một buổi trưa tại phum Cầu Sắt, tôi đang khoác súng đi dọc suối xem có con thỏ nào bị sa bẫy không thì gặp Hoàng An đang tắm. Nó đứng trên những tảng đá đen bóng. Dòng suối trong vắt chảy loang loáng. Suối trong đến nỗi nhìn thấy cả những viên sỏi màu dưới đáy, nhìn thấy cả bàn chân trần sạch trắng của An. Và nó cười đùa với đàn cá nhỏ đang rối rít trước mặt. Những con cá óng ánh đủ sắc mầu nhỏ và dài như những chiếc lá trúc, đang thi nhau đớp mồi. Tôi dừng lại nhìn thì ra An “bột” đang “xóc lọ” cho tinh trùng ra.
- Ê An! Mày làm thế để làm gì?
- Cho sạch chứ còn gì. Đêm ngủ mơ, bắn pháo hoa, bẩn bỏ mẹ! - Nó ngẩng lên cười hồn nhiên.
Và bây giờ, dù không biết gia đình Hoàng An ở đâu, tôi vẫn chở Lê Minh Quốc qua phố Ngô Thì Nhậm. Để tìm sách cũ. Để đứng bên này đường, trang nghiêm nhìn ngôi nhà 66, hình dung lại những ngày thơ ấu, Hoàng An đã đùa chơi trước cửa, như những đứa trẻ con đang mê mải đá cầu.

Trích hồi ức của Nguyễn Đình Huần, lính C7, cùng đại đội với Hoàng An. Hiện Huần ở làng Phùng Khoang, xã Trung Văn, huyện Từ Liêm, Hà Nội.


Bao tháng năm khổ đau nhưng cũng đầy oanh liệt, tự hào lại hiện về nguyên vẹn trong tôi và thế là tôi viết. Viết không phải để khoe hay kể lể, vì chiến tranh thì làm sao chúng tôi có trọn vẹn Tuổi xuân.
- Hỡi các chiến hữu! Đã cùng tôi với bao đồng đội những người trở về hay những người đã hòa trộn vào lòng đất của xứ sở quạ đen “Chùa Tháp” mang về cho gia đình mình tấm bằng Tổ quốc ghi công, cho Tổ quốc Việt Nam niềm tự hào làm nghĩa vụ quốc tế vẻ vang hay giang tay cứu độ một dân tộc đang bên bờ diệt vong, hay vì cái gì nữa… nữa… Cuối cùng, chúng ta, những người lính tình nguyện đã phải đổi bằng hoa hồng, máu và nước mắt để đem về cho Tổ quốc những hào quang chói lọi vì nghĩa vụ quốc tế vẻ vang. Trước mắt tôi, quá khứ lại trở về nguyên vẹn của thời đáng nhớ. Cũng như mọi người, với cuộc sống hiện thực là tấm áo, bát cơm, vì thế, tôi không có thời gian để giãi bầy cùng mọi người mà chỉ muốn nói về một kỷ niệm trong cuộc chiến hơn 20 năm đã trôi qua của đồng đội tôi đã cùng tôi và bao bè bạn sẵn sàng xả thân mình để cứu vớt một dân tộc láng giềng đang trong cảnh đọa đầy đau khổ.
Tôi viết về Hoàng An.
Người chiến sỹ hy sinh vì nghĩa vụ quốc tế vẻ vang, người đồng chí của chúng tôi và là đồng hương Hà Nội của tôi. Nên tôi nhớ và viết về sự hy sinh của Hoàng An trong cuộc chiến mà không bao giờ tôi quên được. Câu chuyện tôi viết là hoàn toàn có thật, một sự thật phũ phàng nhưng rất vinh quang. Ước muốn của tôi là viết ra đây để anh em của HT 5A.2106. PLEIKU (đoàn 330 chuyển) xem và nhớ lại một thời đã qua.
Khoảng 9 giờ sáng một ngày đầu tháng 12-1980, tôi đang cùng tổ phục bảo vệ đường dọc tuyến giao thông An-lung-viêng đi Cam Tuất thuộc cứ điểm đồi Con Cá, bỗng nghe tiếng mìn KP2 nổ chát chúa cùng tiếng hét man dại bên kia đồi Con Cá, bên đó tổ phục đến giờ thay ca trở về chốt nghỉ ngơi. Tổ phục của tôi được lệnh cơ động đến chỗ có tiếng nổ hỗ trợ cho tổ bạn, mấy phút sau chúng tôi có mặt. Một sự thật đau lòng đập vào mắt tôi, một thây người đẫm máu đang quằn quại cùng cỏ cây và đất cát. Tôi nhận ra Hoàng An, đồng đội tôi và là đồng hương Hà Nội. Tâm hồn tôi tê dại, tôi đứng lặng nhìn đồng đội mình đau đớn mà không làm được gì để giúp bạn. Chúng tôi hiểu mọi chiến sĩ, ai đã vướng mìn KP2 thì đều không cứu được. Bởi mìn KP2 chứa 20% chất độc hóa học. Sau phút đau đớn đó chúng tôi sơ cứu băng bó cho An và chuyển về ngầm An lung, đó là phẫu của tiểu đoàn. Với trách nhiệm và nghề nghiệp, y sĩ Hiền người Sơn Tây lúc đó là phẫu trưởng đã hết lòng cứu chữa hòng đem lại cuộc sống cho Hoàng An. Tôi ngồi cạnh An động viên và múc từng thìa nước đổ cho bạn uống thầm cầu mong cho bạn mình tai qua nạn khỏi, dù khi trở về trên đôi nạng gỗ thì cũng là hạnh phúc. Gần trưa An rất tỉnh, kêu đau ở vết thương. Nhìn ống chân bạn lủng lẳng chỉ còn dính một mảng da từ bàn chân lên gần đầu gối mà lòng tôi quặn đau. Tôi hiểu sự sống của An chỉ là một phàn ngàn. Tôi hỏi An có nhắn gì cho 6g không, An nói với tôi là: “Em chỉ còn mỗi chiếc khăn quàng cổ bằng sợi dệt mà trước khi sang K chiến đấu, mẹ em đã nhét vào ba lô cho An vì mẹ sợ những đêm dài giá lạnh con của mẹ sẽ viêm họng. Nếu trở về được thì Huần mang về cho mẹ hộ em”.
Nghe bạn nói mà tự nhiên nước mắt tôi cứ lăn dài xuống hai gò má vốn đã xanh xao vì sốt rét. Thỉnh thoảng bàn chân bị gẫy cứ giật lên từng đợt theo tiếng nấc ngắt quãng. Tôi gọi anh Hiền y sĩ, nói nhỏ: “Thôi anh xem cắt cái bàn chân gẫy đi cho bạn em, biết nó chả sống được nhưng cứ nhìn thấy là em xót xa cho nó quá”. Không biết là do sự khẩn cầu của tôi hay vì chuyên môn, anh Hiền đã cắt bỏ bàn chân đó và giao cho Đoàn Tuấn là đồng hương Hà Nội đem đi chôn. Tôi hỏi An có ăn gì không? Thú thật là chúng tôi cũng chẳng có gì ngoài nắm cơm vắt ướt đẫm mồ hôi vì từ sáng đến giờ chưa kịp ăn. Thấy An gật đầu, tôi chạy vào bếp tiểu đoàn thấy anh nuôi đang dùng xẻng đảo nồi cơm bốc hơi nghi ngút. Tôi xin ít nước cơm mang về chỗ An định đổ cho An uống. Thật tội nghiệp, nếu có thìa đường hòa vào vào với nước cơm thì tốt biết bao. Nhưng với điều kiện hoàn cảnh chiến trường như vậy kiếm đâu ra thìa đường cho bạn bây giờ? Tôi lại chạy đi gặp anh em nào cũng hỏi xem có gì có thể cho bạn ăn uống được không, để mong kéo dài cuộc sống cho bạn. Cuối cùng tôi lại gặp Đoàn Tuấn vừa đi chôn chân bạn về. Tôi nói với Tuấn “Thằng An nó đòi ăn, mình xin được ít nước cơm, song chả có đường… ước gì có tí đường hay quả trứng đánh vào nước cơm cho nó uống may ra nó còn tỉnh nữa”. Tuấn thần mặt ra một phút rồi vội vàng quay đi vừa nói “Huần đợi mình một tí”. Tuấn chạy đi một lát và quay lại trên tay cầm một quả trứng gà nhỏ thó dúi vào tay tôi và giục tôi về trước. Tôi như nằm mơ vì giữa chốn này mà Tuấn kiếm được trứng gà thì thật là tuyệt. Về đến chỗ An nằm tôi vội đập trứng vào bát nước cơm rồi múc từng thìa đổ vào mồm cho bạn, mong sao An uống hết chỗ nước cơm và trứng. Uống được hai thìa, An thôi không uống nữa. Ngừng một lát tôi lại động viên và múc đổ cho bạn, nhưng An đã không uống được nữa và nói ngọng. Trên khuôn mặt trắng nhợt vì mất máu đã bắt đầu có những dấu hiệu vô thức của kẻ sắp vĩnh viễn ra đi. Tôi lay gọi bao nhiêu thì phản ứng tự nhiên của con người An cứ chậm chạp và mất dần. Sau mấy lần oằn người và nấc lên một cách khó nhọc, người An từ từ mềm ra. Đôi mắt thì cứ trừng trừng nhìn vô hồn vào khoảng không, trống vắng như oán hận một điều gì. Tôi vuốt mắt cho An bằng bàn tay còn dính đầy máu từ vết thương của bạn. Đoàn Tuấn đun nước nóng mang lên thay quần áo và tắm rửa cho An. Đó là nhiệm vụ của ban chính sách tiểu đoàn. Nhưng là đồng đội và lại là đồng hương, tôi cùng Đoàn Tuấn đều làm hết sức mình, dù rằng việc thay quần áo và tắm rửa cho An không có gì là khó khăn, thế mà tôi và Tuấn cứ phải gượng nhẹ thật nhẹ nhàng. An chết rồi mà lấy khăn lau thi thể bạn tôi vẫn như sợ thấy bạn mình bị đau.
Chiều hôm đó, một buổi chiều thật buồn. Ban chính sách, chúng tôi những người lính Hà Nội và Quảng Nam lặng lẽ tiễn đưa thi thể Hoàng An ra nghĩa trang An-lung-viêng chôn cất. Trong nỗi đau nhưng cũng thật vinh quang vì ở chiến trường mà bạn tôi được chôn cất theo nghi lễ nhà binh. Hai bên huyệt là chúng tôi – những người lính bồng súng nghiêm trang, chính trị viên Thuận đứng giữa đọc điếu văn nêu những thành tích và sự hy sinh oanh liệt của bạn tôi. Thế cũng oai đấy chứ phải không các chiến hữu? Ngày tháng tiếp theo chúng tôi lại tiếp tục bổn phận của người lính đầy gian khổ và cũng đầy vinh quang. Được rảnh rỗi lúc nào tôi lại ra mộ Hoàng An cắm cho bạn vài bông hoa dại cùng bát cơm rời rạc xúc vội ở nhà bếp rồi thầm khấn Hoàng An phù hộ cho tôi cùng đội được bình An để hy vọng một ngày về…
Một năm sau tôi đi viện cũng vì cuộc chiến. Sáu tháng nằm điều trị tôi được trở về quê hương. Về đến Hà Nội, nhớ bao đồng đội còn đang chiến đấu trên chiến trường K, bao bạn bè đã nằm lại bên nghĩa trang An-lung-viêng, đến chiếc khăn của An và lời hứa của tôi. Tôi tìm đến gia đình Hoàng An ở 66 Ngô Thì Nhậm Hà Nội. Tôi gặp bố mẹ và em gái An. Tôi đã kể lại sự hy sinh của An cho bố mẹ và em gái An nghe chiếc khăn quàng cổ. Ôi chiếc khăn. Cầm chiếc khăn đã chớm bạc màu trao tận tay mẹ Hoàng An mà lòng tôi đau thắt. Đôi môi tôi mặn chát, không biết hương vị mặn của mồ hôi hay nước mắt. Hai tai tôi ù đặc. Tôi như thấy mình có tội với bố mẹ và em gái của An. Sau đó, tôi xin phép ra về. Tôi không biết mình ra về với niềm tự hào hay mình trốn chạy trước sự thật nghiệt ngã.
Thời gian cứ thế trôi, tôi lao vào cuộc sống để giành lấy miếng cơm manh áo. Tưởng rằng mọi cái đã lãng quên nhưng không, nó đã trở về trong tôi sau 20 năm quên lãng và tôi viết ra đây một kỷ niệm tuy nhỏ nhoi nhưng đáng nhớ gửi tới tất cả anh em đồng đội của HT 5A.2106.PLEIKU (đoàn 330 chuyển) để nhớ về một thời đã qua!
Khi nhớ lại một thời cầm súng
Thấy hồn ta bay bổng trời cao
Hà Nội 1-4-2001
Nguyễn Đình Huần


Theo sự chỉ dẫn của người hàng xóm với nhà An, tôi đến khu Hào Nam, tìm chị Điệp, chị cả của An. Chị kể:
Dạo nhà chị còn ở bên Giảng Võ. Một hôm, buổi trưa, chị nằm ngủ gần cửa sổ. Thiếp đi. Chị mơ thấy mưa hắt vào chân. Lạnh qua! Chị gặp An cùng mấy người bạn đang ngồi ở chợ. Thấy chị đi qua, An gọi: “Chị Điệp ơi, em đói quá!” - “Ô sao em lại ở đây?” Chị hỏi rồi giật mình tỉnh dậy. Em biết không, từ dạo An mất, bữa nào mẹ chị cũng cúng một bát cơm cho cậu ấy, toàn khấn về nghĩa trang ở biên giới Cam-pu-chia - Thái Lan. Sau này, gặp mấy đứa bạn An trở về, thông báo mộ An đã chuyển về Tây Nguyên. Chị khấn lại. Từ đó không thấy cậu về nữa. Em biết không, năm 90, ba chị bán nhà 66 Ngô Thì Nhậm, chia cho các con, có để dành phần cho An là hai cây vàng. Dạo ba chị mất, cụ có ước nguyện là mua bốn chỗ dưới Văn Điển để ba chị, mẹ chị, chồng chị, cùng cậu An được nằm bên nhau. Song đến giờ, hài cốt cậu An vẫn chưa mang về được. Chị thì bị bệnh tim. Năm ngoái tưởng đã chết rồi…
Tôi an ủi và hứa với chị sẽ tổ chức quyên góp tiền của đồng đội, sớm đưa hài cốt An về Hà Nội.
(Hình)
Hoàng An giờ giải lao trên thao trường (huyện Lạc Thủy, Hòa Bình, tháng 10/1978)
(Hình)
Mộ liệt sĩ Hoàng An tại nghĩa trang thị xã Plâyku - ảnh do người em rể chụp được trong một chuyến công tác xa.




Ngày 7 tháng 10 năm 2000


Trên truyền hình chiếu những hình ảnh lũ lụt ở đồng bằng sông Cửu Long. Người ta phải buộc xác những người chết đuối vào lều lán, đợi khi nước rút mới mang đi chôn. Vợ tôi đang bế con lắc đầu, chép miệng:
- Sao lại khổ đến nỗi thế!
Tôi an ủi và trấn tĩnh:
- Anh cũng có lần phải chôn người như thế rồi đấy!
Hầu như lúc nào tôi cũng nhớ tới anh Hà Huy Lan, thiếu úy, đại đội trưởng C5 với cái chết bi tráng và tuyệt đẹp.
Dạo đó, những ngày đầu năm 1979, tôi được đi phối thuộc với đại đội 5. Đơn vị đóng quân ở ngoài phum Kầm-Prạ, một phum nằm sát biên giới Thái Lan, thuộc tỉnh Prêch Vihia. Suốt một thời gian dài ở đó, tôi đã trở nên gắn bó với C5. Có những đêm bắt cá dưới ánh trăng sáng như ban ngày, cùng chịu những trận tập kích của địch vào lúc tảng sáng, cùng đi những đợt truy quét mệt lả người, trở nên thân thiết với các anh trong ban chỉ huy đại đội như Hà Huy Lan, người Nghệ An, anh Nguyễn Văn Trung, người Mường ở Hòa Bình, anh Nguyễn Văn Huyên, người Ba Vì, Hà Tây.
Ngày 8 tháng 5 năm 1979, tôi được tiểu đoàn gọi về và hạ sỹ Nguyễn Văn Mạnh, người Bình Định, lên thay tôi.
Ngày 10/5, cùng Lê Quỳnh Lang, Nguyễn Văn Học và một số người khác trong trung đội thông tin, chúng tôi đi tát cá. Khoảng 3 giờ chiều, bỗng nghe súng nổ phía xa, nhưng không ai để ý. Khoảng 5 giờ, vừa về đến tiểu đoàn, đang làm cá thì nghe ồn ào trên nhà tiểu đoàn bộ, chúng tôi chạy lên, thấy anh Trung, chân đất, quần áo xộc xệch, mặt hớt hải, cầm ngang cây AK, thở dốc:
- Cả ban chỉ huy bị phục kích, anh Lan bị thương rồi.
Chúng tôi hốt hoảng. Chính anh Trung cũng bị thương, vết thương ở mông to và sâu bằng nắm đấm, máu vẫn đang rỉ ra. Ngay lập tức, thông tin trinh sát và vận tải vội triển khai đi tìm ban chỉ huy C5.
Đến tối chúng tôi mới đến địa điểm bị phục. Đó là con đường dẫn vào phum Tờ-nà-riêng. Bên trái là rừng thưa. Bên phải là rừng xanh. Nằm giữa rừng xanh và con đường là một bãi trống. Khi đoàn người vừa ra khỏi phum, bọn địch phục kích từ trong rừng xanh bắn ra. Hôm 8 tháng 5 khi qua đây, nghe những tiếng con chim “te te… hoắt!” hoảng loạn bay lượn trên vòm săng lẻ, tôi đã rợn người, cố đi nhanh qua đoạn đường nguy hiểm. Cái tiếng chim đó kêu suốt ban ngày và ban đêm. Mỗi lần chúng cất tiếng, sự nguy hiểm nào cũng xảy ra.
Khi đến nơi, chúng tôi thấy anh Huyên đang nằm gục bên hố nước ven đường, áo quần ướt đẫm vì nước và vì máu. khẩu AK báng gập vẫn chưa kịp bật báng, còn đeo bên vai. Anh bị trúng đạn vào giữa miệng. Cái mồm toang hoác. Những chiếc răng chìa ra. Khi còn sống, anh bị hơi vẩu. Giờ đây, cái miệng anh dẩu ra với hai hàm nứt toác. Ngay phút đầu tiên tôi không thể nào nhận ra anh Huyên. Ít giây sau, trấn tĩnh lại, tôi mới bàng hoàng khiêng anh vào võng.
Chuẩn úy Nguyễn Văn Huyên mới từ đại đội thông tin trung đoàn về C5 được ít ngày làm chính trị viên phó. Hình như anh vừa về phép, mới cưới vợ. Mấy hôm trước, tôi còn giận anh Huyên vì anh đã đọc trộm thư từ và nhật ký của tôi. Bây giờ anh đã chết. lúc trúng đạn, chắc anh đau đớn lắm. Bộ phận vận tải vội khiêng anh về tiểu đoàn.
Cách chỗ anh Huyên nằm không xa là xác một tên địch. Nó nằm sấp, mặc quần áo đen. Đây là thằng địch do anh Trung bắn chết. Anh Trung kể: “Khi nghe tiếng anh Lan kêu: “Trung ơi, tao bị thương rồi!” thì bọn địch xông lên định bắt sống quân ta. Anh Trung nấp sau phía cây, nổ súng. Một thằng ngã sấp. Số còn lại quay đầu chạy vào rừng. Chúng tôi vào phum, gọi phum trưởng ra nhận mặt, xem có phải là người trong phum không. Mấy người đàn ông Khơ-me ra, lật xác lên, lắc đầu và xua tay.
Chúng tôi bảo họ đi chôn tên địch. Mấy người Khơ-me cầm dao, chặt đoạn dây rừng, buộc hai chân tên địch đang nằm sấp, kéo về phía rừng thưa. Đường mấp mô và khô cứng, xác thằng địch bị kéo lê trên đất nghe sần sật, sần sật. Trời tối mò, rừng cây đen thẫm, xác thằng địch đen thui bị kéo lê trên mặt đất tối sầm, chỉ có những tiềng sần sật vang lên nhịp nhàng. Bao năm rồi tôi không thể nào quên được những tiếng sần sật ấy. Những người Khơ me bới qua loa cái hố sâu chừng mươi phân, đặt xác thằng chết xuống, chặt dăm cành cây phủ lên. Thế là xong. Rồi họ xin phép ra về như không có chuyện gì xảy ra.
Đêm đó, chúng tôi thức suốt để đi tìm anh Lan theo hướng anh Trung chỉ. Còn anh V. nữa những anh Trung không biết đã chạy hướng nào. Gần sáng, trinh sát Nguyễn Trần Hải, nhà ở phố Thi Sách, Hà Nội, nhặt được chiếc bàn chải đánh răng. Chúng tôi xác định cái này là của anh Lan. Đi vài chục mét nữa thì trinh sát Nguyễn Văn Cầm, người Tam Kỳ, Quảng Nam nhặt được mảnh túi áo bị xé cùng một số giấy tờ. Tất cả đều là của anh Lan. Đến khoảng 5 giờ sáng, chúng tôi tìm được xác anh Lan. Anh nằm bên bờ suối cạn. Đầu gối lên khẩu M.79. Vết thương trên thái dương được buộc lại bằng chiếc khăn mặt trắng. Các túi áo bị xé hết. Anh nằm nghiêng như đang ngủ say. Đôi dép cao su được đặt ngay ngắn dưới chân. Quanh anh còn ba vỏ đạn M.79. Da mặt còn tươi, áo vẫn bỏ trong quần. Đây là tư thế chết đẹp nhất ở chiến trường mà tôi được gặp.
Khiêng anh Lan về đến đơn vị thì chúng tôi tập trung vào chiến dịch đánh lên An-lung-viêng. Xác anh Huyên đã được chuyển lên trung đoàn. Còn xác anh Lan không kịp chuyển, phải buộc võng treo tạm vào kho đạn của tiểu đoàn. Trong kho còn ít đạn vì đã chia cho các đơn vị. Mãi đến gần 5 giờ chiều, tiểu đoàn đang chuẩn bị hành quân thì anh V. mới lò dò dẫn xác về. Thì ra anh chạy lạc đến một đơn vị của trung đoàn 95, được người của đơn vị bạn dẫn về.
Nhìn bộ mặt bạc nhược của chính trị viên phó tiểu đoàn Nguyễn Xuân V., chúng tôi chán hẳn. Cái chuyện bị địch phục kích đều từ anh này mà ra. Đang đi làm công tác dân vận, nhận được điện gọi về tiểu đoàn để chuẩn bị đại hội đảng bộ, anh V. rẽ vào C5 gần đó để rủ ban chỉ huy đại đội về cùng. Qua phum Tờ-nà-riêng, anh V. rủ ở lại nấu cơm ăn trong nhà dân. Các anh cũng chủ quan. Nghĩ mình đi bốn người nên không mang theo lính bảo vệ, có ngờ đâu trong phum vẫn có địch. Chờ cho các vị cơm no rồi mới lên đường, ra đầu phum là chúng quật.
(Chiến dịch đánh lên An-lung-viêng lần đó của đơn vị chúng tôi thất bại. Kéo quân đi lại kéo quân về. Lực lượng to lớn, cỡ trung đoàn tăng cường, được xe tăng của sư yểm trợ, chuẩn bị công phu nhưng cuối cùng phải về không. Nguyên nhân từ điều hết sức vặt vãnh. Số là nghe tin chuẩn bị đi chiến dịch, lính tráng đổ xô vào phum Choăm Sre xin thuốc hút. Dân hỏi: “Xin làm gì mà nhiều thế?”. Lính hồn nhiên: “Đi bắt Pôn Pốt ở An-lung-viêng”. Anh em có biết đâu rằng, dân trong phum có con em đi lính Pôn Pốt rất nhiều. Đêm, họ đã cắt rừng đi báo cho chồng con họ biết. Khi xe tăng ta kéo lên, dọc đường, địch đã chặt những cây to mấy người ôm không xuể, đổ ngang. Công binh phải dùng mìn đánh để mở đường. Đến nơi, An-lung-viêng vườn không nhà trống. Một tuần sau, ta phải rút về).
Đi bộ hàng trăm cây, vừa về đến đơn vị, trung đội trưởng Lê Quỳnh Lang đã phân công cho tôi cùng Nguyễn Đức Thừa, người Quảng Nam, liệm xác anh Lan để lên theo xe chuyển về sư đoàn. Suốt cả tuần đó, trời mưa không ngớt. Cái lán kho đạn không có vách thưng, mưa hắt xối xả. Từ nhà thông tin đã ngửi thấy xác anh Lan bốc mùi. Mỗi đợt gió thoảng qua, ai cũng phải nhăn mặt.
Tôi và Thừa ra kho đạn. Lạ thật, trời mưa nhiều thế, rừng và đất vẫn còn ẩm ướt, nhưng bao nhiêu cỏ cây quanh kho đạn đều úa vàng, chết rũ. Không ngờ nước dịch từ trong người tử sỹ rỉ ra lại độc đến thế! Đám cỏ tranh úa vàng quanh xác anh Lan khắc mãi trong tâm trí tôi.
Tôi và Thừa hạ xác anh Lan xuống. Bụng anh Lan đã trương phềnh như bụng trâu. Cả cái võng rộng 1,5 mét mà ôm không kín. Võng đã dính chặt vào áo quần và da bụng. Bóc lớp võng ra, da bụng cũng dính theo. Dòi bọ lúc nhúc. Thừa đề nghị cho luôn cả võng vào túi ni lông, nhưng người quân y sư đoàn không cho phép chôn võng cùng tử sỹ. Tôi không biết nguyên tắc đó của ai. Hay do anh ta nghĩ ra? Song do anh ta là cấp trên, chúng tôi phải tuân lệnh. Khi tôi bê đầu anh Lan lên, những mảng tóc dính da đầu cũng bị tuột, lộ ra hộp sọ. Tôi căng túi. Thừa khỏe hơn tôi, đẩy xác anh Lan vào. Một túi, nước dịch vẫn ứa ra. Phải lồng vào hai túi. Tôi lấy lọ pe-nê-xi-lin đựng mảnh giấy ghi tên tuổi, quê quán, cấp bậc, chức vụ, ngày hy sinh của anh Lan bỏ vào túi luôn. Ruồi nhặng kêu vu vu, đậu vào mắt, vào miệng, chúng tôi mặc kệ. Ngoài nghĩa vụ và trách nhiệm với đồng đội, tôi còn làm vì tình yêu đối với anh Lan.
Sau đó, tôi chạy về bãi cỏ gần nhà thông tin, nằm thở dốc. Nhìn lên bầu trời thấp, những đám mây trĩu nước, lờ đờ bay. Không còn anh Lan với giọng nói và tiếng cười sang sảng, không còn anh Lan dạy tôi lên gấu quần, không còn những đêm anh Lan rủ tôi vào các cơ sở trong phum Kầm-Prạ nắm tình hình địch, nướng những con cá to như cây chuối trên bếp lửa rực hồng rồi uống rượu xa-ra với dân. Không còn anh Lan như một điểm tựa tinh thần vững chắc của bao binh lính. Không còn… Không còn… Và lòng tôi buồn tê tái đớn đau khi biết rằng vợ anh, chị M., người con gái thành phố Vinh đã ngoại tình.
Tôi ra suối C8 tắm. Cạnh đó có cây khô bị sét đánh, chẻ toang. Lấy rìu bửa những tảng than ra để gội đầu và kỳ cọ cho sạch. Về đến nhà, gặp Thừa đang ngồi thừ ra bên bàn, tôi hỏi:
- Đồng hương giặt võng anh Lan ở đâu?
- Ở suối C8
- Chết mẹ! Sao không bảo? Mình vừa tắm ở đó về!
Thừa cười. Tôi giãy nẩy và cũng phải cười. Thừa đẹp trai hiền lành, da trắng như thư sinh. Tuy cùng trung đội, nhưng chẳng mấy khi gặp nhau vì phải đi phối thuộc luôn, song tôi rất mến Thừa.
Ít ngày sau, tôi lại vác máy thông tin đi phối thuộc với C7. Anh Trần Thanh Chương quê Nam Đàn, Nghệ An, chính trị viên đại đội kể:
- Mình về đến Chchép, nghe tin có xe chở tử sỹ của E29 chạy qua, mình vội đến tìm xem có ai quen. Không thể tin ở mắt mình được nữa. Trời ơi! Hà Huy Lan đây sao? Không thể tin nổi. Ông có biết không, từ đơn vị mình về đến nước, mỗi xác tử sỹ phải lồng vào chín túi ni lông. Đến Chchép đã là bảy túi. Đây ông xem, lá thư cuối cùng ông Lan viết cho mình hôm họp quân chính ở trung đoàn, trước khi mình đi công tác.
Anh Chương cho tôi xem lá thư. Đúng nét chữ rắn rỏi của anh Lan hay viết điện cho tôi truyền về tiểu đoàn hàng ngày. Vẻn vẹn chỉ có bốn câu thơ viết trên sổ tay:
Chim xa rừng cho cây nhớ cội
Người xa người nhớ lắm người ơi!
Từng bên nhau chiến đấu bấy năm trời
Trong phút chốc phương trời nam cách mặt.
Anh Chương cứ nhắc đi nhắc lại rằng lá thư này như điềm gở báo hiệu anh Lan sẽ hy sinh. Rồi với giọng Nghệ Tĩnh ngâm nga, anh đọc cho tôi nghe bài thơ khóc bạn. Hôm anh Lan mất, đúng vào dịp chi đoàn tiểu đoàn bộ phát động làm báo tường chào mừng đại hội đảng bộ tiểu đoàn. Tôi xúc động viết bài thơ vĩnh biệt anh Lan. Song y sĩ Nguyễn Văn Tố, bí thư chi đoàn, người Thanh Hóa, nói lại với tôi rằng, bài thơ không dùng được, sợ ảnh hưởng đến tinh thần anh em. Riêng tôi, bốn câu thơ anh Lan chép, nhập ngay vào tâm trí tôi và ám ảnh tôi mãi.
Anh Hà Huy Lan hy sinh rồi. Hai năm sau, năm 1981, mùa mưa chúng tôi đau đớn nhận được tin anh Trần Thanh Chương cũng hy sinh. Lúc ấy, chúng tôi đang phải trải qua những ngày ác liệt ở An-lung-viêng. Anh Chương đã được điều lên Ban cán bộ trung đoàn. Trong một lần đi công tác, xẩm chiều, qua suối phun Giềng, nước lũ đổ về cuồn cuộn. Vì muốn về đến đơn vị cho nhanh, lại cậy mình bơi tốt, anh Chương ôm ba lô làm phao, bơi qua suối. Không ngờ anh bị nước cuốn đi. Hôm sau nước rút, đồng đội mới tìm thấy xác anh. Cá đã rỉa hết tai và mũi. Anh vẫn mặc quần đùi ni-lông màu đỏ.
Về anh Nguyễn Văn Trung, kể từ khi ra quân, chúng tôi ít có điều kiện gặp anh. Đầu năm 2001, mấy anh em C5 gồm Vinh (Nam Đồng), Toàn cây si, Thành béo… rủ nhau lên Hòa Bình tìm thủ trưởng cũ. Gặp anh Trung đang tuốt lúa bên đường, gần dốc Cun, Toàn cây si giả vờ đến hỏi chuyện mua máy. Nhìn khách, anh Trung bỗng kêu lên: “A! A! C5! C5 phải không?” Anh em nhận ra nhau, quá đỗi hạnh phúc. Gặp nhau được ít giờ, khi ra về, Toàn hẹn tháng sau sẽ dẫn mọi người đến thăm anh Trung. Vài tháng sau lên, mọi người chỉ gặp anh Trung qua tấm ảnh trên bàn thờ. Anh Trung mới mất cách đó mấy ngày. Anh đi xe máy, tránh một người đi xe đạp, phanh gấp, đập đầu xuống đường, chấn thương sọ não và chết.
Như vậy Ban chỉ huy C5 ngày ấy gồm các anh Hà Huy Lan, Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Văn Trung, người chiến trường, người hậu phương, đều đã ra đi.


Ngày 25 tháng 8 năm 2001


Trích nhật ký của Nguyễn Văn Tuấn, trinh sát D8, hiện là công nhân nhà máy giầy Thượng Đình – Hà Nội.

Tôi nằm co người trong võng, ôm ghì khẩu súng. Mùi thuốc trong nòng súng phả ra hăng hắc nồng nồng. Cạnh tôi là Cường, nằm đấy bất động, trũng người trong chiếc võng loang lổ máu. Ánh trăng thượng ngàn chui qua khe lá hắt vào võng của Cường lỗ rỗ cứ như chiếc thuyền bị thủng. Tôi cố quên trận phúc kích và cái chết của Cường nhưng không sao quên nổi. Cường nằm ngay cạnh tôi. Quen thân đấy nhưng sao mà xa cách rờn rợn vậy. Cứ nhắm mắt là hình ảnh của Cường lại hiện lên, rồi tiếng cười ròn tan của nó, rồi giọng nói miền Trung nặng nặng, cái áo lính bạc trắng… Tất cả cứ đầy ắp trong đầu tôi. Rồi tôi thiếp đi lúc nào không biết.
Trong giấc chiêm bao hư ảo ấy, tôi thấy trong vòng tay tôi lúc này là một đứa trẻ sơ sinh đỏ hỏn. Nó khóc nhiều lắm. Nó ôm chặt lấy cổ tôi. Tôi bồng nó đi khắp nơi. Đi lên An-lung-viêng, đi xuống Kầm-pờ-rạ, rồi trở về Chom-sờ-re. Nó vẫn khóc ti tỉ bên tai. Tôi còn nhớ tôi bế nó đi vào một cái chợ xiêu vẹo. Chợ đông lắm. Đàn ông đàn bà mặc đồ đen; chân đi không chạm đất, khuôn mặt đờ đẫn. Họ nói không ra hơi. Tất cả chợ sao mà im ắng thế! Tôi mua cho nó rất nhiều thức ăn. Nhưng đến khi cầm lên tay chỉ thấy có lá mục và hoa khộp khô cứng. Tiếng khóc cứ nỉ non bên tai tôi. Bỗng tôi nghe thấy tiếng nói rất sõi từ miệng đứa trẻ sơ sinh:
- Tuấn ơi! Tôi mới sinh ra có một ngày, chưa có chút gì vào mồm. Đồng hương xem anh Vương có hộp sữa trong ba lô lấy ra cho tôi ăn với.
Tôi choàng tỉnh thoát khỏi cơn mê mà vẫn nghe văng vẳng giọng nói miền Trung của đứa trẻ sơ sinh. Mặt tôi lại quay về hướng chiếc võng tử sỹ. Nghĩ về giấc mơ, nghĩ về cái chết của Cường. Trăng mờ chiếu chếch càng gây cho cảnh vật thêm rờn rợn. Tôi nhỏm dậy tháo võng. Lúc này anh Vương y tá cũng nhỏm dậy nhìn trâng trâng vào mặt tôi và hỏi:
- Có gì đấy? Làm sao đấy?
Tôi trả lời:
- Chẳng sao! Không có gì? Anh cứ ngủ đi… Mấy giờ rồi?
Anh trả lời:
- 12 giờ đêm.
Tôi buộc võng sang chỗ khác. Lầm rầm khấn trong miệng. Tóc gáy tôi dựng đứng, da gà nổi khắp người. Ngẫm nghĩ lại giấc mơ với cái chết của Cường sao mà trùng khớp nhau đến thế. Sau khi khấn song tôi ngủ được ngay.
Sáng hôm sau tôi thức dậy, kể lại cho anh Vương sự việc đêm hôm qua. Anh cười có vẻ không tin lắm nhưng vẫn lấy hộp sữa trong ba lô đặt vào võng của Cường. Một lát sau trung đoàn trưởng đi xuống nhặt từng chiếc lá khô và cành mục rơi trên võng của Cường, miệng lẩm bẩm: Thằng này thiêng thật! Thiêng thật!
Tôi nghĩ, chả lẽ đêm qua Cường lại đến thăm thủ trưởng của mình? Một điều lạ kỳ hay chỉ là ngẫu nhiên? Nhưng tôi thì tôi tin là trong khoảng cách sống và chết đấy - người sống sẽ nghĩ nhiều về người đã khuất. Mà hồn người chết thì còn lẩn quất đâu đây, luôn luôn muốn gõ cửa những giấc chiêm bao để nhắn gửi đôi lời chưa kịp trối trăn.




Thứ sáu 30 tháng 3 năm 2000
Mới đây, báo Tiền phong đăng mẩu tin ngắn về việc phát hiện một mộ liệt sỹ ở Tây Nguyên. Điều đặc biệt trong ngôi mộ đó là cây bút Trường Sơn vẫn còn mực sau hơn 20 năm trời nằm trong lòng đất. Cây bút kỳ lạ đó được chôn cùng người liệt sỹ quê ở Hà Tây.
Dòng tin đã thoáng qua, gợi cho tôi nhớ đến truyện ngắn “Thời Gian” của nhà văn Cao Duy Thảo. Câu chuyện kể về chiếc đồng hồ của một liệt sỹ sau mấy chục năm nằm trong lòng đất vẫn không chết. Di vật bất tử đó đã giúp bà mẹ giải thoát được nỗi đau đớn hiểu lầm về người con đã hy sinh.
Tôi lại nhớ một chi tiết tuyệt vời trong phim Đàn sếu bay qua của Nga. Sau trận bom, trong cảnh đổ nát tan hoang của ngôi nhà, những chiếc kim của chiếc đồng hồ quả lắc vẫn chạy. Sự bất tử của thời gian, của sự sống.
Song trong tôi vẫn còn một nỗi đau về chiếc đồng hồ. Một chiều tháng bảy năm 1980, cơm nước xong, tôi qua chỗ anh Trần Văn Đan, tài vụ tiểu đoàn, ngồi chơi uống nước. Tối nhọ mặt người. Tôi đang đứng ở lối vào tiểu đoàn thì gặp anh Trần Thanh Biện. Anh nói luôn:
- Tuấn cầm hộ mình cái đồng hồ này. Nó vừa bị hỏng, khi nào có dịp về trung đoàn công tác, nhờ sửa hộ mình.
Tôi bối rối nhận chiếc đồng hồ vì trong lòng thầm nghĩ chẳng biết có dịp nào mới lên trung đoàn được. Nhưng vừa nói xong, anh Biện vội quay về C7.
Khoảng hơn tiếng sau, nghe tiếng mìn nổ. Rồi tin anh Biện hy sinh bay về tiểu đoàn. Anh dẫn trung đội đi tuần, vướng mìn.
Anh em khiêng anh Biện về tiểu đoàn bộ. Anh đã chết. Quần áo ướt đầm nước mưa. Trời tối, mặt anh xám đen.
Chúng tôi thay quần áo, liệm cho anh rồi chôn anh ngay trong đêm. Sợ để qua đêm, lại mất thêm người canh gác và cũng sợ thú rừng ăn thịt.
Sáng hôm sau tôi sang C7 nhận ba lô di vật tử sỹ của anh Biện về làm biên bản. Quần áo trong ba lô của anh rất sạch sẽ, đã được xếp gọn gàng. Cái ba lô cũng được giặt rất sạch. Có một chồng thư nhỏ được bọc trong hai lớp túi ni lông.
Tôi bỏ luôn chiếc đồng hồ chết vào ba lô di vật của anh.
Tôi nhớ lại gương mặt chiều qua, lúc sang gửi tôi chiếc đồng hồ. Gương mặt ấy có điều gì thảng thốt như tái dại, giọng nói dù vẫn nhỏ nhẹ nhưng không được bình tĩnh, ánh mắt cháy rực sáng. Rất rực sáng. Và dáng di của anh thật vội vã. Mất hút luôn.
Tại sao anh lại gửi tôi chiếc đồng hồ? Tôi xa thông tin lâu rồi, có mấy khi được về trung đoàn nhận pin đâu? Và cũng đã lâu, từ khi đơn vị lên đứng chân ở An-lung-viêng, tôi đâu còn được đi phối thuộc với C7? Chỉ năm 1970, gần như suốt năm, tôi đi với đơn vị anh trên một chặng đường dài. Dạo đó anh đã là trung đội trưởng. Nhớ dạo đóng quân ở Cầu Sắt, anh Biện nhận được lá thư của em gái. Anh cho tôi xem thư. Lá thư buồn lắm. Hoàn cảnh gia đình thật khó khăn. Hình như cha mẹ anh đã mất từ lâu, em gái anh sống cùng bà ngoại và bà dì. Người dì không quý cháu lắm. Cô em gái cứ hỏi bao giờ anh được về để làm một ngôi nhà cho anh em sum họp chứ sống như đi ở thế này thì khổ lắm.
Anh Biện rất buồn. Ba, bốn đêm liền trằn trọc trên võng. Tôi nằm gần anh chỉ biết im lặng.
Tôi biết, trong đơn vị, anh Biện cô đơn lắm. Trong lý lịch, anh là người Mường. Song những người Mường chính gốc lại ít chơi với anh, cho anh là người Kinh. Còn những người Kinh những lúc đùa vui lại giễu anh là người dân tộc. Tôi chỉ thấy anh im lặng, ít nói, kín đáo, cẩn thận. Dáng người anh chắc nịch, khỏe mạnh. Anh cắt những bó tranh mà tôi không gánh nổi. Tôi học ở anh cách đánh tranh lợp nhà. Những lúc giải lao trên đường hành quân hay lúc đi dã ngoại, gùi đạn, tôi thường ngồi nghỉ bên anh. Hút chung điếu thuốc. Uống chung bi đông nước. Đùa cùng anh vài câu tếu táo cho đỡ mệt, đỡ căng thẳng.
Sống lặng lẽ. Chết cũng lặng lẽ. Song hình như trước khi chết, anh Biện đã linh cảm. Nhưng vẫn đi.
Anh đã gửi gắm vào tôi quá nhiều, quá lớn. Tôi không nhớ anh ở huyện nào? Thuộc Hà Tây? Sơn Tây? Hay Hòa Bình? Tôi vẫn chưa về thăm quê anh được. Bao giờ thu xếp được thời gian? Chắc mộ anh đã được chuyển về Đức Lập. Và bao giờ mới có dịp trở lại Tây Nguyên đây?
Mở trang nhật ký của Lê Minh Quốc: “Trần Thanh Biện H/S 25 - tháng 11-1980”. Ngày mai, trong khẩu phần của lính C7, quản lý Quốc lại phải đong bớt một xuất.



Ngày 19 tháng 6 năm 1999

Mùa hè năm 1997, gia đình tôi vào nghỉ mát ở Sầm Sơn, Thanh Hóa.
Đây là một vùng đất thiêng, nhiều di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh. Đất và người Thanh Hóa có những tính cách riêng, đã trở thành những bài vè dân gian hiện đại, được truyền khẩu sinh động. Song đối với riêng tôi, mỗi lần đi qua hay nhắc tới Thanh Hóa, tôi lại thấy Thanh Hóa gắn liền với tên tuổi anh Phạm Văn Khai, đại đội trưởng đại đội 6, trung đoàn 29, sư đoàn 307.
Anh Khai là người đầu tiên hy sinh ở chiến trường mà tôi được tận mắt chứng kiến.
Sáng hôm đó, 4-1-1979, anh Lê Quỳnh Lang và tôi được phân công đeo máy thông tin 2w cùng hành quân với đại đội 6, đơn vị chủ công, đánh vào sân bay Stung-treng. Buổi sáng chúng tôi hành quân không có gì ăn, đói meo. Khoảng 9 giờ thì được lệnh giải lao. Không được ăn gì, lại uống nhiều nước, bụng tôi cứ sôi ùng ục. Bỗng anh Khai lôi trong túi cóc ra bao cơm sấy khô. Anh bốc một nắm nhai rồi vẫy mọi người lại, dốc cho mỗi người một tý. Tôi là lính phối thuộc, cũng được anh vẫy tới, dốc cho vài hạt. Quá xúc động, tôi hái vội cái lá rừng đựng cơm. Đưa nhanh lên miệng, hớp không còn một hạt. Xong, đá tung cái lá lên trời. Mắt sáng, miệng cười, thấy đời cũng lên hương. Sau đó đến cơn thèm thuốc nhưng không ai có. Anh Khai móc đâu ra một cục nhỏ thuốc lào bằng đầu đũa. Không có điếu cày, hút kiểu lính chiến. Anh xé giấy, cuốn hình sâu kèn, nhét thuốc vào một đầu, ngậm này trong miệng rồi châm lửa hút. Anh hút ngon lành, nhổ nước, say mê nhả khói. Lính tráng đứng xung quanh, thèm rỏ rãi và nhao nhao xin sái. Anh Bùi Văn P. cũng chạy tới xin đầu tiên, nhưng cái sái đó anh Khai đã đưa người khác. Tức giận, anh P. Vừa bỏ đi vừa lẩm bẩm nguyền rủa:
- Nhớ đấy! Bố mày xin mà không cho. Chốc nữa chết đếch thằng nào khiên đâu!
(Anh P. người Mường, quê Hòa Bình, trước ở vận tải tiểu đoàn. Năm ngoái, trong một lần đánh thọc sâu vào vùng sau lưng địch, anh đã tự thương. Những đêm đó, trời tối mịt. Mỗi lần điểm danh, tiểu đoàn trưởng Võ Sỹ Lực phải đi ngược đoàn quân, sờ tay lên đầu đếm từng người. Quân ta đụng địch khắp nơi. Chúng bắn ra như mưa mà ta không dám bắn lại bởi mục đích của chuyến đi này là trinh sát phòng tuyến địch. Trời mưa dầm dề mà không có nước uống, không có cơm ăn, chỉ có gạo sấy và muối rang. Không ai được hỏi, không được nói chuyện. Tất cả chỉ nói bằng ám hiệu và ánh mắt. Một đêm, vào khoảng 4 giờ sáng, đến phiên gác của anh P., mọi người nghe một phát súng AK nổ. Anh P. Khai là súng bị cướp cò, nhưng nhìn bàn tay phải của anh mất ngón trỏ, ai cũng biết là anh tự thương.
Trong mọi hành động tiêu cực của lính tráng ở chiến trường, ông Lực ghét nhất là thói tự thương. Với những ai tự thương, ông ra lệnh cho quân y không được băng và bị ông đánh rất đau. Ông đánh cho đến lúc phải khai ra sự thật mới cho phép băng bó và khi vết thương lành, ông lại bắt phải trở về đơn vị cũ.
Anh P., vốn là lính 74, có nhiều kinh nghiệm để tự thương mà không bị phát hiện. Anh lấy khăn mặt ướt, đặt lên mu bàn tay phải rồi bóp cò để vết thương đỡ bị ám khói thuốc. Nhưng vết đạn phá quá gần khiến âm mưu của anh bị lộ.
Sau đó, anh P. bị khai trừ ra khỏi Đảng. Song, bản chất anh là người tốt, biết nhận khuyết điểm, một phút giao động, tiểu đoàn châm chước, điều anh về đại đội 6).
Nghe anh P. rủa anh Khai, tôi hơi sửng sốt. Không ngờ ở chiến trường họ lại rủa nhau phũ phàng đến thế! Với tôi anh Khai hay anh P., đều được quý trọng. Anh Khai đã tốt nghiệp trường sỹ quan lục quân Sơn Tây, chiến đấu dũng cảm, bị thương vừa ở viện về. Còn anh P. hay kể cho tôi nghe nhiều chuyện thú vị về rừng, về suối, và về quân ta lẫn quân địch. Khoảnh khắc đó, lời nguyền rủa ấy chỉ như cơn gió thoảng nhẹ qua tôi nếu so với bao câu văng tục của lính tráng ở chiến trường và nó cũng sẽ không còn đọng lại trong lòng tôi nếu sau đó ít phút, anh Khai không hy sinh!
Khoảng 11 giờ trưa, tiểu đoàn tôi tiếp cận và bao vây sân bay Stung-treng. Sân bay vắng lặng. Một sự im ắng căng thẳng đầy nguy hiểm bất ngờ. Bên phải, một mũi trinh sát trung đoàn tiến vào trước. Đi đầu là Châu, nhà ở khu tập thể Bách khoa, Hà Nội. Tôi biết Châu do ở trên trán nó có một vết bớt đỏ. Chợt từ trong sân bay, những loại đạn AK bắn ra, xuyên thủng trán Châu. Rồi đạn hai bên dội lên như mưa. Đạn chiu chíu qua đầu. Tôi mở máy thông tin và chạy theo đại đội trưởng Khai. Cành lá rơi rào rào, anh Khai cầm AK thúc giục anh em xung phong. Bỗng phía trước xuất hiện con suối chạy ngang. Anh Khai nhảy xuống. Tôi vội nhảy theo. Bỗng một quả lựu đạn nổ gần ngay trước mặt. Nước bắn tung lên. Anh Khai lùi lại và ngoặt sang hướng khác. Đang còn tức bụng vì sức ép của nước, tôi và anh Lang còn phải bám sát chỉ huy. Bỗng thấy anh Khai hô lên:
- Nó đây rồi! Bắt sống lấy nó!
Trong tiếng đạn nổ ầm ấm vẫn nghe rõ giọng anh Khai. Bờ suối thật rậm rạp. Mấy người vội lao lên. Bỗng thấy anh Khai trúng đạn, gục xuống. Cách chỗ anh Khai nằm mấy bước là hai cái bòng con màu đen, ướt đẫm, chắc của hai thằng lính Pôn Pốt bỏ lại bên gốc cây to. Anh Lang vội gọi điện về tiểu đoàn, báo tin đại đội trưởng Khai bị thương. Trận đánh vẫn tiếp tục. Cổ và gáy anh Khai ra rất nhiều máu. Chúng tôi không có băng. Trên người tôi có mỗi cuộn băng cá nhân, chẳng bõ bèn gì. Không thấy y tá hay vận tải đến. Anh Lang bảo tôi đặt tay lên mũi anh Khai xem còn thở không. Tôi bò lại gần. Anh Khai nằm như người ngủ nghiêng. Mặt trắng lấm đất, mắt nhắm. Tôi đưa ngón tay trỏ lên ngang mũi anh. Im lặng, nín thở theo dõi. Không thấy dấu hiệu gì. Sợ da tay mình dày không cảm nhận được hơi thở yếu ớt của anh, tôi đặt xuống lần nữa.
- Có còn thở không? - Anh Lang bình tĩnh hỏi.
- Em cũng không biết nữa - tôi trả lời.
- Lấy bông đặt lên xem.
Tôi mở túi bông băng làm theo. Mẩu bông băng nằm trước mũi anh Khai, không động đậy. Tôi cứ để nguyên mẩu bông như thế. Anh Lang điện về tiểu đoàn báo tin anh Khai hy sinh.
Khoảng 20 phút sau, trận đánh kết thúc. Mũi chúng tôi vượt suối vào sân bay. Quay lại chỗ anh Khai, lính vận tải tiểu đoàn đang tháo bao đạn của anh ra và đặt anh lên tấm võng đã trải rộng dưới đất. Chúng tôi mở hai cái bòng con chiến lợi phẩm. Mấy vắt cơm đã thiu, ướt nhoét. Hai chiếc võng ni lông màu đen. Một con dao găm Mỹ. Vì tôi và anh Lang có chung một ba lô nên anh Lang bảo tôi lấy cái võng. Tôi vừa cầm lên, cái võng nhẹ tênh, cuộn lại bằng nắm tay, có sợi dây dù màu vàng thẫm. Bỗng anh Lang bảo tôi:
- Thôi bỏ lại. Lấy chiến lợi phẩm xúi lắm!
Tôi vừa bỏ xuống thì may có anh lính đi qua, nhặt ngay.
Riêng con dao găm, anh Lang đeo bên sườn:
- Cái này có nhiều công dụng lắm đây!
Còn khẩu AK của anh Khai, anh Lang bảo tôi nên giữ lại vì hai lính thông tin chúng tôi đều không có súng trường. Có mỗi khẩu súng ngắn lại ít khi sử dụng. Riêng bao đạn AK của anh Khai thấm nhiều máu quá, tôi không dám đeo. Chỉ rút băng đạn, buộc vào dây lưng. Cái bao đạn đó, anh chàng tên Đi đeo vào.
Tối hôm đó, dưới gốc me già bên dòng Mê Kông, tôi ngồi trên võng đọc những dòng lý lịch trích ngang về anh Phạm Xuân Khai. Quê anh ở huyện miền núi Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Bố anh đã 76 tuổi. Mẹ anh cũng đã ngoài 70. Anh Khai có một người anh đã hy sinh từ thời chống Mỹ. Không biết tin con trai nữa hy sinh, ông bà có còn đủ sức chịu đựng không?
Suốt ngày hôm đó đến tận đêm khuya, cả đơn vị chúng tôi đều không có gì vào bụng. Buổi tối, bên dòng Mê Kông, nằm trên võng dưới tán me già, gậm nhấm lại mấy hạt cơm trắng tinh với hương vị thơm ngon mà anh Khai cho tôi buổi sáng. Say mê ngắm nhìn chiếc cầu vồng đỏ rực do pháo ta bắn sang bờ bên kia và pháo địch phản lại sang bờ sông bên này. Một cầu vồng lộng lẫy ngang trời đêm, một cầu vồng lung linh dưới đáy dòng sông đang cuộn xiết. Trong chiến tranh có những hình ảnh thật lãng mạn kinh hoàng và tột cùng khốc liệt.
Trong nhà nghỉ có một tấm bản đồ Thanh Hóa. Tôi tìm huyện Thiệu Sơn. Nhìn vào đó để biết rằng tôi không quên anh Khai. Gần 20 năm qua rồi, chắc cha mẹ anh Khai không ai còn sống nữa. Không biết xác anh có còn ở Đức Lập không? Cái chết của anh Khai thật ngắn gọn.
… Và sau đó tôi cũng không thể không đến anh P… Nhưng lời rủa của anh thì tôi vẫn thấy kinh hãi. Chắc bây giờ anh đã phục viên về Hòa Bình, tôi không nhớ về xã, huyện nào.


Thứ ba 27 tháng 3 năm 1999


Vợ chồng Đỗ Thúy Hằng đến nhà tôi chơi. Hằng là bạn cũ của vợ chồng tôi, chị đang công tác tại Bộ Tài chính. Khanh, chồng Hằng, là cảnh sát kinh tế huyện Từ Liêm. Trong câu chuyện, chúng tôi nhắc đến những người lớp 10B của Hằng ra trận, nào Đạt “rùa”, Khả Minh, Nhật Minh đã hy sinh. Công “bầu” bị cụt chân. Và Đinh Ngọc Long, tức Long “ghẻ” cũng không trở về. Trường hợp hy sinh của Long “ghẻ” thật đáng tiếc. Anh chết do quân ta bắn nhầm quân mình.
Trong một lần đi phục buổi tối, tiểu đội của Long chạm trán với một tiểu đội khác cùng đại đội 2 thuộc tiểu đoàn 7. Hai bên cứ tưởng nhau là địch. Cùng nổ súng. Khi có người hy sinh rồi, nghe tiếng kêu, mới nhận ra nhau. Hình như đã thành cái “dớp” trong lính, hễ quân ta “đụng nhầm” quân mình, thể nào cũng có người bị thương hoặc hy sinh.
Hằng kể một chuyện buồn cười. Một người bạn trong lớp cũ của Hằng, tên Q. Khi còn đi học, Q. chơi rất thân với Long “ghẻ”. Sau ra trường, làm nghề kinh doanh, Q. vào cầu trúng quả như điên. Q. đi xem bói, thầy phán Q. làm ăn phát đạt chính là nhờ một người bạn rất thân của Q. nay đã chết ở Căm-pu-chia phù hộ. Q. nghe mà phát hoảng. Vội tìm đến nhà Long “ghẻ” ở khu lắp ghép Trương Định, hỏi phần mộ của Long và sắm lễ đến tạ ơn.

Trích nhật ký của Nguyễn Minh Toàn, nguyên trung đội trưởng của Long. Ngày 2/11/1981 Long hy sinh, khi ấy Minh Toàn đang nằm viện Cầu Cháy.
Đinh Ngọc Long
Không ngờ mày là thằng bạn thứ ba tao phải viết vào đây. Tao tô đậm tên mày với dòng chữ trang trọng để rồi trong đời tao vĩnh viễn xa mày. Long ạ, quả đất vẫn xoay tròn nhưng tao với mày không còn gặp nhau được nữa. Cuộc đời thằng lính là như thế phải không Long? Tao biết mày là đứa còn nhiều mối hận. Nghe tin mày ngã xuống làm tao choáng váng một trăm lần. Không ngờ mày đã ôm trọn mối hận sang thế giới bên kia, xác mày nằm tại trận địa. Không có đứa bạn đồng hương nào được nghe mày trăn trối. Thôi nhé hãy vui lòng yên nghỉ. Những đứa bạn đồng hương của mày chỉ biết gọi tên mày, cất giữ tên mày trong kỷ niệm cuộc đời. Hứa với mày khi trở về tao sẽ đến thăm gia đình mày, mày hãy tin vào lời tao nói, dù ngày còn sống mày cũng chẳng ưa gì tao. Nhưng tao biết mày vẫn nể tao và giúp đỡ tao thầm kín, mày vẫn thường có những lời tâm sự để tao không thể quên mày. Về đến trung đoàn tao sẽ đến viếng mộ mày.
Thôi nhé, vĩnh biệt
5/11/81
Minh Toàn

Trong đầu tôi vẫn mãi không thể quên được hình ảnh Long ghẻ. Cái thằng học lớp 10B ngay bên cạnh lớp tôi. Cả trường Lý Tự Trọng năm đó có mỗi hai lớp 10 làm gì chẳng nhớ. Trong sân trường, trên sân bóng, trên đường đi về… lúc nào chả gặp. Trán rộng, mắt sâu, mặt bướng, mũi cao, tính nóng. Đinh Ngọc Long đấy. Tôi xuống khu lắp ghép Trương Định, tìm gặp Sơn kép, bạn cùng đơn vị với Long ghẻ, hỏi:
- Ông nhớ gì về Long ghẻ không?
- Tôi nhớ nhất là những ngày gần cuối, tự nhiên Long ghẻ phát tướng, to béo mập một cách kỳ lạ. Tôi nghi ngờ: “Quái lạ, thằng này ăn gì mà béo trắng ra như thế nhỉ? Mà ông biết đấy, đơn vị hồi đó ăn thiếu thốn lắm! Đùng một cái, mấy hôm sau nó chết. Cũng lạ thật, đơn vị mình có mấy thằng sau này tự nhiên cũng phát tướng, thế là đều hy sinh. Từ đó mình nghiệm ra rằng, cứ thằng nào phát tướng, chắc chắn sẽ hy sinh”.
Sơn nói trơn tru, như khẳng định. Tôi tin vào linh cảm và kinh nghiệm của Sơn. Trong lớp lính nhập ngũ cùng ngày, Sơn là người ra quân sau cùng khi đã leo đến cấp đại úy, phó trung đoàn trưởng trung đoàn tôi.


Thứ ba mùng 5 tháng 3 năm 1997


Từ Thành phố Hồ Chí Minh, Lê Minh Quốc gửi cho tôi cuốn tình khúc Trịnh Công Sơn khá dày và rất đẹp. Tôi mở ra, không thấy một bài hát mà bài hát ấy gắn liền với hình ảnh anh Bùi Văn Ngườn, người Mường, quê Hòa Bình.
Tháng 5 năm 82, trên đường từ Stung-treng về E29, tôi nghỉ lại ở một đơn vị thuộc trung đoàn 94, gần Đồi Đá. Buổi chiều, tôi ra suối tắm thì gặp một người đang kỳ chân bằng dép cao su. Tôi không nhận ra anh. Nhưng anh lại nhận ra tôi, tươi cười.
- A đồng hương, sao lại đến đây? Mới về đơn vị tớ đấy à?
Tôi chưa hết ngạc nhiên. Giọng anh giả vờ dỗi:
- Chóng quên thật! Không nhớ cái đêm ở Chchép à?
Tôi nhớ ra rồi:
- Anh Ngườn! Xin lỗi, em mệt quá, không nhận ra anh.
Cái đêm dừng chân ở Chchép ấy, năm 79. Đã 3 năm rồi. Cả một rừng quân, dầy đặc, bạt ngàn. Tôi thấy thật hùng vĩ, không hiểu thế nào, tiểu đoàn bộ chúng tôi nghỉ gần chỗ anh Ngườn.
Đêm khuya, khi cả rừng quân đã ngủ, bỗng cất lên giọng hát tha thiết, say sưa:
Người chiến sỹ trong giờ phút xuất chinh
Nhìn người yêu đưa tiễn mình…
Mờ trong đêm bên thềm đá xinh xinh
Lòng lưu luyến anh giã từ
Dưới bóng tối qua ngàn lớp sương mù
Nhìn quê hương anh thẫn thờ
Kìa cô gái đang còn thức trong đêm
Và một bên sông một ánh đèn.
Giọng hát thật âm vang, ấm và quyến rũ. Thấy lạ, tôi mò sang. Thì ra anh Ngườn đang ngả mình bên vệ đường, hát. Anh hát đi hát lại, âm nhạc thật đẹp. Lời ca thật trữ tình. Anh nói:
- Đây là bài hát Nga, tên là “Ánh lửa nhỏ”, mình học được từ hồi ở trường quân chính quân khu.
- Anh chép cho em với. Em rất thích.
Tôi về mở ba lô, lấy đèn pin, sổ tay sang nhờ anh Ngườn chép. Nét chữ anh nhỏ, rời rạc nhưng rõ ràng. Anh ký tên ở dưới hẳn hoi.
Sáng hôm sau, không kịp chia tay nhau. Không biết đơn vị anh Ngườn hành quân từ lúc nào. Mắt nhắm mắt mở, chúng tôi đã phải đi tiếp.
Thế mà đã ba năm trôi qua, không ngờ gặp lại ở đây.
Anh Ngườn bây giờ đã là trung đội trưởng. Buổi tối tôi nghỉ lại ở hầm anh. Có anh Thành chính trị viên người Nghệ Anh Ngườn sang chơi. Bên ấm trà, tôi kể chuyện về con gái Hà Nội. Anh Thành kể chuyện “nhất thủ, nhì vỹ, thứ ba là đĩ Plây-ku”. Anh Thành hồ hởi:
- Này Ngườn, mày đã chơi đàn bà chửa bao giờ chưa? Nghe người ta bảo chơi đàn bà chửa sướng gấp ba gái thường.
- Rồi. - Anh Ngườn khẽ nói.
- Bao giờ?
- Hồi em đi dân công trên huyện. Có một chị bụng chửa. buổi tối, chị ấy cứ kéo vào ngủ cùng.
- Này, coi chừng trúng phong đấy! Lỗ đít mày có lông không?
- Không.
Chuyện nọ xọ chuyện kia, đêm xuống lúc nào không biết.
Lán hầm của trung đội anh Ngườn nằm trên sườn đồi. Có cả võng và sạp. Nằm võng, nửa đêm, hơi đất bốc lên, rất lạnh lưng. Nhưng có cái khoái là sáng dậy, làm vài động tác thể dục, xương cốt kêu răng rắc. Đã vô cùng.
Sáng sớm tôi tỉnh dậy, chợt nghe tiếng hát trên đỉnh đồi. Nghiêng người, ló đầu nhìn. Anh Ngườn đang đứng giữa đỉnh đồi, say sưa hát. Anh mặc chiếc áo bạc màu, rất hợp với nước da trắng hồng dân tộc Mường, chiếc quần sỹ quan màu xanh thẫm tươi, thắt lưng màu mận chín. Hai tay chống sườn, mắt nhìn bầu trời xanh non lúc giao mùa, hát như chim giữa thiên nhiên. Rừng khộp đang bắt đầu xanh thắm lá non. Cỏ trên đồi còn ướt đẫm sương. Anh cứ hát như chỉ có một mình anh trên đời. Lúc nhìn sang đông, khi quay về hướng nam, rồi nhìn về hướng tây, rồi quay về phương bắc. Và lúc nào mặt cũng ngẩng cao nhìn trời. Tôi cũng say mê ngắm nhìn anh Ngườn. Giọng anh thật ấm, thật thiết tha, thật khao khát:


Hòa bình ơi!
Chờ trông nhau như con chờ mẹ
Chờ trông nhau như lúa mùa hè
Chờ trông nhau nắng đẹp tình quê.

Hòa bình ơi! Ơi hòa bình ơi!
Bao nhiêu năm trời khổ đau nhiều rồi
Về đây hỡi người ơi!

Có lẽ đấy là lần tôi được nghe hát hay nhất trong đời. Trước đó, năm 79, khi ở phum Kầm-prạ, một buổi chiều đi gánh nước, bất ngờ tôi được nghe giọng một em gái nhỏ người Khờ-me đang cất cao tiếng hát sau rằng cây bên suối. Tiếng hát lảnh lót theo giai điệu một bài dân ca, dù không hiểu lời, sao cứ ngân âm vang mãi trong tâm hồn tôi? Thấy tôi bất ngờ xuất hiện, em nhìn đầy nghi ngờ, ngừng hát, cúi mặt đi. Và bây giờ, một buổi sáng đầu mùa mưa, giữa chiến trường, bên cái chết rình rập từng khoảnh khắc, tôi có một buổi sáng thật cao đẹp, thật hạnh phúc.
Buổi sáng hôm sau, tôi nhờ anh Ngườn chép cho tôi bài hát mà đêm qua anh hát rất hay. “Tôi nhớ hồi một chiều/ Dừng chân ghé qua/ Thăm miền ước mơ/ Hà Tiên mến yêu/ Đẹp như xứ thơ/ Xa cách tôi còn nhớ/ Nước non mây trời/ Thắm màu biển khơi/…” Cuối bài hát, anh phóng bút: “Chiến trường K. Vĩnh biệt em. Bùi Văn Ngườn”.
Tôi muốn hỏi anh tại sao lại đề hai chữ “Vĩnh biệt” nhưng lúc ấy, anh viết trong tâm trạng rất xúc động, tôi không dám hỏi.
Bài hát ấy, cho đến giờ, tôi không nghe ai hát lại. Tôi cũng không thuộc hết bài, chỉ nhớ mấy câu đầu đôi lúc ngâm nga, nhớ về một miền đất mà mình chưa bao giờ được đến. Ở góc trái, anh Ngườn còn ghi cho tôi địa chỉ quê anh. Nhưng cuốn sổ tay đó, ngày tôi đi Nga, để ở nhà, trên gác xép, đã thất lạc đâu đó. Song tôi vẫn nhớ những dòng chữ mực xanh, nhỏ li ti như kiến bò của anh Ngườn.
Lúc thấy tôi sắp xếp ba lô, chuẩn bị ra đi, bỗng anh Ngườn tròn mắt hỏi tôi:
- Có nhớ tên bà cô Tổ không?
Tôi mỉm cười lắc đầu.
- Lúc nào nó bắn rát quá, cứ bà cô Tổ mà gọi. Không nhớ tên cũng được. Nhưng nhớ gọi.
Ngừng một lát, anh nói tiếp:
- Hai vai cậu, tớ thấy có hai người. Một người nam, một người nữ. Lúc nào cũng che chở cho cậu.
Dù không tin tôi vẫn lạnh cả người. Một mình tôi đi từ Hà Nội sang Cam-pu-chia, qua Gia Lai, Môn-đôn-ki-ri, Rát-ta-raki-ri, Stung-treng, Prếch Vihia. Sắp về đến đơn vị rồi, chả nhẽ lại chết dọc đường?
Khi chia tay, anh Ngườn dặn tôi đi phải hết sức cẩn thận. Vì trước đó mấy ngày, trên đoạn đường này, anh đã tháo được gần 200 quả mìn lá của địch. Và tôi đi được một quãng thì gặp cái hố mìn tăng đã giết chết Hạm và Điệp của tôi.
Mấy tháng sau, khi tôi lên sư đoàn để chụp ảnh làm thẻ Đảng, gặp Kiên ở trung đoàn 94, người cùng tôi đi tập huấn điều lệnh sỹ quan ở Nha Trang. Khi tôi hỏi về anh Ngườn, Kiên trố mắt:
- Ông Ngườn chết rồi. Mẹ, đang hát, bị bọn nó bắn thủng họng, vỡ quai hàm.
Lòng tôi như bờ biển đang có đợt sóng lùi. Hai bàn tay tê lại. Chắc lúc ấy anh Ngườn đang hát “Hòa bình ơi!”
Và sau này, mỗi khi bài hát ấy chợt đến, tôi lại thấy nó như một chuỗi cườm bị đứt, đỏ tươi, thấm máu ròng ròng. Và những lời anh Ngườn nói với tôi, sao tôi nhớ mãi.


Ngày 21 tháng 8 năm 1998


Hàng năm, cứ đến 21 tháng 8, chúng tôi lại tổ chức gặp mặt để kỷ niệm ngày nhập ngũ.
Năm nay, mùa thư năm 1998, buổi gặp mặt có phần trọng thể hơn, bởi chúng tôi kỷ niệm 20 năm ngày nhập ngũ.
Trong ngày đó, các chiến hữu từ Hải Phòng, Hòa Bình, Hà Tây… cũng đến dự.
Khỏi phải nói vui ra sao. Sau buổi liên hoan, chúng tôi trích quỹ thăm gia đình những đồng đội ở Hà Nội đã nằm lại chiến trường.
Cuộc viếng thăm gia đình Tân “cu lừng” để lại trong lòng tôi những xúc động khó quên.
Nhà Tân nằm ở khu vực chợ Giời. Gọi là nhà nhưng mái vẫn lợp lá gồi. Nhà chỉ kê đủ cái giường con, cái tủ và một khoảng đất rộng chừng hơn ba mét vuông. Hai người đứng cũng chạm nhau.
Lúc đó khoảng 3 giờ chiều. Nghe có khách đến, mẹ Tân cùng bố Tân đang bán bún ốc ở chợ vội chạy về. Bà khóc khóc mếu mếu mời chúng tôi vào nhà. Tôi sững sờ trước căn nhà quá nhỏ. Anh Thơm, người Hải Phòng, chững chạc nhất hội, trao gói quà nhỏ cho mẹ Tân.
Trong nhà không thấy bàn thờ Tân, chúng tôi hỏi, ý muốn thắp cho linh hồn Tân nén nhang. Bà nói không có. Ừ, nóc tủ sát mái nhà thế kia, đặt bàn thờ ở đâu! Song, bà bắc ghế, lấy trên nóc tủ xuống một tấm ảnh chân dung Tân.
Tấm ảnh đã quá cũ. Nước ảnh bong gần hết, lại bị mốc. Dù sao chúng tôi vẫn nhận ra hình ảnh quen thuộc của Tân, cái thời mới vào lính. Quân hàm không sao không gạch.
Bà nhờ chúng tôi làm lại ảnh cho Tân. Biết tôi làm báo chí, bạn bè cử ngay tôi đứng ra nhận. Tất nhiên tôi vui lòng.
Mang ảnh Tân đến hiệu Photocen ở 47 Lý Thường Kiệt, nơi tôi có anh Tiến, bạn học báo chí chuyên nghề ảnh ở Nga về, nhờ chụp lại. Nhìn tấm ảnh quá cũ, anh Tiến lắc đầu, không thể phục hồi được.
Tôi quyết định đến hiệu truyền thần. Trên những phố Hà Nội thường qua lại, tôi biết có hai hiệu truyền thần. Một hiệu ở phố Huế. Hiệu kia ở Hàng Ngang – Hàng Đào. Tôi mang ảnh Tân đến hiệu thứ hai. Chị họa sỹ nhận và hẹn 20 ngày sau quay lại. Tôi đặt làm luôn cả khung và kính.
Tạm yên lòng. Song hình ảnh ngôi nhà của Tân cứ ám ảnh. Hỏi bạn bè, mới biết, hai thằng em Tân nghiện hút. Ông bà già phải bán dần bán mòn căn nhà, chỉ để lại một chỗ để ngủ.
Không biết, nếu còn sống trở về, Tân có để gia đình mình rơi vào hoàn cảnh thế không?
Tôi nhớ Tân. Trận đánh An-lung-viêng lần thứ nhất. Cái chết của Tân mới lẫm liệt làm sao!
Chúng tôi chiếm An-lung-viêng. Bọn địch bỏ chạy. Chuẩn bị nấu cơm trưa thì bọn địch tổ chức phản công. Chúng bao vây, C5, C7, C6, tiểu đoàn bộ… hướng nào cũng có địch.
Tân ở C5. Trước mặt là cánh đồng trống trải. Bọn địch từ hướng đó, nấp sau các ụ mới và cây thốt nốt, bắn vào.
Dưới sự chỉ huy của đại đội trưởng Hà Huy Lan, Tân ôm RBĐ xông lên. Và nó nằm sấp, đặt súng giữa đồng, quét về phía địch. Thật là một hình ảnh phi thường.
Bỗng Tân trúng đạn. Đạn cày nát lưng. Người nó giật lên. Khẩu RBĐ vẫn nhả đạn. Rồi người Tân rung lên lần nữa. Đầu nó gục xuống.
Anh em bò ra lôi xác Tân vào. Tân vẫn sống. Vết thương trên lưng khá lớn, không đủ băng.
Không biết tự bao giờ hàng đàn ruồi nhặng đã bu đen lại. Chúng hút máu và đẻ trứng xuống vết thương.
Bị ngứa khó chịu, Tân quát tháo ầm ỹ. Trinh sát Nuyễn Trần Hải vừa an ủi vừa cúi bốc từng vốc trứng ruồi vứt đi.
An-lung-viêng đúng là xứ sở của ruồi. Đuổi thế nào chúng cũng không đi. Hải phải lấy chiếc áo đông xuân ra, ập lên vết thương của Tân. Vừa băng lại, vừa đuổi ruồi.
Anh em khiêng Tân về phẫu tiểu đoàn ở vườn xoài. Nằm trên võng, Tân còn rên rỉ:
- Thôi, thế là ông bà già tao được chiếc thẻ chen ngang rồi.
Tân nghĩ tới cái thẻ liệt sĩ, khi mua hàng không phải xếp hàng.
Đến đêm, Tân quá đau đớn. Nó cứ kêu:
- Ới đại đội trưởng ơi! Cứu em với!
Anh Lan chạy đến. Nắm tay Tân. Quá quen với những cảnh như thế, anh Lan động viên Tân.
Nửa đêm Tân đi.
Đó là một ngày cuối tháng hai năm 1979.
Tôi nhớ Tân. Trước, tôi và Tân cùng ở trong đội thông tin. Tân ở tiểu đội hữu tuyến. Nhớ những ngày ở biên giới Việt Nam - Cam-pu-chia, Tân đi dải dây dưới rừng lồ ô, không mặc áo lính. Quần bộ đội, áo phông đỏ rực, đầu cạo nhẵn thín, trắng hếu, không mũ mão. Cái bóng hình bướng bỉnh ấy cứ thấp thoáng giữa mầu xanh mênh mông, trùng điệp.
Rồi một đêm bên sông Mê Kông, Tân làm cả tiểu đoàn thức giấc. Đứng gác, nghe tiếng loạt xoạt trong khu vườn trước mặt, Tân lia một phát, cả loạt băng AK bay ra khỏi nòng. Chẳng có thằng địch nào, chỉ có mỗi con trâu đi lạc. Bọ Lực tiểu đoàn trưởng, đang ngon giấc, chửi ầm lên.
Và Tân về C5. Cá tính của nó hợp với đại đội trưởng Hà Huy Lan. Sau khi Tân chết, anh Lan tâm sự với tôi, rằng anh đang có ý định bồi dưỡng Tân thành tiểu đội trưởng. Bởi qua vài trận chiến đấu, Tân đánh rất lỳ.
Tôi nhớ Tân. Cái thằng, thời ở Hòa Bình, xuyên tạc rất bậy lời bài hát “Con kênh ta đào” của Phạm Tuyên. Lạ thay, những lời bậy bạ ấy, thỉnh thoảng tôi vẫn hay ngâm nga một mình. Và buồn cười một mình “Mới đến sân trường ta đã mến yêu nhau. Anh cứ bảo em mặc quần trễ rốn. Mục tiêu số 4. Dới rốn 10 phân. Bắn!”
Tôi nhớ Tân. Cái thằng cùng Khánh xếch, khi mới vào chiến trường, đã cạo hết tóc tai lẫn lông mi, lông mọi, lông… dái, để phản đối những lời nói dối của trung đoàn trưởng E582.
Có gì đâu. Trước khi hành quân vào Nam, trung đoàn trưởng E582 nói răng, chúng tôi vào Nam để bảo vệ cảng Sài Gòn, bổ sung vào sư đoàn 307. Chính trị viên tiểu đoàn Nguyễn Văn Khang, người còn bộ khung xương, môi thâm xì vì sốt rét, hai mắt trắng dã, đầu cũng cạo trọc tếu (ông bị thương ở đầu, mới đi viện về, đầu phải cạo trọc để điều trị vết thương), giải thích rằng đơn vị huấn luyện phải nói thế để đảm bảo bí mật trên đường hành quân, tránh bị CIA theo dõi. Lời giải thích khá đơn giản ấy cũng được bọn Tân tin và phấn khởi lao vào cuộc chiến đấu mới.
Tôi nhớ Tân. Cái thằng lúc nào cũng thèm thuốc. Song khi có thuốc, Tân luôn chia cho mọi người. Trong tiểu đội thông tin hữu tuyến, có anh chàng Nguyễn Văn L. Anh này không bao giờ xin thuốc ai và cũng không bao giờ cho ai điếu thuốc nào. Anh ta bao giờ cũng có câu cửa miệng khi mọi người xin: “Còn điếu vét túi”. Có lần trước bữa ăn, Tân xin, L. cũng trả lời như vậy. Nhưng sau bữa ăn, quãng 1-2 giờ chiều, Tân thấy L. đang ngồi trong nhà vệ sinh và đang âm thầm rít thuốc một mình. Tức quá, Tân luồn ra phía sau, bật lửa đốt nhà vệ sinh, L. đang ỉa, được một trận chạy tháo thân.
Tôi nhớ Tân…
Bây giờ Tân đã chết rồi.
Tôi nhớ Tân… và đến giờ, tôi vẫn không hiểu vì sao Tân lại có biệt danh là Tân “cu lừng”?
Những ngày vừa vượt qua sông Mê Kông, một buổi trưa, chúng tôi đang ăn cơm độn ngô bên suối. Mấy cô gái Khơ-me đi kín nước ngang qua. Một cô cười hiền lành hỏi: “Bộ đội Việt Nam ăn cơm với gì?” Cả bọn chưa kịp trả lời. Ai cũng xấu hổ vì quân đội tình nguyện mà ăn cơm độn ngô thì yếu lính quá! Bỗng có tiếng trả lời rất to: “Ăn cơm với trứng!” Chúng tôi cùng cười quay lại. Người nói câu thông minh vừa rồi là Tân.
Sau khi Tân chết ít ngày, tôi về C5 phối thuộc. Nhắc đến Tân, đại đội trưởng Hà Huy Lan trầm ngâm: “Cái thằng lạ thật. Hôm trước, trên đường hành quân đến An-lung-viêng, mình thấy nó lúc nào cũng lơ ngơ như bò đội nón. Mặt cứ đần thối ra. Mình đã định cho nó về tuyến sau nhưng không hiểu sao, không kịp ra lệnh. Kinh nghiệm cho thấy, cứ thằng nào đang tinh ranh, bỗng trở nên lừ đừ, khi ra trận thế nào cũng chết!”


Ngày 17 tháng 11 năm 2001


Trích nhật ký của Nguyễn Văn Tuấn, trinh sát D8, hiện là công nhân nhà máy giấy Thượng Đình - Hà Nội.

Chúng tôi được lệnh đi tuần đường (từ C6 đến tiểu đoàn bộ). Đoạn đường dài 15 km, nhưng vô cùng nguy hiểm. Cạm bẫy lúc nào cũng chờ sẵn, nhất là khu vực đồi Tròn, án ngữ ngay đường về của C6, cách đơn vị 2km. Nó là nỗi kinh hoàng của chúng tôi. Nó như chiếc bát úp khổng lồ chứa đựng số phận đỏ đen của từng chiến sĩ qua đây.
Buổi sáng chúng tôi tập trung trước ban chỉ huy để nghe đại đội nhắc nhở trước lúc lên đường làm nhiệm vụ. Ai ai cũng tất bật chuẩn bị cho chuyến đi. Người thì mang bình mật ong, người thì mang bộ gạc nai rừng, có người còn vác cả bộ giát giường về tiểu đoàn để tặng bạn và đổi thuốc rê. Riêng chỉ có Hưng, hai tay chống cằm ngồi thu lu trên đống cây kè hầm suy tư. Bộ quân phục mới tinh làm cho nó nổi bật nhất toán quân. Tôi và Dương nói đùa với nó:
- Sao hôm nay diện thế. Định về Chom sờ ra lấy vợ à!
Hưng xua tay:
- Im! Để tao nghe đài.
Đại đội có chiếc đài bán dẫn hôm nay đưa tin Phạm Tuân được bay vào vũ trụ. Nó nghe một cách rất thờ ơ rồi thọc tay vào túi lấy ra một bịch thuốc rê vấn một điếu to bằng ngón chân cái, rít từng hơi dài, rít lấy rít để như không bao giờ được hút nữa ấy.
Chúng tôi ra đi, sau lưng là tiếng nhạc hùng tráng được phát ra từ chiếc đài bán dẫn. Đó là bản nhạc định mệnh của Bết-thô-ven thường được phát vào những dịp trọng đại.
Tôi đi trước, Hưng đi sau, tiếp là Dương và cả đoàn quân.
Đoạn đường cứ hun hút. Tôi rõi theo từng kẽ lá gốc cây để tìm mìn.
Nhìn xa vào tận rừng xanh đề phòng địch phục kích. Cả chân, tay, mắt đều phải hoạt động hết công suất. Thần kinh căng lên như dây đàn. Chỉ cần một sơ suất nhỏ là sẽ bị thương vong. Đồi Tròn nằm lù lù trước mắt tôi như con quái vật. Nó chứa đựng biết bao nhiêu loại mìn. Mìn ở đây dăng kín như mạng nhện, mìn đè nổ nằm kín dưới đất. Mìn vướng, dây giăng ngang ống đồng, treo ngang tầm mắt. Ở đây giờ nào cũng nghe thấy tiếng nổ. Nai, báo, công, quạ không thoát khỏi dây mìn KP2. Bao nhiêu chiến sĩ đã hi sinh tại nơi đây: Trưng, Trung, Hùng, Thành lùn…
Đến đoạn cây khộp đổ, tôi nhắc Hưng và Dương đi thật cẩn thận. Vì chỗ này là chỗ địch gài mìn và chính chúng đã bị vướng mìn khi đang gài mìn. Chúng tôi im lặng đi trong cái nắng chói chang. Chỉ nghe thấy tiếng ve kêu o o bên tai. Tôi vòng qua gốc cây khộp đổ, đứng lại định hướng địa bàn thì đột nhiên một ánh chớp vàng chói, một luồng hơi phụt vào người tôi tê tái cùng tiếng:
- Ầm!
Tôi nhào xuống ôm ngang gốc khộp, xả đạn vào hướng rừng xanh trước mặt (mặc dù tôi chả thấy gì).
Sờ quanh người xem có bị thương không. Quay lại, tôi nghe thấy tiếng rên mỗi lúc một to hơn. Đúng Hưng rồi! Tôi trườn dần đến chỗ Hưng. Một đoạn ngắn mà tôi cảm thấy sợ. Trong đầu tôi tưởng tượng như có hàng ngàn ngòi mìn đang tua tủa chĩa từ lòng đất ra chờ chực tôi đến. Phía dưới hàng quân có tiếng của anh Quang đại đội phó vang lên:
- Tuấn ơi!
- Thằng Tuấn trinh sát bị mìn rồi!
Tôi trườn đến chỗ Hưng. Dương cũng vừa đến. Lúc này Hưng kêu lên thảm thiết:
- Tuấn ơi! Tôi mất chân rồi!
Hai tay ôm chặt ống quần đẫm máu, Hưng ngửa cổ lên trời kêu lên:
- Các anh ơi! Em chết mất. Các anh cứu em với. Sao lại là em cơ chứ! Trời ơi!
Vừa lúc đó Đước y tá cũng vừa tới. Anh lật quần lên. Một hố đen sâu hoắm gọt sâu vào ống đồng lồi ra những răm xương tua tủa. Ào ra trong hố đen đấy là máu. Anh ga rô xong, an ủi nó:
- Thôi xong rồi. Cố chịu đựng nhé!
Chúng tôi chặt cây làm cáng, cắt rừng lao nhanh về hướng tiểu đoàn. Đi được nửa đường thì Hưng trút hơi thở cuối cùng.


Thứ ba 17 tháng 4 năm 2001


Qua chỗ anh Đặng Vương Hưng, phó tổng biên tập tờ An ninh Thế giới. Anh Hưng cho biết, một Tổ chức phi chính phủ nước ngoài muốn qua báo anh, tặng một số xe lăn cho người tàn tật. Nhớ ngay đến Trần Nam Tiến, đồng đội cũ, có đứa con bị liệt chân, tôi xin anh Hưng đăng ký cho một chiếc. Buổi trưa đến ngay nhà Tiến ở đường bê tông Thanh Xuân Bắc, giục làm giấy tờ.
Chuyện trò lan man, lại quay về đời lính. Dạo đó, Tiến cao to, khỏe mạnh, lần hành quân nào tôi cũng thấy Tiến, lưng đeo ba lô trĩu nặng, vai vác nòng cối 82 to tướng, xuống suối, lên đèo, luồn qua rừng rậm, lầm lũi, cắn răng đi, không một lời phàn nàn. Nòng cối ấy tôi đã thử vác, đi khoảng vài trăm mét chắc đứt hơi.
- Tiến có nhớ thằng Nguyễn Thu chết thế nào không nhỉ?
- Nó ở trung đội DKZ của ông gì nhỉ?
- Hà Văn Cạc, người Quảng Nam.
- Đúng rồi, nó chết cũng kỳ lạ lắm. Đêm trước hôm lên C6, ngồi uống nước với anh em, nó chỉ nói: “Các đồng hương biết đại tá Nguyễn Văn Thọ ghi trong nhật ký câu nào hay nhất không? Đời chỉ đẹp khi ánh mìn lóe chớp / Đời mất vui khi đậy nắp quan tài” Mình bảo: “Nguyễn Văn Thọ ra cái đếch gì. Hàng binh ấy mà”. Nhưng sáng hôm sau, khi cùng trung đội DKZ lên tăng cường cho C6, thằng Thu vấp mìn thật. Đúng là điềm gở.
- Có. Mình nhớ. Mình liệm và chôn thằng Thu. Người Nghĩa Bình. Tóc nó dầy, xanh mượt. Gương mặt và giọng nói khảng khái lắm. Cái hôm nó bị sốt rét nằm ở phẫu tiểu đoàn, mình xuống chơi, nó cùng hai thằng nữa nằm trong hầm, khúc khích đọc cho nhau nghe câu chuyện “Mối tình đầu đời” không biết của đứa nào. Thấy người vào, bọn nó dừng lại. Nhưng khi nhìn ra mình, thằng Thu lại đọc tiếp. Lâm ly lắm. Mình nhớ đúng là cuốn vở học trò, bìa màu vàng, mép cong. Đến giờ mình vẫn nhớ nụ cười của nó. Thật đôn hậu, thật hiền. Mà nó chết, người sạch sẽ lắm!
- Thì nó bị mảnh mìn cắm đúng vào cổ, bên phải chỗ này này. Mỗi vết, nhưng mà hiểm. Máu ra không cầm được.
Tôi nhớ hôm liệm Thu, hết quan tài, phải chờ đến chiều tổ đóng quan tài mới tìm được gỗ.


 

Thứ tư ngày 25 tháng 4 năm 2001


Từ Thành phố Hồ Chí Minh, Lê Minh Quốc gửi cho tôi một đoạn nhật ký. Những trang photocopy ghi tên những người đơn vị Quốc đã hy sinh trong mùa mưa dữ dội năm 80.
“Huỳnh Lộc 15-6-1980, Đỗ Nhờ 16-7-1980, Nguyễn Tiếp 21-7-1980, Nguyễn Luân 13-8-1980, Lý Văn Nga 18-8-1980, Mai Công Ngói 15-6-1980, Lê Văn Lâm 21-6-1980, Phạm Hữu Phước 17-6-1980, Trần Thanh Biện 25-11-1980, Lưu Thanh Sơn 25-11-1980, Hoàng An 28-12-1980, Huỳnh Hoan 13-12-1980, Trần Lợi 13-12-1980…”
Tôi hình dung lại những gương mặt thân yêu không bao giờ gặp nữa. Huỳnh Lộc mặt tròn, hồng hào, tóc đen nhánh. Đỗ Nhờ nhanh nhẹn, mặt sáng, răng bàn cuốc, ăn to nói lớn, nóng tinh. Nguyễn Tiếp người đen, cằm nhọn, mắt sáng, chẳng bao giờ to tiếng với ai, rủ rỉ rù rì. Nguyễn Luân bồng bột, tính bướng. Ôi Lý Văn Nga! Từ liên lạc tiểu đoàn xuống C7 làm lính bộ binh. Mặt mũi sáng sủa, đẹp trai, mắt tinh, giọng nói tiếng cười giòn tan, trung thực. Mà buổi sáng ấy Nga vấp mìn và chết một cách hết sức vô tình. Và Nga ra đi đau đớn, nhẹ nhàng. Huỳnh Đức Thuận cùng hầm tôi đã khóc, đã nức nở ra đón xác Lý Văn Nga khi anh em khiêng về tiểu đoàn. Mai Công Ngói đầu tròn, mặt tròn, hiền khô. Trần Thanh Biện tôi đã kể. Lưu Thanh Sơn sẽ phải kể dài sau. Và Huỳnh Hoan nhẽ ra không chết. Hoan bị thương nhẹ, đơn vị đã cử người đưa về viện sư đoàn. Nhưng Hoan chưa muốn đi, chờ giấy gọi về trường văn hóa quân khu, ôm mộng học tiếp. Và Hoan vẫn cùng anh em đi tuần, không may vấp mìn, tử trận. Trần Lợi nữa, lính mới nhập ngũ đầu 80, cuối 80 đã chết. Phạm Hữu Phước cũng vậy, chết chưa tròn 20…
Đấy mới là danh sách năm 80 của C7, còn sau này nữa? Tôi cứ băn khoăn nhớ một người đơn vị Quốc. Tôi đã chôn. Hình như anh ấy quê Thuận Hải. Bởi hôm sau, tôi sang C7 lấy ba lô của anh về làm biên bản kiểm nghiệm di vật tử sĩ. Lính tráng chết nhiều. Anh Thuận chính trị viên chẳng buồn tiếp, bảo tôi cứ về hầm anh Tân mà lấy ba lô. Tôi lom khom cúi vào. Hầm ẩm mốc. Có ba cái sạp, hai người nằm hai bên chắc đã đi tuần, đi phục. Tôi lấy cái ba lô ở giữa, theo lời anh Thuận dặn. Mang về tiểu đoàn, mở ra, tôi bần thần thấy có mấy lá bùa, viết kiểu chữ nho, hình người dài ngoẵng. Kèm theo lá bùa là lá thư của người cha dặn con, mỗi ngày, trước khi đi ngủ, đọc câu gì mấy lần. Tôi không biết anh ấy có làm theo lời cha dặn không? Tôi đưa cho chính trị viên phó tiểu đoàn Nguyễn Văn Vẳng xem. Ông lừ mắt, phẩy tay: “Vứt đi”. Tôi mang xuống nhà anh nuôi vứt vào bếp, đốt.
Tôi nhớ hôm sang lấy xác anh này. Trời mưa lâm thâm. Rừng ẩm ướt. Tối om. Không có đèn pin. Hai trinh sát dẫn tôi đi. Chẳng biết họ đến hầm Ban chỉ huy đại đội lúc nào. Cách vài mét, tôi nhận ra ánh đèn le lói trong hầm. Chợt thấy một người đứng lù lù bên gốc cây, tôi định vỗ vai hỏi. Vừa chạm vào, tôi thấy tay mình chạm phải vật gì cứng đờ, lạnh toát, ướt át. Vớ phải cây cọc, tôi lắc lắc. Cái bọc cũng rung theo. Tôi cũng lạnh toát người. Thì ra đó là xác một chiến sỹ vừa tử trận. Anh em khiêng về, chưa kịp tháo ra, cứ để nguyên cả võng và cáng dựng vào thân cây.
Đêm trước, tôi nằm mơ thấy trong lòng đất An-lung-viêng có một khu hầm mộ. Những cái tiểu được xếp từng lớp, từng lớp. Một anh bộ đội giao những cái tiểu đó cho tôi. Nhận tiểu, tôi lại chuyển cho người khác. Đến một cái tiểu, tôi thấy ướt nhoèn. Tỉnh dậy, thì ra nước trong hầm đã ngập đến ngang võng.
Nhưng sao tôi cứ liên tưởng đến cái tiểu ướt đêm qua với anh lính này?
Sau 20 năm tôi vẫn băn khoăn. Anh ấy là ai? Có đúng quê Thuận Hải không? Có lẽ ngày đó anh em hy sinh nhiều quá. Hầu như ngày nào tôi cũng phải chôn người, nên có một số người tôi không nhớ được họ tên, quê quán. Nhưng riêng lá bùa, tôi mãi không quên.
Rồi sau này, Tô Văn Phán, trinh sát tiểu đoàn, lính 80, chết, trên cổ và trong ví cũng có bùa. Lần này thì tôi lẳng lặng chôn theo cùng em, không nói cho ông Vẳng biết nữa.
Dạo đầu năm 79, tôi đi phối thuộc với C7. Đến giải phóng một phum, các cụ già râu tóc bạc phơ quỳ xuống lạy chúng tôi đã cứu thoát họ. Dân trong phum dẫn chúng tôi ra xem một cái hố to, nói rằng lính Pôn Pốt ra lệnh đào cái hố này để chôn họ. May chúng tôi đến kịp. Vợ chồng một ông bà già trong phum rất quý anh Trần Thanh Chương, chính trị viên C7 và tôi. Họ đã làm bùa cho anh Chương, nói rằng đeo bùa này trong người thì sẽ không bị trúng đạn. Họ bảo lính Pôn Pốt cũng đeo bùa nhiều lắm. Ông bà già đó, mà tôi thường gọi là “âu” “me” (bố mẹ) cũng gợi ý tặng tôi một lá bùa. Nhưng tôi cảm thấy nó ghê ghê thế nào ấy khi mang trong người, nên tôi không nhận. Lúc nào cũng cảm thấy vướng víu trong ý nghĩ thì chiến đấu làm sao được. Ở phum đó độ mươi ngày, chúng tôi lại hành quân. Trước lúc ra đi, anh Chương lại nhắc rằng ông bà ấy vẫn chờ tôi ra lấy bùa, thực tình tôi không thích. Có hai loại bùa, đeo ở cổ tay hoặc giấu trong túi ngực. Anh Chương lấy loại thứ hai. Tôi thấy anh nói nhiều về nó, chắc anh tin ông bà già đó lắm và cũng rất tin vào sự hiệu nghiệm của lá bùa. Song không ngờ sau này chính anh Chương cũng hy sinh. Anh bị lũ cuốn khi bơi qua suối phum Giềng.



Ngày 22 tháng 11 năm 1999

Một ngày cuối năm năm 1999, Trịnh Quốc Tài, nhà ở ngõ số 375 phố Bạch Mai đến nhà tôi.
- Tuấn, trưa nay mày có nghe mục “Nhắn tìm đồng đội” không?
- Không. Mãi hơn 12 giờ tao mới về đến nhà. Có chuyện gì thế?
- Gia đình Nhật Minh nhắn tin trên đó. Mày có biết nhà Nhật Minh không? Hôm nào tao với mày đến. Tao vừa về qua thăm trung đoàn cũ của mình đang đóng ở Quảng Ngãi. Có thể cung cấp cho gia đình nó ít thông tin…
Cả tôi và Tài đều chơi thân với Nguyễn Xuân Nhật Minh. Tuy Minh ở tiểu đoàn 7, chúng tôi ở tiểu đoàn 8, mỗi tiểu đoàn đóng cách xa nhau khi thì hàng chục, khi thì hàng trăm cây số, nhưng thỉnh thoảng chúng tôi vẫn gặp nhau. Nhật Minh hy sinh khi đang làm nhiệm vụ gần tiểu đoàn 9 và xác Nhật Minh chôn tít trên đó, cách xa An-lung-viêng của chúng tôi hơn một ngày đường.
Cứ mỗi lần cạo râu tôi lại thấy xót thương Nhật Minh. Mấy ngày trước lúc hy sinh, trên đường tăng cường lên D9, Minh ở chỗ chúng tôi. Dạo đó những ngày đầu năm 1981, tiểu đoàn chúng tôi đang lâm vào tình trạng thiếu đói ghê gớm. Không có rau, chúng tôi phải đi rất xa, thỉnh thoảng kiếm được ít lá bèo lục bình, về xào với nước mắm. Gọi là nước mắm, chứ thực ra đó là nước được nấu từ một phần ba hộp thịt xay, cho nước lã và muối vào, quấy đều rồi chia cho 60 - 70 người ăn. Ấy thế mà năm thì mười họa mới có một bữa. Thấy Nhật Minh lên, chúng tôi chẳng có gì đãi. Nhật Minh rất thông cảm và chỉ hỏi tôi có dao cạo râu không.
Nhìn bộ râu cằm lởm chởm của Nhật Minh, tôi thấy ái ngại. Quả thực, đã lâu lắm tôi cũng không để ý đến râu ria của mình ra sao. Trong hầm tôi ở, ngoài tôi và Huỳnh Đức Thuận là trẻ, còn có anh Lâm Xuân Liễm đứng tuổi và có râu nhiều hơn. Anh Liễm cũng không còn con dao cạo nào. Chỉ có Thuận giữ lại một lưỡi dao lam để rọc giấy. Thấy Minh tha thiết hỏi, Thuận cũng đưa cho mượn. Lưỡi dao ấy đã cùn lắm, song Minh rất mừng. Minh lồng ngón tay trỏ vào phần thủng giữa dao, đưa lên cằm cạo xoàn xoạt. Thú thực, đó là lần đầu tiên tôi thấy một kiểu cạo râu dã chiến như vậy. Không gương lược, không xà phòng, không bàn cạo, chỉ một lưỡi dao cùn và ngón tay trỏ là xong.
Giữa tôi và Nhật Minh có nhiều kỷ niệm đẹp. Chúng tôi cùng là học sinh trường Lý Tự Trọng, Hà Nội. Minh có gương mặt rất đàn ông, khảng khái, cương nghị. Dạo đi học, Minh là đứa tập xà đẹp nhất. Ngực và eo của Minh nở như hình chữ V, chắc lẳn. Đúng là “đùi ếch, ngực dơi, tay cử tạ”. Mỗi lần Minh tập xà, trên các hành lang, các cô gái đứng nhìn mê ly. Bọn con trai chúng tôi nhìn cơ thể khỏe và đẹp của Minh còn phát thèm nữa là con gái. Mỗi lần Minh tập xà, là một màn trình diễn tuyệt đẹp ở dưới sân trường.
Chúng tôi gặp nhau trên sân bóng, dưới sân trường, trên sân thể dục… Bao giờ tôi và Minh cũng có bao nhiêu chuyện để nói, để cười. Song chuyện tình yêu lại ít khi thổ lộ.
Rồi chúng tôi cũng vào lính một ngày. Khi vào chiến trường, Minh được biên chế về trinh sát trung đoàn. Dạo cuối tháng 12 năm 1978, trên đường vào chiến dịch, tôi đang ngồi trên xe GMC, qua ngã ba trạm phẫu trung đoàn, bỗng có người đứng bên đường gọi to:
- Tuấn ơi, mình bị thương rồi!
Tôi giật mình nhìn xuống. Trời ơi! Nhật Minh của tôi. Đầu quấn băng trắng, tay trái cũng quấn đầy băng, treo trước ngực. Minh cười rất tươi, giơ tay vẫy tôi. Chưa hết bàng hoàng, tôi đã nghe Minh nói to:
- Đồng hương đi trước nhé. Mình sẽ vào sau!
Ôi, một hình ảnh bị thương đẹp tuyệt trần! Thú thực là khi vào lính, tôi chỉ có một ước mong đơn giản, là mình bị thương, ở đầu và ở tay như Minh. Rồi mình sẽ chụp một tấm ảnh, gửi về cho các bạn trong lớp cũ cho oai! Cái hình ảnh mơ ước ấy của tôi giờ lại rơi vào Nhật Minh. Đang hành quân cấp tốc thế này, lấy đâu ra máy ảnh mà chụp? Song cái hình ảnh đó của Nhật Minh mãi sáng ngời trong tâm trí tôi. Đêm ở An-lung-viêng, Nhật Minh kể cho tôi nghe trường hợp mình bị thương lần ấy. Mới vào trinh sát, trong mấy ngày đầu, Nhật Minh được đại đội phân công đi thực tập địa hình, cầm bản đồ và địa  bàn thử đi xem có xác định đúng phương hướng không. Nhóm đi gồm bốn người. Lúc ấy, quân ta và quân địch còn gần nhau lắm. chúng tôi đi tắm còn nghe tiếng quân ta hô xung phong sau quả đồi trước mặt. Tay đang xát xà phòng lên đầu cũng dính mảnh đạn luôn. Đi đứng không theo lối mòn là dẫm mìn như không. Trên các cành cây, các loại lựu đạn treo lủng lẳng. Song đã vào đến đây rồi thì chấp nhận tất cả.
Nhóm trinh sát của Minh đi thế nào mà rơi vào ổ phục kích của địch. Chúng nổ súng. Anh em vừa chạy vừa bắn trả. Vì đều là lính mới cả nên sau một hồi chạy, không ai xác định được phương hướng nữa. Lúc này, Minh đã bị thương ở đầu và tay. Máu ra nhiều mà không có bông băng gì cả. Chiều tối, bọn địch không bắn nữa. Anh em nghỉ lại giữa rừng và phân công mọi người thay nhau gác. Đến phiên của Nguyễn Thanh Tùng. Có lẽ do sợ địch tập kích không kịp phản ứng nên Tùng đã tháo chốt an toàn quả lựu đạn rồi cầm trên tay. Sau một ngày vừa sợ vừa mệt, Tùng thiếp đi lúc nào không biết. Bất ngờ quả lựu đạn trên tay rơi xuống, nổ rầm một tiếng. Tùng hy sinh ngay. Cùng lúc đó bọn địch bắn ra như mưa. Anh em trinh sát mỗi người lại chạy một hướng. Thêm một người lính mới nữa hy sinh. Hình như tên là Dũng. Không ai biết bằng cách nào anh ta lại rơi vào đại đội trinh sát. Một người nữa thì lạc rừng, sau tìm về được hậu cứ của trung đoàn 95 tại Măng giang. Còn Nhật Minh, trong đêm tối đen ấy, Minh vừa chạy vừa nghỉ. Bỗng Minh thấy trước mặt như có một bóng hình của ai đó, cứ thấp tha thấp thoáng. Nghĩ là người của mình nên Minh cứ bám theo. Nhưng cứ bò đến gần thì cái bóng đó lại biến ra xa, lại lúc ẩn lúc hiện trước mặt. Và cả đêm Minh cứ bám theo cái bóng ấy mà Minh không biết là ai. Gần sáng, cái bóng ấy biến mất, Minh cũng mệt lả, thiếp đi lúc nào không biết. Khi tỉnh dậy, cứ nhằm hướng thẳng mà đi. Mãi đến xẩm chiều mới tìm được về đến đơn vị. Quần áo tả tơi. Mừng đến phát khóc.
Sau trận ấy, trong đơn vị, có người khen Minh, song cũng có người chê Minh là bỏ tử sỹ lại trận địa. Rồi từ đó, trong đơn vị, dẫu không nói ra, nhưng Minh như người có “phốt”. Sau, gặp lúc các tiểu đoàn cần bổ sung trinh sát, Minh xin xuống D7.
Câu chuyện của Minh cứ ám ảnh tâm trí tôi. Phải chăng cái bóng hình ấy là hồn vía của một người lính nào đó đã hy sinh, hiển linh để dẫn đường cho Minh trở về. Tuy không nói với Minh điều ấy song tôi cứ nghĩ vậy.
Rồi đầu năm 79, khi đang tiến vào giải phóng Cam-pu-chia, đơn vị tôi cử một tiểu đội tăng cường quay về biên giới để tìm xác đồng đội. Tôi nhớ Nguyễn Thanh Tùng là người lính Hà Nội đầu tiên trong đợt lính chúng tôi hy sinh. Nhà Tùng ở 25 phố Phù Đổng Thiên Vương. Sau một tuần càn đi quét lại, chúng tôi không tìm thấy xác ai cả. Tôi đã viết bài thơ “Tìm bạn” kể lại chuyến đi này.

TÌM BẠN

Chiến dịch kết thúc rồi tôi quay về biên giới
Tìm xác bạn bè trên chốt cũ yêu thương
Hơn hai mươi con người, một trung đội tăng cường,
hơn hai mươi tay súng
Sống lại cùng tôi những bạn đường.
Không thể tìm ra đầy đủ một bộ xương
Đất cháy đen xỉ than
Xương cánh tay lẫn cành khô rơi vãi
Tấm bản đồ không mang lại một điều gì mới
Vệt máu đông rỉ ra nhức nhối mắt nhìn
Từng khoảng thời gian, từng trận đánh, từng người một,
cứ nhớ thế mà tìm
Đồi 328, chốt X.B… chỗ nào cũng gặp bạn bè đang sống
Vẫn nói cười, vẫn thổi mắt cho nhau, ôm súng xông lên
và những loạt Đ.K. dập xuống
Bạn bè tôi hóa trăm mảnh sao trời…
Lòng tôi đau một nỗi khổ không nguôi
Đâu cũng gặp mà tìm không thấy
Đêm ngủ trong những căn hầm còn lại
Nham nhở  những mảnh trăng hình phễu hứng sương trời…

Hơn hai chiếc túi mang theo dồn một túi không đầy
Chiếc gùi nhạ trên vai bao cuộc đời sông núi
Đồng đội tôi nằm đây chưa thể nào ngủ nổi
Những mảnh pháo mảnh mìn đau cấn lắm dưới lưng

Cây cháy vẫn đen thu, chim chưa trở lại rừng
Đi tìm suốt mấy ngày bỗng sáng nay gặp một bông hoa dại
Ánh mặt trời đọng sáng những hạt sương
Những người nằm xuống rồi đều có chung một gương mặt
tươi sáng lạ thường
Tôi bỗng dốc bi đông tưới cho bông hoa nhỏ
Bông hoa nhìn theo mỗi bước tôi đi…


1979-1985

Ít lâu sau, Minh được tăng cường về tiểu đội trinh sát D7. Chiến trường rộng lớn, mỗi tiểu đoàn một ngả, tôi ít gặp Minh hơn. Song mỗi bước trưởng thành của Minh, chúng tôi đều theo dõi. Tôi được biết, trước lúc qua chỗ chúng tôi ít ngày, Nguyễn Xuân Nhật Minh đã vinh dự được kết nạp Đảng. Điều này Minh không nói với tôi, nhưng anh em D7 kể lại. Bản thân tôi rất mừng và khâm phục Minh.
Gặp Minh tôi rất mừng. Nhớ lại một chuyện cười.
- Minh biết không, dạo đó, vào khoảng tháng Mười năm 1979, mình đi phối thuộc với C7, chốt ở phum Cầu Sắt. Một hôm, mình phải đón xe về trung đoàn nhận pin. Vừa trèo lên thùng xe, mình ngạc nhiên thấy một tốp lính Khơ-me đỏ. Có một thằng mặc áo quân Tân, trên ngực in số hiệu đơn vị và có thêu hai chữ “mỗi ngày”. Lại nghe tin D7 vừa đánh trận Xa-vai Đam-lắc…
- Có phải cái thằng tóc xoăn tít không?
- Chính hắn. Nhưng Minh biết thế nào không. Thấy nó mặc áo của đồng đội mình, mình liền táng cho nó một báng AK vào vai. Thằng ôn con nghiêng người né. Mình làm tiếp phát nữa. Nó chúi đầu xuống tránh. Nhưng mình dừng lại vì thấy hai tay nó bị trói chặt vào thành xe…
- Thằng đấy trước thân với mình lắm. Mấy tháng đó mình đi làm công tác dân vận. Nó là một trong những “phần tử tích cực” được bọn mình sử dụng. Song vẫn phải cảnh giác vì bọn này lá mặt lá trái lắm. Hôm đó, bọn mình ngủ trong phum. Nửa đêm, bọn nó dẫn lính Khơ-me đỏ tập kích vào. Nhưng bọn mình rất cảnh giác, đã rời ra bìa phum từ 8 giờ tối. Bọn nó đánh ra, quân mình không đào công sự nên phải rút vào rừng. Bọn nó cướp được mấy cái ba lô, trong đó có cái của mình…
Những ngày ở chỗ tôi, Minh hay giở lá thư của mẹ ra đọc. Có lẽ đó là lá thư mới nhất. Một buổi tối, dưới ánh đèn dầu khộp trong hầm, Minh cho tôi xem thư mẹ: “Nhật Minh con thương yêu”. Nhìn dòng chữ hoạt bát nghiêng nghiêng của người mẹ, lòng tôi dâng một niềm cảm động và cô đơn. Những ngày đó, giữa mùa mưa, trời ướt dầm dề. Cứ đến đêm, trong hầm lại đầy nước. Nước từ mạch dâng lên, theo các rễ cây chảy vào. Chúng tôi phải mắc cao võng lên. Tôi rủ Minh ở lại hầm ngủ chung võng. Song Minh là người rất có kỷ luật. Chơi đến quá khuya, Minh về đơn vị.
Sáng hôm sau Minh sang chỗ tôi xin giấy viết thư. Tối đến Minh lại qua hầm tôi, tâm sự rằng khó viết quá, không có tâm trạng. Song nghe giọng Minh và nhìn gương mặt Minh, tôi hiểu những gì đang diễn ra trong lòng bạn. Tuy bề ngoài vẫn nói cười vui vẻ với Minh, song trong lòng tôi lại thầm thương bạn. Bởi trong tôi cũng đã trải qua những ngày như vậy. Trước khi vào trận, muốn nói rất nhiều. Nhưng nói chuyện gì với ai? Quả là một vấn đề không đơn giản.
Buổi tối, Minh sang hầm tôi gửi tôi lá thư về cho mẹ. Thư không có phong bì, không có tem. Minh bảo:
- Mình đang viết dở, không viết được nữa. Đồng hương viết tiếp hộ mình.
- Thôi, ngồi đây viết tiếp đi. Mình với Thuận đi chỗ khác để Minh viết tiếp đấy!
Thuận cũng trêu Minh vài câu. Song Minh không đồng ý, cứ để lá thư viết dở lên bàn tôi. Ngồi nói chuyện tào lao một lúc, tôi cất lá thư vào trong ba lô cho Minh yên tâm.
Bỗng một chiều, Minh nhận được điện phải hành quân gấp lên D9. tối hôm đó Minh sang chỗ tôi xin chiếc cần câu câu mìn. Dạo đó, quanh An-lung-viêng, hầu như lối nào bọn địch cũng gài mìn. Những sợi dây mìn mỏng manh như sợi chỉ, chúng giăng là là mặt đất, ngang lối đi hẹp, cỏ xùm xòa trùm kín. Lính ta đi không để ý, vướng dây, quả mìn nảy ngang người, nổ tung. Bọn địch còn buộc mìn vào thân cây, tầm ngang ngực người đi, rồi căng dây mìn ngang đường. Ánh mặt trời chiếu lấp lóa, thật khó nhìn thấy dây mìn. Nhiều người đang đi, bỗng nghe tạch một cái, một luồng hơi mát vút qua, rồi một tiếng  nổ tiếp liền. Cái cảm giác về luồng hơi mát chưa kịp nhận ra thì đã gục xuống. Có những nơi bọn địch còn dùng dây hà thủ ô để buộc vào kíp mìn, quân ta đi ngỡ dây rừng, đạp bừa lên, toi mạng như không. Song cái khó không bó cái khôn. Những người lính Việt Nam, xuất thân từ nông dân, đã nghĩ ra cách phát hiện dây mìn. Họ vót tre thành hình cái cần câu, phía đầu hơi mỏng, để lại phần đốt như cái mấu. Khi đi, cầm cần câu ngửa lên, đặt sát mặt đất, thấy vướng thì dừng lại, từ từ nhấc cần lên, xem gốc sợi dây mìn ở đâu rồi ngồi xuống gỡ mìn. Chỉ đến lúc lên D8, Nhật Minh mới biết cách phát hiện mìn của chúng tôi và học. Tôi cho Minh chiếc cần câu mìn. Trước cửa hầm, Minh đứng thử, cần câu phất lên vun vút. Tôi thấy gương mặt thận trọng của Minh ánh lên niềm vui.
Sáng hôm sau, khi tôi đang ăn sáng thì Minh khoác ba lô qua chào tạm biệt. Tôi chỉ biết dặn Minh thận trọng. Minh nhìn tôi tự tin:
- Đồng hương cứ yên tâm.
Rồi Minh dẫn anh em D7 đi lên D9, khoảng một trung đội. Rừng mùa mưa xanh thẫm, cành lá nặng trĩu nước. Mái rừng như sà thấp xuống ngay trên đầu. Tôi nhìn theo đoàn quân đi im lặng. Một chuyện bình thường nhưng lòng se lại.
Ba hôm sau, chúng tôi nhận được điện từ D9 báo về, Nhật Minh đã hy sinh. Mấy ngày đó, tôi cứ nóng ruột chờ mang xác Nhật Minh về. Từ D9 về chỗ chúng tôi mất hai ngày đường rừng. Nửa đường sẽ ngủ lại C6. Chúng tôi đã chuẩn bị quan tài, lọ pê-ni-xi-lin (đựng mảnh giấy ghi tên tuổi, quê quán của Minh, chôn cùng xác Minh, để khi bốc mộ, đỡ nhầm xác các tử sỹ với nhau) và bát cơm quả trứng, điếu văn… để đón Nhật Minh. Dạo đó tôi được tiểu đoàn giao làm công tác khâm liệm và chôn cất tử sỹ. Ngoài tình đồng đội, đồng hương, giữa Nhật Minh và tôi còn có tình cảm thương mến của nhóm bạn học cùng trường.
Nhưng chờ mãi, chờ mãi, không thấy xác Nhật Minh về. Hóa ra, do đường xá xa xôi, đi lại không thuận tiện, thiếu người khiêng và bảo vệ tử sỹ, nên sư đoàn quyết định đặt thêm một nghĩa trang nữa tại D9. Và Nhật Minh là người đầu tiên nằm tại nghĩa trang mới này.
Trường hợp Nhật Minh hy sinh không ai có thể ngờ tới. Ngay hôm đó đơn vị Nhật Minh đi phục. Đến khoảng 4 giờ chiều, không thấy địch, có lệnh rút về. Trước lúc ăn cơm, kiểm tra súng đạn, mọi người phát hiện một anh lính mới thiếu dây đạn M.79. Phải mau quay lại tìm. Trời tối, anh lính mới quay lại. Đến chỗ phục, mọi người không dám vào. Vốn là người ưa thích sự mau lẹ và muốn để mọi người ăn cho xong bữa cơm, dù rất bực, Nhật Minh vẫn xung phong vào ổ phục tìm dây đạn. Sau khi kiếm tìm một hồi, lúc thấy dây đạn, Nhật Minh vừa cầm lên thì một trái mìn nổ tung trời. Anh ngã xuống.
Thì ra, khi quân ta vừa rút đi cũng có thể là lúc địch tới. Phát hiện thấy dây đạn của ta, đoán thế nào quân ta cũng quay lại tìm, bọn địch đã cài mìn vào đó.
Nhật Minh bị thương rất nặng. Đến khoảng nửa đêm thì anh qua đời. Ít lâu sau, tôi nhận được lá thư của bạn tôi là Cù Đăng Hạnh từ D9 gửi về do anh em đi công tác qua chuyển cho.
“Tuấn ơi, thế là thêm một thằng lính mình không được về Hà Nội nữa rồi. Không biết Hà Nội ngày chúng mình về có ai biết thiếu vắng Nhật Minh không? Hà Nội chắc vẫn vui như xưa nhưng Nhật Minh không bao giờ về nữa. Thằng bạn cùng trường chúng mình đã hy sinh hồi… giờ… ngày… tháng… năm…”
Lá thư của Hạnh gây trong lòng tôi chút xao động. Thú thực, lúc đó tôi không hề nghĩ đến Hà Nội, nghĩ đến ngày về. Cuộc chiến đang cực kỳ gay go, ác liệt. Đang mùa mưa, rừng âm u, chúng tôi không biết mình chết lúc nào.
Nhật Minh chết rồi. Thế là lời hẹn của Nhật Minh sẽ cùng tôi về phum Xằng-cung Thơ-mây mãi mãi xa vời. Minh kể ở đó có ngôi chùa rất đẹp. Ngôi chùa lại nằm trên một hòn đảo. Và hòn đảo lại nổi trên một cái hồ rộng mênh mông. Điều kỳ lạ là hòn đảo ấy không bắt chặt vào đất mà nổi trên mặt hồ, khiến ngôi chùa đó buổi sáng ở phía đông, đến buổi chiều lại bị gió thổi dạt về phía tây. Và ban đêm gió lại thổi cho ngôi chùa lặng lẽ, từ từ trôi về phía đông. Minh bảo:
- Mình sẽ chèo thuyền chở đồng hương ra thăm chùa. Đồng hương biết không, trong mỗi pho tượng trong chùa đều có một cục vàng đấy. Trong hồ có nhiều cá sấu lắm. Nhưng nó chỉ nổi từng đợt thôi. Mình biết quy luật của chúng nó rồi.
Dạo đầu năm 1983, khi đi công tác về phum Xằng-cung Thơ-mây, tôi được ghé thăm thắng cảnh độc đáo này. Nhớ lời hẹn xưa, càng thương tiếc bạn. Đêm đó, dân trong phum thức suốt đêm nhảy múa, cúng bái để cầu mưa. Họ hát những bài dân ca, đọc những câu thần chú, những bài cúng đầy bí ẩn. Nửa đêm về sáng, họ vứt gà cùng các đồ cúng khác xuống hồ cho cá sấu ăn. Từng đàn cá sấu đen nhảy lên tranh nhau đớp mồi. Cảnh tượng ngoạn mục như thời nguyên thủy. Nghĩ tới Nhật Minh đang nằm trên biên giới, cảnh đây mà người vời vợi xa bao nhiêu, xa hơn ngôi sao bé nhỏ trên bầu trời mùa khô của miền đông bắc Cam-pu-chia.
Rồi chúng tôi đến nhà Nhật Minh ở khu tập thể Phương Mai. Trước khi đi và trên đường đi, thâm tâm tôi định nói bao lời. Nhưng vừa bước vào căn phòng trên tầng 3, tôi đã bàng hoàng. Đập vào mắt tôi, đập vào ngực tôi là hai tấm chân dung liệt sĩ. Nguyễn Xuân Nhật Minh và người anh của Minh. Người anh này đã hy sinh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Ngoài bố mẹ Minh, hôm đó chúng tôi còn được gặp chị em gái và em trai Minh. Bố mẹ Minh còn tương đối khỏe. Ông cụ sinh hoạt ở hội cựu chiến binh và Tổ hưu trí phường. Cứ nghĩ chúng tôi sẽ là người nói nhiều, không ngờ ông bà cụ khá lạc quan, kể cho chúng tôi bao chuyện. Ông đọc cho chúng tôi một số bài thơ do ông sáng tác, nội dung chủ yếu coi sự hy sinh của hai người con trai của mình là đóng góp nhỏ nhoi của gia đình đối với sự nghiệp vĩ đại của dân tộc. Tôi đọc tặng bà mẹ Minh bài thơ “Mẹ và hòm thư con” mà tôi viết trong cái đêm ở An-lung-viêng được Nhật Minh cho đọc chung thư mẹ. Khi đọc, hình ảnh Nhật Minh hiện về. Tôi không thể nào cầm nổi nước mắt.
Trịnh Quốc Tài mới thăm trung đoàn cũ của chúng tôi ở Quảng Ngãi ra, Tài đang lái xe cho công ty TODA của Nhật, xây dựng trường học ở Đà Nẵng và Quảng Ngãi. Tài muốn cung cấp cho gia đình Nhật Minh một số thông tin để bố mẹ Minh tiện liên hệ trong việc tìm xác con. Chúng tôi không biết nghĩa trang D9 được bốc đi lúc nào và chuyển về đâu. Đến giờ gia đình Nhật Minh vẫn chưa tìm được xác Nhật Minh.

Trích nhật ký của Nguyễn Minh Toàn, nguyên trung đội trưởng C3, người có mặt lúc Nhật Minh hy sinh, khâm liệm cho Nhật Minh. Hiện Toàn ở E1B khu tập thể dệt 8/3 Hà Nội.

18h45 phút ngày 3-12-1981
Tại biên giới Tây bắc Cam-pu-chia, cách cửa khẩu 2 độ 10km trong một khu rừng xanh thưa. Xé không gian bằng một tiếng mìn. Quả mìn KP2 của quân Pôn Pốt đã cướp đi của tôi một người bạn, một người đồng hương, đồng chí. Nguyễn Xuân Nhật Minh, tiểu đội trưởng trinh sát đã anh dũng hy sinh trong lúc làm nhiệm vụ, mới 15 phút trước mình còn nói chuyện với nhau, mà chỉ sau một tiếng nổ Minh không thấy được quê hương nữa. Mình liệm Minh trong chiếc quần của anh Lợi, chiếc võng của Minh cùng chiếc màn trắng, ba ngày sau mới đưa Minh về được D9. Thôi nhé hãy vui lòng an nghỉ. Mong sao thời gian nhanh chóng xóa mờ nỗi đau trong lòng người mẹ đau khổ của Minh. Các đồng hương của Minh sẽ còn mãi mãi nhớ Minh. Cuối cùng xin vĩnh biệt.
15-12-81
Minh Toàn

Trích nhật ký của Nguyễn Xuân Trường, người chứng kiến cái chết của Nhật Minh hiện ở khu tập thể Hoa quả – Hà Nội.


Hai mươi năm viết về đồng đội.
Tôi phải cám ơn thật nhiều Tuấn, đồng hương của năm xưa vì là bạn hữu của hôm nay đã gợi cho tôi thật nhiều kỷ niệm thời khói lửa, những câu chuyện kỷ niệm những đồng đội nằm xuống hy sinh thân mình vì nghĩa vụ quốc tế cao cả mà Tổ quốc giao phó cho mỗi chiến sĩ chúng tôi trên rừng thiêng nước độc của xứ sở láng giềng Cam-pu-chia. Câu chuyện ấy tôi cứ tưởng mới xảy ra từ hôm qua thôi chứ đâu nghĩ đã hơn hai mươi năm rồi, vì cuộc chiến đấu ấy nó vừa bất ngờ, khủng khiếp nhưng lại hết sức thanh thản đến ngẫu nhiên trong tiềm thức quen thuộc của mỗi người lính chúng tôi…
… Chúng tôi là những người lính Hà thành, mỗi người một ngành nghề, hoàn cảnh khác nhau, nhưng theo tiếng gọi lên đường để trở thành người lính bảo vệ Tổ quốc thì tình cảm xa quê hương cùng nhiệm vụ người lính nó giống nhau như mầu xanh lá cây của mỗi người lính trong hoàn cảnh xa nhà, xa quê hương, xa cả đất nước đến ngàn dặm ấy. Tất cả đồng hương chúng tôi đều nhập ngũ tháng 8 năm 1978, đó là năm tháng nhiều kỷ niệm sâu sắc trong mỗi người lính chúng tôi đều ở lứa tuổi trẻ măng. Những kỷ niệm khắc sâu trong lòng tôi nhất là những đồng đội đã anh dũng hy sinh trên mặt trận. Mỗi trận đánh là mỗi vẻ vang để giúp nước bạn, nhưng cũng biết bao xương máu phải đổ xuống một cách thầm lặng trên nước bạn, ngoài những câu chuyện đồng đội đi truy quét tàn quân Pôn Pốt và đi bảo vệ hành lang cho xe chở gạo lên D9 và E95 kể lại, mà trực tiếp tôi còn được chứng kiến thực tế qua những lần truy quét địch cùng đơn vị.
Tôi xin kể kỷ niệm sâu sắc nhất về đồng hương Nhật Minh (Nguyễn Xuân Nhật Minh) là trinh sát tiểu đoàn 7 xuống phối thuộc với C2 chúng tôi đi truy quét 1 tuần ở tây bắc huyện Chom-ka-san tỉnh Prét-Vi-hia Cam-pu-chia. Những tháng đó tôi không còn nhớ lắm chỉ biết rằng thời điểm ấy vào cuối mùa mưa.
… Cả đoàn quân đã vài ngày hành quân tìm địch trong rừng khộp và rừng rậm, do đồng chí Long đại đội trưởng của tôi chỉ huy và đồng hương Minh đi trinh sát theo bản đồ cho đoàn quân đi đúng địa bàn hoạt động. Mấy ngày hành quân đã gần như mệt mỏi cũng không tìm thấy dấu vết nào khả nghi cả, lúc đó vào giữa trưa nắng, đoàn quân sau 15 phút nghỉ giải lao ở giữa rừng rậm, qua một cuộc hành quân dài, đã lấy sức để tiếp tục hành quân trong rừng rậm, thật dễ chịu trước mắt chúng tôi là một bãi tráng rộng vì chúng tôi đang mang vác súng ống đạn dược rất nặng mà phải đi trong rừng rậm, gai góc cào đến rách da, mệt đến chết được. Thật cảm phục tài nghệ băng rừng rậm của hai đồng chí trinh sát nhanh thoăn thoắt chui luồn thật khéo mà không bị sao. Tôi thầm cám ơn đồng hương Minh đã mở đường cho bộ binh chúng tôi đỡ vất vả và nguy hiểm. Nhưng cũng thật không may cho đoàn quân chúng tôi, khi đã qua bãi tráng đến bìa rừng xanh bên kia tưởng như không có chuyện gì xẩy ra, đoàn quân vẫn thẳng hướng đi.
… Bỗng… ầm… tiếng nổ chói tai từ đầu đoàn quân, tôi thoáng nghĩ đã bị địch phát hiện và phục kích bằng hỏa lực, nhưng phán đoán của tôi đã nhầm. Khi đại đội chúng tôi đã tản ra để sẵn sàng chiến đấu thì bỗng nghe khẩu lệnh từ trên đầu hàng quân truyền xuống trung đội tôi chuẩn bị đưa thương binh ra phía sau để sơ cấp cứu. Lúc bấy giờ tôi mới hiểu rằng quân ta đã bị vướng mìn KP2 mà địch mới gài theo đường mòn hoạt động của chúng. Lúc bấy giờ tôi chưa biết ai bị thương cả, một lúc sau, được lệnh rời vị trí chiến đấu để cáng thương binh quay lại đi đường khác để khỏi bị lộ, thì tôi mới biết người đồng chí bị thương nặng đó chính là Nhật Minh, đồng hương trinh sát của tôi. Sự bất ngờ ấy làm tôi không tin được vào mắt mình nữa, vừa mới 20 phút trước đây còn là một con người hoàn chỉnh khỏe mạnh yêu đời hơn cả mọi người mà bây giờ thân hình lại dập nát sũng máu. Lòng tôi quặn đau không gì tả được khi nhìn thấy đồng hương mình đang quằn quại trong cơn đau dưới chiếc cáng bằng bạt xanh mà tôi và đồng đội đang vác tới nơi an toàn để cứu chữa. Dọc đường tôi quên cả gian nan vất vả mà chỉ biết luôn mồm động viên đồng hương thôi, lúc đang cáng, Nhật Minh rất tỉnh táo nói năng như bị thương nhẹ lắm, thậm chí còn muốn nhỏm dậy trên cáng. Theo như kinh nghiệm chiến trường, những người bị thương nặng mà vẫn tỉnh táo là không trường hợp nào có thể cứu sống được, chỉ coi đó là những giây phút trăn trối trước khi nhắm mắt thôi. Có lẽ Nhật Minh đã biết trước sự sống ngắn ngủi của mình nên đã tâm sự với tôi trước những giây phút không thể chịu đựng hơn được nữa:
“Đồng hương Trường ơi… Mình không cố được nữa rồi… Minh nhớ mẹ và Hà Nội (bỗng tôi chẩy nước mắt vì giống ý mình)
“… Minh chỉ tiếc không được học tiếp đại học… Đồng hương ơi cho mình hụm nước” (lúc đó bi đông tôi còn nước nhưng không được phép cho uống vì uống vào máu sẽ chảy nhanh đến không cứu chữa được nên động viên Nhật Minh cố chịu đựng thêm. Khi nhìn vào cáng thấy nửa thân bị hoàn toàn dập nát, từ bụng đổ xuống hàng vài chục mảnh mìn to nhỏ như nghiền nát chiếc quần, đôi chân rắn chắc ấy đang sũng trong máu (lúc chưa qua đoạn đường nguy hiểm để băng bó). Hình như Nhật Minh sức đã yếu dần, toàn thân như bị mềm lại. Tôi lo sợ không biết đồng hương của tôi có chịu đựng nữa được không… Sức khiêng của tôi đã bắt đầu đuối dần, trung đội trưởng thấy vậy đã thay cho hai đồng chí khác trong trung đội tiếp tục cáng cho chúng tôi đưa thương binh về tuyến sau cấp cứu. Đại đội tôi vẫn tiếp tục làm nhiệm vụ truy quét và tìm bãi mìn của địch thêm hai ngày nữa mới trở về đơn vị. Ngay chiều hôm mìn nổ ấy, tôi biết tin đồng hương Nhật Minh đã hy sinh khi chưa hạ cáng vì bị thương quá nặng. Nỗi đau mất đồng hương và đồng đội ùa vào lòng tôi và cả đơn vị, nhất là những ai người Hà Nội thì nỗi đau càng lớn hơn và tất cả đều im lặng như mặc niệm vài phút. Suốt cả tối hôm ấy, ngoài phiên gác tôi không sao ngủ được, mặc dù cả ngày hành quân và cáng thương binh toàn thân mỏi mệt rã rời, vì hình ảnh Nhật Minh luôn khuấy động trong tâm trí tôi từ khi chúng tôi biết nhau ở trường huấn luyện cho đến lúc đồng hương ấy bị hy sinh. Làm sao tôi quên được thân hình vạm vỡ ấy, duy chỉ hơi thấp một chút. Hồi mới biết nhau tôi cứ nghĩ Nhật Minh là vận động viên thể dục thể thao, về sau mới biết không phải vậy. Điều đặc biệt là Minh sống lạc quan và hòa mình lắm, luôn hay cười với mọi người, dù hoàn cảnh có gian nguy cũng không xua đuổi được nụ cười hiền lành vui vẻ và yêu đời của Nhật Minh. Có lẽ khi học cuối cấp III Minh cũng sống như vậy với bạn bè cùng trường lớp. Trong cuộc sống quân ngũ chúng tôi cũng hay đùa nhau lắm, mỗi người đều có một tên thêm mà đồng hương đặt cho ứng với tính cách dáng vẻ từng người ví dụ tên đồng hương tôi vẫn còn nhớ, như: Dũng “bà già”, Thắng “xã trưởng” vì hay vào phum bản, Thành “giun”, Bình “bớp”, Tuấn “môi đỏ”, Trường F111 tức “phản lực”, còn Nhật Minh bị gắn tên cũng ngộ, Minh “Các Mác”, vì hơi móm khi cười. Đó là những kỷ niệm khói lửa, nhật ký người lính mà tôi với Nhật Minh đã có được trong những tháng sống và chiến đấu bên nhau, kỷ niệm thì nhiều nhưng thời gian 20 năm qua ít nhiều cũng mài mòn trí nhớ của tôi. Để viết được đầy đủ hơn về Nhật Minh, mong các đồng hương khác góp thêm sự nhớ về nhật ký đồng đội hy sinh ở mặt trận.

Nhật Minh chết rồi. Tôi viết thêm mấy dòng báo tin Minh tử trận vào lá thư viết dở dang của Minh gửi cho mẹ. Đêm ấy, tôi không sao ngủ được. Nghĩ tới Minh, nghĩ đến lá thư của mẹ Minh, và lá thư sắp gửi, tôi viết bài thơ “Mẹ và hòm thư con”, để nhớ ngày Minh hy sinh.

MẸ VÀ HÒM THƯ CON


Tưởng nhớ Nhật Minh
Với một chiếc ba lô
Chúng con có ngôi nhà
Hòm thư là biển số
Sáng hai mùa nắng mưa

Chùm chữ số đơn sơ
Như mắt con nhìn mẹ
Con ở xa là thế
Đôi mắt nhìn bình yên

Giọng con trầm như đêm
Dù giữa nơi mặt trận
Tên hòm thư mẹ khắc
Tên cột mốc biên cương

Gập ghềnh bao núi non
Bóng con đi nhỏ bé
Con nhìn nét chữ mẹ
Bao giờ được thảnh thơi

Con biết dáng mẹ ngồi
Mong lá thư biên giới
Con biết mắt mẹ mỏi
Ngóng từng cánh chim qua

Dòng chữ số rất xa
Bé như là con kiến
Bò từng mi-li-mét
Tìm đường về quê hương

Mẹ nhìn theo dáng con
In những dòng số nhỏ
Còn những dòng số đó
Còn xa mẹ, mẹ ơi…

Lúc này con đang ngồi
Nghĩ là thư gửi mẹ
Giấy bút con không có
Hình dung trong nỗi nhớ
Không có gương mặt nào
Đang chịu đựng khổ đau
Như là gương mặt mẹ
Không có địa chỉ nào
Làm mẹ luôn lo lắng
Địa chỉ hòm thư con.

Còn lá thư viết dở của Nhật Minh. Sao Minh lại nhờ tôi viết nốt? Câu hỏi đó ám ảnh tôi suốt hơn 20 năm trời, mãi hôm nay tôi mới viết ra được.


Thứ năm mùng 7 tháng 3 năm 1999


Mưa tầm tã. Tôi qua nhà Chung mua một bó hoa. Nhà Chung có cửa hàng hoa nhưng thuê người khác bán. Bố mẹ Chung ngồi trong nhà nhưng không nhận ra tôi. Dù sống cách nhà Chung không xa, nhưng ít khi tôi ghé thăm nhà số 6 phố Minh Khai. Tôi chỉ ghé vào những dịp kỷ niệm 15 hay 20 năm lính, lại đi cùng với hàng chục anh em. Và trong những dịp đó, thường là anh Thơm, anh Lễ, những người có tuổi quân cao, lại là cán bộ trung đoàn hoặc một số anh em khác, ăn nói tốt hơn tôi, thay mặt cả đoàn, nói những lời chia buồn và an ủi gia đình. Thực ra tôi chỉ muốn Thành ở 55 Trần Xuân Soạn, đồng nghiệp của Chung, người chứng kiến cái chết của Chung, nói những lời chân thành với gia đình Chung, nhưng anh này chỉ nói hay ở quán bia với bạn bè cũ thôi, chứ với những việc hệ trọng lại lúng túng như gà mắc tóc.
(hình)
Nguyễn Xuân Nhật Minh (thứ 5 từ trái qua) và Đinh Ngọc Long (bìa phải) cùng các bạn lớp 10B trường cấp 3 Lý Tự Trọng trong ngày cắm trại tại công viên Lê nin (Hà Nội). Ảnh chụp ngày 26/3/1978 do Kiều Bằng Khánh – bạn thân của Minh cung cấp.
Mùa mưa năm 1980, một trung đội tăng cường của D7 lên D8 chúng tôi để phối thuộc với C6 - một đơn vị độc lập, đóng trên núi đá, cách D8 khoảng 50 cây số. Trong số lính D7 đó có Thành và Chung là thông tin. Hai người mang theo một máy 2w Silic 71 của Trung Quốc, Chung là bạn cùng trường cấp III Trương Định với tôi. Còn Thành, thời kỳ huấn luyện ở Hòa Bình, cùng trung đội với tôi. Hơn nữa, tôi cũng vừa từ thông tin chuyển lên làm trợ lý chính trị tiểu đoàn nên khi gặp Trung và Thành, tôi cảm thấy rất gần gũi. Hai đứa ở cùng trung đội thông tin của tiểu đoàn 8, tối nào cũng qua hầm tôi chơi.
Tôi nhớ cái ngày trước khi lên C6, Chung và Thành cứ ngồi mãi ở hầm tôi. Lúc nào Chung cũng nhắc đi nhắc lại câu “Nhỡ thằng đi đầu không giẫm, thằng đi giữa giẫm thì sao?”. Dễ đến hàng trăm lần Chung nói câu này. Thậm chí khi về hầm thông tin để ngủ, Thành kể lại, Chung còn nhắc hàng trăm lần nữa, đến nỗi Thành phát bực, gắt bạn đi ngủ để mai có sức hành quân.
Ngày đó, con đường từ D8 lên C6 nhiều mìn lắm. Quanh C6 cũng nhiều mìn. Lính ta hy sinh đều do vấp mìn địch. Tiểu đoàn tôi đánh địch quá mệt, thỉnh thoảng trung đoàn lại cử một số trung đội của D7 lên tăng cường cho D8.
Cũng như Nhật Minh, khi lên D9, Chung cũng xin tôi một chiếc cần câu mìn. Tôi cho Chung nhưng không nghĩ bạn sẽ phải sử dụng đến nó. Bởi Chung và Thành là thông tin, thường đi giữa đội hình.
Trang bị của Chung và Thành cũng hết sức giản đơn. Một cuộn dây mìn Clây-mo làm ăng ten liên lạc. Nhưng Chung cứ sợ rằng khi mình ném dây ăng ten lên cành cây, sẽ vấp mìn. Khi nói câu “Nhỡ thằng đi đầu không giẫm, thằng đi giữa giẫm thì sao?”, tôi thấy mặt Chung tái dại, mắt mở to, con ngươi không cử động. Da mặt Chung như dẹt xuống. Các cơ mặt hầu như không cử động. Mầu sắc da mặt lạnh hẳn, nhợt nhạt. Song lúc đó, tôi và Thành chỉ nói với Chung: “Sợ gì, sống chết có số!”, “Có người có ta!”, “Mình vẫn còn an toàn hơn anh em bộ binh nhiều” v.v… Nhưng Chung cứ im lặng được một lát lại nhắc hệt câu cũ. Tôi với Thành nằm võng. Chung ngồi một chỗ không yên, cứ đi đi lại lại, cầm cần câu gẩy đất lên thành hầm. Đã quá quen với bao nhiêu trường hợp như thế ở chiến trường, chúng tôi đâu có ngờ đó là dấu hiệu báo trước những giờ phút cuối cùng của cuộc đời Chung.
Mấy ngày sau, tôi nhận được tin Chung hy sinh. Thật bàng hoàng. Lẽ nào sự linh cảm của Chung lại đúng như thật? Tôi chuẩn bị quan tài, vải liệm, lọ pênixilin, đào huyệt, điếu văn… để đón Chung. Nhưng đêm đó trời mưa tầm tã, xác Chung không chuyển về được. Phải đến hai ngày sau, tôi mới nhận được xác Chung lúc 5-6 giờ chiều. Trời đã tối. Chúng tôi tắm rửa và chôn xác Chung ngay trong đêm mưa. Bởi xác Chung đã trương. Bụng căng phồng. Đã bốc mùi. Một số thư từ, nhật ký và ảnh của Chung, khi làm biên bản kiểm nghiệm di vật tử sỹ với anh cán bộ D7, tôi đã xin giữ lại.
Tháng 5/1982, sau khi tập huấn điều lệnh sỹ quan ở Nha Trang, tôi tranh thủ về Hà Nội được một tuần. Thăm nhà, thăm người yêu, tranh thủ đến thăm gia đình một số đồng đội bị thương hoặc hy sinh.
Trước khi đến nhà Chung, tôi cảm thấy thật nặng nề. Một mình đi báo tử. Nói gì và nói thế nào đây? Tôi còn mang theo cuốn sổ tay, một ít ảnh, cái khăn mùi xoa, cây bút cùng một ít đồ dùng lặt vặt khác của Chung. Song thời gian quá gấp, tôi quyết định đến nhà Chung vào buổi tối.
Khi tôi đến nhà Chung, bố mẹ Chung đã biết tin con mình hy sinh. Mẹ Chung khóc nhiều lắm. Bố Chung cứng cỏi hơn. Khi tôi trao cho gia đình những di vật của Chung, mẹ Chung nghẹn ngào:
- Thà nó hy sinh ở Trường Sơn hay Đồng Tháp thì bác còn nhớ. Dù sao đây cũng là ở nước mình, chứ nó hy sinh ở cái tỉnh nào xa vời tận Cam-pu-chia, bác làm sao nhớ nổi.
Cuộc viếng thăm ấy diễn ra vào buổi tối, sau bữa cơm chiều. Tôi phải vội về vì không dám nhìn cảnh mẹ Chung khóc nhiều quá.
Sau này trong bài thơ “Ngày tôi rời mặt trận”, tôi đã ghi lại cảm tưởng buổi tối hôm đó:

“Ngày tôi rời mặt trận
Không dám một mình đến nhà những người bạn hy sinh
Cảm thấy mình như người có lỗi
Tôi sợ nhìn nước mắt mẹ bạn tôi”

Trong tôi vẫn còn sáng mãi hình ảnh Chung những ngày đi học. Chàng trai có khuôn mặt hiền lành, thường đi bộ từ ngã tư Trung Hiền đến chùa Sét. Dạo ấy trường cấp III Trương Định của chúng tôi còn là những dẫy nhà tường đất mái lá, nằm trong khuôn viên chùa. Sau giờ học, chúng tôi thường gặp nhau trên sân bóng đá Tương Mai. Dáng người to đậm, chậm chạp nên Chung thường bị chúng tôi dễ dàng lừa bóng qua.
Tuy cùng ở một trung đoàn, lại cùng là lính thông tin, song tôi và Chung thường xa cách. Chiến trường mênh mông mỗi đơn vị một hướng, thường chỉ hỏi thăm tin tức về nhau, không ngờ lần gặp nhau đầu tiên ở chiến trường giữa tôi và Chung cũng chính là lần vĩnh biệt nhau.
Trong lòng tôi có một nơi ước ao, giá như trường cấp III Trương Định có phòng truyền thống, sẽ treo những bức chân dung của những học sinh và của trường đã trở thành liệt sỹ. Thật xúc động biết bao khi tôi đặt chân vào trường Đại học điện ảnh quốc gia Liên Xô trước đây (VGIK), trên tấm bia đá, bao người đứng kính cẩn và trang nghiêm đọc tên những thầy giáo và sinh viên của trường đã ngã xuống trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Sự bất tử của những người đã khuất đôi khi bắt đầu từ hành động bình thường của những người đang sống.

Trích hồi ức của Trần Chí Thành, nguyên lính thông tin D7, người đi cùng và chứng kiến những ngày và giây phút cuối cùng của Phạm Văn Chung.

“Đầu năm 1981, đang là đầu mùa khô, lại đúng dịp tết cổ truyền của ta nên bọn tàn quân Pôn Pốt tăng cường hoạt động đánh phá ta.
Suốt ngày tiếng súng ầm ầm từ biên giới Cam-pu-chia – Thái Lan dội về tạo nên không khí chiến sự căng thẳng. Trước tình hình đó, cấp trên quyết định điều động đơn vị chúng tôi chi viện một D thiếu cho D bạn đang chốt ở tuyến trước. Cùng tổ đài vô tuyến điện phối thuộc với tôi là Phạm Văn Chung. Hai chúng tôi thay nhau làm việc đảm bảo phục vụ tốt chỉ huy chiến đấu. Chung người thấp, béo lại vui tính nên được anh em trong đơn vị yêu mến. Hơn nữa hai đứa chúng tôi lại là đồng hương Hà Nội nên “rất thân” nhau. Ban ngày, chúng tôi hành quân truy quét địch, tối đến thì rải một chiếc tăng xuống đất và đắp chung chiếc chăn chiên, rồi hai đứa ôm nhau đánh một giấc ngon lành đến sáng. Sau 1 tuần truy quét, đơn vị chúng tôi đã tiêu diệt được một số tên địch và đuổi bọn tàn quân về bên kia biên giới.
Chiều 30 tết, chúng tôi rút về đón tết với đơn vị bạn.
Cách đơn vị 50m chúng tôi dừng chân bên con suối một mùa nước trong vắt để tắm rửa. Được vẫy vùng trong làn nước mát, chúng tôi cảm thấy người tỉnh táo hẳn lên, muốn ngâm mình lâu hơn nữa cho thỏa thích nhưng rất tiếc đã tới phiên liên lạc với cấp trên, tôi đành phải vác máy về trước, còn Chung ở lại tắm tiếp. Làm việc xong, tôi vừa bước chân ra khỏi hầm âm đã thấy Chung thong thả về tới nơi. Nhìn cậu ta trong bộ quần áo mới thay, đầu chải gọn gàng trông đẹp trai hẳn lên, nhưng gương mặt cậu ta có vẻ hơi buồn. Hỏi ra mới biết là sơ ý Chung đã để chiếc gương nhựa tròn nhỏ vào túi cóc ba lô, sau đó để bi đông con vừa lấy đầy nước lên trên, đi được mấy chục mét mới sực nhớ đến, khi nhấc chiếc bi đông ra thì chiếc gương đó đã bị vỡ làm đôi. Biết chuyện cậu Tuấn trinh sát có nói trêu đó là điềm “xúi” lắm và kể lại chuyện cũ hồi ở nhà cô em gái vô tình làm vỡ chiếc gương treo tường nên bị tai nạn giao thông. Nhưng tôi thì cố gạt đi và nói mấy câu cho Chung vui. Sau tết, chúng tôi lại được lệnh ở lại chốt đường cho xe chở hàng hậu cần và vũ khí cho đơn vị bạn. Chúng tôi phải đi theo hai vết bánh xe cũ để gỡ mìn chống tăng và mìn bộ binh do địch gài. Sau đó dải quân ra chốt hai bên đường cách 50m một người. Tối hôm trước khi đi chốt đường, trời tối đen như mực, hai chúng tôi đang nằm tâm sự trong hầm âm thì có một con đom đóm rất to bay vào. Chung nói đùa là thằng Xuân nó về kia kìa (chả là hôm trước cậu Xuân trinh sát mới hy sinh do vấp phải mìn địch). Tôi phải bấm nó mấy lần ra hiệu không được nói nữa, không khéo thủ trưởng nghe được lại xạc cho một trận.
Sáng hôm sau chúng tôi xuất phát. Đội hình đi theo hàng một, dẫn đầu là trinh sát và công binh. Tiếp sau người nọ cách người kia mọi và phải dẫm đúng vết chân của người đi trước. Đây là đoạn đường cắt qua hành lang của địch từ Thái Lan sang nên địch gài rất nhiều loại mìn. Chúng tôi vừa đi vừa gỡ mìn nên một giờ chỉ đi được khoảng 1km.
Khi mặt trời gần đến đỉnh đầu thì chúng tôi gặp phải một cây rừng lớn bị cháy đổ vắt ngang qua đường nên đội hình phải vòng tránh sang vệt xe bên kia. Đã gần nửa đội hình vượt qua được, sau đó đến Chung và tôi. Tôi đang nhẹ nhàng bước theo vết chân trước thì bỗng ầm… một tiếng, đất đá bay vào làm rát mặt. Định thần lại, tôi đã thấy Chung đang từ từ ngã xuống, hai ống quần bị cháy xém, máu tuôn ra rất nhiều. Thì ra Chung đã sơ ý dẫm phải quả mìn KP2 cháy chưa hết kíp nổ, nó đã nhảy lên đúng đáy chiếc máy thông tin Chung đeo sau lưng và chụp xuống xé nát hai chân anh. Tôi vội lao lên băng bó vết thương cho Chung và nhanh chóng cùng anh em cáng Chung về đơn vị. Nhưng do vết thương quá nặng, Chung thiếp dần và ra đi mãi mãi…
Chiến dịch kết thúc thắng lợi, trên đường hành quân trở về đơn vị, bên cạnh niềm vui chung, trong lòng tôi nặng trĩu nỗi thương tiếc vô cùng người đồng đội đã ngã xuống để lại ước mơ đến ngày chiến thắng trở về sẽ theo học tiếp trường đại học Tài chính và trở thành một nhà quản lý kinh tế”.

Những lần đến nhà Chung, tôi nghe mẹ Chung kể:
“Em nó chết thiêng lắm, anh ạ. Nhà tôi dạo đó, đi ngủ thường để xoong nồi bên cửa, đề phòng kẻ trộm. Tôi nhớ đêm đó, tôi và ông nhà tôi nằm ở gian này. Nửa đêm nghe xoảng xoảng xoảng xoảng. Tôi dậy ra xem. Tất cả vẫn y nguyên. Cửa vẫn đóng. Tôi trở vào. Một lúc sau, lại nghe tiếng loảng xoảng. Ông nhà tôi dậy, ra xem, vẫn không thấy gì. Một lúc sau, lại nghe tiếng loảng xoảng trên gác. Tưởng là chuột, tôi chạy lên. Vẫn không nghe động tĩnh gì. Ít lâu sau, nhận được thư bạn Chung báo tin Chung hy sinh. Tôi tính ngày âm, đúng cái đêm hôm đó. Hình như em nó về. Cháu biết không, lạ lắm. đêm đó, hai chị gái của Chung đi thành phố Hồ Chí Minh. Cả hai chị đều mơ thấy Chung về. Một bên chân đầm đìa máu. Anh cả của Chung cũng vậy. Mơ thấy em về. Vai đeo ba lô, chân đi tập tễnh.
Rồi một năm sau, gần đến ngày giỗ đầu của Chung, tôi cứ thấy một con đom đóm, to như ngón tay cái thế này này, sáng rực, bay vào, lượn khắp nhà, đậu lên tấm ảnh Chung, đậu vào bàn thờ, rồi bay lên gác. Một lúc sau mới bay đi. Những lần sau, cứ gần đến ngày giỗ Chung, lại có con bươm bướm, to lắm, bay vào, đậu ở bàn thờ. Sau này tôi chuyển bàn thờ em nó lên gác, con bướm cũng theo lên đó”.
Khi tôi đến nhà Chung xin gia đình những tấm ảnh của Chung. Mẹ và anh của Chung ngồi tiếp. Mẹ Chung hỏi:
- Em nó mất chân nào hở anh?
- Chân phải bác ạ. Vì khi bước qua một thân cây to đổ chắn ngang, chân phải bao giờ cũng đặt lên trước - tôi làm động tác bước qua thân cây cho mẹ Chung hình dung.
(hình)
1. Phạm Văn Chung (bên phải) khi đang học lớp 3.
2. Phạm Văn Chung lúc ôn thi đại học (tháng 6/1978)
3. Phạm Văn Chung (thứ 4 từ trái qua hàng sau) cùng gia đình (tháng 10/1976.
Có tiếng cháu nhỏ khóc ở nhà trong, mẹ Chung chạy vào. Anh Chung cùng tôi ngồi lại. Chuyện gần chuyện xa. Tôi nhớ lại ngày trước chúng tôi đá bóng ra sao. Anh cả Chung nghẹn lời:
- Nhắc chuyện đá bóng. Ngày bé, Chung hay ra chợ Mơ đá bóng. Có lần đá vỡ mấy cái vại sành, niêu đất của người ta. Họ đến tận nhà mách. Tôi tức quá, lấy xích, xích chân thằng em lại. Bây giờ…
Anh không nói tiếp được nữa. Cúi mặt xuống. Tôi vội ra về. Ôm lấy anh, chào tạm biệt. Anh không nói gì. Tôi nhìn vào gương mặt anh, thấy đôi mắt người đàn ông tuổi gần 60 đỏ hoe.

 


Chủ nhật ngày 25 tháng 2 năm 2001

Tết Kỷ Tỵ vừa rồi, gặp Minh “da đỏ” và Vinh “gạo”. Lần nào gặp nhau, chúng tôi cũng đều nhắc đến chuyện làm thế nào để chuyển mộ Hạm từ Tây Nguyên về Hà Nội. Hạm và Điệp chết cùng một ngày, hai đứa chôn cùng một nơi. Nay mộ Điệp đã tìm thấy, còn mộ Hạm đang ở nơi nào? Đối với chúng tôi, cái chết của Hạm là một trong những cái chết đau xót nhất.
Sau khi dự lớp tập huấn điều lệnh sỹ quan mới ở Nha Trang, tôi tranh thủ về thăm nhà được một tuần. Ngày 16-5-1982, tôi lên tầu Thống Nhất về lại đơn vị.
Tối 18-5, tầu đến Diêu Trì. Tôi xuống ga, lang thang một mình, chưa biết đêm nghỉ đâu, bỗng có một anh bộ đội đến làm quen. Đi loanh quanh một hồi, rẽ vào một hẻm phố, anh ta rủ tôi trèo lên sân thượng của một ngôi nhà nhỏ, mái bằng, để ngủ. Chẳng còn cách nào khác, tôi đồng ý.
Gối đầu lên ba lô vẫn đeo khẩu súng ngắn bên mình, tôi cố thức. Đề phòng người bạn đường mới quen.
Đang mơ màng, chợt thấy động, tôi vùng dậy. Người bạn đường kia đã ôm ba lô của tôi đang lao xuống đất.
“Trộm! Trộm! Bắt lấy nó!” Tôi hô lên thất thanh và rút súng đuổi theo, vừa chạy vừa bắn bừa một phát lên trời. Ông chủ nhà cũng chạy ra đuổi trộm. Chạy được một quãng chừng 200 mét, tên trộm phải vứt ba lô của tôi để chạy thoát thân. Mẹ kiếp! Bao nhiêu tài liệu quan trọng của trung đoàn suýt bị mất. Mình suýt toi mang vì thằng bộ đội đểu. Ông chủ nhà trách tôi sao quá tin người.
Lại lang thang ra ga Diêu Trì. Đã hơn 12 giờ đêm. Ngồi bên quán nước, bỗng gặp một anh lính răng vẩu ám khói thuốc lào.
- Ở đơn vị nào đấy? Anh hỏi.
- Dạ, em ở F307, E29
- À, đồng hương rồi. Tớ ở E576 đây. Mới từ bên K về.
- Tình hình bên đó thế nào?
- Mìn muỗi liên miên. Hôm qua có hai thằng 29 chết.
Nghe anh nói, tôi đã hình dung tình hình chiến trường không có gì khác so với một tháng trước đây, khi tôi còn ở bên đó. Tôi cũng không quan tâm hai người lính trung đoàn tôi chết là ai, E29 đông lắm. Đóng quân trên một địa bàn mênh mông.
Nghe tôi kể vừa bị trộm ba lô, anh dẫn tôi cùng anh về nhà trọ gần đó. Anh chỉ cho tôi lên một cái giường, có màn cẩn thận. Tôi lại gối đầu lên ba lô, ngủ ngon lành. Dù sao anh ấy cũng là lính cùng sư. Vì trung đoàn pháo 576 là đơn vị phối thuộc với sư đoàn tôi.
Tôi tỉnh dậy vì ánh nắng chiếu qua đầu hồi hình tam giác trống hoác vào giữa mặt. Tôi nhỏm dậy. Chợt thấy hoảng vì quanh tôi, trên các giường khác, giường nào cũng có một đôi nam nữ. Anh lính của E576 cũng nằm cạnh một người phụ nữ. Chị ta đang ngồi vấn mái tóc dài của mình. Thì ra tôi đã gặp chị này cùng ngồi bên quán nước nhưng tôi không để ý. Thấy tôi, chị ta cúi mặt.
Ăn sáng xong, tôi cám ơn và chia tay anh. Đón xe lên Plây-ku. Nghỉ lại ở trạm 7 mấy ngày vì không có xe sang Cam-pu-chia. Được chứng kiến những cơn mưa cao nguyên thật hoang dại.
Mấy hôm sau có đoàn xe của người Khơ me chở gạo sang Cam-pu-chia, tôi xin đi nhờ đến Strung-treng. Rồi từ đó, qua mỗi đơn vị, tôi lại trình giấy công lệnh, xin người đưa mình đi từng đoạn đường. Cứ như thế hơn 20 ngày trời, tôi đã đi bộ hơn 600 cây số qua Chchép, qua trung đoàn 94, qua sông Sen, qua Kulen để về đến trung đoàn bộ E29.
Qua Đồi Đá, tôi kinh hoàng nhìn thấy cái hố mìn tăng đã giết chết Hạm và Điệp. Sâu như cái hầm cá nhân. Anh em E94 kể rằng dưới quả mìn tăng, bọn địch còn đặt một khối thuốc nổ 10kg nữa. Thảo nào một xe tải chở đầy gạo, trên thùng xe có thêm 4 lính ta, bị lật đổ nghiêng. Khi tôi đến, chiếc xe đã được kéo đi. Gạo còn rơi vãi đầy xung quanh. Đặc biệt, trên miệng hố và gần đó, tôi còn nhặt được những giấy tờ cắt quân trang của Điệp, giấy đề nghị trường đại học Bách khoa cung cấp tài chính tiếp tục cho Hạm… Những tờ giấy pơ-luya màu trắng, màu xanh vẫn còn đây mà Điệp và Hạm ở đâu? Tôi cúi xuống lượm những mảnh giấy đó. Không dám hỏi anh em E94 về cái chết của Hạm và Điệp. Không hiểu sao, tôi sợ họ biết tôi là bạn thân của hai người. Hoặc tôi sợ nếu hỏi, sẽ bộc lộ những tình cảm yếu đuối của mình. Tôi cứ lặng im đi.
Khoảng 5 giờ chiều, anh em E 94 giao cho tôi một đơn vị khác. Đó là một đơn vị nhỏ, đóng gần một phum người Khơ-me. Vừa thấy tôi, một cậu lính trẻ cất giọng nhỏ nhẹ.
- Anh Hạm anh Điệp đồng hương của anh, chết rồi.
Tôi gật đầu, không nói gì. Thấy chặng đường trước mặt còn dài mênh mông quá, không biết số phận mình ra sao.
Khi về đến trung đoàn, tôi mới được anh em kể về cái chết của Hạm và Điệp. Số là, trung đoàn có một xe để chở anh em được phục viên về nước. Chiều tối ngày 16/5, xe vẫn đỗ bên này sông Sen. Trong khi đó có 3 xe chở gạo của người Khơ-me sang bên kia sông. Sợ đêm xuống, nước sông lên to, xe không sang được như mọi năm nên Hạm, Điệp cùng Minh da đỏ và Đại bám theo xe bạn sang trước.
Sáng hôm sau, xe ta qua sông và vượt lên đi đầu. Con đường qua Đồi Đá nhiều mìn nên xe nào cũng ngại đi trước. Hạm và Điệp cùng Minh và Đại ngồi trên xe bạn, đi thứ 3. Hai xe đầu đi qua, không có dấu hiệu gì nguy hiểm. Đến xe chở 4 người này, người tài xế chủ quan đi chệch vết xe trước. Thế là mìn nổ, xe chở đầy gạo như thế mà bị lật. Cả 4 người bay tung khỏi thùng xe, văng xuống đất. Hạm chết ngay tại chỗ. Điệp bị thương nặng. Vào đến bệnh viện thì chết. Minh bị chấn thương cột sống. Mỗi Đại bị thương tương đối nhẹ.
Khi Điệp bị thương, anh còn nhận ra ba lô của mình. Tuy đau đớn, song Minh vẫn gắng bò, thu lượm giấy tờ cho bạn bè. Minh còn nhớ, khi bị thương, trên tay Hạm còn đeo chiếc đồng hồ và Điệp còn đeo cái nhẫn vàng. Nhưng khi nhập viện thì những thứ đó không còn nữa.
Tối hôm đó 17/5/1982, Hạm và Điệp được chôn ngay bên bờ sông Sen. Anh em tỉnh đội Thuận Hải, đơn vị kết nghĩa với tỉnh Prếch-Vi-hia, chôn.
Khi qua sông Sen, tôi không gặp ai để hỏi về mộ Hạm và Điệp. Chiến trường mênh mông, người đơn vị mình chết ở đâu có người ở đơn vị đấy chôn cho.
Hạm và Điệp chết, có phải vì quá cẩn thận không? Sang sông từ chiều hôm trước. Không đi xe ta mà đi xe bạn cho an toàn vì bọn lính Pôn Pốt chủ yếu bắn vào xe ta. Xe bạn lại đi sau chỉ chẳng may vướng mìn, cũng không ngờ được quả mìn tăng còn kèm theo 10 cân bộc phá. Chứ một quả mìn tăng thì cũng chẳng sao. Tôi cũng bị một lần vấp mìn tăng khi lên sư đoàn. Đang ngồi trên thùng xe. Mìn nổ, bay tung người xuống. Ù tai. Đau ê ẩm. Địch bắn ra như mưa. Nhưng nằm dán mình xuống đất, miệng vẫn hô xung phong.
Nhưng mọi người nói, Hạm và Điệp chết có lẽ là do ăn thịt chó đen. Đã chó đen lại còn chết.
Đầu đuôi câu chuyện thế này. Khi được tin Hạm, Điệp cùng Minh và Đại được phục viên, anh em đồng hương Hà Nội rất mừng, làm bữa liên hoan chia tay. Việc lo thực phẩm được giao cho Vinh gạo, lính trinh sát trung đoàn. Mọi lần vào phum đổi chó và gà rất dễ, không hiểu sao hôm ấy, Vinh đi mấy phum vẫn không đổi được con chó nào. Mãi quá trưa, đến một phum rất xa mới đổi được một con gà nhỏ và con mực. Buộc mõm lại cho vào ba lô, đeo về đơn vị. Xẩm chiều mới về đến nhà. Mở ra thì chó đã chết. Tuy vậy anh em vẫn cố cắt tiết. Còn con gà nhỏ để nấu cháo. Mọi người đều biết là chó chết nhưng không ai để ý bởi niềm vui ngập tràn.
Thức ăn thừa, anh em còn gói lại để bốn người mang theo ăn đường.
Và thế là, sáng hôm sau nữa, mìn nổ.
Trịnh Quốc Tài đang tập huấn chỉ huy 12 ly 7 vội theo xe về trung đoàn báo tin. Gặp Vinh gạo vừa đi tuần về, Tài nhẩy xuống nói:
- Vinh ơi! Thằng Hạm và Điệp chết rồi!
Vinh không tin. Cả trung đoàn không ai tin. Bao năm ở chiến trường không sao. Giờ trên đường về đi học lẽ nào lại chết? Điệp ở pháo binh, từng dày dạn trận mạc. Chứ còn Hạm, mấy năm ở chiến trường, chưa hề phải bắn một viên đạn. Mấy tháng đầu làm vệ binh, sau về ban tài vụ trung đoàn đến lúc phục viên. Số phận thật đen đủi.
Lẽ nào Hạm linh cảm về cái chết của mình từ rất sớm? Tôi còn nhớ về những ngày đầu tháng 11-1978, khi chúng tôi đang hành quân bằng tầu Thống Nhất vào Nam. Đêm ấy trên tầu, tôi không ngủ, ngồi bên cửa sổ đầy gió lộng và ngắm sao trời. Chợt Hạm đến bên tôi. Hai đứa nhìn vào trong khoang tầu. Bọn Khánh “xếch”, Tân “cu lừng” đang say sưa sát phạt đỏ đen, còn lại anh em đang ngủ ngon. Người nằm, người ngồi, người ngủ gục… Bỗng giọng Hạm vang lên thầm thì:
- Không biết trong những khuôn mặt này, ngày về, ai còn, ai mất?
Tôi không để ý đến tâm trạng của Hạm. Lãng mạn quáTôi không để ý đến tâm trạng của Hạm. Lãng mạn quá chăng? Lúc đó chúng tôi không hề biết mình đang đi đâu. Có thể vào Sài Gòn. Tôi nhớ gương mặt Hạm lúc ấy, rất tươi, tuy vẫn phảng phất buồn. Lúc ấy lòng tôi đang âm vang một khúc tình ca thời chiến.
Rồi đầu năm 79, khi chúng tôi phải sang sông Mê Kông từ đêm trước. Sáng hôm sau đánh nhau từ sớm đến trưa. Đói. Người chết, người bị thương quanh mình. Tôi đã phải nhăn mặt vào, lấy bát sắt úp lên bụng, băng cho một thương binh bị thủng ruột trên đường. Và chốt lại bên sông. Mấy hôm sau, bộ phận hậu cần trung đoàn mới sang bằng phà. Chúng tôi gặp Hạm. Từ bờ bên kia, nhìn dòng Mê Kông mênh mang cuộn sóng, Hạm chợt cất giọng:
- Thôi, thế là con tốt sang sông rồi nhé!
Minh lùn cười:
- Tốt sang sông chỉ có tao thôi nhé. Trinh sát luôn đi đầu rúc bụi.
Tôi không có sự mẫn cảm giống Hạm. Ừ, con tốt sang sông chỉ đường quyền đi thẳng đi ngang, chứ không có đường lùi. Đêm, tôi sang sông bằng thuyền máy nhưng phải chèo bằng tay để giữ bí mật. Đến giữa sông, tôi vốc nước rửa mặt với ý nghĩ: nếu mình chết, phải giữ cho gương mặt sạch sẽ. Lúc ấy tôi nhớ hình ảnh một người tù binh, bị đối phương mang đi hành quyết, yêu cầu cuối cùng của anh là xin được rửa mặt trước khi chết.
Con tốt sang sông ư? Hạm còn được về phép trước tôi. Nhưng sau này, nghe anh Bằng, anh trai Hạm nói, trước khi trả phép, không hiểu sao Hạm rất buồn. Gia đình Hạm nhận thấy điều người nhưng không ai dám nói. Ít ngày sau thì nhận được tin Hạm hy sinh.
Hạm ơi, còn nhớ ngày hai đứa mình ở chung nhà của anh Quách Công Đệ, xã Phú Tường, huyện Lạc Thủy, tỉnh Hòa Bình không? Chiều ấy mình ra trung đoàn lĩnh quân trang về, Hạm ở nhà lấy củi một mình, nhìn núi xanh buồn rơi nước mắt. Hạm tâm sự với mình, sao mình không biết nói gì để an ủi Hạm?
Rồi những ngày ở chiến trường ác liệt, Hạm dành cho mình từng tờ giấy viết thư, từng lọ mực. Chính trong những ngày ác liệt ở An-lung-viêng, Hạm đã cho mình mượn “Đại Việt Sử Ký Toàn Thư”. Và chính Hạm đã khích lệ, tin tưởng và hy vọng mình sẽ trở thành nhà thơ! Và mình vẫn còn giữ bài thơ của nhà thơ Tiệp Khắc Jiri Taufer do Hạm chép cho mình. Bài thơ ấy lại do một cô bạn gái của Hạm gửi cho Hạm ở chiến trường. những câu thơ sao giống hoàn cảnh chúng mình đến thế: “Dạo ấy chúng mình ra đi/ xa đất nước mà không cần hộ chiếu/ không ngoại tệ, không tiền tiêu/ Một cuộc hành quân ra mặt trận/ Cả hai đứa mình/ Đều yêu đất nước đó? Đồng ruộng cùng làng quê/ Niềm tin và hy vọng”.
Rồi mình đi công tác ở Nha Trang, không hy vọng được về Hà Nội. Tháng 4 năm 82 ấy, biết tin Hạm sẽ được về lại Đại học Bách Khoa, mình đã sang gửi một chùm thơ, nhờ Hạm mang về tạp chí “Văn nghệ Quân đội”. Khi xe bị trúng mìn, đồ đạc trong ba lô Hạm tung tóe. Cả những bài thơ của mình cũng tả tơi. Không ngờ Minh lùn còn cố gắng thu lượm, bỏ ba lô, mang về. Gần năm trời điều trị tại đoàn 979 Quy Nhơn chờ cấp thẻ thương binh, Minh đã không làm mất chùm thơ, mà còn mang được về Hà Nội, giao cho nhà thơ Vương Trọng.
Hạm ơi, Điệp ơi, Minh ơi, chùm thơ ấy, sau này được tạp chí VNQĐ trao giải A trong cuộc thi thơ 1983 – 1984. Đêm chiêu đãi bạn bè ở Đại học tổng hợp và đại học Ngoại ngữ mình nhắc lại số phận chùm thơ này. Nhớ Hạm, Điệp và Minh vô cùng.
Rồi những năm sau, cứ đến ngày 17 tháng năm, mình lại mua bó huệ, đến thắp hương cho bạn. Mỗi lần bước vào căn nhà 23 Phùng Khắc Khoan, bố Hạm lại giơ bàn tay xương xẩu ôm lấy mình, khóc: “Tuấn đấy à? Sao cháu giống thằng Hạm nhà bác thế?”. Mình cũng khóc theo.
Rồi một lần rủ Vinh gạo đến cùng. Nó không đi:
- Tao ngại quá! Lần nào bố nó cũng khóc. Tao không muốn khơi lại vết thương của gia đình thằng Hạm.
Biết nói thế nào? Vinh gạo cũng có lý. Giờ bố Hạm mất rồi, mà xác Hạm vẫn còn ở rất xa. Biết khi nào mang được bạn về Hà Nội, Hạm ơi?
Ôi những ngày ở chiến trường, Hạm cho mình xem tấm ảnh nhỏ xíu của cô bạn tên Oanh kháu khỉnh. Một tình yêu. Và Hạm còn hẹn, sau này, khi nào mình cưới vợ, Hạm sẽ làm phù rể cho mình. Ngày mình cưới, Hạm không về được, mình cũng chẳng mời ai làm phù rể đâu.
Nhất định chúng mình sẽ mang xác Hạm về Hà Nội.


Tôi đến nhà Nguyễn Văn Minh ở xóm Chùa, Đồng Nhân, Hai Bà Trưng hỏi thăm về cái chết của Hạm và Điệp. Minh là người đi cùng chuyến xe đó. Minh mở tủ đưa tôi cuốn nhật ký đời lính. Đây là đoạn ghì trong bệnh viện về cái chết của hai người bạn thân.

“Trưa ngày 15-5 chiếc xe GMC chuyển bánh rời khỏi trung đoàn, chở chúng tôi về với Mẹ. Xin giã từ mãi mãi mảnh đất này, chiến trường này, trong chúng tôi dâng tràn những niềm vui xốn xang về những ngày sắp tới. Những kỷ niệm của quá khứ trở nên tẻ nhạt không có gì quyến luyến. Nỗi buồn đọng lại trong chúng tôi lúc đó chỉ bởi những cánh tay vẫy chào của những đồng đội, đồng hương ở lại. Những anh em đất thánh ở lại kia biết đến lúc nào chúng tôi sẽ lại gặp nhau, và lúc đó người nào không về được?
Bỏ lại đằng sau những địa danh đã in dấu chân chúng tôi qua đường 12, Tà ben, sông Sen, Đồi Đá 94 và…
Đến hôm nay sau gần một tháng nằm điều trị tại V19, sức khỏe tôi đã khá hơn, một vòng bột trắng nặng chịch ôm quanh người tôi từ giữa hông lên gần nách khiến tôi vận động rất khó  khăn. Nằm viện buồn quá, phải ghi lại những đau buồn đã qua và cũng là để giết chết thì giờ về nghĩa, lấp đi những gì trống trải trong lòng. Phải nằm sấp trên giường mà viết vậy.
Lúc này đã vào giữa tháng 6, mùa mưa đã chính thức bắt đầu, nước ở dòng sông Sen dâng tràn đỏ ngầu, gây rất nhiều khó khăn cho việc vận chuyển ở vùng này. Năm nay mùa mưa đến muộn hơn, nhưng những dấu hiệu ban đầu đã khiến người ta lo lắng cho một mùa mưa ác liệt hơn sẽ tới và đang tơi. Mới đầu mùa địch đã tăng cường hoạt động mạnh, địch từ trong dân ra, từ ngoài biên vào, những tiếng mìn nổ, những chuyến xe bị phục, những cáng thương binh… Cả đoạn đường xe từ tỉnh lên sư 307 hầu như không còn một chiếc cầu nào.
Đáng lẽ ra lúc này chúng tôi đã có mặt tại Hà Nội và đang sống những ngày vui sướng nhất. Nhưng mảnh đất ác nghiệt này, kẻ thù thâm độc này đã ngăn cản chúng tôi. Chúng tôi đã tỏ ra bất lực trước dòng sông Sen, đã qua rồi lại phải quay lại. Người thì phải nằm lại yên nghỉ mãi mãi. Hạm và Điệp, trẻ như tôi, Đại, Tuấn thì một tháng nay vẫn chưa qua nổi dòng sông này. Xe qua đồi Đá rồi bỗng dưng chẳng ai còn biết gì nữa, khi tỉnh lại thì mỗi người một nơi, một hố mìn tăng rộng hoác đã bắt chiếc xe dừng lại và quăng chúng tôi xuống đường. Oái ăm thay, tất cả bốn thằng lính Hà Nội chúng tôi đều bị chấn thương không dậy được, anh em đưa chúng tôi lên xe quay về viện 19. Nhưng dọc đường Hạm đã tắt thở, còn Điệp vì bị gẫy xương đùi và bị choáng quá mạnh nên khi đến viện mặc dù được cấp cứu ngay cũng không qua khỏi. Còn lại hai chúng tôi đều bị chấn thương cột sống phải nằm bất động.
Ôi! Thế là H + Đ đã ra đi thực sự rồi. Có lẽ nào sự thật lại phũ phàng thế chăng? Sáng nay chúng tôi còn ngồi chung xe, còn cười, còn vui khi nghĩ đến ngày đặt chân lên đất Hà thành. Thế mà trưa nay… Chả lẽ nào đêm qua lại là đêm cuối cùng tôi ngủ cùng với Hạm, lẽ nào…? Lẽ nào…? Sự thực đau xót là vậy mà tôi đâu có tin là sự thực. Các bạn của tôi ra đi đột ngột quá, nhưng lại rất lặng lẽ, bình thản không một lời dặn lại. Thương tiếc các bạn quá! Đau quá! Đau như đứt ruột ấy mà mắt cứ ráo hoảnh, trừng trừng. Tôi muốn kêu lên, thét lên trước sự thật phũ phàng này. Ôi, điều mà chúng tôi mong ước bấy lâu nay đến hôm nay đã trở thành sự thực rồi, đứa nào cũng vui, cũng sướng khi được cầm tờ quyết định, thế mà chỉ còn đường về thôi, chỉ cần qua một đoạn đi ngắn khoảng vài km, vài trăm mét… Rồi vài mét nữa thôi mà cũng không được. Chiếc bánh xe đi trật đường, một tiếng nổ, thế là các bạn tôi phải nằm lại, nằm lại vĩnh viễn bên mảnh đất này. Mẹ ơi! Thế là con của mẹ đã xa mẹ thật rồi, đứa con mà Mẹ mong ngóng từng giờ, từng ngày đã không bao giờ trở về bên Mẹ nữa. Vắng con yêu Mẹ biết sống ra sao. Và chiều nay Mẹ nào có hay, Mẹ lại ra đứng tựa cửa trông về phía trời xa chờ mong con của Mẹ trở về. Mẹ vẫn tin con của Mẹ sẽ về với Mẹ! Mẹ ơi! Con của Mẹ ra đi rồi, sẽ có những đứa con khác làm con của Mẹ: chúng con đã nói với nhau rồi: chúng con có chung một Mẹ.
Hạm, Điệp ơi! Nhớ lại ngày nào chúng ta gặp nhau ở C4 huấn luyện ấy. Trước kia nào chúng ta có biết nhau, thế mà chả mấy chốc chúng ta đã thân nhau và gắn bó với nhau, gắn bó cho đến tận bây giờ và còn mãi về sau nữa. Bởi vì chúng ta đã hiểu nhau quá và có nhiều nét đồng cảm nữa: gia đình, bản thân, cuộc sống với những ước mơ. Ngay cả cho đến khi sang đây cũng thế thôi. Cuộc sống chiến trường khiến chúng mình càng gần gũi hơn, càng đậm đà hơn. Mỗi đứa mỗi đơn vị đó nhưng vẫn thường xuyên lo lắng săn sóc nhau đó! Săn sóc lo lắng khi một đứa thiếu thốn, ốm đau gặp khó khăn, lo lắng trong mỗi chuyến công tác của bạn và cũng phấn khởi, vui cười khi bạn trở về bình an, mạnh khỏe.


Hạm, Điệp ra đi đã để lại trong tôi một sự trống trải lớn không gì lấp nổi cả về hiện tại cũng như về cuộc sống sau này. Cuộc đời tôi về sau này sẽ mãi mãi thiếu một cái gì đó lớn lao, cần thiết. Trước kia ở đơn vị chúng tôi đâu có chịu vắng nhau, một tuần không nhìn thấy nhau là nhớ lắm rồi. Hạm người cao, mảnh người, trán cao thông minh, tính tình sôi nổi, chân thực thẳng thắn và nhiệt tình với bạn. Hạm có cái nhìn nhạy bén về mọi vấn đề, thường đưa ra những vấn đề buộc người khác phải tranh luận và luôn bảo vệ ý kiến của mình bằng những lập luận, phân tích chắc, sát. Hạm là người có nhiều ước mơ và có sự nhiệt tình ham mê đến cao độ đối với khoa học. Hạm là một người con hiếu thảo với cha mẹ. Bố mẹ Hạm già cả rồi. Hạm là con út mới học xong đã phải ra đi, chưa giúp đỡ gì cả nên Hạm rất thương bố mẹ già yếu ở nhà. Chính vì vậy mà Hạm đã xác định con đường đi của mình rất rõ ràng dứt khoát, xác định rõ cả những khó khăn mà mình sẽ phải gặp và luôn mong mỏi vào ngày trở về - một ước mong cháy bỏng ở H đó. Và ở H còn có một nét riêng nữa là hay nghĩ ngợi nhiều khi mất ngủ: nghĩ về gia đình, về hiện tại của bản thân. Nhiều lúc trầm lặng xuống, tôi đã nhiều lần nhìn thấy nét mặt buồn đó. Chính những lúc nghĩ ngợi, buồn bã đó đã thúc giục H mau chóng phải trở về, đã làm giàu thêm những ước mơ ở H, đã thức đầy mạnh mẽ hơn sự ham mê trong con người đó và càng làm nảy sinh nhiều dự kiến mới trong tương lai.


Tôi đã phải học ở H rất nhiều. Tuần nào tôi cũng phải tìm cớ gặp H, giao báo ban cũng tạt vào, có việc đi qua cũng tạt vào, rồi ngày nghỉ, có lúc một chốc, lúc cả buổi, có khi cả ngày thường là để trò chuyện với nhau tất cả cả những gì chúng tôi quan tâm. Thường những lúc đó H luôn sôi nổi hơn tôi, tôi đi lại với H đến nỗi có người nhầm tưởng chúng tôi là anh em, họ bảo hai đứa có nét mặt rất giống nhau. Mà làm sao tôi giống H được cơ chứ. Chúng tôi vẫn thường nói với nhau sau này chúng tôi mãi mãi bên nhau. Thế mà giờ đây… Mất H rồi tôi mất đi một người bạn hết sức tốt, mất đi sự tin cậy, và để lại trong tôi một sự trống trải vô cùng lớn không ai lấp nổi.
Còn Điệp cũng đã để lại trong tôi những ấn tượng đẹp đẽ, tôi và Điệp thì có ít điều kiện để gặp gỡ nhưng nếu có dịp nào đấy thì bộ ba chúng tôi nhất định đầy đủ không thể thiếu một ai. Điệp cũng có hoàn cảnh gia đình khác hoàn cảnh gia đình tôi. Điệp một con người dễ thương, sống có tình, nét mặt phúc hậu, hay cười, tính sôi nổi nhưng lại điềm đạm. Cùng có một ước vọng cháy bỏng như nhau, chúng tôi đã gắn bó với nhau. Thế mà đến lúc này chúng tôi lại xa nhau. H, Đ ra đi để lại tôi một mình. Tôi thấy mình càng phải có trách nhiệm nhiều hơn với bạn. Một trách nhiệm cho mãi về sau.

Cùng cuốn sổ nhật ký, Minh còn trao cho tôi một số thư từ của Hạm. Khi Hạm hy sinh, Minh đã báo tin buồn này cho chị Phạm Kim Oanh, người bạn gái thân thiết của Dương Công Hạm. Và Oanh đã viết thư trả lời Minh khi nhận được tin đau này. Chúng tôi xin trích ra đây một phần bức thư của chị Phạm Kim Oanh.

Thành phố Hồ Chí Minh ngày 21-10-82
Bạn Minh thân mến!
Mấy ngày nay, tôi nhận được thư của mấy bạn học cùng phổ thông vì tưởng tôi chưa biết nên họ báo tin Hạm hy sinh cho tôi hay. Tôi vô cùng đau đớn khi đọc những dòng chữ đó. Cho đến bây giờ, nhiều khi tôi vẫn bàng hoàng không hiểu đây là một sự thật phũ phàng hay chỉ là một giấc mơ phũ phàng? Nhưng những lá thư của anh Các, của bạn và mọi người đã phá vỡ các ảo tưởng của tôi, trời ơi, đây lại là một sự thật, một sự thật… Không, Minh ạ, tôi muốn tin rằng đây là một sự nhầm lẫn, phải chăng trong chiến tranh sự nhầm lẫn là thường tình?
Tôi thấy như trời mưa và tất cả tối sầm lại trước mắt tôi. Tôi không thể cầm được nước mắt khi viết thư cho bạn. Chao ôi! Sao sự thật lại cay đắng, xót xa đến vậy! Chiến tranh, chia ly xa cách - những cái đó thật là khủng khiếp biết bao, vì nó mà bao nhiêu cuộc đời phải chịu những vành tang trắng, những đau đớn suốt đời không nguôi, những mất mát chẳng có gì bù đắp nổi… Tôi nghĩ mãi mà không hiểu tại sao con người ta lại bị ngăn cách nhau bởi cái sống và cái chết? Tại sao số phận con người lại khắc nghiệt đến vậy? Đã gần 5 tháng rồi, người bạn thân thiết nhất đời của tôi đã phải nằm xuống, đã phải trở về thiên cổ, những ước mơ mà Hạm đã nuôi dưỡng suốt 4 năm trời sẽ không là hiện thực nữa. Tôi đã mất đi một người bạn thân thiết, gần gũi nhất của thời thơ ấu, thời thanh niên; người bạn mà tôi rất kính trọng và quý mến. Tôi không thể chịu đựng nổi sự mất mát quá to lớn này, nếu như không vì những người thân quanh mình chắc là tôi không sống nổi. Thế là đã 10 năm rồi, chúng tôi thân nhau. Biết bao kỷ niệm đã gắn bó tình bạn chúng tôi. Những cái đó đối với tôi là vô cùng thiêng liêng. Giờ đây, kỷ niệm vui buồn đó lại sống động trong lòng tôi một cách rõ rệt nhất những điều tưởng chừng như vụn vặt nhưng nó đã làm thành toàn bộ cuộc sống của tôi. Bao giờ tôi cũng mong muốn tình bạn chúng tôi mãi mãi tốt đẹp, mãi mãi vững bền. Phải nói rằng, những gì tốt đẹp mà tôi đạt được một phần rất lớn là nhờ ở Hạm. Tình bạn chúng tôi đã giúp tôi vượt qua khó khăn, đau buồn, những thử thách của cuộc sống. Ước mong lớn nhất của tôi bao giờ cũng là một ngày nào đó Hạm được trở về và Hạm sẽ thực hiện được ước mơ mà Hạm đã bao lâu dày công vun đắp và mong đợi.
Đêm nay trăng sáng làm sao. Vầng trăng đó trước kia là nỗi nhớ, là tình thương, là những gì cao đẹp nhất mà tôi dành cho Hạm, bây giờ nhìn lên tôi chỉ thấy một nghĩa trang rộng lớn với những nấm mộ mà thôi. Dù người ta nói thật đúng rằng: trăng thật sáng và đẹp nhưng trong những căn nhà mà trăng làm cho bề ngoài có vẻ đẹp hẳn lên biết bao tâm hồn đang quằn quại vì những đau thương, những nỗi khổ không bao giờ cạn?
Tôi muốn hỏi bạn nhiều chuyện, muốn vô cùng nhưng nhiều khi tôi thấy khó diễn tả trong thư quá, có lẽ nói với nhau bao giờ cũng dễ hơn. Trước hết tôi muốn hỏi bạn mộ Hạm bây giờ đặt ở đâu? Có phải ở nghĩa trang Xiêm Riệp không? Thời gian ở bên đó, bạn có điều kiện đến thăm mộ của Hạm lần nào chưa? Và khả năng mai sau mộ Hạm có thể được chuyển về nước? Bạn cũng là một bạn thân của Hạm, vì thế bạn chắc hiểu Hạm nhiều và như bạn nói, bạn biết nhiều về tôi. Tôi rất mong muốn qua những lá thư sau bạn hãy kể lại những kỷ niệm về những năm tháng ở chiến trường, về tình bạn giữa Hạm và bạn. Tôi rất muốn biết nhiều về cuộc sống, về những ngày tháng gian khổ mà Hạm đã trải qua, những vùng đất nào mà Hạm đã đến. Bạn ạ, xưa kia qua những lá thư Hạm luôn nói với tôi rằng ngày trở về Hạm sẽ kể nhiều chuyện cho tôi nghe, tôi vô cùng khao khát được muốn nghe những mẩu chuyện về những năm tháng trong chiến đấu của Hạm. Suốt những năm tháng ở đại học tôi đã mong chờ những ngày đó biết nhường nào nhưng giờ đây thì Hạm đã không còn nữa. Tôi vô cùng đau đớn và thương tiếc Hạm! Biết bao nhiêu chuyện mà chúng tôi đã không nói được với nhau và vĩnh viễn… Và những kỷ vật của Hạm trong đó có lá thư của tôi giờ đây ai giữ?
Tôi rất muốn được giữ kỷ vật đó.
Còn một chuyện này, tôi đã suy nghĩ rất nhiều, giờ đây tôi quyết định sẽ hỏi bạn. Bạn còn nhớ đợt anh Các về phép và đã mang hộ thư của Hạm gửi cho tôi? Từ ngày đó trở đi tôi không nhận được một lá thư nào của Hạm. Không hiểu những lá thư tôi gửi trong năm vừa rồi Hạm có nhận được không? Tôi suy nghĩ nhiều nhưng không hiểu được tại sao tôi không nhận được một lá thư nào của Hạm. Nếu Minh biết, mong rằng thư sau bạn hãy nói cho tôi rõ sự thật. Tôi hiểu rằng có thể bạn sẽ đắn đo khi trả lời câu hỏi trên của tôi vì bạn sợ tôi buồn, nhưng tôi thiết tha mong muốn bạn hãy viết cho tôi, nói cho tôi hay sự thật một cách thật chân thực nếu bạn biết dù đó là sự thật thế nào chăng nữa. Một lần nữa, tôi rất thiết tha về vấn đề trên cả tôi và bạn sẽ nói một cách rất thật và đầy đủ cho nhau biết.
Cuối cùng, tôi chúc bạn luôn mạnh khỏe, đạt được mọi ước mơ trong cuộc sống. Tôi rất mong thư bạn.
(Phạm Kim Oanh 76 Nghĩa Thục, Q5, TP HCM)
Bạn
Phạm Kim Oanh,
(Hình)
Binh nhì Dương Công Hạm (Ảnh chụp tháng 11/1978 ở Hà Nội trong lần về phép trước khi vào chiến trường K).
Đôi bạn Đoàn Văn Điệp và Dương Công Hạm trên đất Cam-pu-chia (tháng 10/1980)

Trích nhật ký của chị Doanh, chị gái của Điệp

Hà Nội ngày… tháng… năm 2000
Cứ đến hè hoa phượng nở đỏ rực trên các hè phố Hà Nội, những tháng năm này cả nhà ai cũng nhớ đến em… Ngày mong em trở về để được đoàn tụ gia đình sau bao năm chờ đợi. Mong đợi cái ngày em về để trường Đại học Y dang tay đón nhận em. Một người lính đã hoàn thành nghĩa vụ quốc tế. Song ngày ấy không còn nữa và em đã ra đi thật xa… Hè năm nay bố mẹ, anh, chị, và cậu Đằng mong tìm được mộ em đã xa cách bao lâu rồi, ngoài Tô quốc hay trong đất nước mình… Khi được biết tin cậu Liên, một người tìm mộ rất giỏi, cả nhà bố mẹ, chị đã tìm đến nhờ cậu. Người nhờ xem rất đông, song cả nhà đã kiên trì chờ gặp được cậu Liên. Gia đình đã nhờ được chú phóng viên ở Gia Lai chụp được ở nghĩa trang Plâyku (qua ảnh cậu Liên nói đó là mộ của em). Thế là một ngày đẹp đầu tháng 6 cả nhà lên tầu vào Gia Lai tìm em… Bố, cậu Đằng, chị ruột của em đã lên đường. Ngồi trên tầu cả nhà mong được gặp em lắm. Chị luôn khấn trời phật phù hộ cho chuyến đi này. Khi xuống tầu tới Qui Nhơn để lên Gia Lai, trời mưa rất to, ngồi trong ô tô lên Gia Lai chị đã khóc. Khóc nhớ cái ngày cách đây 19 năm khi về phép, em trở lại đơn vị cũng mưa như những ngày hôm nay. Mưa xối xả qua kính ô tô, trong lòng chị nhớ thương em nhiều hơn… Bố và cậu Đằng ngồi cạnh chị trên xe - chắc cả nhà cũng cùng trong tâm trạng - Mưa! Mưa lạnh, chị cũng lạnh,  nghĩ đến em nằm nơi đâu có lạnh không em. Em nằm đó cùng đồng đội trên cao nguyên - có biết rằng người chị gái nhớ thương em bao năm ròng… Xe cứ chạy chạy mãi, trời tối dừng ở một khách sạn ở thành phố Plâyku. Cả nhà đã vào nghỉ tại đây. Song bố và chị không sao ngủ được, chỉ mong cho chóng sáng để được ra nghĩa trang được gặp em…
Suốt đêm bố và chị nói chuyện về em… về những ngày em nằm tại nơi đây khi mùa nước đến!... Cũng thành phố này nhưng chắc ngày ấy là những bìa rừng cảnh lán trại căn cứ của đơn vị. Sau mưa rét em mới trở lại Cam-pu-chia. Và ngày trở lại thì có, mà ngày trở về đâu còn nữa… Và bây giờ em lại nằm lại nghĩa trang Plâyku này. Sáng hôm sau khi cả nhà lên ô tô ra nghĩa trang nơi em nằm… Sáng nay đi sao lòng chị và bố xúc động quá. Mỗi bước chân lên tới nghĩa trang là bố và chị như nhìn thấy em, trong màu áo lính đã sờn, ngôi sao lấp lánh trên mũ - và đang mỉm cười đón bố và chị. Khi thắp nén nhang đầu, trên mộ em và đồng đội - đã thấy em về - tim chị bị bóp lại, toàn thân chị lúc ấy không còn là chị nữa. Chị chỉ còn gào thét tên em. Điệp ơi! Điệp ơi. Bố và chị - cậu Đằng đã ở ngay cạnh em đây! Em ơi! Sau 18 năm rồi còn gì, cả nhà mong em, giờ mới tìm lại được em. Đúng là em của chị rồi, trái tim chị bị bóp nghẹn, chân tay chị không còn đứng vững được. Chị gặp em rồi. Bố mẹ và cả nhà giờ này đang mong tin em đây! Bố gọi điện về cho mẹ và cả nhà. Rồi sau đó cả nhà bố, chị và cậu trở về xin làm thủ tục và rước đón em về. Nơi quê nhà cội nguồn của Tổ tiên. Xe con băng băng qua bao con đường mòn của cao nguyên. Hai bên là những cánh rừng già, xe bon bon suốt đêm qua bao cầu bao sông - suốt quốc lộ. Một đứa em trở về trong vòng tay thương yêu của gia đình, cô dì, chú bác, anh chị em. Và những người bạn của em ở tuổi học trò ngày nào. Hôm nay đây… những ngày của hoa phượng nở đỏ… Nghĩa trang thành phố - Ngọc Hồi nơi sinh ra Tổ tiên ông bà của em đã đón nhận em về trong lòng đất của Tổ tiên sau bao này xa cách… Lễ đón nhận liệt sỹ được cử hành rất long trọng – tất cả các cơ quan, đoàn thể, họ hàng cô dì chú bác - các bạn của em đến tiễn em. Nấm mồ xanh trong nghĩa trang nơi em nằm đây yên nghỉ, vẫn những ngày hè, hoa phượng nở đỏ rực như mừng vui cùng gia đình đã đón được em về gần gũi… Em lại được nằm đây cùng đồng đội với những cây xanh rì rầm với những bông phượng nở đỏ rực…
Cả nhà bây giờ sẽ lại được gần em. Nhất là bố mẹ và chị, anh, em của em. Với những ngày nghỉ, chủ nhật lại được hương khói cho hương hồn em - một người lính trong trắng, được tất cả mọi người yêu quý em.
Em mãi mãi trong lòng của tất cả mọi người.
Người lính trẻ - Đoàn Văn Điệp.
Ngày… tháng… năm 2000
Chị gái em
Đoàn Thị Doanh

Chị Doanh còn kể cho tôi nghe câu chuyện khá li kỳ về việc nhờ vả nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Liên tìm thấy mộ Điệp ra sao. Thỉnh thoảng tôi tạt qua phố Lê Văn Hưu nói chuyện với chị Doanh. Chị có một quán nước nhỏ bên hè phố. Cũng có lần gặp cả Nguyệt, em gái Điệp. Hai chị em còn cho tôi biết thêm vài chi tiết về cái chết của Điệp. Chẳng hạn, không hiểu sao, trước ngày phục viên, Điệp lại gói tất cả thư từ và nhật ký của mình vào một bọc rồi gửi cho một người bạn trai rất thân của Điệp là bác sĩ Trần Việt. Lúc này bác sĩ Việt đang tu nghiệp ở Mỹ. Điệp và Việt là những người bạn thân nhau từ hồi phổ thông cùng thi và đỗ vào Đại học Y khoa Hà Nội. Hiện nay Việt vẫn giữ tất cả những kỷ vật cuối cùng đó của Điệp.
Nguyệt còn kể, ngày Điệp mất, đám bạn học phổ thông đến chia buồn. Hai cô bạn gái Liên và Hằng mới kể lại, rằng dạo trước khi thi đại học, cả bọn kéo nhau đi xem bói. Ông thầy phán về Điệp là: “Cậu này sẽ chết ở nơi đất khách quê người”. Các bạn mới bảo: “Điệp ơi, mày học giỏi làm gì để mà sang Liên Xô rồi chết ở bên đó!”. Vì dạo ấy ai cũng nghĩ đỗ đại học điểm cao sẽ được đi Liên Xô. Có ai ngờ “đất khách quê người” với Điệp lại là Cam-pu-chia!
Còn Hạm, Minh lùn cứ hay nhắc lời Hạm ví “con tốt sang sông”, còn tôi lại cứ nhớ trên tầu vào Nam, tháng 11 năm 78 ấy, chưa ai biết đi đâu, làm gì, mà sao Hạm đã linh cảm trước cảnh “người còn kẻ mất”? Và nhiều người khác cứ nhắc chuyện ăn thịt chó chết, lại là chó mực nữa. Đen vô cùng là đen.
Một ngày hè năm 2001, cùng một số anh em, tôi về thăm tại Đồng Bông, Phú Tường, huyện Lạc Thủy, Hòa Bình, nơi những gia đình đồng bào Mường và Kinh đã cưu mang, cho chúng tôi ở nhờ những ngày huấn luyện. Tôi vào thăm gia đình anh Quách Công Đệ ở thôn An Bình. Anh đã biết tin Hạm và Điệp hy sinh. Tin do anh Quách Văn Quý, người thôn này nhận khi đi liùnh, 1974, cũng ở trong trung đoàn 29 chúng tôi, về kể. Hăm hai năm đi lại con đường ngày xưa, nơi mỗi chiều, có ngôi sao Mai chơi vơi trên ngọn tre bên đường, Hạm và Điệp, sau khi ăn cơm ở bếp đại đội về, mỗi người còn múc thêm một bát nước rau muống luộc, vừa đi vừa uống “để trong người có thêm chất vitamin”. Đây vườn sắn bên chân núi, nơi một chiều Hạm ngồi ứa nước mắt nhớ Hà Nội. Đây cái giường trong nhà anh Đệ, nơi tôi và Hạm cùng nằm, vẫn còn nguyên, tuy đã có vài đường mọt ăn. Đây thung lũng, nơi thao trường ngày xưa, chúng tôi cùng lăn, lê, bò, toài, giờ đầy khoai sắn. Đây con đường qua hẻm núi, một tối Hoàng An đã đảo ngũ, băng qua. Đây bờ đập sáng sáng chúng tôi tập thể dục, hô “1-2-3-4” âm vang non nước. Một đoạn được ngắn mà đầy kỷ niệm. Tùng, An, Hạm, Điệp mãi mãi không được về thăm lại nơi này.
22 năm, những người dân nơi đây vẫn nhận ra chúng tôi, tên từng đứa một. Anh Đệ tặng tôi con sóc đỏ mới bẫy được. Chúng tôi mời các anh ra Hà Nội, thăm nhà chúng tôi. Khi đến đây mới 18 tuổi tròn. Lúc quay lại đầu đã hai thứ tóc, song tình cảm vẫn như xưa, nhớ ơn những người nghèo khi đã nhường cơm chia nhà cho chúng tôi.


Thứ sáu 20 tháng 4 năm 2000


Buổi trưa, đi ăn cơm bụi. Bà chủ quán đong cho bát cơm khê. Tôi nói với người bạn đi cùng:
- Cơm này, thời lính chắc có nhiều người bỏ lắm đây.
Thế là câu chuyện của chúng tôi liền xoay quanh chuyện cơm khê, cơm sống. Không biết tự bao giờ, trong đời sống hàng ngày của lính, lưu truyền cái tục kiêng ăn cơm sống, cơm khê, cơm nát. Bởi ăn cơm sống: gặp địch; ăn cơm khê: gặp đích; ăn cơm nát: cũng gặp địch. Mà đã gặp địch thì trường hợp bị thương hoặc hy sinh thường rơi vào người ăn sống hoặc cơm khê.
Tôi nhớ năm 79, đang hành quân, chẳng may một bữa trưa, anh nuôi nấu cơm khê, Cường “phở” lính 74, quê Hải Phòng, cầm vắt cơm, quăng ngay đi, chửi rầm trời suốt chặng đường, kể cả lúc giải lao, chửi đến tận chiều tối. Lại còn dọa bắn anh nuôi nữa. Ông Hán, thủ trưởng trung đoàn can cũng không nổi.
Sau tết năm 81, anh Liễm được ra quân về nước, hầm tôi thêm một người mới: chuẩn úy Đặng Văn Độ, trợ lý tác chiến. Anh Độ người Hải Phòng, cao, hơi đen, tóc dựng. Vừa đến hầm tôi, đúng bữa cơm trưa, Thuận đi lấy cơm về. Anh Độ phát hiện ra cơm khê. Nhịn luôn. Tôi và Thuận cứ ăn. “Ăn cơm khê cho thơm miệng” - Thuận đùa. Vừa ăn, chúng tôi vừa nghe anh Độ kể:
- Đơn vị mình vừa chết một thằng. Tên nó là Cải. Thằng này nổi tiếng là ky bo nhất đơn vị. Không bao giờ cho ai cái gì. Ai cũng ghét, không chơi với hắn. Anh em thèm thuốc rỏ rãi mà hắn vẫn hút một mình. Đến tàn thuốc cũng giấu đi, nhưng chiều qua tự nhiên ông tướng lục ba lô, cho người này cái áo, cho người kia chiếc bi đông, còn mình thì hắn cho chiếc dây lưng. Còn bao nhiêu thuốc rê trong ba lô hắn chia hết cho mọi người.
Nhưng đặc biệt là, đến tối không phải phiên hắn đi phục, hắn vẫn xung phong đi. Hắn là tiểu đội trưởng. Khi phục, thì hắn lại phân công hai người nằm bên này đường, còn hắn nằm chếch phía bên kia. Đến khuya không hiểu thế nào, hắn Cải nà lại bò ra, nằm ngang giữa đường, đầu gối lên súng, hai tay giang ra, ngáy khò khò. Gần sáng bọn địch đi qua, gặp ông Cải chúng nổ súng bắn liền.
- Thế chiều qua đơn vị anh nấu cơm sống hay khô? – Thuận hỏi đùa.
- Vừa sống vừa khê, không biết thằng Cải có ăn không, chứ mình thì vẫn nhịn.
Tôi không biết mặt anh Cải, cũng không rõ quê anh ở đâu, song từ đó đến giờ, cái chết của anh Cải vẫn không phai mờ trong tâm trí tôi.


Thứ hai ngày 12 tháng 3 năm 2001

Đọc lại truyện ngắn “Một bữa no” của Nam Cao, tôi lại nhớ đến cái chết của trung sỹ Lê Văn Ẩm, C6, người Quảng Ngãi. Trong truyện ngắn của Nam Cao, bà cái đĩ đã phải quằn quại, mệt và chết vì bội thực sau nhiều ngày nhịn đói. Anh Ẩm của tôi cũng vậy. Anh đã chết vì một bữa thịt nai.
Anh Ẩm có dáng người cao, tình hiền lành, ít nói. Đặc biệt anh có nụ cười rất đôn hậu. Bộ ria rất “tay chơi” cũng làm nổi vẻ đẹp đôi môi đỏ của anh, dù anh hút thuốc khá nhiều. Anh vấn thuốc rất “suya”. Nhìn anh vấn thuốc, có cảm tưởng như nhìn một người thợ thủ công lành nghề đang chăm chú sản phẩm. Anh luôn phải vác B40, B41, song tôi chưa thấy anh to tiếng với ai bao giờ. Đó thật sự là một người nông dân với đầy đủ những phẩm chất tốt đẹp còn nguyên.
Mùa khô năm 80, một trung đội C6 truy quét ở khu vực nông trường mía, trên An-lung-viêng. Lương thực thực phẩm thiếu, nhưng vì nhiệm vụ, vẫn phải đi. Ròng rã nửa tháng trời, đến muối cũng gần hết và nước thì luôn thiếu.
Mùa khô hành quân thật gian nan. Mệt lả, mắt mỏi chân mỏi, ai cũng khát khao trở về. Có lần Hoàng Phê, người Khánh Hòa, bỗng truyền xuống: “Phát hiện một con đường chạy về Việt Nam!” Tin lan theo hàng quân. Tôi nghi ngờ, giữa rừng xanh núi đỏ thế này vẽ đâu ra con đường về Việt Nam? Đại đội trưởng lên kiểm tra. Thì ra mấy lính trinh sát đi đầu rỉ tai nhau và truyền xuống chỉ huy rằng: phát hiện một lối mòn chạy từ hướng bắc về hướng nam”. Tin ấy truyền đến anh chàng Phê thì bị cải biên. Anh này người miệt biển, mù chữ, chỉ biết viết mỗi tên mình nhưng chữ ê lại thiếu dấu, thành ra trên mũ anh ta lúc nào cũng có một chữ PHE nguệch ngoạc.
Đêm hôm đó, nghỉ lại giữa rừng, Hoàng Phê thắc mắc “sao mùa khô mà đi mãi không gặp vũng suối nào để bắt cá? Xứ sở của cá gì mà thế này? Đ. Mẹ, về quê tôi, ăn cá ngập đầu!”. Anh Ẩm vừa bốc gạo sấy vừa nhai vừa đùa: “Ông già đặt tên mình là Ẩm làm gì mà từ bé đến giờ lúc nào cũng đói khát”.
Bỗng một buổi sáng, đang hành quân, anh em bắn được con nai. Ngả làm thịt giữa rừng. Xoong, chậu, mắm, mỡ không có. Mọi người chỉ còn cách nướng. Sau bao ngày mệt mỏi, đói khát, được bữa thịt nai ấm chân răng. Ăn thật ngon lành. Nói cười rôm rả.
Đến trưa, trung đội trưởng Văn Châu Thanh, người Quảng Nam ra lệnh hành quân tiếp. Chủ yếu đi tìm nước uống. Bởi vừa ăn thịt nai chấm muối, ai cũng khát. Đến khoảng 2 giờ chiều, anh em gặp một con suối nhỏ. Mọi người ùa xuống. Người cứ thế vục mồm xuống uống, người múc bằng mũ cối, ngửa cổ đổ tràn vào miệng, có người còn tranh thủ ngụp cả đầu xuống. Rồi sau đó tất cả sang bờ bên kia nghỉ giải lao.
Riêng anh Ẩm không ngồi. Vẫn đeo gùi B40, anh đứng dựa vào một thân cây to, khịt khịt mũi. Bỗng anh nhăn mặt, bụng quặn lên, thở dốc. Mặt anh tái xám, mắt trợn ngược, miệng méo, nói không ra hơi. Không ai để ý đến anh. Bỗng nghe rầm một cái. Cây B40 đổ xuống. Mọi người nhìn lại, thấy anh Ẩm trợn mắt, sùi bọt mép, ngã vật ra. Gùi đạn vẫn đeo trên lưng. Y tá Đi, người Bình Định, vội chạy tới hô hấp nhân tạo, song không được. Anh Ẩm lăn lộn trên đất. Chỉ khoảng 15 phút sau đã từ trần.
Cuộc hành quân truy quét gần kết thúc phải bỏ dở. Khiêng anh Ẩm về C6 mất một ngày. Từ C6 về tiểu đoàn lại mất một ngày nữa. Tôi nhận xác anh Ẩm lúc trời đã tối. Tắm rửa, liệm, bỏ quan tài, làm biên bản kiểm nghiệm di vật tử sỹ đến khuya mới xong. Đêm đó tôi ngồi viết điếu văn để mai chôn anh sớm.
Y tá Nguyễn Đi kể, mấy hôm trước khi chết, hôm nào anh Ẩm cũng kể: “Đêm qua lúc gác tao ngửi thấy mùi thịt nướng. Thơm điếc mũi”. Anh em trêu Ẩm. Song Ẩm vẫn khát khao “sẽ được ăn một bữa thịt nướng chết bỏ”. Đi vừa kể vừa cười, cái mũi tẹt phập phồng. Anh ấn chiếc võng vào ba lô, buộc lại rồi đứng lên: “Tui đi đây. Đừng buồn, đồng hương. Ông Ẩm chết thế là mãn nguyện rồi. Tui đây mà chết thì chẳng có gì để lại đâu”. Đi cười và bước nhanh.
Con người ấy sống quá đỗi hiền lành. Những ngày tôi đi phối thuộc với C6, với giọng rủ rỉ rù rì, anh thường kể cho tôi nghe chuyện đồng quê anh, chuyện con bò nhà anh ăn hết ruộng mía ra sao, chuyện ông già anh khỏe thế nào, 60 tuổi vẫn bơi qua sông cứu thuyền đắm thế nào… Hình như tôi không thấy anh văng tục một câu. Đọng mãi trong tôi, anh cười thật hiền, đôi mắt đen láy, nụ cười thật tươi, tầm thước thật đẹp, bước đi thật dài.


Chủ nhật 18 tháng 3 năm 2001

Chương trình thời sự của Đài truyền hình Việt Nam có đưa tin về công việc đánh bắt cá của bà con ngư dân Phú Yên. Giọng nói của những người dân Phú Yên có một âm sắc thật riêng, thật lạ. Giọng đó sâu hơn giọng Ba Vì, hơi dính. Lúc đầu có vẻ khó nghe. Nhưng đã nghe một lần thì không bao giờ quên.
Mỗi lần nghe giọng nói ấy, tôi lại nhớ đến em Cường, chàng trai Phú Yên vóc người nhỏ, gầy, mặt nhiều tàn nhang. Em đã chết trong một buổi chiều mùa khô trên đường gùi gạo từ Cam Tuất về An-lung-viêng.
Tôi gọi Cường là em vì em còn trẻ lắm. Nhập ngũ năm 1980, phải vào ngay chiến trường ác liệt là tiểu đoàn tôi ở An-lung-viêng. Dạo ấy, trong đơn vị, chúng tôi đã là cựu binh bởi sau chúng tôi còn có nhiều lớp lính nhập ngũ các đợt của năm 79 và 80. Cường về trung đội thông tin của tôi. Tôi nuôi đàn gà con. Nhìn những lính trẻ như Cường, sao tôi thấy thương các em, chiêm chiếp, chiêm chiếp như lũ gà con đến kỳ bị mẹ bỏ rơi.
Sáng hôm ấy, tôi gặp Cường, tay cầm dao, run run đi trong rừng. Mặt tái mét, mồ hôi đầm đìa. Ánh mặt vàng vọt, run rẩy. Từ gương mặt ấy tôi thấy tỏa ra mùi ung ủng thối như mấy bông hoa phù dung ở gần nhà bếp đang rữa ra dưới mưa. Cái mùi tàn úa ấy sao lúc này lại tỏa ra từ gương mặt Cường?
- Cường, sao không về nghỉ? - Tôi hỏi.
- Anh Lang vẫn bắt em đi chặt cây. - Cường ứa nước mắt.
Tôi chạy đi tìm Lê Quỳnh Lang. Tôi vừa xa trung đội thông tin được ít ngày, có thể anh Lang còn nể.
- Anh Lang, thằng Cường đang bị sốt rét, sao anh không cho nó nghỉ?
- Trung đội hết người rồi. Cử nó đi chặt cây cũng là để nó cử động chân tay…
Trong thời điểm gay go ấy, thông tin chẳng khác gì bộ binh. Canh gác, truy quét, đi phục, gùi đạn, gùi gạo, đào hầm… Dạo ấy, chúng tôi phải làm cả hàng rào chống B40. Bọn địch hay bắn vào nhà hầm. Chúng tôi phải đi chặt những cây gỗ to, dựng sát vào nhau ở phía sau nhà thành một bức tường cao từ 4-6 mét. Nhiều lần địch tương B40 vào nhà hầm, may có hàng rao đó nên anh em đỡ thiệt mạng.
Nghe Lang thở dài nói, tôi hiểu hoàn cảnh của anh và Cường. Tranh thủ lúc rỗi, tôi đi giúp Cường chặt và khiên cây về.
Sáng hôm sau, trong đoàn quân đi gùi gạo, tôi lại gặp Cường. Em lại vẫn đang lên cơn sốt rét. Tôi xin Lang cho Cường nghỉ, vẫn không được. Lý do là hết người. Và Cường vẫn đi, vẫn gùi gạo như mọi người. Có điều em đi lật đật phía sau. Gùi gạo nặng quá. Em bước đi loạng choạng, không dẫm đúng theo dấu chân những người đi trước. Qua khỏi suối, em giẫm mìn. Em chết. Mắt vẫn mở trừng trừng, như ngạc nhiên, như không kịp kêu đau đớn. Ôi, rất trẻ. Mới 18 tuổi đầu.
Chúng tôi khiêng em về. Xuống anh nuôi, xin nước nóng, rửa ráy và vuốt mắt cho em. Lạy trời, lạy Phật, lạy em mãi, mắt em mới chịu nhắm. Khiêng thân hình gầy guộc của em vào quan tài, nhẹ bẫng mà lòng tôi nặng nề.
Lúc chôn em, tôi vẫn phải gắng gượng cứng cỏi đọc điếu văn.
Đã chôn bao nhiêu đồng đội, nhưng bao giờ tôi cũng không dám là người đầu tiên ném nắm đất  xuống quan tài. Tôi vô cùng sợ cái âm thanh của viên đất rơi xuống ván thiên. Bởi tôi sợ nghe tiếng đó vang trong mơ.
Em Cường đã chết. Tôi vẫn nhớ gương mặt đau khổ của em lúc bị sốt rét vẫn phải làm việc, và giọng Phú Yên của em như vẫn đang phân trần với tôi. Và cái mùi hoa phù dung tan rữa dưới mưa tỏa ra trên gương mặt em. Sau này, đọc E. Hemingway, tôi nhớ ông kể về một võ sỹ đấu bò tót bị bò húc chết bởi trên gương mặt anh ta từ hôm trước đã tỏa ra mùi chết. Phải chăng mùi hoa phù dung đang tan rữa trên gương mặt Cường cũng là mùi chết?


Thứ tư 21 tháng 4 năm 2000

Thỉnh thoảng tôi gặp trên đường phố một vài người sinh viên có gương mặt giống Dương Công Hạm hoặc ai đó có nét hao hao giống Nguyễn Xuân Nhật Minh hay Hoàng An. Những cuộc gặp gỡ lặng lẽ, đơn phương đó mang đến cho tôi một niềm cảm động, rằng những đồng đội thân yêu của tôi hình như vẫn còn sống đâu đó quanh tôi.
Những lúc gặp đạo diễn Đặng Xuân Hải, Giám độc điện ảnh quân đội, tôi nhận thấy anh Hải có nụ cười giống anh Tô Văn Than, đại đội trưởng đại đội 6 của chúng tôi. Có điều đôi mắt anh Than to hơn, dài hơn, lấp lánh hơn; dáng người anh Than cao và chắc khỏe hơn, ra dáng một cán bộ chỉ huy quân sự hơn.
Nhưng anh Than đã hy sinh rồi.
Một buổi sáng đầu mùa mưa năm 80, tôi vừa thức dậy đã thấy anh Than đứng trước cửa hầm. Đêm qua thức nấu rượu với anh Liễm nên tôi dậy muộn. Nồi rượu vẫn đang chảy vào chai huyết thanh. Thấy anh Than đến, anh Liễm rót rượu ra mời, bốn bát bốn người. Thêm Huỳnh Đức Thuận. Anh Liễm cười, giọng chủ xị:
- Rượu đầu be đấy. Uống vào bổ lắm!
Anh Than cười và đùa:
- Chốc ra kia, không bổ ngang thì bổ ngửa như chơi.
Cứ mỗi lần chúng tôi ép, anh lại nhắc đi nhắc lại câu này. Vừa nói vừa cười rất tươi. Gương mặt anh rượu vào ửng hồng rất đẹp. Có ai ngờ trên gương mặt đó đã đượm mùi tử khí?
Chúng tôi vừa nhấp môi thì chính trị viên tiểu đoàn Nguyễn Văn Vẳng bước từ trong hầm tiểu đoàn ra, gọi:
- Này Than, về xem đơn vị thế nào. Anh em đi tuần phát hiện bãi mìn ngay lối vào đơn vị đấy.
Anh Than mới về làm đại đội trưởng C6 được hai tháng. Đơn vị anh mới rút từ trên núi về đứng chân gần tiểu đoàn. Uống nốt chỗ rượu, anh Than vội đi.
Khoảng 10 phút sau, chúng tôi nghe có tiếng mìn nổ phía C6. Tin điện sang tiểu đoàn: anh Than vấp mìn. Cùng lúc đó, chiếc võng cáng anh Than được khiêng tới. Anh nằm im trên võng, như đang chìm vào giấc ngủ đau đớn.
Rồi chúng tôi liệm anh, đặt anh vào quan tài. Người anh quá dài nên phải nối quan tài ra.
Chôn anh Than buổi sáng trời thật đẹp. Những cây khộp khô đang xòe những chiếc lá xanh non. Bầu trời cũng xanh như tán lá. Câu nói lúc uống rượu của anh Than cứ ám ảnh mãi trong tôi. Mà sao anh cứ vừa cười vừa nhắc đi nhắc lại đến mấy lần?
Lúc làm biên bản kiểm tra di vật tử sỹ, tôi thấy có một lá thư của anh Than viết cho vợ nhưng chưa kịp gửi. Thư đã dán kín và có tem nên tôi không thể đọc. Trong trích ngang, thú thực là tôi không còn nhớ quê anh ở đâu. Mãi đến ngày 21-8-2001, gặp anh Thừm, anh Hiên ở Hòa Bình hai anh mới nói cho tôi biết anh Than quê ở xã Đại Hoàng, huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Sơn Bình và nơi làm việc của vợ anh là Công ty lương thực Hà Sơn Bình. Mấy ngày sau đó, lòng tôi cứ băn khoăn hình dung cách vợ anh nhận tin báo tử ra sao?




LỜI THƯA CUỐI SÁCH

Ngày vào chiến trường, tôi có mang theo cuốn “Chiến Trường - Sống Và Viết” của Nhà xuất bản Tác phẩm mới. Bản in lần đầu. Tôi nhớ trong đó, một nhà văn Nga đã kể về một số trường hợp hy sinh của mấy nhà văn Nga ở chiến trường. Có nhà thơ linh cảm mình sẽ hy sinh khi bị đạn bắn vào đầu thì ít lâu sau nhà thơ này cũng hy sinh đúng như hoàn cảnh đó. Có nhà văn linh cảm mình bị đạn quân thù bắn trúng tim và sau đó anh cũng hy sinh khi trái tim vỡ nát. Rất tiếc rằng nhiều lần tái bản sau này, bài viết đó bị loại bỏ đi. Tôi mang câu chuyện này nói với nhà thơ Ngô Thế Oanh. Anh cũng công nhận lần in đầu có bài thơ đó.
Cuốn sách này thật khó viết. Hơn mười năm trước, tôi đã thử viết một lần, dưới dạng tiểu thuyết, nói về những cái chết của đồng đội tôi. Nhưng nhiều người chết quá, không thể dựng được nhân vật chính. Được vài chục trang, lại bỏ.
Mấy năm sau, tôi nghĩ ra một cách. Vẫn tiểu thuyết, nhưng dưới dạng những bức điện gửi về trung đoàn. (Vì tôi là lính thông tin). Mỗi bức điện là một cuộc hành quân, một trận đánh và những người hy sinh. Nhưng viết được dăm sáu bức điện, thấy đơn điệu quá, lại thôi. Tôi đã ghi đề từ cho cuốn tiểu thuyết có tên là “Linh Cảm” đó: “Con mèo nhỏ linh cảm cơn động đất/ Ngựa đang phi biết phía trước đầm lầy/ Lính chúng tôi linh cảm mình sẽ chết/ Dù số phận cuốn đi vẫn sống trọn kiếp người”
Chuyện linh cảm về cái chết không những có ở loài người mà còn có ở cỏ cây và các loài sinh vật khác. Trong những năm chiến tranh, thành phố Hà Nội có phát động chiến dịch cấm nuôi chó. Những người dân phòng thường cầm gậy gộc xông vào từng nhà đập chó. Tối tối, những con chó bị đuổi đánh, chạy tứ tung khắp phố. Nhà tôi cũng nuôi một con chó. Buổi sáng hôm ấy, dân phòng rầm rập kéo đến, gậy gộc lăm lăm. Con chó mất hết hồn vía, nằm như con thỏ trong gầm giường. Bố mẹ tôi xin các bác dân phòng tạm tha, đừng đập, sẽ làm thịt nó ngay. Sau khi dân phòng rút đi, đến tận chiều, lôi mãi, con chó mới dám mò ra. Nó không đi được nữa, gục bên bát cơm, những dòng nước mắt ứa ra. Bố mẹ tôi cứ nhìn nó, nát cả cõi lòng mà không làm gì được. Nó không sủa, không ăn, không buồn đi lại. Nó có nói được gì đâu mà cũng biết mình sắp chết.
Và cỏ cây cũng mang tâm hồn, tính cách như con người. Có người luôn vươn lên như cây dương; có người luôn bi quan, buồn như cây liễu, có người ương ngạnh như cây dứa dại nhưng bên trong lại chứa trái tim nhân hậu, như liều thuốc giúp người bệnh đúng lúc… Tôi nhớ những ngày sống nhờ bên nhà bố mẹ vợ, hàng rào trước cửa là mấy lùm cây. Những đêm trăng, nhìn những lùm cây đó, tôi luôn cảm thấy gương mặt bạn bè đã chết hiển hiện, rõ rệt mà lặng im, những đôi mắt trong sáng, lấp lánh nhìn tôi như muốn nói điều gì. Tôi nhớ căn hầm ba người của Hoàng An ở An-lung-viêng. Sau khi ba người lần lượt hy sinh, mỗi lần qua đó nhìn vào, tôi cố đi và nhìn thật nhanh, vẫn cảm thấy cái hố đó đen ngòm, đầy khí lạnh thoát ra. Và cái cây nhỏ trước cửa hầm, hàng ngày anh em vẫn phơi khăn, gác đũa bát lên đó, sau này cũng hắt hiu, héo dần, lá tự khô và thân cây cũng tự se lại.
Trong lòng tôi luôn suy nghĩ một điều là những người lính đồng đội tôi, hình như đã linh cảm thấy mình sẽ chết. Nhưng họ hoàn toàn không ý thức được điều này. Định mệnh, số phận và cái chết cuốn họ đi. Chỉ khi họ chết rồi, xâu chuỗi lại những lời nói và hành động của họ, tôi mới nhận ra được những điều họ đã linh cảm. Những ngày học ở Nga, tôi được xem bộ phim “Ngày mai đã có chiến tranh”. Bộ phim gợi cho tôi sự so sánh “Ngày mai chúng mình đã hy sinh”.
Trong những năm tháng chiến tranh, tôi đã được chứng kiến nhiều cái chết của đồng đội. Đã phải chôn và bốc cả một nghĩa trang của tiểu đoàn tôi ở An-lung-viêng. Năm 1982 đã áp tải hơn 40 xác đồng đội về Đức Lập… Khi biết tôi có ý định viết cuốn sách về những đồng đội bị thương hoặc hy sinh, những người còn sống trở về đã giúp tôi rất nhiều tư liệu. Nguyễn Minh Toàn, Trịnh Quốc Tài, Đào Long Đỗ, Nguyễn Văn Minh… đã cung cấp cho tôi rất nhiều nhật ký và ghi chép chiến sự. Song nếu làm cuốn sách như thế quả là công phu. Còn đồng đội ở Quảng Nam, Bình Định, Thuận Hải nữa. Chưa gặp được họ. Còn cả một núi tư liệu khác nữa. Chỉ có cách dần khai thác mà thôi.
Cuốn sách này tôi đã dựng lên rất nhiều chân dung những đồng đội đã chết. Song cuối cùng, để tập trung cho chủ đề cuốn sách, tôi chỉ chọn ra 18 chân dung những đồng đội của tôi - những người đã linh cảm về cái chết của mình. Về hình thức cuốn sách, cũng do sự tình cờ đã giúp tôi trộn cái chết hôm qua với cuộc sống hôm nay. Đó là những sợi dây vô hình nhưng hết sức bền chặt.
Chiến trường mênh mông. Mỗi đơn vị, mỗi người lính phải đánh bao nhiêu trận. Một mình tôi không thể quán xuyến nổi. Xin cảm ơn Tuấn trinh sát, Trường bút thép, Thành run, Toàn lùn, Sơn kép, Tài môi đỏ, Huần, Lê Minh Quốc cùng nhiều chiến hữu khác đã góp công cùng tôi hoàn thành cuốn sách này. Những thư từ nhật ký đó, dẫu có đoạn còn dài dòng tôi vẫn giữ nguyên để tôn trọng tính chân thực của tư liệu.
Xin cảm ơn số phận những ngày ác liệt đó đã đưa tôi từ trong đội thông tin lên làm trợ lý chính trị tiểu đoàn - một công việc cho tôi tiếp xúc với nhiều đau thương.
Xin cảm ơn những đồng đội, đồng hương đã chết, khi còn sống, anh em đã tin cậy tôi, đã tâm sự với tôi, đã gửi gắm ở tôi những điều sâu kín trong lòng, để khi sang thế giới bên kia, hình bóng các bạn vẫn mãi còn bất tử.
Về sự linh cảm của con người trước cái chết, nhiều người đã viết, ở trong nước cũng như trên thế giới. Trong khi viết cuốn sách này, tôi được chứng kiến vụ nổ tại ngầm Kursk của Nga. Và mới đây, Nhà xuất bản Thông tấn cho ra mắt cuốn “Bí Mật Tàu Ngầm Nguyên Tử Kursk”, trong đó có một số trang nói về sự linh cảm của các thủy thủ trước tai họa. Xin trích ra đây để bạn đọc tham khảo.

Bất cứ một sự kiện nào xảy ra trên thế giới, nhất là những sự kiện bi thảm, thường kèm theo những điềm báo trước không rõ ràng. Thật đáng tiếc, mọi người chỉ hiểu ra những ý nghĩa thầm kín đó sau khi tai họa xảy ra. Trước khi tàu ngầm nguyên tử Kurks bị đắm, trước đó cũng diễn ra nhiều điềm báo và linh cảm.
Tàu Kursk đã nhiều lần ra khơi, và chuyến ra đi cuối cùng của con tàu vào tháng 8 lại là chuyến đi buồn tẻ nhất. Không hiểu tại sao lúc đó một làn sóng của những linh cảm không may bao trùm lên các thủy thủ và gia đình họ. Nhiều người trong số họ đã nhìn thấy giấc mộng tiên tri, quanh họ diễn ra những sự việc không thể giải thích nổi.
Chị Natasa, vợ Đại úy quá cố Rachin nhớ lại: Khi chồng chị ra đến cửa, bất chợt quay lại, im lặng nhìn chị hồi lâu.
- Sao anh lại nhìn em im lặng thế?
- A! Chỉ để ghi nhớ em thôi - Anh trả lời chị như vậy.
Hôm đó, lần đầu tiên trong đời anh mang theo những bức ảnh của con gái, anh nói để chúng sẽ luôn luôn bên anh.
Trong gia đình Thượng úy Rednicov, người đầu tiên linh cảm thấy tai họa là cô con gái Dasa, tuy cách xa nơi thảm họa hàng nghìn kilômét. Ngày 12-8, dường như đúng lúc bố cháu hy sinh, một cơn động kinh vô cùng khủng khiếp xảy ra với cháu, và những người trong nhà không hiểu tại sao như vậy.
Chuẩn úy Kadaderov khi sửa soạn đồ dùng đi công tác, chìa vết sẹo trên bắp chân và nói với vợ:
- Em có thể nhận ra anh nhờ có vết sẹo này đấy.
Câu nói của chồng không bình thường đến mức vợ anh nhớ nó suốt đời.
Chuẩn úy Belaev, đầu bếp của tàu, theo vợ anh hồi tưởng lại, ngày hôm trước khi tàu Kursk rời bến, không hiểu tại sao lại nói với vợ:
- Giá như em biết anh chẳng muốn chết ở dưới biển tí nào.
Lúc đó người vợ chẳng để ý gì đến câu nói của chồng, nhưng mấy hôm sau chị mới linh cảm thấy ý nghĩa đáng sợ của câu nói đó.
Thượng úy Dmitri Kolexmicov chính là người ở  khoang số 9 kịp viết lại một mẩu thư để chúng ta biết rõ tiến trình tai họa xẩy ra. Trước lúc ra đi, chuyến đi cuối cùng, không hiểu sao anh lại để ở nhà chiếc thánh giá anh luôn đeo bên mình. Đại úy Hạng nhất Vladimir Barriansev, Tham mưu trưởng Sư đoàn là tác giả của lời chuốc rượu rất lạ lùng ở Hạm đội Phương Bắc. Không hiểu vì sao trong lời chuốc rượu này, anh lại tiên đoán trước được cái chết của mình. Bốn câu thơ của lời chuốc rượu đó như sau:
Nếu trong tương lai có xảy ra một chuyện
Khắp các khoang tàu bão lốc cứ tràn lên
Làm thủy thủ đoàn phải nghỉ yên vĩnh viễn
Tôi xin nâng cốc này chúc họ mãi bình yên
Tại sao anh lại không viết về đám cháy, về tình trạng ngập nước, mà lại chính về việc “các khoang tàu bão lốc cứ tràn lên”? Bởi vì một tiếng nổ với sức mạnh khủng khiếp đã xé toang các bức vách ngăn các khoang, cơn bão lửa bừng bừng trong khoang thiêu cháy tất cả những cơ thể sống. Đây là sự trùng lặp hay linh cảm?

ĐOÀN TUẤN

Chia sẻ liên kết này...

Add comment


Việt Tuấn Trinh | www.viettuantrinh.com