BÁO CHÍ Lê Minh Quốc viết Nhà văn TRẦN NHÃ THỤY: NĂM THÁNG TRÔI QUA NHƯ NHÁY MẮT

Nhà văn TRẦN NHÃ THỤY: NĂM THÁNG TRÔI QUA NHƯ NHÁY MẮT

 

TRANNHA-THUY-nam-thang-troi-qua-nhu-nhay-mat

 

Chơi với nhau, viết cảm nhận về nhau nhau, qua tác phầm của bạn, thích lắm, quý lắm. Bởi cái tình. Không vì một lý gì khác, cũng chỉ vì “chơi được”. Đơn giản như đang giỡn, dù rằng, có thể ít gặp gỡ bù khú nhưng qua những gì bạn đã viết, tự trong lòng đã hiểu, đã mến. Một trong những người bạn ấy, nhỏ tuổi hơn, với tôi không nhiều, chỉ có thể đếm trên vài đầu ngón tay: Ngô Kinh Luân, Trần Nhã Thụy, Trần Hoàng Nhân, Đinh Thu Hiền…

Hầu như ai cũng có tài. Ít ra họ có thể sống tốt bằng nghề cầm bút. Múa bút ra tiền để trang trải trong đời sống bề bộn, nhiều lo toan. Và cần thiết nhất, với những con người - nói như câu thơ của Hồ Dzếnh: “Chân đi ắt hẳn không cần đất/ Lạc giữa trần gian bước hững hờ” vẫn là những trang viết. Nghĩ cho cùng, mọi sáng tác trên cõi đời này, ý nghĩa đích thực nhất vẫn là viết cho riêng mình. Sau khi in ấn, ai đồng tình càng tốt, bằng không, cũng chẳng sao. Viết như một động lực để ý thức rằng, mỗi một ngày mình vẫn sống, vẫn hít thở và cuối cùng là trải lòng qua trang viết.

Không nhớ đã quen biết với Trần Nhã Thụy tự lúc nào. Nhưng chắc chắn ấn tượng nhất vẫn là những tập tiểu thuyết, truyện dài và tùy bút. Lúc ấy, Thụy vừa in tập tùy bút Gối đầu lên mây.  Tạp bút là một thể loại không dễ viết. Nó đòi hỏi ở người viết phải ngạc nhiên trước những sự vật đã quen thuộc, phải có được cảm nhận tươi roi rói trước những cái cũ mèm ai ai cũng thấy. Nhưng Trần Nhã Thụy lại thấy khác “người trần mắt thịt” đã thấy.

Từ cái thấy của riêng mình, Thụy có một  đôi điều phát hiện mà mọi người đọc xong phải ồ lên thích thú hoặc phải trầm ngâm chia sẻ với những điều anh cảm nhận. Muốn thế, Thụy phải có được cái nhìn ngơ ngác của trẻ thơ, có được cái nhịp đập của những giọt nước trong trẻo suối nguồn ẩn giấu trong ngực… Thế là đủ ư? Không. Thụy còn phải có ít nhiều tri thức để cảm nhận thấu đáo hơn những sự vật mà Thụy đã thấy. Thấy và cảm nhận của riêng mình để làm nên những trang tạp bút tưởng chừng như lan man, nhưng lại tập trung vào một chủ đề nhất định.

Nhà văn Trần Nhã Thụy có đủ bản lĩnh để làm điều đó.

Cứ nhìn Thụy trong đời thường thì rõ. Giữa đám đông ồn ào, náo nhiệt của những cơn say tưởng chừng như bất tận, thì, lúc ấy Thụy vẫn lặng lẽ và kiệm lời. Những lúc ấy, tôi thấy Thụy thường ngước mắt nhìn về một cõi xa xăm nào đó. Thụy đang ngồi với chúng tôi, nhưng chỉ là cái xác vô hồn, còn cái linh hồn đa cảm, nhậy cảm kia đã bay mất hút đâu rồi. Có thể giữa niềm vui tầm thường, giữa những ham hố trần tục này Thụy đang lặng lẽ “gối đầu lên mây” để mơ về một cõi nào đó của riêng mình.

Cái cõi ấy là gì vậy?

Là một nỗi nhớ không nguôi của một người nhập cư trong sóng vỗ thời gian. Thời gian trôi nhanh như nước xiết, nhưng vẫn không cuốn được nỗi nhớ ấy ra khỏi tâm thức của Thụy. Thật vậy, bàng bạc trong từng trang tạp bút này là nỗi lòng của một gã nhà quê không đập được nhịp của nhịp điệu phố thị. Nó đập lạc nhịp, bởi, ai đời đang đi giữa Sài Gòn bụi bặm, nắng như tạt lửa xuống đầu mà vẫn “thỉnh thoảng nghe được tiếng rao của một người hàng rong, đồng hương Quảng Ngãi. Tiếng rao đó nghe lạc lõng giữa bao âm thanh….” (Về quê); hoặc lan man lại nhớ lúc “Mỗi khi bị cảm nắng, mệt mỏi, chỉ cần một nắm củ nắng nấu cháo ăn cho toát mồ là khỏi liền” (Củ nắng quê nhà); hoặc giữa hẻm chợ tẹp nhẹp lại gìn giữ cho riêng mình cái nhìn “Tôi nhìn cá và hoa. Tôi mơ giấc mơ của cá quẫy và hoa nở. Bơi đi và vươn lên” (Hẻm chợ, cá và hoa)…

Từng trang tạp bút này lôi cuốn được người đọc không bằng câu chữ. Câu chữ ư? Chả khó khăn gì với một gã viết văn chuyên nghiệp như Thụy, như bao người viết lách khác. Nhưng ở đây, Thụy vẫn tạo cho mình một tâm thế riêng là do cái hồn quê còn ẩn giấu trong tâm hồn của Thụy. Đã có lần Thụy thú nhận, không giấu giếm “Ngày nào cũng loanh quanh mãi ngoài đường. Nắng, mưa, gió, bụi… mệt nhoài suốt bao nhiêu năm tháng lấn chen nơi phố thị này, đã khiến tôi nhiều lần được trở lại sống ở quê nhà” (Đường xa). Nhờ cái hồn quê ấy, Thụy mới có thể hồi tưởng lại những điều bình dị. Chẳng hạn, lúc ăn củ khoai nướng, tôi tin rằng nhiều đã quên trong ngược xuôi cơm áo “Chúng tôi vừa ăn vừa thở ra những làn khói trắng thơm hương khoai” (Củ khoai nướng). Ừ nhỉ! Thụy đã nhắc lại một hình ảnh của tuổi thơ xa lăn lắc mà ai cũng từng có.

Đọc tạp bút của Thụy là quay về dĩ vãng. Có một dĩ vãng lúc Thụy nhắc lại đã khiến tôi rưng rưng là, nhà của Thụy ở Quảng Ngãi có trồng cây Trúc Nhật, những người đàn bà đi chợ thường ngồi nghỉ chân ở đó và đôi lúc họ vào xin nước uống. “Có người kéo gáo ngoài ảng. Có người xách nước đổ vào nón lá rồi bưng bụm chạy ra cho nhiều người cùng uống. Mỗi người uống được một hớp thì nước trong nón đã chảy hết. Lại ngại ngần vào xin nón nữa…” (Nhà đẹp). Trời! Thụy viết đúng quá, khéo quá. Thì ra, cái miền quê miền Trung đâu đó cũng có những hình ảnh thân mật và cảm động đến vậy.

“Đỉnh cao” của nỗi nhớ quê, của cái nhìn ngơ ngác của một gã nhà quê trong tạp bút này, nếu chọn lấy một, tôi sẽ nâng niu với Đồng cỏ… trên trời. Bạn đọc chưa? Chưa ư? Thì hãy đọc đi. Ở đó có cấu trúc của một truyện ngắn mà chữ nghĩa đẹp như những câu thơ. Ấy là một đôi vợ chồng dân lao động nhập cư, do nghèo, lúc “yêu” nhau, họ thường chọn một bãi cỏ ở ngoại thành. Rồi sau khi “khai hoa nở nhụy”, người vợ ấy qua đời vì căn bệnh ung thư. Một ngày kia, người chồng lấy chiếc xe đạo cà rịch cà tàng chở đứa con gái ra thăm lại vạt cỏ ngày xưa, nhưng than ôi, nơi ấy đã mọc lên những ngôi biệt thự xinh xắn. “Thấy anh dừng xe ngơ ngác, đứa con hỏi: “Ba ơi, ba nói chở con ra đồng cỏ của ba, mẹ. Thế đồng cỏ ở đâu ba?”. Anh nhìn đứa con gái bé bỏng, rồi bất chợt ngước mắt nhìn lên trời. Đứa con gái lém lỉnh, nhìn theo ánh mắt của người cha, hỏi: “Cánh đồng ở trên trời hả ba?”. Ôi, suy nghĩ và ngôn ngữ của một đứa trẻ. Anh cúi xuống bế xốc đứa con lên, dụi mặt vào ngực nó, thì thầm: “Ừ, nếu như có một đồng cỏ trên trời thì mẹ con đang ở đó và mỉm cười nhìn chúng ta, con ạ!”. Buồn quá đỗi. Không phải buồn mà ấy là một kết thúc đầy mơ mộng và khoáng đạt biết chừng nào.

Chính cái hồn quê ấy, suy tưởng ấy còn giúp Thụy có được cái nhìn tươi rói, ngơ ngác đầy thi vị khi nhìn vào đời sống của Sài Gòn, tưởng chừng đã quen thuộc, nhưng với Thụy lại khác hẳn qua Một thoáng nhà thờ Sài Gòn, Người đánh bóng trên hè phố Sài Gòn… Chúc Thụy trong những ngày sắp đến vẫn giữ được trong sâu thẳm tâm hồn một nỗi lòng, một tình cảm “Nhớ nhà quá. Là ngôi nhà ở quê hương miền Trung của tôi. Là một không gian cụ thể nhưng đồng thời cũng là một không gian hình dung trong trí nhớ. Tôi nhớ nhà ngay cả khi ở tại quê nhà. Đó là nỗi nhớ về những ngày xa lắc. Nhớ con chuồn chuồn cắn rốn, tập bơi. Nhớ giếng làng, buổi trưa hoa khế rụng. Nhớ mùi hường cỏ mật thơm vào giấc mơ… (Nhớ nhà).

Nếu ngày nào, Thụy vẫn còn giữ được cái hồn quê mùa lãng đãng như thế, thì anh vẫn có những trang tạp bút hấp dẫn người đọc.

Đôi khi chơi với nhau, có những lúc giật mình, cảm thấy ở bạn có những sự bất ngờ mà mình không ngờ đến. Rằng, ngày nọ, Trần Nhã Thụy ngẫu hứng, cao hứng nhảy sang lãnh vực trào phúng. Thật đấy. Đó là anh chàng Hai Đầu Méo. Một bút danh nghe buồn cười tợn. Sực nhớ nhà thơ Thanh Thảo có tập sách lý luận Ngón thứ sáu của bàn tay. Thì ra, có những người khi họ chỉ chơi sở đoản nhưng cũng “ăn đứt” sở trường của người khác. Tập sách của Hai Đầu Méo đã viết những gì?

Khi viết châm biếm, trào lộng mua vui cho độc giả chỉ những ai yếu bóng vía mới ngồi tưởng tượng những chuyện trên trời dưới biển. Những chuyện ấy, nếu có cười được, cũng chỉ thoáng qua. Cái hay, cái giỏi là phải bám chắc lấy hiện thực của đời sống đang ngồn ngộn diễn ra và nhìn “lệch chuẩn” nhằm tạo ra tiếng cười. Có như thế, cái cười ấy mới có ý nghĩa xã hội. Tách tiếng cười ra khỏi hiện thực xã hội, tựa như vớt cá ra khỏi nước. Chính giá trị hiện thực đó giúp cho tiếng cười đứng trên những cái “chọc léc” tào lao và vô bổ.

Ở đây, vốn có lợi thế của một nhà báo, Hai Đầu Méo luôn đi trong dòng thông tin thời sự. Nhờ vậy, vấn đề tác giả phát hiện ra “đúng chóc” với tâm lý người đọc. Thật ngộ nghĩnh, khi mùa giáng sinh trong lúc thiên hạ nhớ đến ông già Noel thì anh ta lại nhớ đến…. bà già Noel; vụ “oan Thị Kính” của mắm tôm rền rã một thời, lúc đó anh đã kịp thời có “Lại Thị Mắm Tôm”; rồi chuyện bi hài huếch hoách trong thế giới showbiz cũng là đề tài muôn hình vạn trạng để khai thác…

Đọc kỹ, ta sẽ thấy những bài viết liên quan đến hậu trường, phía sau cánh gà văn nghệ vẫn xuất sắc nhất. Từ chuyện làm phim, viết sách, thi ca sĩ v.v… đã đọng lại trong tôi những tiếng cười bi hài, lắm khi phải gật gù như nhân vật của Hai Đầu Méo: “Tèo buột miệng thở dài”… Không thở dài sao được, chẳng hạn về những cái lố nhố lăng nhăng của cái thời gì mà lạ thật: Thiên hạ đổ xô nhau tranh nhau… cái giấy chứng nhận kỷ lục! Kỷ lục à? Không khó miễn là, nói như Hai Đầu Méo phải có “ý tưởng”. Và đây là một “ca” của ý tưởng nhằm đạt cái hư danh chảnh hoảnh, hoe hoét mà Hai Đầu Méo đã viết: “Thành công nổi bật nhất của ông là giúp công ty Ẩm thực cháo lòng thực hiện kỉ lục “Chiếc bánh quẩy bự nhất VN”. Nghe tin đó Văn Tèo hân hoan đến xem, nóng lòng muốn nếm thử một khúc quẩy. Nhưng, vì tình bạn thân thương Cu Mách bỏ nhỏ rằng: “Ngó chơi thì được, không nên ăn, còn nếu ăn thì phải thủ sẵn trong túi thuốc trị… tiêu chảy cấp”!

Lại nữa, một trong những yếu tố gây cười, tôi nghĩ phải là sự liên tưởng của thủ pháp “chuyện nọ xọ chuyện kia” để tạo thêm hiệu ứng khác. Từ “Ca sĩ xấu xí” (nhại cuộc thi “Tài năng nước Anh đã áp dụng tại VN) anh “đá giò lái” sang chuyện tưởng chừng như trớt quớt: “Phải làm gì? Còn làm gì hay hơn nữa là tức tốc đi đến thẩm mỹ viện”.

Thủ pháp này, Hai Đầu Méo vận dụng “có nghề” lắm…

Không những thế, tôi còn biết có một khoảng thời gian dài Trần Nhã Thụy viết lại viết kịch bản phim. Kịch bản phim đầu tiên của Thụy là Những tay chơi ngoại hạng (chuyển thể từ truyện ngắn Chim và tranh của Nguyễn Trọng Nghĩa, đạo diễn Lê Anh Cường) được viết và dựng khoảng năm 2004. Rồi Thụy lại viết truyện thiếu nhi, chẳng hạn, Những đứa trẻ mắc zịch…

Năm tháng trôi qua như nháy mắt. Nhanh quá đi thôi.

Vừa rồi gặp nhau ở quán nọ, mới hay tin Trần Nhã Thụy đã chuyển về công tác ở một đơn vị làm sách. Thế củng hay. Làm việc gì cũng được. Miễn là mình thích thú. Khi viết những dòng này, tôi lại nhớ đã có lần nhà phê bình văn học Huỳnh Như Phương nhận xét: “Văn xuôi của Trần Nhã Thụy có thể không có cái dữ dội như trong tác phẩm của một số nhà văn khác, nhưng lại có một sức bền mà ngòi bút của anh muốn nuôi dưỡng để truyền trao đến người đọc, những người cũng mang những vết xước khác nhau và muốn được thuốc thang, chạy chữa kịp thời, không phải bằng những viên kháng sinh liều cao mà bằng những nắm lá thuốc Nam hái trên đồng cỏ hay trong rừng vắng. Và đến một lúc nào đó, người ta có thể miễn nhiễm với những vết xước cũng như có đủ nội lực để đương đầu với những trớ trêu của cuộc đời”.

Ngẫm lại, thấy nhận xét này đúng chóc.


LÊ VĂN NGHỆ

(nguồn: Báo ANTG cuối tháng số 186 tháng 2.2017)

Chia sẻ liên kết này...

Add comment


Việt Tuấn Trinh | www.viettuantrinh.com